



















Preview text:
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH 
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN  ----------        BÀI TẬP NHÓM 
MÔN NGHIÊN CỨU TRUYỀN THÔNG 
ĐỀ BÀI: NGHIÊN CỨU 
CÔNG CHÚNG TRUYỀN THÔNG     
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh   
Lớp, khóa: Lớp Quản lý Báo chí Truyền thông - K28.2    Nhóm 2 (10 thành viên)          Hà Nội, 2023    1  
MỤC LỤ   C
PHẦN TỰ ĐÁNH GIÁ…………………………………………………………………………3 
MỞ ĐẦ ………………………………………………………………………………………… U .5 
NỘI DUNG……………………………………………………………………………………….6 
I. Công chúng và nghiên cứu công chúng truyền thông…………………….6 
1.1 Khái niệm công chúng …………………………………………………..6 
1.2 Khái niệm nghiên cứu công chúng …………………………………….8 
II. Lịch sử nghiên cứ  
u công chúng truyền thông…………………………..9 
III. Các nội dung nghiên cứu công chúng ………………………………….11 
3.1. Nghiên cứu tỉ suất………………………………………………………..11 
 3.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng………………………………………………18 
KẾT LUẬN……………………………………………………………………..27  DANH MỤ   C TÀI LIỆ  
U THAM KHẢO………………………………………28                                  2    
PHẦN TỰ ĐÁNH GIÁ 
Nhóm trưởng: Trịnh Thị Lan    STT  MÃ HỌC VIÊN 
HỌ VÀ TÊN ĐÁNH GIÁ CHI TIẾT  ĐIỂM  1  2888020053  Trịnh Thị  Tích cực xây dựng bài  9  Lan 
 Có nhiều đóng góp tích  cực trong quá trình làm  bài; hoàn thành đúng  thời gian được giao    2  2888020054  Nguyễn 
Có nhiều đóng góp tích 9  Thuý Lành  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    3  2888020048  Phạm Hữu 
Có nhiều đóng góp tích 9  Giang  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    4  2888020045  Nguyễn Thị 
Có nhiều đóng góp tích 9  Thuỳ Dung  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    5  2888020046  Đào Thị 
Có nhiều đóng góp tích 9  Thuỳ Dương  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    6  2888020052  Hứa Thị 
Có nhiều đóng góp tích 9  Hường  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    7  2888020051  Trần Thị 
Có nhiều đóng góp tích 9  Hoàn  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    3     8  2888020049  Lê Hoàng 
Có nhiều đóng góp tích 9  Thanh Hằng  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    9  2888020050  Lê Thị Yến 
Có nhiều đóng góp tích 9  Hoa  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn    10  2888020047  Nguyễn 
Có nhiều đóng góp tích 9  Thuỳ Dương  cựctrong quá trình làm 
bài; rất trách nhiệm và 
cầu thị; nộp bài đúng  thời hạn                                      4   MỞ ĐẦU     
Công chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Họ chính là người nuôi dưỡng đánh 
giá, thẩm định cuối cùng chất lượng của chương trình truyền thông. Có thể coi công 
chúng là đối tác của cơ quan truyền thông. Mất đối tác thì cơ quan truyền thông 
không còn lý do để tồn tại. Công chúng là nguồn sinh lực phong phú, là “ngọn nguồn 
tươi mới” của truyền thông. Công chúng là đối tượng phản ánh những tâm tư, nguyện 
vọng, những vấn đề bức xúc, những cái vừa nảy sinh... là nguồn đề tài vô tận của  truyền thông. 
Để truyền thông luôn đạt hiệu quả cao, nghĩa là lôi kéo, hấp dẫn, thuyết phục 
được công chúng thì người thực hiện luôn luôn phải nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng 
một cách sâu sắc, một cách thường xuyên và nghiêm túc. 
Vì vậy, việc nghiên cứu công chúng truyền thông là nhiệm vụ quan trọng để cơ 
quan truyền thông hướng tới tạo ra sản phẩm truyền thông hiệu quả, phù hợp, hấp  dẫn công chúng.   
