Nêu và phân tích các cơ sở hình thành nghệ thuật - Giáo dục quốc phòng | Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ViệtNam. Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân ta phải liên tục đấu tranh chốngkẻ thù xâm lược để giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu

Thông tin:
6 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Nêu và phân tích các cơ sở hình thành nghệ thuật - Giáo dục quốc phòng | Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ViệtNam. Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân ta phải liên tục đấu tranh chốngkẻ thù xâm lược để giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

8 4 lượt tải Tải xuống
Nêu và phân tích các cơ sở hình thành nghệ thuật đánh giặc từ khi
có Đảng lãnh đạo.
(này là phần dẫn bài, mấy bạn không cần đưa nó vào slide đâu. Nhưng trong
trường hợp soạn slide xong mà thấy ít quá thì có thể thêm vào nhen)
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc Việt
Nam. Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân ta phải liên tục đấu tranh chống
kẻ thù xâm lược để giành giữ nền độc lập dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã tạo nên
truyền thống, khí phách hào hùng của dân tộc để lại nhiều di sản quân sự quý
báu không mấy quốc gia được. Trong đó, trước hết phải nói đến tưởng
quân sự, nghệ thuật quân sự độc đáo, đặc sắc Việt Nam.
Nhằm kế thừa và phát triển nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, nghệ thuật quân
sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, gắn liền với
thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam gồm ba bộ phận hợp thành: Chiến lược quân
sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận của nghệ thuật quân sự là một
thể thống nhất quan hệ biện chứng chặt chẽ, thúc đẩy nhau phát triển, trong đó
chiến lược quân sự đóng vai trò chủ đạo.
(từ đây vào phần chính của bài, bạn nào thuyết trình nhớ câu chuyển ý
cho mượt tí nhen)
CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC TỪ
KHI ĐẢNG LÃNH ĐẠO
1. Truyền thống đánh giặc của tổ tiên:
Truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước:
- Do ở vị trí chiến lược trọng yếu và có tài nguyên phong phú nên từ xưa
đến nay, nước ta trở thành mục tiêu xâm lược của nhiều nước lớn. Do đó,
dựng nước phải đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của
dân tộc ta.
- Thời nào cũng vậy, nhân dân ta cũng luôn nêu cao cảnh giác, chuẩn bị lực
lượng đề phòng giặc ngay từ thời bình. Trong chiến tranh vừa chiến đấu, vừa
sản xuất và sẳn sàng đối phó với kẻ thù.
Truyền thống lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều:
- Trong lịch sử kẻ thù của nước ta thường là những nước lớn, có tiềm lực
kinh tế, quân sự hơn ta nhiều lần.
- Vì thế, lấy nhỏ đánh lớn lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số
lượng đông, tạo sức mạnh của toàn dân đã trở thành truyền thống đấu
tranh giữ nước của dân tộc ta.
Truyền thống cả nước chung sức đánh giặc, toàn dân đánh giặc, đánh
giặc toàn diện:
- Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng: Việc giải phóng đất nước không thể thực
hiện bằng cải cách dần dần hay thông qua một sự giải phóng dân tộc từ
trên xuống và một cuộc đảo chính đơn giản không thể thực hiện được sự
nghiệp giải phóng dân tộc, mà sự nghiệp đó chỉ có thể là cuộc khởi
nghĩa có vũ trang của toàn dân.
- Để đánh thắng giặc, nhân dân ta đã đoàn kết tạo thành nguồn sức mạnh to
lớn. Nhân dân ta sớm nhận thức đất nước là tài sản chung, nước mất thì nhà
tan. Vì thế, các thế hệ người dân đã không sợ hi sinh, liên tục đứng lên đánh
giặc.
Truyền thống đánh giặc bằng trí thông minh, sáng tạo, bằng nghệ thuật
quân sự độc đáo:
- Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của
tổ tiên đã hình thành không ngừng phát triển, trở thành những bài
học giá cho các thế hệ sau. Nhiều tưởng quân sự kiệt xuất, cách
đánh giặc độc đáo như: “Binh thư yếu lược”, “Hổ trướng khu cơ”, “Bình
Ngô đại cáo; những trận đánh điển hình như: Như Nguyệt, Chi Lăng,
Tây Kết, Ngọc Hồi, Đống Đa... đã để lại những kinh nghiệm quý giá.
Truyền thống đoàn kết quốc tế:
- Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuyên suốt
nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy
động và tập hợp được sức mạnh đoàn kết quốc tế.
- Trong hành trình tìm đường cứu nước, tưởng cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì sự
nghiệp giải phóng các dân tộc nhân loại cần lao khỏi ách áp bức, bóc
lột của thực dân, đế quốc.
- Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được những kẻ
thù hùng mạnh toàn dân luôn đoàn kết một lòng cũng bởi nhờ ; đồng thời,
đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về tinh thần
vật chất của các nước anh em, của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên toàn
thế giới.
Truyền thống một lòng theo Đảng, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
thắng lợi của cách mạnh Việt Nam:
Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hơn 90 năm qua, Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Đảng đã lãnh đạo giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay
nhân dân, đưa dân tộc thoát khỏi sự áp bức, bóc lột, ách nô lệ, trở thành
người chủ của đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, đi lên
