lOMoARcPSD| 46342985
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
THỰC TIỄN VVIỆC BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
BỘ TƯ PHÁP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Chủ nhiệm đề tài: Đồng Ngọc Ba
Thư ký đề tài: Trần Hoàng Hưng
HÀ NỘI – 2011
lOMoARcPSD| 46342985
DANH SÁCH BAN CHỦ NHIỆM VÀ CỘNG TÁC VIÊN
A. Ban Chủ nhiệm đề tài:
1. Tiến sỹ Đồng Ngọc Ba - Phó Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quyphạm
pháp luật, Bộ Tư pháp, Chủ nhiệm đề tài;
2. Thạc sỹ Trần Hoàng Hưng - Tởng phòng Tổng hợp, Văn phòng BộTư
pháp, Thư ký đề tài.
B. Cộng tác viên chính của đề tài:
1. Tiến sỹ Đỗ Đức Hồng - Phó trưởng Ban Thư ký, Văn phòng Bộ
Tưpháp;
2. Đồng chí Nguyễn Đình Thơ - Chuyên viên Phòng soát, Hệ thốnghoá
văn bản, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp;
3. Đồng chí Lê Vân Anh - Chuyên viên Phòng Tổng hợp, Văn phòng BộTư
pháp;
4. Đồng chí Nguyễn Duy Thắng - Chuyên viên Phòng Tổng hợp, Vănphòng
Bộ Tư pháp;
5. Đồng chí Trần Thu Giang - Chuyên viên Phòng Rà soát, hệ thống hoávăn
bản, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp;
6. Đồng chí Nguyễn Ngọc Quang - Chuyên viên Vụ Pháp luật hình sự hành
chính, Bộ Tư pháp;
7. Đồng chí Vũ Hồng Dương - Thư ký Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính;
8. Đồng chí Nguyễn Thị Hoàng Giang - Chuyên viên Phòng Tổ chức bộmáy,
Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp;
9. Đồng chí Trần Thị Diệu Thuý - Chuyên viên Phòng Kế hoạch, Thốngkê,
Vụ Kế hoạch - Tài chính;
10. Đồng chí Trần Thị Mai Hương - Chuyên viên Phòng Kế hoạch, Thốngkê,
Vụ Kế hoạch - Tài chính;
11. Đồng chí Nguyễn Quỳnh Giang - Chuyên viên Phòng Tổng hợp,
Vănphòng Bộ Tư pháp.
lOMoARcPSD| 46342985
MỤC LỤC
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH...................................................................1
Phần thứ nhất: TÍNH CẤP THIẾT, PHƯƠNG PHÁP, MỤC TIÊU
VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI......................................................1
Phần thứ hai: KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI..................................5
Chuyên đ 1: Những vấn đề luận bản của quyết định hành
chính........................................................................................................56
Chuyên đề 2: Các loại quyết định hành chính thuộc thẩm quyền ban hành
của các bộ, ngành...........................................................................63
Chuyên đề 3: Kinh nghiệm một số bộ, ngành về xây dựng, ban hành
triển khai thực hiện các quyết định hành chính..................................72 Chuyên
đề 4: Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính của B
Tư pháp...................................................................................................78
Chuyên đề 5: Thực trạng giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, ban
hành và thực hiện quyết định hành chính tại các đơn vị đào tạo
.................................................................................................................88
Chuyên đề 6: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, ban
hành thực hiện quyết định hành chính tại c đơn vị báo chí, xuất
bản............................................................................................94
Chuyên đề 7: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, ban
hành và thực hiện quyết định hành chính tại các đơn vị hành chính thuộc Bộ
pháp........................................................................104
Chuyên đề 8: Thực trạng và giải pháp đảm bảo hiệu quả kiểm tra, giám sát
việc ban hành, thực hiện quyết định hành chính tại cơ quan B
Tư pháp.................................................................................................120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................136
lOMoARcPSD| 46342985
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH
Phần thứ nhất:
TÍNH CẤP THIẾT, PHƯƠNG PHÁP, MỤC TIÊU
VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. Tính cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay,
việc ban hành, thực hiện quyết định hành chính là một trong những vấn đề quan trọng
được nhà nước và hội quan tâm; đây là cầu nối giữa quy phạm pháp luật và thực
hiện pháp luật, do đó yêu cầu xây dựng, ban hành quyết định hành chính phải đảm
bảo độ chính xác cao, vừa hợp pháp, vừa đảm bảo sự phù hợp với thực tế áp dụng.
Qua việc đánh giá, kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của B
Chính trị, cho thấy bước đầu các cơ quan, ban ngành đã thực hiện cơ bản thống nhất
việc ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng
chồng chéo giữa các loại văn bản, thẩm quyền ban hành; trong đó, văn bản hành chính
chứa đựng quy phạm pháp luật là hiện tượng không hiếm thấy.
Thực tế cho thấy, hoạt động xây dựng, ban hành triển khai thực hiện các
quyết định hành chính tại quan Bộ pháp đang còn nhiều vướng mắc, bất cập
như:
Một là, hình thức văn bản còn thiếu thống nhất, nhiều trường hợp chưa phân
biệt khi nào ban hành quyết định, khi nào ban hành Công văn chỉ đạo thực hiện;
trường hợp chưa phân định được văn bản hành chính thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng
và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ.
Hai là, quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính còn thiếu thống
nhất, chưa có quy trình áp dụng riêng cho loại văn bản này.
Ba là, việc kiểm tra thực hiện quyết định hành chính chưa được bảo đảm tính
nghiêm minh.
Với chức năng quản nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật,
kiểm tra, soát văn bản quy phạm pháp luật… Bộ pháp cần phải tuân thủ chặt
lOMoARcPSD| 46342985
chẽ quy trình xây dựng, thẩm quyền ban hành, thể thức quyết định hành chính. Trong
điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu Đề tài khoa học cấp cơ sở về: “Thực tiễn về việc
ban hành quyết định hành chính ở Bộ pháp giải pháp hoàn thiện” ý nghĩa
quan trọng, nhất về thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
II. Tình hình nghiên cứu
Thực trạng nghiên cứu thuộc lĩnh vực nêu trên cho thấy, đã một số ng
trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề quyết định hành chính, ví dụ như: Giáo trình Luật
Hành chính của Trường Đại học Luật Nội, Học viện Hành chính Quốc gia, các
Tạp chí trong ngoài nước đã nhiều bài viết liên quan. Tuy nhiên, những công
trình nêu trên mới tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, đánh giá chung về việc ban
hành quyết định hành chính, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo quyết định
hành chính; chưa những đánh giá, phân loại chi tiết quyết định hành chính trong
một cơ quan Bộ.
Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc nêu trên, Ban Chủ nhiệm đề tài đã
phối hợp chặt chẽ với các cộng tác viên, các đơn vị thuộc Bộ nghiên cứu, soát,
đánh giá và thống số liệu ban hành Quyết định hành chính trong quan Bộ từ
năm 2008 đến tháng 12/2010 để hoàn thành kết quả nghiên cứu đề tài cấp cơ sở.
Quá trình nghiên cứu được tổ chức thực hiện công phu, có sự phối hợp nghiên
cứu, đánh giá của nhiều đơn vị, nhân để bảo đảm tính khách quan, khoa học của
đề tài.
III. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua các hoạt động nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tế để tìm ra những
hạn chế, bất cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong hoạt động xây dựng,
ban hành, kiểm tra quyết định hành chính; thực hiện và giám sát việc thực hiện quyết
định hành chính của quan Bộ Tư pháp, Đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy
trình xây dựng, ban hành thực hiện quyết định hành chính trong quan Bộ
pháp; phân định quyết định hành chính với văn bản quy phạm pháp luật nội bộ, các
văn bản áp dụng khác trong cơ quan Bộ Tư pháp.
lOMoARcPSD| 46342985
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài xác định các nhiệm vụ cần thực hiện gồm:
- Làm những vấn đề luận về ban hành, thực hiện chế giám
sátviệc thực hiện quyết định hành chính của quan nhà nước trong giai đoạn hiện
nay;
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, bấtcập
trong hoạt động xây dựng, ban hành, kiểm tra quyết định hành chính, thực hiện và
giám sát việc thực hiện quyết định hành chính của cơ quan Bộ Tư pháp;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệuquả
xây dựng, banh hành và thực hiện Quyết định hành chính tại cơ quan Bộ Tư pháp.
V. Phương pháp thực hiện đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
những luận cứ khoa học đã được thừa nhận và đồng thời sử dụng nhiều phương pháp
cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá thực trạng,đề
xuất giải pháp hoàn thiện quá trình xây dng, ban hành, thực hiện và kiểm tra, giám
sát việc thực hiện quyết định hành chính trong cơ quan Bộ Tư pháp.
- Phương pháp khảo sát, thống kê: khảo sát ý kiến công chức, viên chứccơ
quan Bộ pháp; thu thập, thống kê, phân loại số liệu vquyết định hành chính trong
cơ quan Bộ Tư pháp.
VI. Những đóng góp của đề tài
Với mục tiêu đề tài đã đề ra, kết quả của đề tài sẽ căn cứ quan trọng cho việc
đề xuất phân định thẩm quyền, phân chia quyết định hành chính và các văn bản khác
thuộc thẩm quyền ban hành của Lãnh đạo Bộ, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ trong
quá trình chỉ đạo, điều hành công tác của Bộ. Qua đó góp phần bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống văn bản áp dụng pháp luật.
lOMoARcPSD| 46342985
Phần thứ hai: KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUẢN NHÀ NƯỚC VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG CƠ QUAN BỘ TƯ PHÁP
1. Lý luận về văn bản quản lý nhà nước, quyết định hành chính
1.1. Khái niệm
a) Theo nghĩa chung nhất, văn bản là vật mang tin được ghi bằng ký hiệu
ngôn ngữ. Vật mang tin đây được thể hiện rộng rãi dưới nhiều hình thức qua
quá trình phát triển của loài người, đó thphiến đá, xương, thanh tre, da
động vật các thời kỳ trước hình thức phổ biến nhất hiện nay giấy, các
hình thức đã và sẽ được ứng dụng trong thời kỳ tới như văn bản điện tử... Khái
niệm hiệu ngôn ngữ được hiểu các loại chữ dùng để thể hiện ngôn ngữ của
con người, ví như chữ Quốc ngữ, chữ Nôm, chứ n, chữ tiếng Việt… Như vậy,
văn bản nói chung một phương tiện ghi tin truyền đạt thông tin bằng một
ngôn ngữ (hay dấu hiệu, hiệu) nhất định, thể hiện một lượng thông tin cần
thiết cho hoạt động của con người, tổ chức, cũng như cho quản lý xã hội.