Trong tiểu luận này, nhóm 2 đề cập đến tầm quan trọng, ý nghĩa của nghiên 
cứu công chúng, đi sâu vào bản chất, cách thức nghiên cứu công chúng; lịch sử 
nghiên cứu công chúng và những kinh nghiệm nghiên cứu công chúng; một số 
phương pháp nghiên cứu công chúng trên thế giới và Việt Nam.            5     NỘI DUNG 
NGHIÊN CỨU CÔNG CHÚNG TRUYỀN THÔNG 
I. Công chúng và nghiên cứu công chúng truyền thông 
1.1 Khái niệm công chúng  
Theo nghĩa nguyên gốc, từ “công chúng” (audience) chỉ hành động nghe 
trực tiếp (mặt đối mặt) trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ, là hành vi mang  tính cá nhân. 
Cùng với sự phát triển của xã hội, từ “công chúng” được sử dụng để chỉ 
chung những người tiếp nhận các thông điệp được truyền tải qua các kênh trung 
gian có tính điện tử. Giờ đây, công chúng thường được xem là một tập hợp những 
người sử dụng các loại hình phương tiện truyền thông. 
Thuật ngữ công chúng mang hàm ý văn hóa xã hội, có tính cụ thể áp dụng 
cho từng khoảng thời gian, không gian. Theo Virginia Nightingale: Người ta có 
phải là công chúng hay không phải xét về mặt văn hóa, không phải xét về mặt tự 
nhiên, chúng ta hành động và suy nghĩ như một công chúng trong những bối cảnh 
và tình huống nhất định. Tiếp cận theo hướng nghiên cứu, thuật ngữ công chúng 
được xem xét trong giới hạn về bối cảnh và ngôn từ. 
Công chúng truyền thông không phải một thực thể cố định để khu biệt và 
xác định khái niệm, không có một đối tượng công chúng cụ thể nào trực tiếp để 
chúng ta quan sát và phân tích. (Shauns Moores – Nhà nghiên cứu) 
Tác giả Trần Hữu Quang, công chúng là một tập hợp xã hội rộng lớn, được 
cấu thành bởi nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau và đang sống trong những 
mối quan hệ xã hội nhất định. Khi nghiên cứu công chúng của một phương tiện 
truyền thông nào đó thì phải tìm hiểu họ gắn liền với bối cảnh điều kiện sống và 
các mối quan hệ xã hội của họ.      6
Hiểu đơn giản, công chúng truyền thông là người tiếp nhận, tiêu thụ, đàm 
phán về các thông tin truyền thông được cung cấp. Đặc điểm công chúng: Công 
chúng bao gồm những người thuộc mọi thành phần xã hội, bất kể địa vị, nghề 
nghiệp, trình độ học vấn hay tầng lớp xã hội nào. Công chúng là những cá nhân 
nặc danh; các thành viên của công chúng thường cô lập nhau xét về mặt không 
gian, không ai biết ai mà cũng không có sự tương tác hay những mối quan hệ gì  gắn bó với nhau. 
Hầu như không có tổ chức gì, hoặc nếu có cũng rất lỏng lẻo và do đó nó khó 
có thể tiến hành một hoạt động xã hội chung nào được. 
Công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng không bao giờ là 
một khối người thuần nhất, đồng dạng với nhau. Đây là một thực thể rất phức 
tạp, bao gồm nhiều giới, nhiều nhóm, nhiều tầng lớp và giai cấp xã hội khác 
nhau, với những đặc trưng đa dạng và những quyền lợi dị biệt và nhiều khi mâu  thuẫn. 
Công chúng không phải là một tập thể hay một cộng đồng, nó không có cơ 
cấu tổ chức mà cũng không có người chỉ huy, không có tập quán hay truyền thống, 
không có những quy tắc riêng của mình và các thành viên của nó cũng không có ý 
thức là mình cùng thuộc một tổ chức hay cộng đồng nào đó. Công chúng cũng 
không phải là một khối người thuần nhất, giống nhau, ngược lại, nó phức tạp bao 
gồm nhiều nhóm, nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau với những đặc trưng 
đa dạng và những quyền lợi dị biệt và nhiều khi mâu thuẫn nhau. 
