lOMoARcPSD| 57855709
1. Giới thiệu về chùa Thầy
- Chùa Thầy thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây cũ nay là Hà
Nội nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội hơn 20 km. Sài Sơn có tên Nôm
là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời
nhà Lý. Nơi đây ghi dấu những nỗ lực tu tập của Thiền sư Từ Đạo Hạnh,
một vị thiền sư nổi tiếng gắn với những truyền thuyết kỳ bí, người đã
đóng góp đáng kể cho cộng đồng và là người sáng lập múa rối nước.
- Chùa có tên chữ là "Thiên Phúc Tự", nằm gối vào sườn núi Phật Tích,
còn gọi là núi Thầy.tên chữ “Thiên Phúc Tự” nghĩa là: “Thiên” là trời;
“Phúc” là phúc lộc; “Tự” là chùa .
- Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, do Thiền sư
Từ Đạo Hạnh trụ trì. Sau này, Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại
gồm hai cụm chùa: chùa Cao trên núi và chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc
Tự. Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng
tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác
chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình
con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên
phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa,
nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay
Long Trì (ao Rồng). Sân chùa như hàm rồng ,thủy đình như viên ngọc
rồng ngậm.Cây cầu Nguyệt Tiên Kiều và Nhật Tiên Kiều như hai chiếc
râu rồng.
2. Tóm tắt về Ninh Sơn Từ Đạo Hạnh:
Từ Đạo Hạnh (1072 - 1116) còn có tên là Từ Lộ, tục gọi là đức Thánh
Láng, một thiền sư người Việt thời nhà Lý. Cuộc đời ông được ghi lại
dưới nhiều màu sắc huyền thoại. Trước khi truyền thuyết về Liễu Hạnh
phổ biến, ông còn được liệt vào hàng thánh nổi tiếng mà tín ngưỡng Việt
Nam - gọi là Tứ bất tử.
Tương truyền, vào đời vua Lý Nhân Tông, có ông Từ Vinh làm quan Đô
án, thường lấy phép thuật trêu ghẹo mọi người. Quan Thành hầu tức
mình, mượn pháp sư Đại Điên làm phép giết chết, vứt xác xuống sông Tô
Lịch.Con ông Từ Vinh là Từ Lộ đem lòng oán thù, mới vào tu chùa Phật
lOMoARcPSD| 57855709
Tích, mà dân gian còn gọi là chùa Thầy, lấy tên hiệu là Từ Đạo Hạnh,
học thêm phép để báo thù cho cha.Sau vài năm thì Từ Đạo Hạnh học
được đủ phép. Ông phù phép vào gậy sắt, rồi thả xuống sông Yên Quyết,
trôi ngược đến nhà Đại Điên. Đại Điên nghe nói có hiện tượng gậy sắt
trôi ngược dòng kỳ lạ, ra xem thì bị cái gậy ấy bật lên đánh chết.Tiếng
đồn về chuyện Từ Đạo Hạnh tài phép báo thù cho cha vang khắp nước
Nam bấy giờ, lan truyền cả vào cung đình. Vua cho mời ông vào cung để
đàm đạo.Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông muốn có con nối ngôi, lập đàn cầu
tự suốt ba năm liền. Người dân đồn rằng ở bãi biển Thanh Hóa có đứa bé
lên ba tuổi rất tài giỏi, chuyện gì cũng biết. Vua ngỏ ý muốn đưa nó về
làm con nuôi.Từ Đạo Hạnh biết đứa bé đó là pháp sư Đại Điên hiện thân
để trả thù mình nên nhờ chị gái mang bùa đến yểm, khiến đứa bé chết
yểu. Nhà vua truy ra chuyện này, liền cho giam lỏng Từ Đạo Hạnh ở chùa
Thầy. Ông bèn nghĩ kế đầu thai để thoát nạn.Khi vợ vị quan Sùng Hiền
em của vua - trở dạ.Vợ Sùng Hiền sinh ra người con trai, chính là Từ Đạo
Hạnh thác sinh, đặt tên là Dương Hoán. Khi lên ba tuổi, Dương Hoán
được vua đem vào nuôi trong cung, dựng làm thái tử. Đến khi vua mất,
Dương Hoán nối ngôi, miếu hiệu là Thần Tông.Lý Thần Tông ở ngôi
được mấy năm thời phải bệnh, mình mẩy mọc lông lá, tiếng kêu gầm như
hổ. Các thầy phù thủy, thầy thuốc không có phép nào chữa khỏi. Nhà vua
sống thêm được hai năm thì băng hà vào năm 1138, hưởng dương 23
tuổi.Khi nhà vua mất, núi Sài Sơn – nơi chùa Thầy tọa lạc - tự nhiên có
khí thiêng bốc lên, ai thấy cũng kinh hãi. Chuyện đến tai vua Lý Anh
Tông (con vua Lý Thần Tông), nhà vua vội sai đại thần đến làm lễ tế, tôn
phong Từ Đạo Hạnh làm “Thượng Đẳng Tối Linh Thần”.Khi ấy thân xác
của Từ Đạo Hạnh vẫn còn nguyên trong khám thờ, không bị hủy hoại
còn có hương thơm thoang thoảng. Từ đó đến nay, chùa Thầy luôn nổi
tiếng là ngôi chùa linh thiêng, thu hút nhiều người đến chiêm bái…
3. Cơ sở hình thành
Tín ngưỡng” được xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau:
lOMoARcPSD| 57855709
a, Điều kiện tự nhiên: con người luôn tìm kiếm câu trả lời về cuộc sống, cái chết
và những hiện tượng siêu nhiên. Tín ngưỡng cung cấp một hệ thống niềm tin và
các nghi lễ giúp con người cảm thấy an tâm và có ý nghĩa hơn về cuộc sống.
Truyền thống văn hóa tín ngưỡng thường bắt nguồn từ các truyền thống văn
hóa, phong tục tập quán được truyền lại qua các thế hệ. Các câu truyện huyền
thoại, truyền thuyết đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì các
tín ngưỡng.
Sự kiện lịch sử: nhiều tín ngưỡng phát sinh từ những sự kiện lịch sử quan trọng
hoặc những nhân vật có sức ảnh hưởng lớn. Chẳng hạn, các vị anh hùng, vua
chúa, hoặc các nhân vật tôn giáo có thể trở thành đối tượng của tín ngưỡng và
được thờ cúng.
Con người sống cùng tự nhiên, phụ thuộc vào tự nhiên. Từ đó con người tin
rằng có những linh hồn hoặc thần linh cai quản và bảo vệ các hiện tượng này.
Gắn với Ninh Sơn Từ Đạo Hạnh có hình ảnh viên đá thần linh giúp trấn yểm
linh hồn, điều này cho thấy rõ nhất về quan niệm sống và chết gắn liền với thiên
nhiên của con người.
b, Kinh tế xã hội: do yếu tố lao động hình thành. Khi chưa tiếp cận đến khoa
học kỹ thuật hiện đại, kinh tế đang là kinh tế nông nghiệp nên con người chưa
có hình thức lý giải các hiện tượng, sự vật đang diễn ra nên sử dụng “ tín
ngưỡng” để lý giải.
c, Điều kiện chính trị: ở đây ta có thể đề cập đến thần quyền và vương quyền
.Thần quyền hiểu là quyền lực hoặc quyền hành của các vị thần hoặc lực lượng
siêu nhiên trong đời sống tâm linh. Thần quyền thể hiện qua làng xã, hội chùa
hay hội đình. Vương quyền ( trung ương) chỉ quyền lực và quyền hành của vua
hoặc các nhà lãnh đạo Vương quyền trong một hệ thống chính trị và xã hội.