Theo nghĩa hẹp, văn bản các công văn, giấy tờ hình thành trong quá
trình quản của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể; theo đó, công văn những văn
bản trình bày việc công; giấy tờ những văn bản không theo một khuôn mẫu
nhất định, nhưng nó lại phục vụ cho hoạt động quản lý của cơ quan (ví dụ như:
lịch nhân, đơn thư trình bày, sổ ghi chép công việc, các chứng từ, giấy biên
nhận…). Thực tế hoạt động của các quan, tổ chức hiện nay, các loại công văn,
giấy tờ đều được mẫu hoá theo quy trình chặt chẽ hoặc tự nguyện để bảo đảm sự
thống nhất trong quản lý, sử dụng và tổ chức thực hiện.
Đối với hoạt động của quan nhà nước, các loại văn bản được quản
chặt chẽ cả về hình thức, kết cấu và nội dung. Chính yêu cầu về sự thống nhất,
hiệu lực, hiệu quả và kịp thời trong quản nhà nước đã dẫn đến những cải cách
chuẩn hoá theo hướng quy phạm hệ thống văn bản của nhà nước với yêu cầu về
thể thức, kỹ thuật trình bày quy trình ban hành chặt chẽ hơn hẳn so với các
văn bản khác của tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hoặc cá nhân. Văn bản quản lý
nhà nước cũng đã được chia theo lĩnh vực quản lý, thẩm quyền ban hành nên có
lOMoARcPSD| 46342985
những hình thức nội dung khác nhau, gtrị công dụng khác nhau. Ngày
nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, con người có nhiều
công cụ giao tiếp mới, hiện đại, song văn bản vẫn là công cụ giao tiếp phổ biến
giá trị lưu giữ các thông tin, quyết định chính thức của một chủ thể hội,
qua đó thúc đẩy các hành vi. Cho đến ngày nay, chưa công cụ nào thay thế
được hình thức văn bản, nhất đối với những vấn đề lớn, hệ trọng của xã hội,
nhà nước và tổ chức, cá nhân.
Trong Hành chính học, văn bản được sử dụng trong quan nhà nước
được gọi chung văn bản quản nhà nước, đó văn bản hình thành trong hoạt
động quản lý của các cơ quan nhà nước theo đúng thể thức, thẩm quyền thủ
tục được luật pháp quy định. Loại văn bản này còn được gọi văn bản hành
chính. Văn bản quản lý nhà nước hình thành trong hoạt động quản lý của các
quan tổ chức, v.v., nhưng không phải bất cứ văn bản, tài liệu nào được sử dụng
trong các quan đều văn bản quản nhà nước. Đặc trưng nổi bật của văn
bản quản lý nhà nước là hiệu lực pháp lý của chúng trong quá trình quản lý nhà
nước. cho phép xác định mối quan hgiữa chủ thể quản với đối tượng
quản như giữa quan quản quan bị quản lý, giữa các quan liên
quan trong bộ máy quản nhà nước nói chung; giữa quan nhà nước và
nhân, tổ chức. Đặc trưng này làm cho văn bản quản nhà nước khác tài liệu
tham khảo chẳng hạn, mà người lãnh đạo sử dụng để thu thập thông tin theo nhu
cầu công việc hay nhu cầu hiểu biết. Các văn bản tham khảo không có đặc trưng
pháp như vậy. Các văn bản quản nhà nước mang tính quyền lực theo luật
định. Văn bản quản nhà nước thể thức riêng, được quy định bởi các quan
nhà nước thẩm quyền. Sự hình thành các văn bản quản nhà nước được thực
hiện theo một quy trình xác định.
Trong quản nhà nước, loại văn bản giá trị cao nhất về hiệu lực tác
động, chức năng, vị trí, vai trò trong hệ thống văn bản quản nhà nước… văn
bản quy phạm pháp luật. Đó là văn bản do Nhà nước ban hành, chứa đng quy
tắc xử sự chung (còn được gọi quy phạm pháp luật), hiệu lực bắt buộc
lOMoARcPSD| 46342985
chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ hội
1
.
Văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
Nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận từ những tập quán, quy định
đã tồn tại trước đó trong xã hội. Hiện nay ở Việt Nam, việc xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (năm 2008) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (năm 2004).
Song song với hình thức văn bản quy phạm pháp luật, các hình thức văn
bản hành chính được quy định tại Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004
của Chính phủ về công tác văn thư. Cụ thể, Điều 4 (khoản 2, 3, 4) của Nghị định
quy định về hình thức văn bản các tài liệu khác hình thành trong quá trình
hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế đơn vị trang
nhân dân, trong đó quy định các văn bản hành chính bao gồm: “Quyết định (cá
biệt), chỉ thị (cá biệt), thông cáo, thông báo, chương trình, kế hoạch, phương án,
đề án, báo cáo, biên bản, ttrình, hợp đồng, công văn, công điện, giấy chứng
nhận, giấy ủy nhiệm, giấy mời, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giy đi đường,
giấy biên nhận hồ sơ, phiếu gửi, phiếu chuyển (23 loại văn bản), các văn bản
chuyên ngành do Bộ trưởng, Thủ trưởng quan quản ngành quy định sau
khi thoả thuận thống nhất với Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Đối với hình thức văn bản
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - hội do người đứng đầu quan Trung
ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội quy định.
Văn bản quản nhà nước phương tiện đxác định các chuẩn mực
chung vào quá trình quản lý nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
định ra theo một trình tự, thủ tục và hình thức nhất định do pháp luật quy định,
để tổ chức các hoạt động quản của Nhà nước, cũng như giải quyết các công
việc liên quan đến cá nhân, tổ chức. Các văn bản quản lý nhà nước giúp cho đối
tượng quản lý căn cứ vào đó mà thực hiện. Đồng thời, đó cũng là tiêu chí để
1
Trích: Khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
lOMoARcPSD| 46342985
quan nhà nước người thẩm quyền kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của
các đối tượng và tùy theo đó mà xử lý theo pháp luật khi đối tượng vi phạm văn
bản quản lý. Trên sở chức năng, nhiệm vụ được phân công, các quan quản
lý nhà nước từ trung ương đến địa phương đều sử dụng các văn bản quản lý với
cách sở pháp quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
thẩm quyền được giao. Nói cách khác, văn bản quản lý nhà nước là phương tiện
quan trọng để bảo đảm thông tin cho quản lý, phản ánh kết quả hoạt động
quản lý cơ quan, giúp cho ta thấy được sản phẩm của hoạt động đặc thù này.
Tóm lại, văn bản quản nhà nước loại văn bản không chỉ phản ánh
thông tin quản lý còn thể hiện ý chí, mệnh lệnh của các quan nhà nước
đối với đối tượng quản nhằm hiện thực hóa các quy định, luật lệ của Nhà nước;
phương tiện để điều chỉnh những quan hệ hội thuộc phạm vi quản của
Nhà nước. Các văn bản hình thành trong hoạt động quản lý lãnh đạo nói chung
(gọi là văn bản quản lý nhà nước) là phương tiện quan trọng để ghi lại và truyền
đạt các quyết định quản hoặc các thông tin cần thiết hình thành trong qtrình
quản lý của các cơ quan nhà nước.
Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19/4/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính (thay thế phần quy định về
văn bản hành chính trong Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNVVPCP ngày
06/5/2005 của Bộ Nội vụ Văn phòng Chính phủ hướng dẫn thể thức kỹ
thuật trình bày văn bản hành chính) đã tổng hợp 35 loại văn bản hành chính chủ
yếu được ban hành trong các quan nhà nước gồm: Nghị quyết (cá biệt); Quyết
định (cá biệt); Chỉ thị (cá biệt); Quy chế; Quy định; Thông cáo; Thông báo;
Hướng dẫn; Chương trình; Kế hoạch; Phương án; Đề án; Dự án; Báo cáo;
Biên bản; Tờ trình; Hợp đồng; ng văn; Công điện; Bản ghi nhớ; Bản Cam kết;
Bản thoả thuận; Giấy chứng nhận; Giấy uỷ quyền; Giấy mời; Giấy giới thiệu;
Giấy nghỉ phép; Giấy đi đường; Giấy biên nhận; Hồ sơ; Phiểu chuyển; Thư công;
Bản sao y bản chính; Bản trích sao; Bản sao lục.
lOMoARcPSD| 46342985
Triển khai thực hiện Thông số 01/2011/TT-BNV (trước đây là Thông
liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP), các Quyết định được ban hành trong
quan Bộ pháp bao gồm các Quyết định (cá biệt); Quy chế, Quy định,
Chương trình, Kế hoạch (việc ban hành thể dưới dạng Quyết định ban hành
(phê duyệt) Kế hoạch hoặc Kế hoạch riêng), Đề án. Trước ngày 01/01/2009
Quyết định do quan Bộ ban hành n bao gồm cả các quyết định là văn bản
quy phạm pháp luật, song từ ngày 01/01/2009 khi Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật hiệu lực, các quyết định do Bộ, quan ngang Bộ, quan
thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hoặc
các đơn vị trực thuộc ban hành chỉ là văn bản hành chính nhà nước. Do đó, các
quyết định trên đều văn bản hành chính nhà nước thể hiện dưới dạng quyết
định hay gọi chung là Quyết định hành chính.