Phân biệt “công chúng “ với “ đám đông”  Chỉ tiêu so sánh  Công chúng  Đám đông  Không gian  Phân tán  Tập trung  Tương tác  không  có    7   Tổ chức  Không có hoặc rất  Có tổ chức  lỏng lẻo  Đối tượng quan  Nhắm vào đối tượng 
Gắn liền với biến xảy  tâm  cụ thể  ra  Mức độ ý thức  Thấp  Cao nhưng không  chung  kéo dài 
Phân biệt “công chúng” và “đại chúng” 
“Đại chúng” (trong thuật ngữ truyền thông đại chúng) là khái niệm khá mơ 
hồ. Ta không thể xác định phải đông như thế nào mới được gọi là đại chúng. 
“Đại chúng” có các đặc điểm: 
Là những người thuộc mọi thành phần xã hội, bất kể nghề nghiệp, trình độ 
học vấn hay tầng lớp xã hội nào. Các thành viên của đại chúng thường độc lập 
về không gian (không ai biết ai), không có sự tương tác hay mối quan hệ gắn bó 
với nhau. Khó tiến hành một hoạt động chung nào đó vì không có hình thức tổ 
chức nào, hoặc rất lỏng lẻo. 
1.2 Khái niệm nghiên cứu công chúng  
Theo giáo trình “ Phương pháp nghiên cứu truyền thông” của TS. Vũ Tuấn 
Anh có viết: Nghiên cứu công chúng ở đây được hiểu là nghiên cứu công chúng 
truyền thông (audience research) là một khái niệm đặc thù trong ngành truyền 
thông, trong đó đối tượng nghiên cứu là công chúng, thông qua các phương pháp 
nghiên cứu khác nhau nhằm đạt được những hiểu biết về công chúng, qua đó nâng 
cao hiệu quả truyền thông. 
Trong nghiên cứu công chúng, tất cả những nhận định đều dựa trên các khía 
cạnh của sự kiện truyền thông diễn ra và tác động lên công chúng. Cách nghiên 
cứu công chúng đơn giản nhất là thống kê những người tiếp nhận thông tin (thính 
giả/khán giả/độc giả) và phân cấp các cá nhân vào các thể loại nhân khẩu học. Điều 
này được tiến hành dễ dàng hơn khi ở nơi công cộng (như là rạp chiếu phim hay ở      8
nơi tổ chức hòa nhạc) so với khi công chúng ở không gian riêng tư và tách biệt 
(như nghe các chương trình phát thanh trong ô tô hoặc xem video trên máy tính cá 
nhân). Như vậy, nghiên cứu công chúng sẽ giúp chúng ta hiểu được quá trình truyền 
thông cũng như tác động của truyền thông lên công chúng (về nhận thức, thái  độ/tình cảm, hành vi). 
II. Lịch sử nghiên cứu công chúng truyền thông 
Nghiên cứu công chúng truyền thông là một trong những hướng nghiên cứu 
quan trọng và đóng vai trò nền tảng bởi hiệu quả truyền thông được xác định bởi 
mức độ ảnh hưởng đối với công chúng, mức độ hài lòng của công chúng cũng như 
sự thay đổi trong thái độ và ứng xử hành vi của công chúng sau khi tiếp nhận thông  điệp truyền thông. 
Một số công trình nghiên cứu công chúng đóng vai trò quan trọng trong lịch 
sử như: Denis MC Quail (1983, 1994, 2005); Alvin Toffer(1996); Phillip Breton 
và Serger Proulx (1996); Loic Hervoute (1999); Perlti Alasuntari (1999); Andy 
Ruddock (1996); E.P Prokhorop(2001); Claudia Mast(2003); Susans Horing,  Priest (2003).. 
Lịch sử nghiên cứu công chúng truyền thông trên thế giới chia làm 4 giai  đoạn 
Giai đoạn 1: Bắt đầu từ thập niên 20 tới cuối thập niên 30 
Đây là giai đoạn các nhà nghiên cứu cho rằng công chúng truyền thông ở vị 
thế tiếp nhận một cách thụ động, tiêu biểu là nhóm trường phái Frankfurt ở Đức. 