Thứ tư, con người- cộng đồng: cng đồng có những nghề khác nhau ở đó sẽ
hiện diện một niềm tin nào nào hoặc nỗi sợ hãi của từng người, suy nghĩ về việc
làm có lỗi hay sự bất tử của linh hồn.
2.Tổng quan về chùa Thầy và truyền thuyết gắn với chùa:
lOMoARcPSD| 57855709
Chùa Thầy nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội hơn 20 km.thuộc xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây cũ nay là Hà Nội được xây dựng từ thời nhà Lý
Chùa có tên chữ là "Thiên Phúc Tự", nằm gối vào sườn núi Phật Tích, còn gọi
là núi Thầy. Tên chữ “Thiên Phúc Tự” mang nghĩa: “Thiên” là trời; “Phúc” là
phúc lộc; “Tự” là chùa .
Chùa thờ Từ Đào Hạnh - một vị thiền sư nổi tiếng gắn với những truyền thuyết
kỳ bí, là ông Tổ của nghệ thuật Múa Rối Nước của Việt Nam.
Trong cuốn Thiên uyển Tập anh ,cuốn sách ghi chép về các tông phái Phật học,
các thiền sư nổi tiếng VN, ghi về Thiền Sư Từ Đạo Hạnh như sau thiền sư họ
Từ, tên húy là Lộ cha là Từ Vinh làm quan đến chức tăng quan đồ án nguyên là
từ vinh trọ học ở Yên Lãng, lấy vợ là con gái họ Tăng-bà Tăng Thị Loan rồi cư
trú ở đó .Từ nhỏ ngài đa bộc lộ những tính cách không giống bạn bè chăng
lứa,nhất là việc làm lời nói không ai đoán trước được .Ông kết thân với nh sĩ
Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát Vi Ất. Ban đêm ham đọc sách,
ban ngày chơi thổi sáo, đá cầu thư giãn, vì vậy mà bị cha ông trách là lười
nhác.Một đêm cha Ngài vào phòng thấy ông tay cầm sách lưng tựa án mà ngủ
,từ đó cha ông mới không lo nghĩ gì nữa. Sau này triều dình mở khoa thi tăng
quan, ông dự thi trúng tuyển. Trước kia cha ông Từ Vinh có xích mích với Diên
Thành Hầu hắn cho rằng thân phụ ông dùng phép để hại hắn. Vì vậy, Diên
Thành Hầu nhờ sư Đại Điên dùng phép để giết thân phụ của ngài, sau đó ném
xác xuống sông Tô Lịch. Thầy Từ Vinh tức cha ngài trôi đến cầu An Quyết thì
bật dạy chỉ tay vào nhà Diên Thành Hầu suốt một ngày. Hắn sợ quá sai người
chuyển lời đến Đại Điên. Đại Điên đến nơi quát “kẻ tu hành không giận quá
đêm” rồi thầy TVinh trôi đi mẹ ông Tăng Thị Loan ngày đêm đau buồn nên
cũng ra đi. Nhân lúc Đại Điên ra ngoài ông xông vào đánh nhưng lại nghe tiếng
quát “dừng lại!” ông sợ vứt gậy mà chạy. Biết mình không có phép gì để trả thù
cho cha mẹ nên ông đã quyết sang đường bên Ấn Độ học phép nhưng do đường
đi hiểm trở,khó khăn liền quay lại tìm đến chùa Thiên Phúc ở trên núi Sài Sơn
để tu hành, từ đấy Từ Đạo Hạnh chuyên tâm đọc kinh Đại Bi Đà La- một bộ
kinh dày nói về giáo lý nhà Phật cũng chứa đựng những phép thuật cao siêu,
ngài đã dày công đọc đủ mười vạn tám ngàn lần bộ kinh này,cũng thấy được
ngài là một người thông minh có trí óc cao thường. Mà trước chỗ ngài dọc kinh
có hai cây thông cổ thụ mà dân chúng xug quanh thường gọi là hai cây rồng,do
lOMoARcPSD| 57855709
ngày ngày ngài tựa và cây để đọc kinh nên khi cây già đi chút lá dần rồi biến
mất đi. Từ đây ngài mới biết đức quan thế âm đã ứng lời của mình. Từ đấy ngày
ngày ngài ra sức đọc kinh niệm phật hơn thế nữa để lời ca ngài dược thấu đến
tận thiên cung.Một hôm đang tụng kinh ngài thấy một thần nhân đên và nói
rằng mình là Tứ Trấn Thiên Vương cảm phục công đức của ngài nên nay lại đây
nghe ngài sai khiến,Từ Đạo Hạnh đồng ý và hẹn Trấn Thiên Vương quay lại
sau, nói rồi Trấn Thiên Vương bay về trời. Vẫn canh cánh trong lòng về mối thù
của cha, một hôm Từ Đạo Hạnh xuống núi ném gậy xuống dòng nước đang
chảy xiết, xong gậy tự nhiên dựng đứng lên đi ngược dòng nước,Ngài nhủ rằng
phép của mình đã thắng được Đại Điên. Xong Từ Đạo Hạnh cầm gậy đến ch
Đại Điên và bị hắn xem thường,xong Ngài im lặng nhẩm thần chú đánh vào
người Đại Điên khiến hắn trở tay không kịp,được một lát Đại Điên lăn ra
chết.Xong ngài mang xác Đại Điên thả xuống sông Tô Lịch như cái cách mà
hắn đã làm với thân phụ Ngài.Trả thù xong mối hận trong Ngài cũng lắng
lại,ngài đi du ngoại khắp nơi để tìm lại dấu Phật nhất là ở núi cao rừng thẳm,thi
thoảng ngài gặp gỡ đàm đạo với các vi cao tăng nổi tiếng đương thời.Một lần
tới vùng Thái Bình nghe nói ở chùa Bình Hóa có vị cao tăng Chí Huyền nên
Ngài tìm đến ra mắt khi đàm đạo về lẽ chân tâm,Ngài đọc một bài tựa: Cửu hỗn
phong trần vị thức công/Bất chí hòa xứ vi chân tâm/Nguyện thừa chỉ giáo khai
phương tiện/Tiện kiến bồ đề đoạn khổ tầm.Cao tăng Kiều Chí Huyền nghe xong
cười và đáp lại: Ngũ âm bí quyết giữ chân công/Cá chung mãn nguyệt lộ thiền
tông/Hò xa giác thị bồ đề đạo/Lữ hướng bồ đề cách vạn tầm.Nghe xong Đạo
Hạnh rời đi đến chùa Pháp Vân tại núi Pháp Linh tiết kiến thiền sư Phạm Hội
hỏi “Như thế nào là chân tâm”Thiền sư trả lời”An Nam có chính là chân
tâm”,Đạo Hạnh bỗng tỉnh ngộ,hẳn đúng như tâm nguyện của Ngài bấy lâu
nay.Và rồi Từ Đạo Hạnh bái biệt thiền sư ra về tiếp tục cuộc đời tu luyện như
trước.Từ đó pháp lực của Đạo Hạnh ngày càng mạnh,đến nỗi các con thú trên
núi đến xung quanh Ngài nghe ngài sai bảo.Ngài còn biết cả phương thuocs
chữa bệnh,biết hô phong gọi vũ cứu những cánh đồng khô héo.Tiếng tăm của
ngài vì thế mà truyền mãi ra xa ở khắp mọi miền ở đâu cũng nghe thấy cả.Khi
ấy vua Lý Nhân Tông dang trị vì nhưng không có con trai,em ruột của Lý Nhân
Tông là Sùng Hiền Hậu đều là con của Lý Thánh Tông và Hoàng Thái Hậu Ỷ
Lan lúc ấy cũng chưa có con trai,bèn nhờ Từ Đạo Hạnh đến cầu tự cho
mình.Bất đắc dĩ Từ Đạo Hạnh nhận lời,năm Từ Đại Khánh thứ ba năm 1112 ở
lOMoARcPSD| 57855709
phủ Thanh Hóa có người đưa tin nói rằng có đứa trẻ mới lên ba tự xưng là
Hoàng Tử lấy hiệu là Giác Hoàng,vua làm điều gì tuy ở rất xa nhưng đứa trẻ ấy
đều biết cả.Nhà vua cho quan Trung xứ đến tận nơi xem,thấy đúng như tin đòn