Văn bản hành chính nhà nước mang tính quyền lực do các quan Nhà
nước thẩm quyền ban hành trên sở các quy phạm pháp luật, các văn bản
do cấp có thẩm quyền ban hành, nhằm xác định các quyền nghĩa vụ pháp
cụ thể của các nhân, tổ chức hoặc c định những biện pháp trách nhiệm pháp
đối với người vi phạm pháp luật, do đó còn được gọi văn bản áp dụng
pháp luật, văn bản biệt. Đây các văn bản mang tính biệt, chỉ áp dụng một
lần như quyết định bổ nhiệm, nâng bậc lương, khen thưởng, kỷ luật; quyết định
xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định
để hoàn thành một công việc nhất định như quyết định ban hành chương trình,
kế hoạch, đề án.
b) Trong các loại văn bản hành chính nnước, Quyết định quản nhà
nước phản ánh trực tiếp ý chí của Nhà nước và phương tiện quan trọng để các
cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện thẩm quyền của mình. Hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào nội dung và chất lượng của các quyết
định quản lý nhà nước. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, quyết định quản nhà nước
là bất cứ hình thức nào mà nhà quản lý sử dụng để biểu đạt quyền lực của mình,
buộc các đối tượng quản phải thực hiện; ngoài hình thức văn bản ra, còn
lOMoARcPSD| 46342985
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác như: nói, hành vi, tín hiệu, hiệu, biển
báo, ám hiệu
2
, v.v..
Trong khoa học pháp hiện nay, nhiều cách phân loại quyết định quản
nhà nước, như căn cứ vào tính chất pháp lý, vào quan ban hành, trình tự
ban hành, hình thức ban hành, v.v.. Nếu căn cứ vào tính chất pháp thì quyết
định quản nhà nước được phân chia thành: quyết định văn bản quy phạm
pháp luật (đối với UBND các cấp) hoặc quyết định quy định nội bộ (hay còn gọi
quyết định chứa đựng quy phạm nội bộ) và quyết định biệt. Trong hoạt
động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, quyết định quy định nội bộ
quyết định cá biệt còn được gọi chung là quyết định hành chính, vì nó được
sử dụng để điều hành hoạt động hành chính nhà nước.
Trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài này, nhóm tác giả chỉ nghiên cứu
Quyết định quản lý nhà nước là một dạng văn bản quản lý dưới hình thức Quyết
định hành chính như đã phân tích ở mục I.1.1.a nêu trên.
Hoạt động của các quan nhà nước hoạt động mang tính quyền lực
pháp lý, nhân danh nhà nước, thể hiện ý chí nhà nước. Do đó, mặc dù còn tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau xung quanh khái niệm quyết định hành chính, nhưng
thể thấy rằng các quan điểm đều một điểm chung căn bản nhất đó tính
quyền lực nhà nước, tính pháp lý. Quyết định hành chính sẽ làm phát sinh thay
đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật; công bố, ban hành, bãi bỏ, huỷ bỏ văn
bản quy phạm pháp luật hoặc làm thay đổi thời gian hiệu lực pháp lý của chúng;
đặt ra những quy phạm nội bộ, quy trình hoặc quy chế hoạt động trong nội bộ
quan, đơn vị, tchức; đề ra những chủ trương giải pháp thực hiện chính sách,
nhiệm vụ của hoạt động quản nhà nước (Chương trình, Chương trình hành
động). Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những người có chức vụ hoặc
quan, tổ chức hội khi được Nhà nước trao quyền, thường xuyên ban hành
2
Những hình thức này chỉ được áp dụng trong những trường hợp cụ thể ở một số loại hình cơ quan, đơn vị và
người có thẩm quyền.
lOMoARcPSD| 46342985
quyết định hành chính đchỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức
năng quản lý được giao.
Quyết định hành chính được hiểu trong Từ điển giải thích từ ngữ luật học
của Nhà Xuất bản Công an nhân dân năm 1999 kết quả sự thể hiện ý chí quyền
lực đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những người có chức vụ,
các tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền, thực hiện trên cơ sở và để thi
hành pháp luật, theo trình tự và hình thức do pháp luật quy định hướng tới việc
thực hiện nhiệm vụ quản hành chính trong lĩnh vực hoặc vấn đề được phân
công phụ trách. Căn cứ theo tính chất pháp lý, quyết định hành chính thuộc thẩm
quyền ban hành của Bộ trưởng “được dùng để ban hành các chế độ, thể lê thuộc
lĩnh vực công tác của ngành; quy định thành lập (giải thể) cơ quan, đơn vị thuộc
quyền và chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của các cơ quan,
đơn vị đó; bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên trong ngành theo
quyền hạn được giao, phê chuẩn các kế hoạch, phương án kinh tế kỹ thuật”
3
.
Về mặt pháp lý, định nghĩa quyết định hành chính được quy định trong
Luật Khiếu nại, tố cáo (Khoản 10 Điều 2) Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính (Điều 4), theo đó, quyết định hành chính quyết định bằng
văn bản của quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong
quan hành chính nnước được áp dụng một lần đối với một hoặc một s
đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. N
vậy, khái niệm quyết định hành chính căn cứ theo quy định pháp luật về khiếu
nại, tố cáo được hiểu theo nghĩa hẹp và thỏa mãn những dấu hiệu sau đây:
Một là, quyết định hành chính đó phải văn bản cá biệt: quyết định hành
chính được ban hành nhằm mục đích hướng đến việc các chủ thể pháp luật hành
chính thực hiện được các quyền cũng như nghĩa vtrên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Vì vậy, đây là hoạt động thường xuyên và cũng nhờ có quyết định
này pháp luật được thi hành. Vốn dĩ, một quyết định để áp dụng quy phạm
3
GS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS. Đinh Văn Mậu, Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Giao thông vận tải, 2009,
trang 295.
lOMoARcPSD| 46342985
pháp luật vì thế nó có đặc trưng riêng của một quyết định cá biệt, như: Được áp
dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể. Các quyết định biệt được
ban hành trên sở của quyết định chủ đạo cũng như quyết định quy phạm nhằm
mục đích để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các công việc cụ thể trên từng
lĩnh vực quản hành chính nhà nước. Chính vậy, quyết định biệt sẽ trực
tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật hành chính cụ
thể. Nvậy, quyết định hành chính đối tượng xét xử của Tòa hành chính phải
là quyết định biệt. Tức là, quyết định áp dụng pháp luật vào một trường hợp
cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc nhiều đối tượng khác nhau.
Hai là, quyết định hành chính tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của
công dân. Khi ban hành quyết định hành chính để giải quyết những công việc c
thể trong quản hành chính, để áp dụng pháp luật vào các trường hợp cụ thể.
quan hành chính hoặc người thẩm quyền đã ban hành quyết định hành
chính, nhưng việc ban hành quyết định này đã ảnh hưởng đến quyền lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tức là, làm phát sinh tranh chấp giữa cá nhân, tổ
chức với cơ quan nhà nước về quyết định hành chính.
Ba là, quyết định hành chính phải quyết định hành chính lần đầu. Ngoài
những quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành lần đầu trong khi giải
quyết, xử nhng việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, thì những quyết định
hành chính được ban hành thuộc một trong các trường hợp sau đây cũng được
coi quyết định hành chính lần đầu (Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04
tháng 08 năm 2006).
Như vậy, qua nghiên cứu những dấu hiệu của quyết định hành chính, ta
có thể định nghĩa sơ bộ như sau, quyết định hành chính văn bản áp dụng pháp
luật thể hiện ý chí quyền lực của quan nhà nước, người thẩm quyền theo
quy định của pháp luật hoặc được Nhà nước giao quyền, nhằm định ra chủ
trương, đường lối, nhiệm vụ cụ thể, giao nhiệm vụ cho tổ chức, nhân theo
chức năng, nhiệm vụ để hoàn thành một hoặc một số công việc, mục tiêu quản
lOMoARcPSD| 46342985
lý nhà nước; hoặc đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ các văn bản quản lý nhà nước khác hay
làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng.
1.2. Đặc điểm của Quyết định hành chính
Quyết định hành chính một dạng văn bản quản lý nhà nước, có những
đặc điểm chung của văn bản quản lý nhà nước và những đặc thù riêng như sau:
Thứ nhất, quyết định hành chính văn bản quản nhà nước thể hiện tính
quyền lực của nhà nước do nhân dân uỷ quyền thực hiện. Nó nhằm thể hiện và
thực hiện quyền lực công, quyền lực do nhân dân ủy nhiệm cho các cơ quan nhà
nước theo quy định của pháp luật. Quyết định hành chính giá trị pháp
có hiệu lực bắt buộc thi hành, được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Về mặt pháp lý, quyết định hành chính là loại văn bản hành chính đặc t
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ xã hội hoặc đặt ra các quy định cụ
thể hoá việc thực hiện việc công theo các quy định pháp luật hiện hành (trong
trường hợp cụ thể hoá quy định pháp luật áp dụng đối với loại đối tượng, hành
vi cụ thể). Hiến pháp, các Luật những văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức
hoạt động của các quan nhà nước đều quy định thẩm quyền ban hành quyết
định. Ví dụ, Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 93/2009/NĐCP ngày 22/8/2009 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
pháp quy định thẩm quyền Bộ pháp, Bộ trưởng Bộ pháp trong việc
“ban hành các thông tư, quyết định, chỉ thị về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản
nhà nước của Bộ”.
Như vậy, quyết định do Bộ trưởng Bộ pháp ban hành theo quy định tại
Nghị định số 93/2008/NĐ-CPvăn bản quản lý nhà nước áp dụng trong những
trường hợp nhất định theo thẩm quyền của Bộ trưởng, đó chính quyết định
hành chính. Do đó về thẩm quyền ban hành, quyết định hành chính do Thủ
trưởng các Bộ, quan ngang Bộ, quan thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành ban
hành. khác với các dạng quyết định văn bản quy phạm pháp luật của UBND
do Chủ tịch UBND tham mặt UBND ký ban hành.
lOMoARcPSD| 46342985
Thứ hai, quyết định hành chính mang tính ý chí. biểu hiện bên ngoài
quyền lực của quan quản nhằm hướng tới thiết lập trực tiếp một trật tự pháp
lý theo các văn bản quy phạm pháp luật, quan điểm, chủ trương, chính sách của
cấp trên và mục tiêu hoạt động của cơ quan, đơn vị.