Theo nghiên cứu của trường phái này được biết đến với tên gọi hiệu ứng “mũi kim 
tiêm, các phương tiện truyền thông tác động trực tiếp đến công chúng và công 
chúng không có khả năng đề kháng trước những ảnh hưởng của phương tiện truyền 
thông. Các nhà nghiên cứu giai đoạn này cũng đề cao hiệu ứng của phương tiện kỹ 
thuật, và các yếu tố chính trị, xã hội hoàn toàn bị áp đảo bởi yếu tố phương tiện kỹ  thuật.    9  
Giai đoạn 2: Từ khoảng năm 1940 – 1960 
Bắt đầu xuất hiện quan điểm bớt bi quan về vai trò của các phương tiện 
truyền thông đại chúng. Nhiều cuộc khảo sát đã chỉ ra truyền thông đại chúng hầu 
như không có hoặc rất ít tác động đến thái độ và ứng xử của công chúng. 
Các nhà nghiên cứu tập trung vào tác động gián tiếp và thông qua những 
bước trung gian của truyền thông đại chúng. Trong giai đoạn này, các nhà nghiên 
cứu đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của “người dẫn dắt dư luận” và hướng nghiên 
cứu công chúng tập trung vào điều kiện và nhường lại tiếng nói cho nhóm công 
chúng trước bị coi là “công chúng thinh lặng” 
Giai đoạn 3: Bắt đầu từ những năm 1960 đến cuối thế kỷ XX 
 Giai đoạn này công chúng được hình dung như các tác nhân xã hội có khả 
năng lý giải, phê phán và chống chọi sự áp đặt trong quá trình truyền thông đại 
chúng. Cũng tại giai đoạn này, ngành khoa học xã hội nghiên cứu văn hóa, xã hội, 
chính trị học, ngôn ngữ và truyền thông. Nghiên cứu truyền thông trong nội hàm 
của nghiên cứu văn hóa không phải là khoa học về việc thực hiện và tổ chức, sản 
xuất các sản phẩm truyền thông sao cho hấp dẫn và thu hút, cũng không phải đi 
tìm câu trả lời cho hiệu quả của hoạt động truyền thông. Nhà xã hội Stuart Hall chỉ 
ra rằng nghiên cứu truyền thông là nghiên cứu ý nghĩa thực sự của những thông 
điệp từ góc nhìn văn hóa, tìm kiếm, lý giải sự liên hệ giữa tư tưởng, quyền lực, đạo 
đức xã hội với những gì biểu đạt trên các phương tiện truyền thông đại chúng. 
Giai đoạn 4: Từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay 
Sự ra đời của Internet đã làm thay đổi quá trình truyền thông, trật tự thứ bậc 
cách thức tổ chức và quản trị truyền thông. Nó đã làm thay đổi thói quen công 
chúng, khiến họ có xu hướng lựa chọn những thông tin mà cá nhân muốn hơn là 
tiếp nhận những gì mà các nhà truyền thông muốn truyền đạt tới họ. Cùng với đó, 
sự phát triển của các mạng xã hội (Twitter, FB, Insta…) đã tạo ra một thế hệ “nhà 
báo công dân” và nó đang mang đến một luồng gió mới cho báo chí truyền thông.      10
Lúc này, nhiều nhà nghiên cứu đã quay lại quan điểm về vai trò của thiết bị kỹ 
thuật trong quá trình truyền thông đặc biệt là trước sức mạnh và vị thế của Internet 
hiện nay. Truyền thông và công chúng vẫn tiếp tục ảnh hưởng lẫn nhau nhưng 
những khái niệm như công chúng trực tuyến đang khiến cho quá trình truyền thông 
trở nên phức tạp hơn khi công chúng đang học cách tự điều khiển các phương tiện 
truyền thông, tạo dựng mạng lưới của riêng mình. Công chúng hiện nay chủ động 
và tương tác nhiều hơn so với thời kỳ phát triển của truyền hình và phát thanh, làm 
thay đổi cơ bản cách tiếp cận với truyền thông và sự tiếp nhận của họ đối với các  nội dung truyền thông. 
Lĩnh vực nghiên cứu truyền thông đã có sự dịch chuyển về đối tượng nghiên 
cứu. Nếu như trước đây công chúng được nghiên cứu như một đối tượng ngẫu 
nhiên cùng những phản ứng với các kích thích có thể dễ dàng đánh giá và kết hợp 
với các phản ứng khác. Hiện nay, công chúng được nghiên cứu với những cách 
tiếp cận nội dung truyền thông đa dạng hơn. 