bèn đưa đứa trẻ vè kinh đô,cho ở trong chùa một thời gian,nhà vua đến thấy đứa
trẻ thông minh,lanh lợi muốn nhận làm con nuôi nhưng quần thần can là không
nên và cho rằng không phải phép.Lý Nhân Tông mở hội 7 ngày 7 đêm để cho
các thiên tướng đầu thai nơi cung cấm.Tu hành ở nơi xa nhưng Từ Đạo Hạnh
cũng nghe tin và biết rằng đó là nhà sư Đại Điên thoát sinh đầu thai thành, biết
được Đại Điên đầu thai sẽ mang đến nhều tai họa cho nhà Vua cả cho bản thân
mình,thế rồi ngài liền làm bú bảo chị gái mình giả làm người xem hội đến để
dán bùa vào bên cạnh đứa trẻ dó.Quả nhiên ba ngày sau đứa trẻ đó đổ bệnh,lúc
sắp mất nói với mọi người rằng,khắp các ngã đường đều có lưới sắt bủa vây,ta
muốn thoát sinh làm con của vua mà không thành,vaayjta phải làm ma xuống
chàu Diêm Vương thôi.Nói ri nhắm mắt ngừng thở.Nghe tin Giác Hoàng tức
đứa trẻ len ba mà Lý Nhân Tông muốn nhận nuôi chết,nhà vua cho lính bắt Từ
Đạo Hạnh vào cung bắt giam trong ngục.Sùng Hiền Hậu hay tin biết rằng T
Đạo Hạnh dùng phép để diệt kiếp thoát thai của Đại Điên nên xin đức Vua thả
Từ Đạo Hạnh ra ngoài,nghe Sùng Hiền Hậu giải bày Nài lền đồng ý và dăn
trước khi sinh vài ngày hãy đến báo cho Đạo Hạnh biết.Thế rồi Từ Đạo Hạnh về
khẩn xin thần núi ba ngày.Quả nhiên ba năm sau Sùng Hiền Hậu hạ sinh Lý
Dương Khoán tức Lý Thần Tông sau này.Khi Sùng Hiền Hậu trở dạ,có người
lên báo tin thì Từ Đạo Hạnh tắm rửa sạch sẽ,dặn để tử của mình mối lương
duyên của ta chưa hết ta phải tạm thoát sinh làm đế vương trong thời hạn gần
một kỷ đến lúc ấy thấy thân thể a rủa nát thì mới là lúc ta không còn ở trên cõi
đời này nữa.Trong”Việt diện u linh” chép rằng Ngài lên động tiên đập đầu vào
vách đá,niệm chân lên bàn đá rồi hóa nay vết đầu và vết chân vẫn còn in dấu,xét
ra vẫn có phần nói quá về cái chết của ngài.Các đệ tử của thầy vừa buồn thương
vừa cảm kích,đèm mang thân xác về thờ nhưng lạ thay mặc cho thời gian trôi di
nhưng nét mặt của ngài vẫn không thay đổi lại còn tỏa hương thơm.Ai ai cũng
cho rằng thầy chính là tiên là phật xuống trần gian này. Về phía Sùng Hiền
Hậu,khi hạ sinh đứa con của mình dù chỉ nuôi nấng sơ sài nhưng đứa trẻ ấy
ngày một nhanh lớn những đứa bé khác,chưa học hành gì mà đầu óc cũng sáng
láng,càng lớn càng đẹp người và có nhiều tài cán lạ.Khi được ba tuổi Lý Nhân
Tông đưa vào cung nuôi dạy và lập làm Hoàng Thái Tử,đến khi Lý Nhân Tông
lOMoARcPSD| 57855709
mất Hoàng Thái Tử nối ngôi thành vua Lý Thần Tông vào năm 1128. Trong
khoảng thời gian mà Đạo Hạnh đang tu hành ở Thiên Phúc có một đệ tử sáng
lạn hơn cả tên Nguyễn Chí Thành,Từ Đạo Hạnh tiên đoán được năm 20 tuổi Lý
Thần Tông mắc trọng bệnh khó chữa trị nên đã dạy cho Chí Thành cách chữa
khỏi bệnh,còn đặt cả tên ấn cho Chí Thành tên là Minh Không.Khi Đạo Hạnh
trúc xác Minh Không đã tiếp tục tu tại chùa ở quê nhà.Bng nhiên năm 21 tuổi
nhà vua mắc bệnh lạ khắp người mọc đầy long lá tiếng kêu thì gầm rú,khắp các
thái y chữa trị mà vẫn không khỏi,không mt ai biết đó là bệnh gì.Tại Gia Viễn-
Ninh Bình, Minh Không đã truyền cho trẻ chăn trâu ca dao: Muốn chữa Lý cửa
Trùng phải tìm Nguyễn Minh Không.Câu hát mỗi ngày truyền ra xa.Triều đình
nghe vậy liền sai người đón Minh Không vào cung.Đến nơi Minh Không nhờ
người túc trực đun cho một vạc dầu lớn lại bảo đi tìm 100 cái đinh và một cành
hòe,khi dầu sôi Minh Không sai thả 100 cái đinh vào đó một lát sau ngài cầm
100 cái đinh ấy vớt ra lại câm cành hòe nhúng vào dầu sôi rải đều khắp mình
nhà vua,lạ thay lông lá trên mình nhà vua tự nhiên rụng hết,chẳng còn tiếng
gâm gừ,run sợ như lúc trước,nét mặt nhà Vua cũng tươi tỉnh dàn lên giọng nói
cũng trở lại bình thường,sau đó nhà Vua hoàn toàn khỏi bệnh.Nhà
Vua liền phong Nguyễn Minh Không lên làm Quốc Sư ban cho mấy trăm họ
được hưởng lộc suốt đời.Niên hiệu Thái Bình thứ 22 Minh Không tạ thế hưởng
76 tuổi.Còn Vua Lý Thần Tông đúng nTừ Đạo Hạnh báo chỉ tạm làm vua
một Kỷ mà thôi quả nên sau khi khỏi bệnh Lý Thần Tông chỉ sống thêm được
hai năm nữa.Nhà Vua mất ở tuổi 23 năm 1138. Khi nhà vua mất ở trên núi Sài
Sơn bỗng có khí thiêng bốc lên ai ai cũng sợ hãi. Vua Lý Anh Tông con của vua
Thần Tông bèn sai người làm lễ quốc tế lại tôn phong Từ Đạo Hạnh làm
Thượng Đẳng Tứ Linh Thần khi ấy thân xác của Từ Đạo Hạnh vẫn còn nguyên
trong khám thể không rửa nát lại có mùi hương thơm phức. Gần 300 năm sau,
khi ấy nhà Lý đã hết cả nhà Trần và nhà Hồ sau đó cũng đã hết.Vào niên hiệu
Vĩnh Lạc nhà Minh năm 1403 đến 1424 nước ta đang bị ngoại bang đô hộ và
xâm lược thực thi chính sách triệt phá văn hóa đến tận gốc,cùng với việc thu
gom sách vở,giấy tờ hiện vật văn hóa,đem về nước hoặc dốt bỏ đi.Bọn quan
quân nhà Minh cũng không chừa đến cả chân thân Đại Thánh Từ Đạo Hạnh,khi
đến núi Sài Sơn chùa Thiên Phúc bọn chúng nhìn vào kháng thể còn nguyên
vẹn,tươi tỉnh như khi đang sống lại có mùi thơm từ đáy phát ra.Bọn chúng chất
cũi vào châm ci đốt,tuy vậy nhưng chúng run sợ liền đem trọ đắp thành tượng
lOMoARcPSD| 57855709
đem vào khám thể vào chùa như cũ.Đến niên hiệu Quanh Thuận năm 1406 đến
năm 1469 đời Vua Lê Thánh Tông Trường Lan Hoàng Hậu sai Trình Quốc
Công lên chùa Thiên phúc Cầu Tự liên thấy một phiến đá bay vào đàn tràng,nên
liền mang về trình với Hoàng Hậu.Ít lâu sau Hoàng Hậu mơ thấy rồng vàng đậu
bên sườn rồi có mang sinh ra vua Lê Hiến Tông.Sau đó để trả ơn Hoàng Hậu sai
xây dựng am hiển thị tại chùa Thiên Phúc và cho khắc bia ghi lại sự tích này.Từ
đó chùa ngày mt lih thiêng,mỗi khi có sự gì quan trọng dân chúng lại đến đây
cầu đạo và nhận thấy việc gì cũng linh ứng,tới nay hương khói không lúc nào
dứt.