Quyết định hành chính thể hiện ý chí mệnh lệnh của các quan nnước,
người thẩm quyền phục vụ cho những hoạt động của Nhà nước nhằm đạt được
những mục đích công, lợi ích công, bảo vquyền lợi ích hợp pháp của
nhân, tổ chức.
Thứ ba, trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước, quyết định hành chính
văn bản trực tiếp cụ thể hoá, triển khai thực tế các văn bản quy phạm pháp luật
các quyết định lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp thẩm quyền, hiệu
lực thi hành ngay (trừ một số trường hợp đặc biệt do cấp ban hành quy định).
Quyết định hành chính được ban hành để thi hành quyền lực nhà nước hoặc quy
định cụ thể thi hành. Do đó, quyết định hành chính được ban hành phải phù hợp
với nội dung mục đích của luật, không trái với hiến pháp, luật, pháp lệnh và
các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên; sau khi ban hành quyết định hành
chính, không cần văn bản nào quy định hướng dẫn tiếp theo để thi hành. Quyết
định hành chính được ban hành trong phạm vi thẩm quyền của chủ thể ra quyết
định quản lý. Các cơ quan, người thẩm quyền tuyệt đối không được ban hành
những quyết định pháp luật không cho phép, vượt quá phạm vi quyền hạn
được trao, thậm chí không được lẩn tránh và lạm
quyền.
Thứ tư, quyết định hành chính là văn bản có quy định rõ hiệu lực của văn
bản. Quyết định hành chính hiệu lực thi hành kể từ thời điểm ban hành nếu
không có quy định cụ thể khác. Quyết định hành chính là văn bản áp dụng pháp
luật nên hiệu lực của văn bản là ngay sau khi quyết định được ký ban hành, trừ
một số trường hợp đặc thù do người thẩm quyền ban hành quy định cụ thể
trong văn bản.
lOMoARcPSD| 46342985
Thứ năm, đối tượng áp dụng của quyết định hành chính những cá nhân,
tổ chức cụ thể đối với trường hợp quyết định biệt - đặc điểm này bảo đảm cho
quyết định cá biệt có thể thi hành ngay mà không cần chỉ đạo khác của cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền; nhóm đối tượng cụ thể thuộc thẩm quyền quản lý hành
chính của quan, tchức (thường trong nội bộ quan, tổ chức) đối với các
quyết định chứa đụng quy phạm nội bộ (như quy định, quy chế) - đặc điểm này
cho phép khi ban hành, quyết định hành chính thể tổ chức thi hành ngay
không cần hướng dẫn khác.
Xét về mặt lợi ích quản nhà nước, quyết định hành chính được ban hành
phải xuất phát từ chính lợi ích thiết thực của người dân, đặc biệt người dân lao
động. Các quan nhà nước, người thẩm quyền chỉ được ban hành quyết định
hành chính để giải quyết nhng vấn đề xã hội một cách khách quan, khoa học,
tránh tuỳ tiện, chủ quan duy ý chí.
Thứ sáu, trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành, hình thức của quyết định
hành chính tuân theo các quy định của luật pháp quy định, quy trình nội bộ
xây dựng văn bản của cơ quan, đơn vị. Quyết định hành chính phải bảo đảm kỹ
thuật lập quy, tức là ngôn ngữ, văn phong, cách tnh bày phải ràng, dể hiểu,
ngắn ngọn, chính xác, không đa nghĩa, kết cấu ổn định. Quy trình xây dựng các
quyết định hành chính cơ bản được thống nhất song cũng vẫn tuỳ thuộc vào loại
văn bản và thẩm quyền ban hành. Đặc điểm này là yêu cầu cơ bản, bảo đảm tính
hợp pháp và hiệu lực của văn bản hành chính.
Do tầm quan trọng của loại văn bản, quyết định hành chính mặc dù là văn
bản áp dụng pháp luật song cấu, thể thức rất ràng, cụ thể như văn bản
quy phạm pháp luật (Căn cứ ban hành, cơ cấu văn bản: điều, khoản). cấu, thể
thức này thtính tính chặt chẽ về thẩm quyền ban hành, khả năng thực thi quyền
lực nhà nước.
Nhìn chung, quyết định hành chính thường mang một số yếu tố nổi bật đó
là yếu tố pháp lý bảo đảm trực tiếp chức năng quản lý nhà nước của cơ quan, cá
nhân được Nhà nước giao quyền; kết cấu, quy trình ban hành Quyết định thể
lOMoARcPSD| 46342985
hiện tính chặt chẽ, bài bản trong số các loại văn bản hành chính, bảo đảm sự điều
hành, lãnh đạo các lĩnh vực quản lý nhà nước, kinh tế, văn hoá, xã hội.
2. Phân biệt Quyết định hành chính trong hệ thống các văn bản quản
lý nhà nước
Việc xác định mối quan hệ giữa văn bản quản nhà nước với các loại văn
bản khác có một ý nghĩa quan trọng trong việc phân định thẩm quyền ban hành,
điều kiện ban hành trình tự, thủ tục xây dựng. Điều này sẽ cho phép người
soạn thảo, ban hành và thực hiện văn bản có thể phân định chính xác chức năng
cụ thể của từng loại văn bản, sử dụng quy trình soạn thảo, hình thức, văn phong
và tổ chức thực hiện thích hợp.
2.1. Phân biệt Quyết định hành chính với cách văn bản áp dụng
với văn bản quy phạm pháp luật
a) Trong thực tiễn quản lý nhà nước hiện nay, để phân biệt những văn bản
quy phạm pháp luật với những văn bản áp dụng pháp luật, người ta căn cứ vào
các quy định hiện hành của pháp luật. Đây điểm tiến bộ của pháp luật Việt
Nam, tuy còn một số hạn chế trong việc phân định loại văn bản, thẩm quyền ban
hành song cũng đã tạo ra sự thống nhất của cả hệ thống pháp luật. Căn cứ Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 24/2009/NĐCP, văn bản
quy phạm pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau:
- chứa quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung),là những quy tắc xử sự được ban hành không phải cho một cho một
trường hợp cụ thể, những tổ chức hay cá nhân cụ thể, mà cho tất cả các trường
hợp đối với tất cả những tổ chức hay nhân phải thực hiện khi gặp phải
những tình huống mà pháp luật đã dự liệu. Do vậy, văn bản quy phạm pháp luật
được thực hiện nhiều lần trong đời sống khi xảy ra tình huống mà pháp luật đã
dự liệu. Đây là đặc điểm thể hiện sự khác biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật
với các văn bản khác của Nhà nước như văn bản áp dụng pháp luật, văn bản giao
dịch hành chính… các văn bản không chứa quy phạm pháp luật nên không
phải là văn bản quy phạm pháp luật.
lOMoARcPSD| 46342985
- Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực
hiệntheo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ, thống nhất. Tầm quan trọng của văn
bản quy phạm pháp luật như đã nêu ở đặc điểm trên dẫn đến các nhà nước hiện
đại quy định rất chặt chẽ thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức, nội dung của
văn bản quy phạm pháp luật được phép ban hành cho các tổ chức nhân
(các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
- Ngoài ra, văn bản quy phạm pháp luật còn các đặc trưng khác
như:
do quan nhà nước người thẩm quyền ban hành theo Luật định; được nhà
nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp quản lý nhà nước.
b) Xuất phát từ các đặc trưng của quyết định hành chính văn bản quy
phạm pháp luật nêu trên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản
hành chính, yêu cầu về sự cần thiết phân biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật
quyết định hành chính quy định nội bộ, quy định ban hành quy chế luôn được
đặt ra. Đối với các dạng quyết định cá biệt khác, việc phân định là rõ ràng theo
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 24/2009/NĐCP
Thông tư số 01/2011/TT-BNV.
- Quyết định chứa đựng quy định nội bộ là văn bản quy định quy tắc
giảiquyết công việc trong nội bộ quan, quy định quy chế làm việc của
quan, đặc biệt là các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cấu tổ chức của các đơn vị thuộc Bộ hoặc đơn vị cấp phòng. Về bản chất, các
quyết định này cũng chứa đựng những quy tắc xử sự chung như văn bản quy
phạm pháp luật nhưng phạm vi thực hiện chỉ trong nội bộ quan, đơn vị, để
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trên đó (ví dụ như Luật Thi hành án dân
sự, Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) hoặc yêu cầu quản lý, vận hành trong nội bộ
quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ trưởng quan, đơn
vị. Quyết định khi ban hành cần căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật hoặc
văn bản chỉ đạo của cấp thẩm quyền. dụ, căn cứ Nghị định số
178/2007/NĐCP ngày 03/12/2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Bộ, quan ngang Bộ (Điều 11 khoản 4
lOMoARcPSD| 46342985
quy định thẩm quyền của Bộ trưởng “quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
cấu tchức của vụ, cục…”), Bộ trưởng Bộ pháp đã ban hành 29 Quyết
định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của 29 đơn vị thuộc Bộ (trừ Tổng
cục Thi hành án dân sự do Thủ tướng Chính phủ quyết định). Do đó, người ta
còn gọi quyết định văn bản quy phạm pháp luật phụ, hoặc còn được gọi
văn bản chuyển đổi.
- Điểm khác biệt căn bản tiếp theo là, các văn bản quy phạm pháp
luậtcủa Bộ gồm có Thông tư, Thông tư liên tịch là các văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn việc thực hiện các luật, pháp lệnh, nghị định của Quốc hội, Chính
phủ, áp dụng thống nhất trong lĩnh vực quản nhà nước của ngành hoặc giữa
các ngành liên quan. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:
Điều 16 quy định Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:
“1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước,
nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
2. Quy định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế -
kỹthuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách;
3. Quy định biện pháp để thực hiện chức ng quản ngành, lĩnh
vựcdo mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao.”