III. Các nội dung nghiên cứu công chúng 
3.1. Nghiên cứu tỉ suất 
3.1.1. Khái niệm nghiên cứu tỉ suất (ratings) 
Nghiên cứu tỉ suất là một trong những hình thức nghiên cứu công chúng sớm 
nhất, là cách thức nghiên cứu được sử dụng để đánh giá sự quan tâm theo dõi của 
khán giả, khách hàng đối với một chương trình phát thanh, truyền hình hay một 
sản phẩm cụ thể nào đó. Đối với lĩnh vực truyền thông mà cụ thể là truyền hình, 
chỉ số xếp hạng của một chương trình cao hay thấp chỉ cần nhìn vào số lượng các 
mục quảng cáo được phát chèn vào giữa nội dung của chương trình đó. Nếu chương 
trình nào dày đặc quảng cáo thì có nghĩa là chương trình đó đang thu hút một số 
lượng khán giả theo dõi đông đảo. Dựa trên chỉ số xếp hạng, các công ty truyền 
thông hay các nhà sản xuất sẽ nhận được những phản hồi tương đối chính xác của 
xã hội đối với sản phẩm của mình. Những số liệu thống kê giúp họ đưa ra những    11  
giải pháp cần thiết và kịp thời nhằm nâng cao hơn nữa hình ảnh cũng như tầm ảnh 
hưởng sản phẩm của mình trong mắt người dùng. 
Trong nghiên cứu công chúng truyền hình, tỉ suất xem truyền hình dùng để 
đánh giá hiệu quả nội dung chương trình truyền hình cũng như hiệu quả của quảng 
cáo. Nó được coi là đơn vị tiền tệ trên thị trường truyền thông. Dựa vào các chỉ số 
tỉ suất, các đài truyền hình, nhà cung cấp dịch vụ truyền hình có thể đánh giá hiệu 
quả của các chương trình truyền hình nhằm định giá cho các sản phẩm truyền hình 
và các mục quảng cáo. Các nhà quảng cáo dựa vào chỉ số này để quyết định chi 
phí cho quảng cáo, lựa chọn quảng cáo trên kênh nào và chương trình nào để nhắm 
đúng đối tượng mục tiêu. Điều này cho thấy, việc nghiên cứu và đo lường tỉ suất  rất quan trọng. 
3.1.2 Chức năng của nghiên cứu tỉ suất 
Nghiên cứu tỉ suất đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu 
truyền thông, giúp phân tích và hiểu rõ các mối quan hệ số đo giữa các yếu tố trong 
môi trường truyền thông. Dưới đây là một số chức năng quan trọng của nghiên cứu 
tỉ suất trong lĩnh vực này; 
1.Phân tích tương quan thông tin: Nghiên cứu tỉ suất cho phép xác định mức độ 
tương quan giữa các biến trong truyền thông như tần suất xuất bản, lượt xem, tương 
tác trên mạng xã hội và ảnh hưởng của các chiến dịch quảng cáo. Điều này giúp 
nhận biết các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của các chiến dịch truyền thông. 
2. Dự đoán hiệu quả chiến dịch: Bằng cách áp dụng các mô hình tỉ suất, nghiên 
cứu truyền thông có thể dự đoán hiệu quả của các chiến dịch truyền thông dựa trên 
các biến đầu vào như ngân sách, kênh truyền thông, và đối tượng mục tiêu. Điều 
này giúp tối ưu hóa nguồn lực và đảm bảo sự thành công của chiến dịch. 
3. Phân tích hành vi khách hàng: Nghiên cứu tỉ suất có thể được sử dụng để hiểu 
rõ hành vi của khách hàng thông qua việc phân tích tỷ lệ phản hồi, tương tác, và      12
phản hồi truyền thông. Điều này giúp xác định mức độ hiệu quả của thông điệp và 
cách mà khách hàng tương tác với nó. 
4. Đo lường tác động: Nghiên cứu tỉ suất giúp đo lường tác động của các yếu tố 
truyền thông lên ý thức, tri thức, và hành vi của khán giả. Việc này cung cấp thông 
tin quan trọng để đánh giá hiệu suất của các chiến dịch truyền thông. 