*Vai trò của Thiền Sư Từ Đạo Hạnh :
Từ Đạo Hạnh không chỉ là người luôn nuôi trí lớn, hiếu học mà còn ham thích
văn hóa, nghệ thuật, thể thao và các trò vui chơi dân giã. Ông là một người đa
tài. Việc Từ Đạo Hạnh quan hệ với nho gia Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và
nhà sư Giác Hải, Minh Không, nghệ sĩ phường chèo tên Vi Ất và tìm những nhà
sư đương thời nổi tiếng để “tầm sư, học đạo” cho thấy, ông vốn là con người
ham hiểu biết và có khả năng tiếp thu tinh hoa tri thức để tự bồi dưỡng làm giàu
năng lực trí tuệ của mình và trở thành một người đa tài. Không những vậy Thiền
Từ Đạo Hạnh còn là tổ nghề của loại hình nghệ thuật múa rối nước. Ông giỏi
về văn thơ và để lại những bài thơ nổi tiếng mà điển hình là “Giáo trò”, đến
mức Lê Mạnh Thát coi: “Giáo trò trở thành tác phẩm văn học tiếng Việt đầu tiên
hiện biết ”. Là một thiền sư, Đạo Hạnh luôn gắn đạo với đời, Phật giáo với dân
tộc. Ông thực sự lo cho vận nước khi có tà đạo lũng loạn làm mê hoặc lòng
người, phá rối chính pháp. Việc Đạo Hạnh chặn lại tiến trình thác thai của Giác
Hoàng là biểu hiện của mt nhà sư có trách nhiệm với dân với đạo, cho dù bản
thân ông bị ghép vào trọng tội. Ông chỉ thoát chết, khi Sùng Hiền Hầu đứng ra
giải cứu. Nên coi đó là hành vi can đảm của Đạo Hạnh, khi dám chấp nhận sự
hy sinh của cá nhân để cứu lấy những sinh mạng con trẻ. Nếu sự thực Lý Thần
Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh, thì thông qua vị vua này, ông đã
làm cho: “Sản xuất nông nghiệp phát triển. Dân no đủ nên giặc giã cũng ít. Theo
khảo sát của một số nhà nghiên cứu, thiền sư Từ Đạo Hạnh còn là mt nghệ sĩ
chèo và có những đóng góp quan trọng trong bước đi ban đầu của bộ môn nghệ
thuật sân khấu đặc sắc này. Gạt bỏ những chuyện huyễn hoặc, kỳ bí như lớp
lOMoARcPSD| 57855709
sương mù bao quanh Từ Đạo Hạnh, ta thấy lộ ra một vị Thiền sư đa tài. Ông đã
có đóng góp nhất định cho chính trị, đạo đức, văn hóa dân tộc.
2. các lớp tôn giáo, tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của chùa Thầy:
***Khái niệm Tứ Bất Tử:
Tứ” nghĩa là bốn ; “ Bất” nghĩa là không . Tứ Bất Tử là bốn vị thánh bất tử
trong tín ngưỡng Việt Nam; đó là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên vương,
Chử Đồng Tử và Công chúa Liễu Hạnh.
Tản Viên Sơn Thánh, hay Sơn Tinh, là vị thần núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của
các núi ở Việt Nam. Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên,
chiến thắng thiên tai.
Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng, tượng trưng cho tinh thần chống giặc
ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ.
Chử Đồng Tử, còn được gọi là Chử Đạo Tổ; tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa,
tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có.
Công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh; tượng trưng
cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng, thơ văn.
Trong 4 vị trên thì 3 vị nam thần đầu tiên theo truyền thuyết có từ thời Hùng
Vương và đã được thờ ở rất nhiều nơi từ rất lâu. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là người
phụ nữ duy nhất có thật, mới được đưa vào hệ thống Thần Thánh từ thời Hậu
Lê.
Do Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện khá muộn so với 3 vị kia nên có ý kiến cho rằng
bên cạnh 4 vị thánh kia, Tứ bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt Nam còn có 2
vị thánh khác là Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không.
lOMoARcPSD| 57855709
Từ Đạo Hạnh, còn được gọi là Thánh Láng; Nguyễn Minh Không, còn được gọi
là Thánh Nguyễn; các vị này là Thánh Tổ của Phật giáo, đóng vai trò trong T
Bất Tử trước thế k 15-16; tượng trưng cho khả năng phi phàm tồn tại trong
chính mỗi người nếu được khai phát một cách đúng đắn. Họ là đại diện của văn
hóa Lý - Trần vốn lấy Phật giáo làm quốc giáo
*** Tín ngưỡng và phong tục thờ cúng tại chùa Thầy
Chùa Thầy theo đạo Phật giáo Đại thừa, mt trong ba phái lớn của Phật giáo,
tập trung vào việc tu tập và giảng dạy theo những bài pháp thoại của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
Khi đến với chùa thầy, phật tử thường thực hiện các nghi lễ cung dường, điển
hình như cúng tượng phật, dâng hoa, dâng nến. Các nghi lễ này thực hiện nhằm
bày tỏ lòng tôn kính, đức tin đối với Đức Phật và các vị thần linh.