Điều 20 quy định Thông tư liên tịch ban hành trong các trường hợp sau:
“2. Thông liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng quan
ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong
hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan đó.
3. Thông liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng quan ngang bộ
được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46342985
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
THỰC TIỄN VỀ VIỆC BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
BỘ TƯ PHÁP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chủ nhiệm đề tài: Đồng Ngọc Ba
Thư ký đề tài: Trần Hoàng Hưng HÀ NỘI – 2011 lOMoAR cPSD| 46342985
DANH SÁCH BAN CHỦ NHIỆM VÀ CỘNG TÁC VIÊN
A. Ban Chủ nhiệm đề tài: 1.
Tiến sỹ Đồng Ngọc Ba - Phó Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quyphạm
pháp luật, Bộ Tư pháp, Chủ nhiệm đề tài; 2.
Thạc sỹ Trần Hoàng Hưng - Trưởng phòng Tổng hợp, Văn phòng BộTư pháp, Thư ký đề tài.
B. Cộng tác viên chính của đề tài: 1.
Tiến sỹ Đỗ Đức Hồng Hà - Phó trưởng Ban Thư ký, Văn phòng Bộ Tưpháp; 2.
Đồng chí Nguyễn Đình Thơ - Chuyên viên Phòng Rà soát, Hệ thốnghoá
văn bản, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp; 3.
Đồng chí Lê Vân Anh - Chuyên viên Phòng Tổng hợp, Văn phòng BộTư pháp; 4.
Đồng chí Nguyễn Duy Thắng - Chuyên viên Phòng Tổng hợp, Vănphòng Bộ Tư pháp; 5.
Đồng chí Trần Thu Giang - Chuyên viên Phòng Rà soát, hệ thống hoávăn
bản, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp; 6.
Đồng chí Nguyễn Ngọc Quang - Chuyên viên Vụ Pháp luật hình sự hành chính, Bộ Tư pháp; 7.
Đồng chí Vũ Hồng Dương - Thư ký Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính; 8.
Đồng chí Nguyễn Thị Hoàng Giang - Chuyên viên Phòng Tổ chức bộmáy,
Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp; 9.
Đồng chí Trần Thị Diệu Thuý - Chuyên viên Phòng Kế hoạch, Thốngkê,
Vụ Kế hoạch - Tài chính;
10. Đồng chí Trần Thị Mai Hương - Chuyên viên Phòng Kế hoạch, Thốngkê,
Vụ Kế hoạch - Tài chính;
11. Đồng chí Nguyễn Quỳnh Giang - Chuyên viên Phòng Tổng hợp, Vănphòng Bộ Tư pháp. lOMoAR cPSD| 46342985 MỤC LỤC
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH...................................................................1
Phần thứ nhất: TÍNH CẤP THIẾT, PHƯƠNG PHÁP, MỤC TIÊU
VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI......................................................1
Phần thứ hai: KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI..................................5
Chuyên đề 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của quyết định hành
chính........................................................................................................56
Chuyên đề 2: Các loại quyết định hành chính thuộc thẩm quyền ban hành
của các bộ, ngành...........................................................................63
Chuyên đề 3: Kinh nghiệm một số bộ, ngành về xây dựng, ban hành và
triển khai thực hiện các quyết định hành chính..................................72 Chuyên
đề 4: Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính của Bộ
Tư pháp...................................................................................................78
Chuyên đề 5: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, ban
hành và thực hiện quyết định hành chính tại các đơn vị đào tạo
.................................................................................................................88
Chuyên đề 6: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, ban
hành và thực hiện quyết định hành chính tại các đơn vị báo chí, xuất
bản............................................................................................94
Chuyên đề 7: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, ban
hành và thực hiện quyết định hành chính tại các đơn vị hành chính thuộc Bộ Tư
pháp........................................................................104
Chuyên đề 8: Thực trạng và giải pháp đảm bảo hiệu quả kiểm tra, giám sát
việc ban hành, thực hiện quyết định hành chính tại cơ quan Bộ
Tư pháp.................................................................................................120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................136 lOMoAR cPSD| 46342985 BÁO CÁO PHÚC TRÌNH Phần thứ nhất:
TÍNH CẤP THIẾT, PHƯƠNG PHÁP, MỤC TIÊU
VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. Tính cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay,
việc ban hành, thực hiện quyết định hành chính là một trong những vấn đề quan trọng
được nhà nước và xã hội quan tâm; đây là cầu nối giữa quy phạm pháp luật và thực
hiện pháp luật, do đó yêu cầu xây dựng, ban hành quyết định hành chính phải đảm
bảo độ chính xác cao, vừa hợp pháp, vừa đảm bảo sự phù hợp với thực tế áp dụng.
Qua việc đánh giá, sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ
Chính trị, cho thấy bước đầu các cơ quan, ban ngành đã thực hiện cơ bản thống nhất
việc ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng
chồng chéo giữa các loại văn bản, thẩm quyền ban hành; trong đó, văn bản hành chính
chứa đựng quy phạm pháp luật là hiện tượng không hiếm thấy.
Thực tế cho thấy, hoạt động xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các
quyết định hành chính tại cơ quan Bộ Tư pháp đang còn nhiều vướng mắc, bất cập như:
Một là, hình thức văn bản còn thiếu thống nhất, nhiều trường hợp chưa phân
biệt khi nào ban hành quyết định, khi nào ban hành Công văn chỉ đạo thực hiện; có
trường hợp chưa phân định được văn bản hành chính thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng
và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ.
Hai là, quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính còn thiếu thống
nhất, chưa có quy trình áp dụng riêng cho loại văn bản này.
Ba là, việc kiểm tra thực hiện quyết định hành chính chưa được bảo đảm tính nghiêm minh.
Với chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật,
kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật… Bộ Tư pháp cần phải tuân thủ chặt lOMoAR cPSD| 46342985
chẽ quy trình xây dựng, thẩm quyền ban hành, thể thức quyết định hành chính. Trong
điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu Đề tài khoa học cấp cơ sở về: “Thực tiễn về việc
ban hành quyết định hành chính ở Bộ Tư pháp và giải pháp hoàn thiện” có ý nghĩa
quan trọng, nhất là về thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
II. Tình hình nghiên cứu
Thực trạng nghiên cứu thuộc lĩnh vực nêu trên cho thấy, đã có một số công
trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề quyết định hành chính, ví dụ như: Giáo trình Luật
Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Hành chính Quốc gia, các
Tạp chí trong và ngoài nước đã có nhiều bài viết liên quan. Tuy nhiên, những công
trình nêu trên mới tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, đánh giá chung về việc ban
hành quyết định hành chính, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo quyết định
hành chính; chưa có những đánh giá, phân loại chi tiết quyết định hành chính trong một cơ quan Bộ.
Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc nêu trên, Ban Chủ nhiệm đề tài đã
phối hợp chặt chẽ với các cộng tác viên, các đơn vị thuộc Bộ nghiên cứu, rà soát,
đánh giá và thống kê số liệu ban hành Quyết định hành chính trong cơ quan Bộ từ
năm 2008 đến tháng 12/2010 để hoàn thành kết quả nghiên cứu đề tài cấp cơ sở.
Quá trình nghiên cứu được tổ chức thực hiện công phu, có sự phối hợp nghiên
cứu, đánh giá của nhiều đơn vị, cá nhân để bảo đảm tính khách quan, khoa học của đề tài.
III. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua các hoạt động nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tế để tìm ra những
hạn chế, bất cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong hoạt động xây dựng,
ban hành, kiểm tra quyết định hành chính; thực hiện và giám sát việc thực hiện quyết
định hành chính của cơ quan Bộ Tư pháp, Đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy
trình xây dựng, ban hành và thực hiện quyết định hành chính trong cơ quan Bộ Tư
pháp; phân định rõ quyết định hành chính với văn bản quy phạm pháp luật nội bộ, các
văn bản áp dụng khác trong cơ quan Bộ Tư pháp. lOMoAR cPSD| 46342985
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài xác định các nhiệm vụ cần thực hiện gồm: -
Làm rõ những vấn đề lý luận về ban hành, thực hiện và cơ chế giám
sátviệc thực hiện quyết định hành chính của cơ quan nhà nước trong giai đoạn hiện nay; -
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, bấtcập
trong hoạt động xây dựng, ban hành, kiểm tra quyết định hành chính, thực hiện và
giám sát việc thực hiện quyết định hành chính của cơ quan Bộ Tư pháp; -
Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệuquả
xây dựng, banh hành và thực hiện Quyết định hành chính tại cơ quan Bộ Tư pháp.
V. Phương pháp thực hiện đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
những luận cứ khoa học đã được thừa nhận và đồng thời sử dụng nhiều phương pháp cụ thể sau: -
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá thực trạng,đề
xuất giải pháp hoàn thiện quá trình xây dựng, ban hành, thực hiện và kiểm tra, giám
sát việc thực hiện quyết định hành chính trong cơ quan Bộ Tư pháp. -
Phương pháp khảo sát, thống kê: khảo sát ý kiến công chức, viên chứccơ
quan Bộ Tư pháp; thu thập, thống kê, phân loại số liệu về quyết định hành chính trong cơ quan Bộ Tư pháp.