5. Dự báo xu hướng truyền thông: Bằng cách phân tích tỉ suất của các dữ liệu 
truyền thông theo thời gian, nghiên cứu này có thể giúp dự báo xu hướng, sự thay 
đổi trong sở thích của khán giả và cách họ tương tác với các phương tiện truyền  thông. 
Tùy vào mục đích sử dụng khác nhau mà nghiên cứu tỉ suất có các chức  năng khác nhau: 
- Đối với chủ sở hữu/ nhà khai thác truyền thông/ đài truyền hình/nhà cung cấp 
dịch vụ truyền hình : So sánh vị trí của họ so với đối thủ, từ đó định giá cho các 
sản phẩm truyền hình và các chuyên mục quảng cáo. 
- Đối với nhà quảng cáo (thông qua các đại lý quảng cáo) hay công ty truyền thông 
quảng cáo quyết định chi phí cho quảng cáo, lựa chọn kênh quảng cáo, lựa chọn 
chuyên mục, khung giờ quảng cáo phù hợp để nhắm tới đối tượng khách hang  mục tiêu. 
- Đối với nhà hoạch định chương trình truyền thông: quyết định có tiếp tục thực 
hiện 1 chương trình hay không. Nếu có thì phát triển theo hướng nào trong tương  lai. 
- Đối với những người xây dựng chương trình: quyết định có nên giữ lại chương 
trình và xác định chi phí phải trả để tiếp tục chương trình. 
- Đối với nhà nghiên cứu học thuật: Sử dụng tỉ suất để xây dựng các câu hỏi nghiên 
cứu phục vụ cho các nghiên cứu trong tương lai. 
3.1.3 Cách đo tỉ suất     13  
Rtg hoặc TVR là đơn vị đo lường tỉ suất người xem đối với một chương 
trình truyền hình cụ thể. 1 đơn vị tỉ suất (Rtg hoặc TVR) đại diện cho 1% hộ gia 
đình sử dụng truyền hình trong khu vực khảo sát xem chương trình trong 1 phút. 
Nếu thống kê khoảng 109,6 triệu hộ gia đình sử dụng truyền hình tại 1 khu vực 
thì 1 đơn vị tỉ suất sẽ đại diện cho 1% hoặc 1.096.000 hộ gia đình sử dụng truyền 
hình trong năm đó. Nếu sử dụng cho chương trình truyền hình phát sóng trong 
một kỳ thì đơn vị tỉ suất được tính trung bình trong khoảng thời gian phát sóng 
đó. Khi đó, tỉ suất xem được sử dụng cho một nhóm nhân khẩu học nhất định 
thay vì chỉ giới hạn ở các hộ gia đình, chẳng hạn, tỉ suất người xem độ tuổi 
khoảng từ 18 đến 49 tuổi, tương đương với 1% số lượng người thuộc độ tuổi 18 
đến 49 tuổi trong một nước. Có nhiều cách đo tỉ suất, một trong số đó là cách đo 
tỉ suất bằng “nhật ký” trong đó khán giả mục tiêu tự ghi chép lại những gì mình 
nghe và xem. Bằng cách nhắm tới mục tiêu nhân khẩu học khác nhau, các mô 
hình tập hợp thống kê sẽ cung cấp tỷ lệ của khán giả xem theo các tiêu chí chương 
trình, hệ thống cung cấp, và giờ chương trình. 
Một hệ thống công nghệ phức tạp hơn sử dụng thiết bị đo lường Set Meter 
(các thiết bị nhỏ được kết nối với TV trong các hộ gia đình được lựa chọn). Các 
thiết bị này thu thập các thói quen về xem của các hộ gia đình và truyền tải các 
thông tin hằng ngày đến Nielsen thông qua một “Đơn vị gia đình (Home Unit)” 
kết nối với đường dây điện thoại. Dựa trên công nghệ, hệ thống “Đơn vị gia 
đình” cho phép các nhà nghiên cứu thị trường nghiên cứu thói quen xem truyền 
hình trên từng phút một, nhìn thấy thời điểm chính xác người xem thay đổi kênh 
hoặc tắt tivi của họ. Ngoài Set Meter, thiết bị báo cáo xem cá nhân, chẳng hạn 
như People Meters đã cho phép công ty tách riêng thông tin hộ gia đình thành 
các nhóm nhân khẩu học khác nhau nhỏ hơn. 