Hiện nay, tại chùa Thầy đang thờ Ninh Sơn Từ Đạo Hạnh với ba vai trò : một vị
vua, một vị phật, một vị thánh. Ông được tôn kính và thờ cúng với ba vai trò bởi
lẽ xuất phát từ những đóng góp và cuộc đời kỳ diệu của ông:
a. Vị vua:
- Từ Đạo Hạnh, sau khi tu hành và đạt được nhiều phép thần thông, được
cho là đã chuyển kiếp thành vua Lý Thần Tông. Truyền thuyết kể rằng sau khi
vua Lý Nhân Tông qua đời mà không có con nối dõi, Từ Đạo Hạnh đã nhập thể
vào con trai của Sùng Hiền Hầu để trở thành Lý Thần Tông. Vai trò này được
nhắc đến để tôn vinh sự đóng góp của ông cho triều đình và đất nước.
b.Vị Phật:
- Từ Đạo Hạnh không chỉ là một tu sĩ xuất chúng mà còn được coi là một
vị Bồ Tát sống, một người đã đạt được nhiều thành tựu tâm linh cao cả. Ông đã
lOMoARcPSD| 57855709
tu hành và dạy dỗ đệ tử, giúp nhiều người đạt được giác ngộ. Với sự nghiệp tu
hành và những phép lạ, ông được dân gian coi là hiện thân của Phật, người
mang lại sự bình an và hạnh phúc cho chúng sinh.
c. Vị thánh:
- Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Từ Đạo Hạnh còn được tôn kính như
một vị thánh, người có khả năng thần thông và bảo vệ dân lành. Các câu chuyện
về ông thường gắn liền với các phép lạ và hành động cứu nhân độ thế. Ông
được coi là mt vị thánh trong lòng người dân, biểu tượng của sự che chở và
linh thiêng.
Những vai trò này phản ánh sự đa dạng và phong phú trong cách nhìn nhận và
tôn thờ các nhân vật lịch sử và tôn giáo trong văn hóa Việt Nam. Từ Đạo Hạnh
được thờ cúng không chỉ vì sự nghiệp chính trị hay tôn giáo mà còn vì những
giá trị tinh thần và văn hóa ông để lại cho đời sau.
Các lễ hội của chùa Thầy
Lễ mộc dục hay còn gọi là lễ tắm tượng, hằng năm vào sáng mùng 5 tháng ba,
người dân cùng với người trong chùa chuẩn bị nước thơm và khăn mới để tiến
hành nghi lễ. Nước tắm tượng là nước mưa được nấu cùng 5 loại lá thơm. Tham
gia lễ tắm tượng với sư trụ trì trong chùa là 12 vị bô lão trong làng. Để được
chọn tham gia vào nghi lễ này thì các bô lão phải là người có đạo đức tốt, được
tính nhiệm và được người dân trong làng kính trọng, gia đình hạnh phúc, tuy
lớn tuổi nhưng đầu óc phải minh mẫn. Buổi lễ được diễn ra trong không khí
trang nghiêm chỉnh tề dưới sự chứng kiến của khách thập phương và dân làng.
Lễ phụng nghênh bài vị và cúng An vị
Tiếp theo của phần lễ là lễ rước bài vị Đức Thánh Từ Đạo từ tòa điện Thánh
xuống tòa chùa Trung để đức Thánh có thể chứng kiến những nghi lễ diễn ra
lOMoARcPSD| 57855709
trong ba ngày hội. Nghi lễ bắt đầu bằng bài đọc kinh trong làng hương khói
nghi ngút. Sau khi đọc bài kinh xin phép thì nhà sư và các bô lão tiến hành tắm
tượng thành. Tượng được tiến hành rau rửa cẩn thận, kỹ lưỡng bằng nước thơm
và thay áo mới. Mọi hoạt động điều được diễn ra trong sự trang nghiêm và kính
cẩn, bài vị của thánh được khiên cẩn thận, dọc lối đi xuống là hàng bô lão đeo
tràng hạt, cầm phướn, bài bị được rước yên vị ở tòa chùa Trung
- Biểu tượng “thượng gia hạ kiều”
Khi đi tham quan chùa Thầy, ta sẽ bắt gặp hai dạng kiến trúc: Dạng cầu Thượng
gia hạ kiều ở hai chiếc cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên nối hai bên bờ và đảo của
Hồ Long T và Dạng gian Ống Muống nối Tiền Đường với Thượng Điện có kết
cấu theo kiểu Thượng gia hạ kiều. Đây là biểu tượng cho chiếc cầu của tâm, của
giác, là cấu nối dẫn dắt chúng sinh tiến lại gần hơn với Phật và Bồ Tát, đưa con
người rời khỏi mê muội để về với thế giới Phật, kết nối thế giới trần tục của con
người với thế giới thanh tịnh của nhà Phật…mặc dù bên dưới không hề có
nước.
- Biểu tượng núi, tín ngưỡng thờ đá
Chắc hẳn các bạn sẽ khá ngạc nhiên về điều này nhỉ? Ngoài được bao phủ bởi
quần núi tự nhiên đồ sộ bao quanh chùa, ta sẽ còn bắt gặp một biểu tượng núi
trong kiến trúc ca tòa Điện Thánh nằm ở gian cuối - chùa Hạ. Tương truyền
rằng, Từ Đạo Hạnh đã cho trấn yểm trước khi cho xây dựng chùa. Ở vị trí ngay
lối vào Điện Phật tiếp giáp với Điện Thánh hiện vẫn còn một tảng đá lớn chôn
dưới đất- phiến đá huyết long mạch, hay còn gọi là phiến đá âm, được Đức
Thánh Tổ trấn yểm. Người dân và các Phật tử thường bỏ dép để đi chân đất lên
đá xem đó là cách tốt nhất để có được sự giao tiếp với trời đất. Phiến đá được
Từ Đạo Hạnh trì chú kinh Đại Bi Đà La cho các vị trư thiên đình nghe chú niệm
phật. Nếu như chùa Hạ có phiến đá âm mà Đức Thánh Tổ trì chú kinh Đại Bi
Đà La thì chùa Thượng có phiến đá dương nổi lên mặt đất và không di chuyển,
nếu di chuyển thì ngôi chùa sẽ bị động. Ngoài ra, ta còn phải kể đến Hang
Thánh Hóa, hang Cắc Cớ nơi lưu giữ nhiều truyền thuyết gắn với tín ngưỡng
thờ đá.
lOMoARcPSD| 57855709
- Biểu tượng hoa sen
Nằm giữa hồ nước lung linh, nhà Thủy Đình hiện lên với những mái đao uốn
cong, ngói mũi hài lô xô, ăn nhập với hàng lan can gỗ, phần cổ diêm và những ô
cửa rỗng quanh những bức tường cao làm cho cảnh sắc nơi đây thêm phần cổ
kính, thiêng liêng trong không gian tĩnh mịch nhà Phật. Với hình khối vuông,
bốn mái uốn cong, hai tầng với tám đầu đao so le nhau ôm vào mái, Thủy Đình
hiện trên mặt hồ chẳng khác gì một bông sen trên mặt nước.