chủ nghĩa hội. Đảng đã khởi xướng lãnh đạo công cuộc đổi mới từ
năm 1986 đến nay, giành được những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch sử.
“Đất nước ta chưa bao giờ được đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày nay”.
=> Ngày nay truyền thống, kinh nghiệm quý báu đó vẫn được lực lượng
trang nhân dân ta thừa kế, phát triển lên một trình độ mới, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong điều kiện mới.
2. Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc:
- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam,
đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, vận dụng sáng tạo học
thuyết của V.I. Lênin đề ra đường lối cách mạng xây dựng bảo vệ Tổ quốc
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, nhất là trong trong công cuộc đổi
mới đất nước. Trước hết, của Đảng về bảo vệ Tổ quốc sự phát duy luận
triển, chuyển từ coi bảo vệ Tổ quốc chủ yếu các vấn đề quân sự chiến tranh
sang tư duy bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp và tất cả lực lượng; bảo vệ Tổ
quốc ngay từ thời bình, từ sớm, từ xa, từ lúc đất nước chưa nguy. Đảng xác định và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược : xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đó là: “Dựng nước đi đôi với giữ nước quy luật tồn tạiphát
triển của dân tộc ta. Xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc hội chủ
nghĩa quy luật phát triển của cách mạng nước ta”. Đây sự khẳng định đúng
đắn, tính quy luật, trên sở luận thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng, cũng như trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc , nhận thức của Đảng ngày càng sâu sắc, toàn
diện hơn, thấy mối quan hệ biện chứng giữa các mặt tự nhiên - lịch
sử chính trị - hội. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa
lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị,
an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng hội trật tự, kỷ cương, an
toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam Đảng ta chỉ rõ: những ai,
chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập mở rộng quan hệ
hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng lợi với Việt Nam đều đối tác
của chúng ta. Bất kể thế lực nào âm mưu hành động chống phá mục
tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc đều đối
tượng đấu tranh.
Về phương thức lực lượng Đảng chủ trương phát huy cao nhất sức,
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với
sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng
quốc tế. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ
xa giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật
pháp quốc tế. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát
huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an
ninh nhân dân; xây dựng củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh giữa quốc phòng, an ninh
với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại.
- Trung thành, vận dụng sáng tạo tưởng của V.I. Lênin về xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng luôn quan tâm, đề ra đường
lối, nguyên tắc tổ chức, cách mạng, chính quy,xây dựng Quân đội nhân dân
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
- Hiện nay trước yêu cầu sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng,
binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, bản xây dựng
Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng
Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính
trị, tưởng, đạo đức, tổ chức cán bộ”. Đồng thời, giữ vững tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất
của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân sự nghiệp quốc
phòng, an ninh. vậy, hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần
nhận thức sâu sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết bảo vệ Tổ quốc
hội của nghĩa của V.I. Lênin đề ra đường lối, chiến lược bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
3. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh:
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo truyền thống
quân sự dân tộc với tinh hoa quân sự nhân loại mà cốt lõi là học thuyết quân
sự Chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn hơn nửa thế kỷ khởi nghĩa và chiến
tranh cách mạng ở Việt Nam, bao gồm những quan điểm của Người về quan hệ
giữa chính trị và quân sự, giữa chiến tranh và hòa bình, về chủ nghĩa thực dân và
cách mạng thuộc địa, về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân trong thời đại
mới, về xây dựng căn cứ địa hậu phương và nền quốc phòng toàn dân, về chỉ đạo
chiến tranh và khoa học nghệ thuật quân sự ở một nước vốn là thuộc địa chống chủ
nghĩa thực dân, đế quốc.
Đây cũng sở cho sự hình thành phát triển Nghệ thuật quân sự
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng biên dịch “Binh pháp Tôn Tử”, viết về “kinh
nghiệm du kích Tàu”, “du kích Nga”,... phát triển nguyên tắc chiến đấu tiến
công, chiến đấu phòng ngự,... qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng. Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã đề ra phương châm chỉ đạo chiến tranh, phương thức tác
chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời , đưa chiến tranh Việt Nam kết thúc
thắng lợi.
| 1/6