VI. Những đóng góp của đề tài
Với mục tiêu đề tài đã đề ra, kết quả của đề tài sẽ là căn cứ quan trọng cho việc
đề xuất phân định thẩm quyền, phân chia quyết định hành chính và các văn bản khác
thuộc thẩm quyền ban hành của Lãnh đạo Bộ, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ trong
quá trình chỉ đạo, điều hành công tác của Bộ. Qua đó góp phần bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống văn bản áp dụng pháp luật. lOMoAR cPSD| 46342985
Phần thứ hai: KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG CƠ QUAN BỘ TƯ PHÁP
1. Lý luận về văn bản quản lý nhà nước, quyết định hành chính 1.1. Khái niệm
a) Theo nghĩa chung nhất, văn bản là vật mang tin được ghi bằng ký hiệu
ngôn ngữ. Vật mang tin ở đây được thể hiện rộng rãi dưới nhiều hình thức qua
quá trình phát triển của loài người, đó có thể là phiến đá, xương, thanh tre, da
động vật ở các thời kỳ trước và hình thức phổ biến nhất hiện nay là giấy, các
hình thức đã và sẽ được ứng dụng trong thời kỳ tới như văn bản điện tử... Khái
niệm Ký hiệu ngôn ngữ được hiểu là các loại chữ dùng để thể hiện ngôn ngữ của
con người, ví như chữ Quốc ngữ, chữ Nôm, chứ Hán, chữ tiếng Việt… Như vậy,
văn bản nói chung là một phương tiện ghi tin và truyền đạt thông tin bằng một
ngôn ngữ (hay dấu hiệu, ký hiệu) nhất định, thể hiện một lượng thông tin cần
thiết cho hoạt động của con người, tổ chức, cũng như cho quản lý xã hội.
Theo nghĩa hẹp, văn bản là các công văn, giấy tờ hình thành trong quá
trình quản lý của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể; theo đó, công văn là những văn
bản trình bày việc công; giấy tờ là những văn bản không theo một khuôn mẫu
nhất định, nhưng nó lại phục vụ cho hoạt động quản lý của cơ quan (ví dụ như:
lý lịch cá nhân, đơn thư trình bày, sổ ghi chép công việc, các chứng từ, giấy biên
nhận…). Thực tế hoạt động của các cơ quan, tổ chức hiện nay, các loại công văn,
giấy tờ đều được mẫu hoá theo quy trình chặt chẽ hoặc tự nguyện để bảo đảm sự
thống nhất trong quản lý, sử dụng và tổ chức thực hiện.
Đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, các loại văn bản được quản lý
chặt chẽ cả về hình thức, kết cấu và nội dung. Chính yêu cầu về sự thống nhất,
hiệu lực, hiệu quả và kịp thời trong quản lý nhà nước đã dẫn đến những cải cách
chuẩn hoá theo hướng quy phạm hệ thống văn bản của nhà nước với yêu cầu về
thể thức, kỹ thuật trình bày và quy trình ban hành chặt chẽ hơn hẳn so với các
văn bản khác của tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hoặc cá nhân. Văn bản quản lý
nhà nước cũng đã được chia theo lĩnh vực quản lý, thẩm quyền ban hành nên có lOMoAR cPSD| 46342985
những hình thức và nội dung khác nhau, có giá trị và công dụng khác nhau. Ngày
nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, con người có nhiều
công cụ giao tiếp mới, hiện đại, song văn bản vẫn là công cụ giao tiếp phổ biến
có giá trị lưu giữ các thông tin, quyết định chính thức của một chủ thể xã hội,
qua đó thúc đẩy các hành vi. Cho đến ngày nay, chưa có công cụ nào thay thế
được hình thức văn bản, nhất là đối với những vấn đề lớn, hệ trọng của xã hội,
nhà nước và tổ chức, cá nhân.
Trong Hành chính học, văn bản được sử dụng trong cơ quan nhà nước
được gọi chung là văn bản quản lý nhà nước, đó là văn bản hình thành trong hoạt
động quản lý của các cơ quan nhà nước theo đúng thể thức, thẩm quyền và thủ
tục được luật pháp quy định. Loại văn bản này còn được gọi là văn bản hành
chính. Văn bản quản lý nhà nước hình thành trong hoạt động quản lý của các cơ
quan tổ chức, v.v., nhưng không phải bất cứ văn bản, tài liệu nào được sử dụng
trong các cơ quan đều là văn bản quản lý nhà nước. Đặc trưng nổi bật của văn
bản quản lý nhà nước là hiệu lực pháp lý của chúng trong quá trình quản lý nhà
nước. Nó cho phép xác định mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng
quản lý như giữa cơ quan quản lý và cơ quan bị quản lý, giữa các cơ quan có liên
quan trong bộ máy quản lý nhà nước nói chung; giữa cơ quan nhà nước và cá
nhân, tổ chức. Đặc trưng này làm cho văn bản quản lý nhà nước khác tài liệu
tham khảo chẳng hạn, mà người lãnh đạo sử dụng để thu thập thông tin theo nhu
cầu công việc hay nhu cầu hiểu biết. Các văn bản tham khảo không có đặc trưng
pháp lý như vậy. Các văn bản quản lý nhà nước mang tính quyền lực theo luật
định. Văn bản quản lý nhà nước có thể thức riêng, được quy định bởi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Sự hình thành các văn bản quản lý nhà nước được thực
hiện theo một quy trình xác định.
Trong quản lý nhà nước, loại văn bản có giá trị cao nhất về hiệu lực tác
động, chức năng, vị trí, vai trò trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước… là văn
bản quy phạm pháp luật. Đó là văn bản do Nhà nước ban hành, chứa đựng quy
tắc xử sự chung (còn được gọi là quy phạm pháp luật), có hiệu lực bắt buộc lOMoAR cPSD| 46342985
chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội1.
Văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
Nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận từ những tập quán, quy định
đã tồn tại trước đó trong xã hội. Hiện nay ở Việt Nam, việc xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (năm 2008) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (năm 2004).
Song song với hình thức văn bản quy phạm pháp luật, các hình thức văn
bản hành chính được quy định tại Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004
của Chính phủ về công tác văn thư. Cụ thể, Điều 4 (khoản 2, 3, 4) của Nghị định
quy định về hình thức văn bản và các tài liệu khác hình thành trong quá trình
hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và đơn vị vũ trang
nhân dân, trong đó quy định các văn bản hành chính bao gồm: “Quyết định (cá
biệt), chỉ thị (cá biệt), thông cáo, thông báo, chương trình, kế hoạch, phương án,
đề án, báo cáo, biên bản, tờ trình, hợp đồng, công văn, công điện, giấy chứng
nhận, giấy ủy nhiệm, giấy mời, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giấy đi đường,
giấy biên nhận hồ sơ, phiếu gửi, phiếu chuyển (23 loại văn bản), và các văn bản
chuyên ngành do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan quản lý ngành quy định sau
khi thoả thuận thống nhất với Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Đối với hình thức văn bản
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội do người đứng đầu cơ quan Trung
ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội quy định.
Văn bản quản lý nhà nước là phương tiện để xác định các chuẩn mực
chung vào quá trình quản lý nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
định ra theo một trình tự, thủ tục và hình thức nhất định do pháp luật quy định,
để tổ chức các hoạt động quản lý của Nhà nước, cũng như giải quyết các công
việc liên quan đến cá nhân, tổ chức. Các văn bản quản lý nhà nước giúp cho đối
tượng quản lý căn cứ vào đó mà thực hiện. Đồng thời, đó cũng là tiêu chí để cơ
1 Trích: Khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. lOMoAR cPSD| 46342985
quan nhà nước và người có thẩm quyền kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của
các đối tượng và tùy theo đó mà xử lý theo pháp luật khi đối tượng vi phạm văn
bản quản lý. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được phân công, các cơ quan quản
lý nhà nước từ trung ương đến địa phương đều sử dụng các văn bản quản lý với
tư cách là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và
thẩm quyền được giao. Nói cách khác, văn bản quản lý nhà nước là phương tiện
quan trọng để bảo đảm thông tin cho quản lý, nó phản ánh kết quả hoạt động
quản lý cơ quan, giúp cho ta thấy được sản phẩm của hoạt động đặc thù này.
Tóm lại, văn bản quản lý nhà nước là loại văn bản không chỉ phản ánh
thông tin quản lý mà còn thể hiện ý chí, mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước
đối với đối tượng quản lý nhằm hiện thực hóa các quy định, luật lệ của Nhà nước;
là phương tiện để điều chỉnh những quan hệ xã hội thuộc phạm vi quản lý của
Nhà nước. Các văn bản hình thành trong hoạt động quản lý và lãnh đạo nói chung
(gọi là văn bản quản lý nhà nước) là phương tiện quan trọng để ghi lại và truyền
đạt các quyết định quản lý hoặc các thông tin cần thiết hình thành trong quá trình
quản lý của các cơ quan nhà nước.
Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19/4/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính (thay thế phần quy định về
văn bản hành chính trong Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNVVPCP ngày
06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn thể thức và kỹ
thuật trình bày văn bản hành chính) đã tổng hợp 35 loại văn bản hành chính chủ
yếu được ban hành trong các cơ quan nhà nước gồm: Nghị quyết (cá biệt); Quyết
định (cá biệt); Chỉ thị (cá biệt); Quy chế; Quy định; Thông cáo; Thông báo;
Hướng dẫn; Chương trình; Kế hoạch; Phương án; Đề án; Dự án; Báo cáo;
Biên bản; Tờ trình; Hợp đồng; Công văn; Công điện; Bản ghi nhớ; Bản Cam kết;
Bản thoả thuận; Giấy chứng nhận; Giấy uỷ quyền; Giấy mời; Giấy giới thiệu;
Giấy nghỉ phép; Giấy đi đường; Giấy biên nhận; Hồ sơ; Phiểu chuyển; Thư công;
Bản sao y bản chính; Bản trích sao; Bản sao lục. lOMoAR cPSD| 46342985
Triển khai thực hiện Thông tư số 01/2011/TT-BNV (trước đây là Thông
tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP), các Quyết định được ban hành trong
cơ quan Bộ Tư pháp bao gồm các Quyết định (cá biệt); Quy chế, Quy định,
Chương trình, Kế hoạch (việc ban hành có thể dưới dạng Quyết định ban hành
(phê duyệt) Kế hoạch hoặc Kế hoạch riêng), Đề án. Trước ngày 01/01/2009
Quyết định do cơ quan Bộ ban hành còn bao gồm cả các quyết định là văn bản
quy phạm pháp luật, song từ ngày 01/01/2009 khi Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực, các quyết định do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hoặc
các đơn vị trực thuộc ban hành chỉ là văn bản hành chính nhà nước. Do đó, các
quyết định trên đều là văn bản hành chính nhà nước thể hiện dưới dạng quyết
định hay gọi chung là Quyết định hành chính.