3.1.4. Ưu, nhược điểm của việc đo tỉ suất        14
Ưu, nhược điểm của việc đo tỉ suất  Ưu điểm  Nhược điểm 
- Dữ liệu được đo lường theo 
- Không có phương pháp nào cho 
từng giây giúp khái quát được sự 
thấy sự tin cậy hoàn toàn về việc thu 
phổ biến của mỗi chương trình  thập dữ liệu.  một cách đáng tin cậy. 
- Các kết luận có thể rút ra từ việc đo 
- Dữ liệu nhân khẩu học cho biết 
tỉ suất bị giới hạn ở chỗ chỉ cung cấp 
mối quan hệ giữa thói quen xem 
được những thông tin chung, phổ 
truyền hình và các thể loại khán 
biến như chương trình nào được xem  giả. 
và được xem vào khi nào... 
- Dữ liệu thô có thể được sử 
dụng để phát triển các giả thuyết 
nghiên cứu, dùng cho các nghiên 
cứu sau này bằng các phương  pháp nghiên cứu khác.  VD1: Trên thế giới 
Ở Mỹ đã có công ty Nielsen Media Research (NMR). Đây là một công ty 
chuyên đo lường, đánh giá xếp hạng tỷ suất người xem bao gồm các kênh truyền 
hình, đài phát thanh, rạp chiếu phim và báo chí. Từ đó đưa ra một cách khách quan 
số người theo dõi để đưa ra chính sách hủy hoặc đổi mới các chương trình truyền  hình. 
Nielsen công bố bảng đo lường về việc xem các chương trình truyền hình tại 
Mỹ, từ đó đưa ra được các kết luận về Chương trình truyền hình thu hút khán giả 
nhất là Chương trình truyền hình trực tuyến.    15     VD2: Tại Việt Nam 
Hệ thống đo lường định lượng khán giả truyền hình Việt Nam, viết tắt là 
Vietnam TAM, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Vietnam TAM là một 
quy trình khép kín được ứng dụng giải pháp công nghệ hiện đại, sử dụng thiết bị 
phần cứng, phần mềm tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế. Quá trình thu thập, phân 
tích và cho ra kết quả cuối cùng hầu hết được xử lý trên hệ thống thiết bị máy móc 
hiện đại do Nielsen cung cấp. 
Dữ liệu đo lường khán giả truyền hình được VIETNAM-TAM ghi nhận tại tivi ở 
các hộ gia đình, không bao gồm các điểm xem bóng đá ngoài trời và dịch vụ khác, 
mùa giải World Cup 2022 trong tuần đầu tiên.      16      
3.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng 
Nghiên cứu ảnh hưởng là nghiên cứu tác động của các phương tiện truyền 
thông đến công chúng, xét trên khía cạnh nội dung chương trình có ảnh hưởng như 
thế nào đến hành vi của công chúng. Trong giả thuyết, nghiên cứu này tập trung ở    17  
hai đối tượng: theo dõi nhiều hay ít, theo dõi nhằm đo lường ảnh hưởng của các 
chương trình đến quan điểm, nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng. 
Tuỳ vào đặc điểm của từng loại hình truyền thông mà ảnh hưởng đến công 
chúng sẽ khác nhau. Những thông tin mà truyền hình mang đến cho công chúng 
thuộc đủ loại khác nhau và có tác động rất lớn đến thái độ và hành vi của khán giả. 
Truyền hình trình bày các sự kiện theo căn cứ sự thật; sức mạnh và sự hấp dẫn của 
nó là cho người xem thấy một cuộc sống thật, không bị khuấy động hoặc dàn cảnh. 
Vì vậy mà ảnh hưởng của truyền hình có thể làm cho công chúng vui buồn hoặc  tức giận. 
3.2.1 Nghiên cứu thị trường  Khái niệm 
Nghiên cứu thị trường trong tiếng Anh là Market Research, nghĩa là quá 
trình thu thập và xử lí dữ liệu thị trường để cung cấp thông tin hỗ trợ cho quá trình 
ra các quyết định liên quan đến hoạt động kinh doanh. 