***Địa điểm nghiên cứu:
Tiền đường (chùa Hạ): dài 20m, rộng 5m, cao 5,2m gồm 3 gian 2 chái, dựng trên
nền cao khoảng 1m so với sân chùa. Kết cấu bộ vì có 4 hàng chân cột, bộ vì nóc
giá chiêng - kẻ suốt, mái lợp ngói mũi hài, bốn đầu đao cong vươn lên. Trang trí
trên bộ mái makara, lân, rồng. Hai đầu hồi làm kiểu vỉ ruồi, trổ thủng hình mặt
trời, hoa cúc, vấn xoắn tròn xen lẫn với mây cụm hình đao mác. Hệ thống cửa
kiểu bức bàn. Ở ván nong, ván lá gió trang trí tia lửa, lá đề …
chùa thờ ba đức phật cao nhất :Tam thế trư phật. Đức phật từ quá khứ; Đức Phật
tu thời hiện tại và Đức Phật tu thời tương lai. Đức phật tu trong quá khứ mang
dáng vẻ gầy gò ngài mặc áo bán thân nửa người . Tên ngài là Tuyết Sơn .Ngài
tu trong rừng 6 năm, ngày ngày ngài chỉ ăn một hạt vừng, uống một chén nước
Tam Thế Trư Phật mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc về cuộc sống. Nó không
chỉ nhắc nhở ta phải biết trân trọng cuộc sống hiện tại và sống sao khi nhìn lại
quá khứ ta thấy thật đáng quý, mà sống cuộc sống hiện tại lạc quan, vui vẻ.
chùa Hạ còn thờ bốn vị Tứ Trấn Thiên Vương gồm thần Sấm, thần Sét , thần
Mưa , thần Gió.Bốn vị về chù nghe chú đại bi Đà La Ni của Đức Thánh Tổ, vì
mãi nghe nên khi trở về trời mà trời đã tối, bốn vị này lộ thiên cơ nên không thể
trở về trời được nữa. Người đời sau ghi nhớ công ơn Đức Thánh Tổ đã tạc bốn
vị này để trấn giữ bốn cửa Đông Tây Nam Bắc. Mọi người truyền tai nhau, khi
ai đi đâu đến đây xin sẽ được các ngài phù hộ bình an, mưa thuận gió hòa
Nhà cầu (ống mung): có chức năng nối tiền đường với thượng điện, gồm 1
gian, có 2 mái chạy dọc, dài 4,1m, rộng 4,5m, kết cấu 2 bộ vì 4 hàng chân cột
và 4 kẻ góc đỡ đầu mái. Bộ kèo kiểu kẻ chuyền giá chiêng với những trụ
lOMoARcPSD| 57855709
ngắn. Ở 2 hàng lan can, vách ngăn gỗ trang trí chấn song con tiện, bên dưới chia
4 tầng, có nhiều họa tiết trang trí điển hình cho nghệ thuật điêu khắc gỗ thế kỷ
XVII.
Thượng điện (chùa Trung): gồm 3 gian 2 chái, dài 20m, rộng 9,5m cao
5,5m, nền cao hơn nền tiền đường 0,5m. Thượng điện khám thờ bên trong. Kết
cấu bộ vì kiểu chồng rường - giá chiêng và giá chiêng kẻ suốt. Mái lợp ngói mũi
hài, với kết cấu tàu đao - mái với các góc đầu đao uốn cong. Thượng điện
kết cấu khá thông thoáng nhờ vào hệ thống cửa bức bàn gỗ bao hai bên hồi
phía sau.
Điện Thánh (chùa Thượng): cao hơn điện Phật 0,95m, gồm 1 gian 2 chái lớn,
dài 14,7m, rộng 11,7m và cao 6m. Bộ khung gồm 4 cột cái, 16 cột quân. Trong 4
cột cái 1 cột gỗ ngọc am một cột gỗ chò vẩy chu vi 1,8m. nóc kiểu
chồng rường con nhị - giá chiêng. Trang trí hoa văn bên trong điện Thánh rất ít.
Bên ngoài, ở cả 3 mặt ván gbưng được chạm trổ khá cầu kỳ các đề tài rồng, lân,
phượng, hoa lá, vân mây những đường cánh sen chạm lộng nhiều lớp. Phía
sau, tcửa hậu xuống là hệ thống bậc đá (có đôi sấu đá đầu nghê, mình sóc mang
đậm phong cách điêu khắc thời Trần
Ngoài ra, chùa Thầy còn được biết đến với những pho tượng cổ, quý giá. Tổng số
36 pho tượng cổ, những pho tượng ấy mang ý nghĩa to lớn cho nền tảng tín
ngưỡng, tôn giáo của dân tộc
3. Kết luận:
Như vậy,chùa Thầy gắn với tên tuổi của Thiền Từ Đạo Hạnh, một người
không chỉ có đức hạnh cao cả mà Ngài còn mang một vai trò to lớn cho văn hóa,
kinh tế, chính trị đối với Đất Nước ta. Ngài không chỉ một vị Thiền Sư, vị
Thánh còn một “người thầy”, bởi Ngài người dạy cho dân chúng biết đến
nghệ thuật múa rối nước, làm thuốc trị bệnh cứu người, hơn thế nữa Đạo Hạnh
một Thiền luôn gắn đạo với đời Ông thực sự lo cho vận nước khi đạo
lũng loạn làm mê tín lòng người phá rối chính pháp. Qua những vai trò to lớn ấy,
khẳng định rằng Thiền Từ Đạo Hạnh một vị đáng tôn thờ , không chỉ qua
sự “linh thiêng” của chùa Thầy được truyền lại qua lớp thời gian mà còn thể hiện
sự tôn trọng , biết ơn đến công lao to lớn của Đạo Hạnh. Không những vậy,chùa
Thầy còn mang tín ngưỡng thờ hiện tượng tự nhiên thể hiện qua phiến đá âm và
lOMoARcPSD| 57855709
phiến đá dương được Đức Thánh Tổ trấn yểm, với mong muốn đem lại sức
khỏe,bình an , may mắn cho mọi người.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 57855709
1. Giới thiệu về chùa Thầy
- Chùa Thầy thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây cũ nay là Hà
Nội nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội hơn 20 km. Sài Sơn có tên Nôm
là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời
nhà Lý. Nơi đây ghi dấu những nỗ lực tu tập của Thiền sư Từ Đạo Hạnh,
một vị thiền sư nổi tiếng gắn với những truyền thuyết kỳ bí, người đã
đóng góp đáng kể cho cộng đồng và là người sáng lập múa rối nước.
- Chùa có tên chữ là "Thiên Phúc Tự", nằm gối vào sườn núi Phật Tích,
còn gọi là núi Thầy.tên chữ “Thiên Phúc Tự” nghĩa là: “Thiên” là trời;
“Phúc” là phúc lộc; “Tự” là chùa .
- Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, do Thiền sư
Từ Đạo Hạnh trụ trì. Sau này, Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại
gồm hai cụm chùa: chùa Cao trên núi và chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc
Tự. Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng
tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác
chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình
con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên
phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa,
nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay
Long Trì (ao Rồng). Sân chùa như hàm rồng ,thủy đình như viên ngọc
rồng ngậm.Cây cầu Nguyệt Tiên Kiều và Nhật Tiên Kiều như hai chiếc râu rồng.
2. Tóm tắt về Ninh Sơn Từ Đạo Hạnh:
Từ Đạo Hạnh (1072 - 1116) còn có tên là Từ Lộ, tục gọi là đức Thánh
Láng, một thiền sư người Việt thời nhà Lý. Cuộc đời ông được ghi lại
dưới nhiều màu sắc huyền thoại. Trước khi truyền thuyết về Liễu Hạnh
phổ biến, ông còn được liệt vào hàng thánh nổi tiếng mà tín ngưỡng Việt
Nam - gọi là Tứ bất tử.