Văn bản hành chính nhà nước mang tính quyền lực do các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các văn bản
do cấp có thẩm quyền ban hành, nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý
cụ thể của các cá nhân, tổ chức hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp
lý đối với người vi phạm pháp luật, do đó nó còn được gọi là văn bản áp dụng
pháp luật, văn bản cá biệt. Đây là các văn bản mang tính cá biệt, chỉ áp dụng một
lần như quyết định bổ nhiệm, nâng bậc lương, khen thưởng, kỷ luật; quyết định
xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định
để hoàn thành một công việc nhất định như quyết định ban hành chương trình, kế hoạch, đề án.
b) Trong các loại văn bản hành chính nhà nước, Quyết định quản lý nhà
nước phản ánh trực tiếp ý chí của Nhà nước và là phương tiện quan trọng để các
cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện thẩm quyền của mình. Hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào nội dung và chất lượng của các quyết
định quản lý nhà nước. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, quyết định quản lý nhà nước
là bất cứ hình thức nào mà nhà quản lý sử dụng để biểu đạt quyền lực của mình,
buộc các đối tượng quản lý phải thực hiện; ngoài hình thức văn bản ra, nó còn lOMoAR cPSD| 46342985
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác như: nói, hành vi, tín hiệu, ký hiệu, biển báo, ám hiệu2, v.v..
Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều cách phân loại quyết định quản
lý nhà nước, như căn cứ vào tính chất pháp lý, vào cơ quan ban hành, trình tự
ban hành, hình thức ban hành, v.v.. Nếu căn cứ vào tính chất pháp lý thì quyết
định quản lý nhà nước được phân chia thành: quyết định là văn bản quy phạm
pháp luật (đối với UBND các cấp) hoặc quyết định quy định nội bộ (hay còn gọi
là quyết định chứa đựng quy phạm nội bộ) và quyết định cá biệt. Trong hoạt
động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, quyết định quy định nội bộ
và quyết định cá biệt còn được gọi chung là quyết định hành chính, vì nó được
sử dụng để điều hành hoạt động hành chính nhà nước.
Trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài này, nhóm tác giả chỉ nghiên cứu
Quyết định quản lý nhà nước là một dạng văn bản quản lý dưới hình thức Quyết
định hành chính như đã phân tích ở mục I.1.1.a nêu trên.
Hoạt động của các cơ quan nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực
pháp lý, nhân danh nhà nước, thể hiện ý chí nhà nước. Do đó, mặc dù còn tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau xung quanh khái niệm quyết định hành chính, nhưng
có thể thấy rằng các quan điểm đều có một điểm chung căn bản nhất đó là tính
quyền lực nhà nước, tính pháp lý. Quyết định hành chính sẽ làm phát sinh thay
đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật; công bố, ban hành, bãi bỏ, huỷ bỏ văn
bản quy phạm pháp luật hoặc làm thay đổi thời gian hiệu lực pháp lý của chúng;
đặt ra những quy phạm nội bộ, quy trình hoặc quy chế hoạt động trong nội bộ cơ
quan, đơn vị, tổ chức; đề ra những chủ trương và giải pháp thực hiện chính sách,
nhiệm vụ của hoạt động quản lý nhà nước (Chương trình, Chương trình hành
động). Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những người có chức vụ hoặc cơ
quan, tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, thường xuyên ban hành
2 Những hình thức này chỉ được áp dụng trong những trường hợp cụ thể ở một số loại hình cơ quan, đơn vị và người có thẩm quyền. lOMoAR cPSD| 46342985
quyết định hành chính để chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức
năng quản lý được giao.
Quyết định hành chính được hiểu trong Từ điển giải thích từ ngữ luật học
của Nhà Xuất bản Công an nhân dân năm 1999 là kết quả sự thể hiện ý chí quyền
lực đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những người có chức vụ,
các tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền, thực hiện trên cơ sở và để thi
hành pháp luật, theo trình tự và hình thức do pháp luật quy định hướng tới việc
thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính trong lĩnh vực hoặc vấn đề được phân
công phụ trách. Căn cứ theo tính chất pháp lý, quyết định hành chính thuộc thẩm
quyền ban hành của Bộ trưởng “được dùng để ban hành các chế độ, thể lê thuộc
lĩnh vực công tác của ngành; quy định thành lập (giải thể) cơ quan, đơn vị thuộc
quyền và chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của các cơ quan,
đơn vị đó; bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên trong ngành theo
quyền hạn được giao, phê chuẩn các kế hoạch, phương án kinh tế kỹ thuật”3.
Về mặt pháp lý, định nghĩa quyết định hành chính được quy định trong
Luật Khiếu nại, tố cáo (Khoản 10 Điều 2) và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính (Điều 4), theo đó, quyết định hành chính là quyết định bằng
văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số
đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Như
vậy, khái niệm quyết định hành chính căn cứ theo quy định pháp luật về khiếu
nại, tố cáo được hiểu theo nghĩa hẹp và thỏa mãn những dấu hiệu sau đây:
Một là, quyết định hành chính đó phải là văn bản cá biệt: quyết định hành
chính được ban hành nhằm mục đích hướng đến việc các chủ thể pháp luật hành
chính thực hiện được các quyền cũng như nghĩa vụ trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Vì vậy, đây là hoạt động thường xuyên và cũng nhờ có quyết định
này mà pháp luật được thi hành. Vốn dĩ, là một quyết định để áp dụng quy phạm
3 GS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS. Đinh Văn Mậu, Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Giao thông vận tải, 2009, trang 295. lOMoAR cPSD| 46342985
pháp luật vì thế nó có đặc trưng riêng của một quyết định cá biệt, như: Được áp
dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể. Các quyết định cá biệt được
ban hành trên cơ sở của quyết định chủ đạo cũng như quyết định quy phạm nhằm
mục đích để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các công việc cụ thể trên từng
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Chính vì vậy, quyết định cá biệt sẽ trực
tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật hành chính cụ
thể. Như vậy, quyết định hành chính là đối tượng xét xử của Tòa hành chính phải
là quyết định cá biệt. Tức là, quyết định áp dụng pháp luật vào một trường hợp
cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc nhiều đối tượng khác nhau.
Hai là, quyết định hành chính tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của
công dân. Khi ban hành quyết định hành chính để giải quyết những công việc cụ
thể trong quản lý hành chính, để áp dụng pháp luật vào các trường hợp cụ thể.
Cơ quan hành chính hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành
chính, nhưng việc ban hành quyết định này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tức là, làm phát sinh tranh chấp giữa cá nhân, tổ
chức với cơ quan nhà nước về quyết định hành chính.
Ba là, quyết định hành chính phải là quyết định hành chính lần đầu. Ngoài
những quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành lần đầu trong khi giải
quyết, xử lý những việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, thì những quyết định
hành chính được ban hành thuộc một trong các trường hợp sau đây cũng được
coi là quyết định hành chính lần đầu (Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 08 năm 2006).
Như vậy, qua nghiên cứu những dấu hiệu của quyết định hành chính, ta
có thể định nghĩa sơ bộ như sau, quyết định hành chính là văn bản áp dụng pháp
luật thể hiện ý chí quyền lực của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật hoặc được Nhà nước giao quyền, nhằm định ra chủ
trương, đường lối, nhiệm vụ cụ thể, giao nhiệm vụ cho tổ chức, cá nhân theo
chức năng, nhiệm vụ để hoàn thành một hoặc một số công việc, mục tiêu quản lOMoAR cPSD| 46342985
lý nhà nước; hoặc đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ các văn bản quản lý nhà nước khác hay
làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng.
1.2. Đặc điểm của Quyết định hành chính
Quyết định hành chính là một dạng văn bản quản lý nhà nước, có những
đặc điểm chung của văn bản quản lý nhà nước và những đặc thù riêng như sau:
Thứ nhất, quyết định hành chính là văn bản quản lý nhà nước thể hiện tính
quyền lực của nhà nước do nhân dân uỷ quyền thực hiện. Nó nhằm thể hiện và
thực hiện quyền lực công, quyền lực do nhân dân ủy nhiệm cho các cơ quan nhà
nước theo quy định của pháp luật. Quyết định hành chính có giá trị pháp lý và
có hiệu lực bắt buộc thi hành, được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Về mặt pháp lý, quyết định hành chính là loại văn bản hành chính đặc thù
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ xã hội hoặc đặt ra các quy định cụ
thể hoá việc thực hiện việc công theo các quy định pháp luật hiện hành (trong
trường hợp cụ thể hoá quy định pháp luật áp dụng đối với loại đối tượng, hành
vi cụ thể). Hiến pháp, các Luật và những văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước đều quy định thẩm quyền ban hành quyết
định. Ví dụ, Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 93/2009/NĐCP ngày 22/8/2009 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Tư pháp quy định thẩm quyền Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc
“ban hành các thông tư, quyết định, chỉ thị về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản
lý nhà nước của Bộ”.
Như vậy, quyết định do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành theo quy định tại
Nghị định số 93/2008/NĐ-CP là văn bản quản lý nhà nước áp dụng trong những
trường hợp nhất định theo thẩm quyền của Bộ trưởng, đó chính là quyết định
hành chính. Do đó về thẩm quyền ban hành, quyết định hành chính do Thủ
trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành ban
hành. Nó khác với các dạng quyết định là văn bản quy phạm pháp luật của UBND
do Chủ tịch UBND tham mặt UBND ký ban hành. lOMoAR cPSD| 46342985
Thứ hai, quyết định hành chính mang tính ý chí. Nó biểu hiện bên ngoài
quyền lực của cơ quan quản lý nhằm hướng tới thiết lập trực tiếp một trật tự pháp
lý theo các văn bản quy phạm pháp luật, quan điểm, chủ trương, chính sách của
cấp trên và mục tiêu hoạt động của cơ quan, đơn vị.