Preview text:

Nêu và phân tích các cơ sở hình thành nghệ thuật đánh giặc từ khi có Đảng lãnh đạo.
(này là phần dẫn bài, mấy bạn không cần đưa nó vào slide đâu. Nhưng trong
trường hợp soạn slide xong mà thấy ít quá thì có thể thêm vào nhen)
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc Việt
Nam. Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân ta phải liên tục đấu tranh chống
kẻ thù xâm lược để giành và giữ nền độc lập dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã tạo nên
truyền thống, khí phách hào hùng của dân tộc và để lại nhiều di sản quân sự quý
báu mà không mấy quốc gia có được. Trong đó, trước hết phải nói đến tư tưởng
quân sự, nghệ thuật quân sự độc đáo, đặc sắc Việt Nam.
Nhằm kế thừa và phát triển nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, nghệ thuật quân
sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, gắn liền với
thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam gồm ba bộ phận hợp thành: Chiến lược quân
sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận của nghệ thuật quân sự là một
thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, thúc đẩy nhau phát triển, trong đó
chiến lược quân sự đóng vai trò chủ đạo.
(từ đây vào phần chính của bài, bạn nào thuyết trình nhớ có câu chuyển ý cho mượt tí nhen)
CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC TỪ KHI ĐẢNG LÃNH ĐẠO
1. Truyền thống đánh giặc của tổ tiên:
Truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước:
- Do ở vị trí chiến lược trọng yếu và có tài nguyên phong phú nên từ xưa
đến nay, nước ta trở thành mục tiêu xâm lược của nhiều nước lớn. Do đó,

dựng nước phải đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
- Thời nào cũng vậy, nhân dân ta cũng luôn nêu cao cảnh giác, chuẩn bị lực
lượng đề phòng giặc ngay từ thời bình. Trong chiến tranh vừa chiến đấu, vừa
sản xuất và sẳn sàng đối phó với kẻ thù.
Truyền thống lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều:
- Trong lịch sử kẻ thù của nước ta thường là những nước lớn, có tiềm lực
kinh tế, quân sự hơn ta nhiều lần.
- Vì thế, lấy nhỏ đánh lớn lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số
lượng đông, tạo sức mạnh của toàn dân đã trở thành truyền thống đấu
tranh giữ nước của dân tộc ta.

Truyền thống cả nước chung sức đánh giặc, toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện:
- Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng: Việc giải phóng đất nước không thể thực
hiện bằng cải cách dần dần hay thông qua một sự giải phóng dân tộc từ
trên xuống và một cuộc đảo chính đơn giản không thể thực hiện được sự
nghiệp giải phóng dân tộc, mà sự nghiệp đó chỉ có thể là cuộc khởi
nghĩa có vũ trang của toàn dân.

- Để đánh thắng giặc, nhân dân ta đã đoàn kết tạo thành nguồn sức mạnh to
lớn. Nhân dân ta sớm nhận thức đất nước là tài sản chung, nước mất thì nhà
tan. Vì thế, các thế hệ người dân đã không sợ hi sinh, liên tục đứng lên đánh giặc.
Truyền thống đánh giặc bằng trí thông minh, sáng tạo, bằng nghệ thuật
quân sự độc đáo:
- Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của
tổ tiên đã hình thành và không ngừng phát triển, trở thành những bài
học vô giá cho các thế hệ sau.
Nhiều tư tưởng quân sự kiệt xuất, cách
đánh giặc độc đáo như: “Binh thư yếu lược”, “Hổ trướng khu cơ”, “Bình
Ngô đại cáo; những trận đánh điển hình như: Như Nguyệt, Chi Lăng,
Tây Kết, Ngọc Hồi, Đống Đa... đã để lại những kinh nghiệm quý giá.