Tương truyền, vào đời vua Lý Nhân Tông, có ông Từ Vinh làm quan Đô
án, thường lấy phép thuật trêu ghẹo mọi người. Quan Thành hầu tức
mình, mượn pháp sư Đại Điên làm phép giết chết, vứt xác xuống sông Tô
Lịch.Con ông Từ Vinh là Từ Lộ đem lòng oán thù, mới vào tu chùa Phật lOMoAR cPSD| 57855709
Tích, mà dân gian còn gọi là chùa Thầy, lấy tên hiệu là Từ Đạo Hạnh,
học thêm phép để báo thù cho cha.Sau vài năm thì Từ Đạo Hạnh học
được đủ phép. Ông phù phép vào gậy sắt, rồi thả xuống sông Yên Quyết,
trôi ngược đến nhà Đại Điên. Đại Điên nghe nói có hiện tượng gậy sắt
trôi ngược dòng kỳ lạ, ra xem thì bị cái gậy ấy bật lên đánh chết.Tiếng
đồn về chuyện Từ Đạo Hạnh tài phép báo thù cho cha vang khắp nước
Nam bấy giờ, lan truyền cả vào cung đình. Vua cho mời ông vào cung để
đàm đạo.Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông muốn có con nối ngôi, lập đàn cầu
tự suốt ba năm liền. Người dân đồn rằng ở bãi biển Thanh Hóa có đứa bé
lên ba tuổi rất tài giỏi, chuyện gì cũng biết. Vua ngỏ ý muốn đưa nó về
làm con nuôi.Từ Đạo Hạnh biết đứa bé đó là pháp sư Đại Điên hiện thân
để trả thù mình nên nhờ chị gái mang bùa đến yểm, khiến đứa bé chết
yểu. Nhà vua truy ra chuyện này, liền cho giam lỏng Từ Đạo Hạnh ở chùa
Thầy. Ông bèn nghĩ kế đầu thai để thoát nạn.Khi vợ vị quan Sùng Hiền
em của vua - trở dạ.Vợ Sùng Hiền sinh ra người con trai, chính là Từ Đạo
Hạnh thác sinh, đặt tên là Dương Hoán. Khi lên ba tuổi, Dương Hoán
được vua đem vào nuôi trong cung, dựng làm thái tử. Đến khi vua mất,
Dương Hoán nối ngôi, miếu hiệu là Thần Tông.Lý Thần Tông ở ngôi
được mấy năm thời phải bệnh, mình mẩy mọc lông lá, tiếng kêu gầm như
hổ. Các thầy phù thủy, thầy thuốc không có phép nào chữa khỏi. Nhà vua
sống thêm được hai năm thì băng hà vào năm 1138, hưởng dương 23
tuổi.Khi nhà vua mất, núi Sài Sơn – nơi chùa Thầy tọa lạc - tự nhiên có
khí thiêng bốc lên, ai thấy cũng kinh hãi. Chuyện đến tai vua Lý Anh
Tông (con vua Lý Thần Tông), nhà vua vội sai đại thần đến làm lễ tế, tôn
phong Từ Đạo Hạnh làm “Thượng Đẳng Tối Linh Thần”.Khi ấy thân xác
của Từ Đạo Hạnh vẫn còn nguyên trong khám thờ, không bị hủy hoại và
còn có hương thơm thoang thoảng. Từ đó đến nay, chùa Thầy luôn nổi
tiếng là ngôi chùa linh thiêng, thu hút nhiều người đến chiêm bái…
3. Cơ sở hình thành
“ Tín ngưỡng” được xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau: lOMoAR cPSD| 57855709
a, Điều kiện tự nhiên: con người luôn tìm kiếm câu trả lời về cuộc sống, cái chết
và những hiện tượng siêu nhiên. Tín ngưỡng cung cấp một hệ thống niềm tin và
các nghi lễ giúp con người cảm thấy an tâm và có ý nghĩa hơn về cuộc sống.
Truyền thống văn hóa tín ngưỡng thường bắt nguồn từ các truyền thống văn
hóa, phong tục tập quán được truyền lại qua các thế hệ. Các câu truyện huyền
thoại, truyền thuyết đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì các tín ngưỡng.
Sự kiện lịch sử: nhiều tín ngưỡng phát sinh từ những sự kiện lịch sử quan trọng
hoặc những nhân vật có sức ảnh hưởng lớn. Chẳng hạn, các vị anh hùng, vua
chúa, hoặc các nhân vật tôn giáo có thể trở thành đối tượng của tín ngưỡng và được thờ cúng.
Con người sống cùng tự nhiên, phụ thuộc vào tự nhiên. Từ đó con người tin
rằng có những linh hồn hoặc thần linh cai quản và bảo vệ các hiện tượng này.
Gắn với Ninh Sơn Từ Đạo Hạnh có hình ảnh viên đá thần linh giúp trấn yểm
linh hồn, điều này cho thấy rõ nhất về quan niệm sống và chết gắn liền với thiên nhiên của con người.
b, Kinh tế xã hội: do yếu tố lao động hình thành. Khi chưa tiếp cận đến khoa
học kỹ thuật hiện đại, kinh tế đang là kinh tế nông nghiệp nên con người chưa
có hình thức lý giải các hiện tượng, sự vật đang diễn ra nên sử dụng “ tín
ngưỡng” để lý giải.
c, Điều kiện chính trị: ở đây ta có thể đề cập đến thần quyền và vương quyền
.Thần quyền hiểu là quyền lực hoặc quyền hành của các vị thần hoặc lực lượng
siêu nhiên trong đời sống tâm linh. Thần quyền thể hiện qua làng xã, hội chùa
hay hội đình. Vương quyền ( trung ương) chỉ quyền lực và quyền hành của vua
hoặc các nhà lãnh đạo Vương quyền trong một hệ thống chính trị và xã hội.
Thứ tư, con người- cộng đồng: cộng đồng có những nghề khác nhau ở đó sẽ
hiện diện một niềm tin nào nào hoặc nỗi sợ hãi của từng người, suy nghĩ về việc
làm có lỗi hay sự bất tử của linh hồn.
2.Tổng quan về chùa Thầy và truyền thuyết gắn với chùa: lOMoAR cPSD| 57855709
Chùa Thầy nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội hơn 20 km.thuộc xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây cũ nay là Hà Nội được xây dựng từ thời nhà Lý
Chùa có tên chữ là "Thiên Phúc Tự", nằm gối vào sườn núi Phật Tích, còn gọi
là núi Thầy. Tên chữ “Thiên Phúc Tự” mang nghĩa: “Thiên” là trời; “Phúc” là
phúc lộc; “Tự” là chùa .
Chùa thờ Từ Đào Hạnh - một vị thiền sư nổi tiếng gắn với những truyền thuyết
kỳ bí, là ông Tổ của nghệ thuật Múa Rối Nước của Việt Nam.