Quyết định hành chính thể hiện ý chí mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước,
người thẩm quyền phục vụ cho những hoạt động của Nhà nước nhằm đạt được
những mục đích công, lợi ích công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước, quyết định hành chính
là văn bản trực tiếp cụ thể hoá, triển khai thực tế các văn bản quy phạm pháp luật
và các quyết định lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp có thẩm quyền, có hiệu
lực thi hành ngay (trừ một số trường hợp đặc biệt do cấp ban hành quy định).
Quyết định hành chính được ban hành để thi hành quyền lực nhà nước hoặc quy
định cụ thể thi hành. Do đó, quyết định hành chính được ban hành phải phù hợp
với nội dung và mục đích của luật, không trái với hiến pháp, luật, pháp lệnh và
các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên; sau khi ban hành quyết định hành
chính, không cần có văn bản nào quy định hướng dẫn tiếp theo để thi hành. Quyết
định hành chính được ban hành trong phạm vi thẩm quyền của chủ thể ra quyết
định quản lý. Các cơ quan, người có thẩm quyền tuyệt đối không được ban hành
những quyết định mà pháp luật không cho phép, vượt quá phạm vi quyền hạn
được trao, thậm chí không được lẩn tránh và lạm quyền.
Thứ tư, quyết định hành chính là văn bản có quy định rõ hiệu lực của văn
bản. Quyết định hành chính có hiệu lực thi hành kể từ thời điểm ký ban hành nếu
không có quy định cụ thể khác. Quyết định hành chính là văn bản áp dụng pháp
luật nên hiệu lực của văn bản là ngay sau khi quyết định được ký ban hành, trừ
một số trường hợp đặc thù do người có thẩm quyền ban hành quy định cụ thể trong văn bản. lOMoAR cPSD| 46342985
Thứ năm, đối tượng áp dụng của quyết định hành chính là những cá nhân,
tổ chức cụ thể đối với trường hợp quyết định cá biệt - đặc điểm này bảo đảm cho
quyết định cá biệt có thể thi hành ngay mà không cần chỉ đạo khác của cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền; nhóm đối tượng cụ thể thuộc thẩm quyền quản lý hành
chính của cơ quan, tổ chức (thường trong nội bộ cơ quan, tổ chức) đối với các
quyết định chứa đụng quy phạm nội bộ (như quy định, quy chế) - đặc điểm này
cho phép khi ban hành, quyết định hành chính có thể tổ chức thi hành ngay mà
không cần hướng dẫn khác.
Xét về mặt lợi ích quản lý nhà nước, quyết định hành chính được ban hành
phải xuất phát từ chính lợi ích thiết thực của người dân, đặc biệt là người dân lao
động. Các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền chỉ được ban hành quyết định
hành chính để giải quyết những vấn đề xã hội một cách khách quan, khoa học,
tránh tuỳ tiện, chủ quan duy ý chí.
Thứ sáu, trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành, hình thức của quyết định
hành chính tuân theo các quy định của luật pháp và quy định, quy trình nội bộ
xây dựng văn bản của cơ quan, đơn vị. Quyết định hành chính phải bảo đảm kỹ
thuật lập quy, tức là ngôn ngữ, văn phong, cách trình bày phải rõ ràng, dể hiểu,
ngắn ngọn, chính xác, không đa nghĩa, kết cấu ổn định. Quy trình xây dựng các
quyết định hành chính cơ bản được thống nhất song cũng vẫn tuỳ thuộc vào loại
văn bản và thẩm quyền ban hành. Đặc điểm này là yêu cầu cơ bản, bảo đảm tính
hợp pháp và hiệu lực của văn bản hành chính.
Do tầm quan trọng của loại văn bản, quyết định hành chính mặc dù là văn
bản áp dụng pháp luật song có cơ cấu, thể thức rất rõ ràng, cụ thể như văn bản
quy phạm pháp luật (Căn cứ ban hành, cơ cấu văn bản: điều, khoản). Cơ cấu, thể
thức này thể tính tính chặt chẽ về thẩm quyền ban hành, khả năng thực thi quyền lực nhà nước.
Nhìn chung, quyết định hành chính thường mang một số yếu tố nổi bật đó
là yếu tố pháp lý bảo đảm trực tiếp chức năng quản lý nhà nước của cơ quan, cá
nhân được Nhà nước giao quyền; kết cấu, quy trình ban hành Quyết định thể lOMoAR cPSD| 46342985
hiện tính chặt chẽ, bài bản trong số các loại văn bản hành chính, bảo đảm sự điều
hành, lãnh đạo các lĩnh vực quản lý nhà nước, kinh tế, văn hoá, xã hội.
2. Phân biệt Quyết định hành chính trong hệ thống các văn bản quản lý nhà nước
Việc xác định mối quan hệ giữa văn bản quản lý nhà nước với các loại văn
bản khác có một ý nghĩa quan trọng trong việc phân định thẩm quyền ban hành,
điều kiện ban hành và trình tự, thủ tục xây dựng. Điều này sẽ cho phép người
soạn thảo, ban hành và thực hiện văn bản có thể phân định chính xác chức năng
cụ thể của từng loại văn bản, sử dụng quy trình soạn thảo, hình thức, văn phong
và tổ chức thực hiện thích hợp.
2.1. Phân biệt Quyết định hành chính với tư cách là văn bản áp dụng
với văn bản quy phạm pháp luật
a) Trong thực tiễn quản lý nhà nước hiện nay, để phân biệt những văn bản
quy phạm pháp luật với những văn bản áp dụng pháp luật, người ta căn cứ vào
các quy định hiện hành của pháp luật. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật Việt
Nam, tuy còn một số hạn chế trong việc phân định loại văn bản, thẩm quyền ban
hành song cũng đã tạo ra sự thống nhất của cả hệ thống pháp luật. Căn cứ Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 24/2009/NĐCP, văn bản
quy phạm pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau: -
Có chứa quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung),là những quy tắc xử sự được ban hành không phải cho một cho một
trường hợp cụ thể, những tổ chức hay cá nhân cụ thể, mà cho tất cả các trường
hợp và đối với tất cả những tổ chức hay cá nhân phải thực hiện khi gặp phải
những tình huống mà pháp luật đã dự liệu. Do vậy, văn bản quy phạm pháp luật
được thực hiện nhiều lần trong đời sống khi xảy ra tình huống mà pháp luật đã
dự liệu. Đây là đặc điểm thể hiện sự khác biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật
với các văn bản khác của Nhà nước như văn bản áp dụng pháp luật, văn bản giao
dịch hành chính… là các văn bản không chứa quy phạm pháp luật nên không
phải là văn bản quy phạm pháp luật. lOMoAR cPSD| 46342985 -
Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực
hiệntheo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ, thống nhất. Tầm quan trọng của văn
bản quy phạm pháp luật như đã nêu ở đặc điểm trên dẫn đến các nhà nước hiện
đại quy định rất chặt chẽ thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức, nội dung của
văn bản quy phạm pháp luật được phép ban hành cho các tổ chức và cá nhân
(các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật). -
Ngoài ra, văn bản quy phạm pháp luật còn có các đặc trưng khác như:
do cơ quan nhà nước người có thẩm quyền ban hành theo Luật định; được nhà
nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp quản lý nhà nước.
b) Xuất phát từ các đặc trưng của quyết định hành chính và văn bản quy
phạm pháp luật nêu trên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản
hành chính, yêu cầu về sự cần thiết phân biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật
và quyết định hành chính quy định nội bộ, quy định ban hành quy chế luôn được
đặt ra. Đối với các dạng quyết định cá biệt khác, việc phân định là rõ ràng theo
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 24/2009/NĐCP và
Thông tư số 01/2011/TT-BNV. -
Quyết định chứa đựng quy định nội bộ là văn bản quy định quy tắc
giảiquyết công việc trong nội bộ cơ quan, quy định quy chế làm việc của cơ
quan, đặc biệt là các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của các đơn vị thuộc Bộ hoặc đơn vị cấp phòng. Về bản chất, các
quyết định này cũng chứa đựng những quy tắc xử sự chung như văn bản quy
phạm pháp luật nhưng phạm vi thực hiện chỉ trong nội bộ cơ quan, đơn vị, để
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trên đó (ví dụ như Luật Thi hành án dân
sự, Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) hoặc yêu cầu quản lý, vận hành trong nội bộ
cơ quan, đơn vị và thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ trưởng cơ quan, đơn
vị. Quyết định khi ban hành cần căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật hoặc
văn bản chỉ đạo của cấp có thẩm quyền. Ví dụ, căn cứ Nghị định số
178/2007/NĐCP ngày 03/12/2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ (Điều 11 khoản 4 lOMoAR cPSD| 46342985
quy định thẩm quyền của Bộ trưởng “quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
cơ cấu tổ chức của vụ, cục…”), Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành 29 Quyết
định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của 29 đơn vị thuộc Bộ (trừ Tổng
cục Thi hành án dân sự do Thủ tướng Chính phủ quyết định). Do đó, người ta
còn gọi quyết định là văn bản quy phạm pháp luật phụ, hoặc còn được gọi là
văn bản chuyển đổi. -
Điểm khác biệt căn bản tiếp theo là, các văn bản quy phạm pháp
luậtcủa Bộ gồm có Thông tư, Thông tư liên tịch là các văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn việc thực hiện các luật, pháp lệnh, nghị định của Quốc hội, Chính
phủ, áp dụng thống nhất trong lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành hoặc giữa
các ngành liên quan. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:
Điều 16 quy định Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:
“1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước,
nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 2.
Quy định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế -
kỹthuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách; 3.
Quy định biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh
vựcdo mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao.”
Điều 20 quy định Thông tư liên tịch ban hành trong các trường hợp sau:
“2. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong
hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
3. Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,