Trong cuốn Cẩm nang nghiên cứu thị trường của tác giả Esomar cho rằng, 
nghiên cứu thị trường bao gồm nghiên cứu quan điểm và xã hội, là quá trình thu 
thập và giải thích một cách có hệ thống thông tin về các cá nhân và tổ chức sử dụng 
các kỹ thuật và phương pháp thống kê và phân tích của các bộ môn khoa học xã 
hội ứng dụng để thấu hiểu hoặc hỗ trợ cho việc ra quyết định. Nhân dạng của người 
tham gia nghiên cứu sẽ không được tiết lộ cho bất cử người sử dụng thông tin nào 
mà không có sự cho phép rõ ràng, đồng thời không được tiếp cận mua bán với 
những người tham gia nghiên cứu dựa trên thông tin mà họ đã cung cấp. 
Một số quan điểm khác nhận định, nghiên cứu thị trường là một cách điều 
tra và trả lời các câu hỏi về hành vi của con người. Vai trò chính của bộ phận nghiên 
cứu thị trường trong một tổ chức là cung cấp những chứng cứ đáng tin cậy có thể 
giúp nhà quản lý đưa ra những quyết định sáng suốt hơn.      18
Trong giáo trình Phương pháp nghiên cứu truyền thông, TS Vũ Tuấn Anh 
đã chỉ ra “nghiên cứu thị trường được tiến hành theo khảo sát chứ không phải giả 
định, nhưng nó vẫn phụ thuộc vào mô hình truyền thông tuyến tính như nghiên cứu 
của Berg và vẫn thuộc về thể loại nghiên cứu ảnh hưởng”. 
Theo đó, nghiên cứu thị trường vẫn giả định rằng tác động của chiến lược 
quảng cáo có thể được xác định bằng cách đánh giá thái độ (cho sản phẩm) và khảo  sát (mua/tiêu thụ). 
Qua nhiều năm, nghiên cứu thị trường đã trở nên hiệu quả và đáng tin cậy 
hơn vì các quy trình lấy mẫu đã được cải tiến và có tiến bộ trong việc thiết lập các 
định nghĩa và thu thập dữ liệu. Những câu hỏi tổng quát về thành phần công chúng 
và sở thích của công chúng đã được đưa vào nhiều hơn, tạo điều kiện cho sự thay 
đổi trong chương trình truyền hình. 
Quy trình nghiên cứu thị trường 
- Xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường 
- Xác định thông tin cần thu thập  - Thiết kế nghiên cứu 
- Xử lý dữ liệu: Nghiên cứu định tính, Nghiên cứu định lượng 
- Phân tích dữ liệu và diễn giải ý nghĩa  - Trình bày kết quả  *Ví dụ  Tại Việt Nam 
Năm 2021, Chứng khoán MB (MBS) đã có báo cáo về ngành bia Việt Nam. 
Tại báo cáo này, đơn vị phân tích đã chỉ ra về thị trường bia Việt Nam đang nằm 
trong tay những ông lớn nào, tỷ lệ tiêu thụ bia ở ba miền Bắc – Trung – Nam ra 
sao. Từ đó để thấy được, các sản phẩm đang được ưa chuộng là gì, mức độ phổ 
biến từng sản phẩm sẽ được phân bố ra sao.    19  
Báo cáo này cho thấy bức tranh toàn cảnh về thị trường bia Việt Nam, qua 
đó, các hãng bia có thể nhìn thấy những “mảnh đất” nào đang trống. Các công ty 
cần tập trung phát triển mảng nào và hạn chế điều gì để thúc đẩy quá trình kinh  doanh.       
Trong báo cáo về ngành F&B năm 2021 của VNDirect cho biết, thị phần mì 
gói ở Việt nam thuộc về 4 doanh nghiệp lớn là Acecook, Masan Consumer, Uniben 
và Asia Foods. Trong đó, Acecook là nhà sản xuất mì lớn nhất, chiếm 32,6% thị 
phần, theo sau là Masan Consumer (MCH) với 20,0% thị phần vào năm 2020.      20