Truyền thống đoàn kết quốc tế:
- Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt và
nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy
động và tập hợp được sức mạnh đoàn kết quốc tế.

- Trong hành trình tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì sự
nghiệp giải phóng các dân tộc và nhân loại cần lao khỏi ách áp bức, bóc
lột của thực dân, đế quốc.

- Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được những kẻ
thù hùng mạnh cũng bởi nhờ toàn dân luôn đoàn kết một lòng; đồng thời,
đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về tinh thần và
vật chất của các nước anh em, của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.

Truyền thống một lòng theo Đảng, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
thắng lợi của cách mạnh Việt Nam:
Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hơn 90 năm qua, Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác
. Đảng đã lãnh đạo giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay
nhân dân, đưa dân tộc thoát khỏi sự áp bức, bóc lột, ách nô lệ, trở thành
người chủ của đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ
năm 1986 đến nay, giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
=> Ngày nay truyền thống, kinh nghiệm quý báu đó vẫn được lực lượng vũ
trang và nhân dân ta thừa kế, phát triển lên một trình độ mới, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong điều kiện mới.

2. Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc: -
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, vận dụng sáng tạo học
thuyết của V.I. Lênin đề ra đường lối cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
, nhất là trong trong công cuộc đổi
mới đất nước. Trước hết, tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc có sự phát
triển, chuyển từ coi bảo vệ Tổ quốc chủ yếu là các vấn đề quân sự và chiến tranh
sang tư duy bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp và tất cả lực lượng; bảo vệ Tổ
quốc ngay từ thời bình, từ sớm, từ xa, từ lúc đất nước chưa nguy. Đảng xác định và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đó là: “Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát
triển của dân tộc ta.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là quy luật phát triển của cách mạng nước ta”. Đây là sự khẳng định đúng
đắn, có tính quy luật, trên cơ sở lý luận và thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng, cũng như trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Về mục tiêu
bảo vệ Tổ quốc
, nhận thức của Đảng ngày càng sâu sắc, toàn
diện hơn, thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa các mặt tự nhiên - lịch
sử và chính trị - xã hội.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và
lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị,
an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an
toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.  Về đối
tác, đối tượng của
cách mạng Việt Nam , Đảng
ta chỉ rõ: những ai
chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ
hữu nghị, hợp tác và bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác
của chúng ta
. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục
tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.  Về phương
thức và lực lượng , Đảng
chủ trương phát huy cao nhất sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với
sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng
quốc tế
. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ
xa và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật
pháp quốc tế. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát
huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an
ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh
với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. -
Trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng luôn quan tâm, đề ra đường
lối, nguyên tắc tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
-
Hiện nay trước yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng,
binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.
Đến năm 2025, cơ bản xây dựng
Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng
Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đồng thời, giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất
của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc
phòng, an ninh. Vì vậy, hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần
nhận thức sâu sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết bảo vệ Tổ quốc
xã hội của nghĩa của V.I. Lênin đề ra đường lối, chiến lược bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

3. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh:
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo truyền thống
quân sự dân tộc với tinh hoa quân sự nhân loại mà cốt lõi là học thuyết quân
sự Chủ nghĩa Mác – Lênin
trong thực tiễn hơn nửa thế kỷ khởi nghĩa và chiến
tranh cách mạng ở Việt Nam, bao gồm những quan điểm của Người về quan hệ
giữa chính trị và quân sự, giữa chiến tranh và hòa bình, về chủ nghĩa thực dân và
cách mạng thuộc địa, về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân trong thời đại
mới, về xây dựng căn cứ địa hậu phương và nền quốc phòng toàn dân, về chỉ đạo
chiến tranh và khoa học nghệ thuật quân sự ở một nước vốn là thuộc địa chống chủ
nghĩa thực dân, đế quốc.
Đây cũng là cơ sở cho sự hình thành và phát triển Nghệ thuật quân sự
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng biên dịch “Binh pháp Tôn Tử”, viết về “kinh
nghiệm du kích Tàu”, “du kích Nga”,... phát triển nguyên tắc chiến đấu tiến
công, chiến đấu phòng ngự,... qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng. Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã đề ra phương châm chỉ đạo chiến tranh, phương thức tác
chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời cơ, đưa chiến tranh Việt Nam kết thúc thắng lợi.