Trong cuốn Thiên uyển Tập anh ,cuốn sách ghi chép về các tông phái Phật học,
các thiền sư nổi tiếng VN, ghi về Thiền Sư Từ Đạo Hạnh như sau thiền sư họ
Từ, tên húy là Lộ cha là Từ Vinh làm quan đến chức tăng quan đồ án nguyên là
từ vinh trọ học ở Yên Lãng, lấy vợ là con gái họ Tăng-bà Tăng Thị Loan rồi cư
trú ở đó .Từ nhỏ ngài đa bộc lộ những tính cách không giống bạn bè chăng
lứa,nhất là việc làm lời nói không ai đoán trước được .Ông kết thân với nh sĩ
Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát Vi Ất. Ban đêm ham đọc sách,
ban ngày chơi thổi sáo, đá cầu thư giãn, vì vậy mà bị cha ông trách là lười
nhác.Một đêm cha Ngài vào phòng thấy ông tay cầm sách lưng tựa án mà ngủ
,từ đó cha ông mới không lo nghĩ gì nữa. Sau này triều dình mở khoa thi tăng
quan, ông dự thi trúng tuyển. Trước kia cha ông Từ Vinh có xích mích với Diên
Thành Hầu hắn cho rằng thân phụ ông dùng phép để hại hắn. Vì vậy, Diên
Thành Hầu nhờ sư Đại Điên dùng phép để giết thân phụ của ngài, sau đó ném
xác xuống sông Tô Lịch. Thầy Từ Vinh tức cha ngài trôi đến cầu An Quyết thì
bật dạy chỉ tay vào nhà Diên Thành Hầu suốt một ngày. Hắn sợ quá sai người
chuyển lời đến Đại Điên. Đại Điên đến nơi quát “kẻ tu hành không giận quá
đêm” rồi thầy Từ Vinh trôi đi mẹ ông Tăng Thị Loan ngày đêm đau buồn nên
cũng ra đi. Nhân lúc Đại Điên ra ngoài ông xông vào đánh nhưng lại nghe tiếng
quát “dừng lại!” ông sợ vứt gậy mà chạy. Biết mình không có phép gì để trả thù
cho cha mẹ nên ông đã quyết sang đường bên Ấn Độ học phép nhưng do đường
đi hiểm trở,khó khăn liền quay lại tìm đến chùa Thiên Phúc ở trên núi Sài Sơn
để tu hành, từ đấy Từ Đạo Hạnh chuyên tâm đọc kinh Đại Bi Đà La- một bộ
kinh dày nói về giáo lý nhà Phật cũng chứa đựng những phép thuật cao siêu,
ngài đã dày công đọc đủ mười vạn tám ngàn lần bộ kinh này,cũng thấy được
ngài là một người thông minh có trí óc cao thường. Mà trước chỗ ngài dọc kinh
có hai cây thông cổ thụ mà dân chúng xug quanh thường gọi là hai cây rồng,do lOMoAR cPSD| 57855709
ngày ngày ngài tựa và cây để đọc kinh nên khi cây già đi chút lá dần rồi biến
mất đi. Từ đây ngài mới biết đức quan thế âm đã ứng lời của mình. Từ đấy ngày
ngày ngài ra sức đọc kinh niệm phật hơn thế nữa để lời của ngài dược thấu đến
tận thiên cung.Một hôm đang tụng kinh ngài thấy một thần nhân đên và nói
rằng mình là Tứ Trấn Thiên Vương cảm phục công đức của ngài nên nay lại đây
nghe ngài sai khiến,Từ Đạo Hạnh đồng ý và hẹn Trấn Thiên Vương quay lại
sau, nói rồi Trấn Thiên Vương bay về trời. Vẫn canh cánh trong lòng về mối thù
của cha, một hôm Từ Đạo Hạnh xuống núi ném gậy xuống dòng nước đang
chảy xiết, xong gậy tự nhiên dựng đứng lên đi ngược dòng nước,Ngài nhủ rằng
phép của mình đã thắng được Đại Điên. Xong Từ Đạo Hạnh cầm gậy đến chỗ
Đại Điên và bị hắn xem thường,xong Ngài im lặng nhẩm thần chú đánh vào
người Đại Điên khiến hắn trở tay không kịp,được một lát Đại Điên lăn ra
chết.Xong ngài mang xác Đại Điên thả xuống sông Tô Lịch như cái cách mà
hắn đã làm với thân phụ Ngài.Trả thù xong mối hận trong Ngài cũng lắng
lại,ngài đi du ngoại khắp nơi để tìm lại dấu Phật nhất là ở núi cao rừng thẳm,thi
thoảng ngài gặp gỡ đàm đạo với các vi cao tăng nổi tiếng đương thời.Một lần
tới vùng Thái Bình nghe nói ở chùa Bình Hóa có vị cao tăng Chí Huyền nên
Ngài tìm đến ra mắt khi đàm đạo về lẽ chân tâm,Ngài đọc một bài tựa: Cửu hỗn
phong trần vị thức công/Bất chí hòa xứ vi chân tâm/Nguyện thừa chỉ giáo khai
phương tiện/Tiện kiến bồ đề đoạn khổ tầm.
Cao tăng Kiều Chí Huyền nghe xong
cười và đáp lại: Ngũ âm bí quyết giữ chân công/Cá chung mãn nguyệt lộ thiền
tông/Hò xa giác thị bồ đề đạo/Lữ hướng bồ đề cách vạn tầm
.Nghe xong Đạo
Hạnh rời đi đến chùa Pháp Vân tại núi Pháp Linh tiết kiến thiền sư Phạm Hội và
hỏi “Như thế nào là chân tâm”Thiền sư trả lời”An Nam có chính là chân
tâm”,Đạo Hạnh bỗng tỉnh ngộ,hẳn đúng như tâm nguyện của Ngài bấy lâu
nay.Và rồi Từ Đạo Hạnh bái biệt thiền sư ra về tiếp tục cuộc đời tu luyện như
trước.Từ đó pháp lực của Đạo Hạnh ngày càng mạnh,đến nỗi các con thú trên
núi đến xung quanh Ngài nghe ngài sai bảo.Ngài còn biết cả phương thuocs
chữa bệnh,biết hô phong gọi vũ cứu những cánh đồng khô héo.Tiếng tăm của
ngài vì thế mà truyền mãi ra xa ở khắp mọi miền ở đâu cũng nghe thấy cả.Khi
ấy vua Lý Nhân Tông dang trị vì nhưng không có con trai,em ruột của Lý Nhân
Tông là Sùng Hiền Hậu đều là con của Lý Thánh Tông và Hoàng Thái Hậu Ỷ
Lan lúc ấy cũng chưa có con trai,bèn nhờ Từ Đạo Hạnh đến cầu tự cho
mình.Bất đắc dĩ Từ Đạo Hạnh nhận lời,năm Từ Đại Khánh thứ ba năm 1112 ở lOMoAR cPSD| 57855709
phủ Thanh Hóa có người đưa tin nói rằng có đứa trẻ mới lên ba tự xưng là
Hoàng Tử lấy hiệu là Giác Hoàng,vua làm điều gì tuy ở rất xa nhưng đứa trẻ ấy
đều biết cả.Nhà vua cho quan Trung xứ đến tận nơi xem,thấy đúng như tin đòn
bèn đưa đứa trẻ vè kinh đô,cho ở trong chùa một thời gian,nhà vua đến thấy đứa
trẻ thông minh,lanh lợi muốn nhận làm con nuôi nhưng quần thần can là không
nên và cho rằng không phải phép.Lý Nhân Tông mở hội 7 ngày 7 đêm để cho
các thiên tướng đầu thai nơi cung cấm.Tu hành ở nơi xa nhưng Từ Đạo Hạnh
cũng nghe tin và biết rằng đó là nhà sư Đại Điên thoát sinh đầu thai thành, biết
được Đại Điên đầu thai sẽ mang đến nhều tai họa cho nhà Vua cả cho bản thân
mình,thế rồi ngài liền làm bú bảo chị gái mình giả làm người xem hội đến để
dán bùa vào bên cạnh đứa trẻ dó.Quả nhiên ba ngày sau đứa trẻ đó đổ bệnh,lúc
sắp mất nói với mọi người rằng,khắp các ngã đường đều có lưới sắt bủa vây,ta
muốn thoát sinh làm con của vua mà không thành,vaayjta phải làm ma xuống
chàu Diêm Vương thôi.Nói rồi nhắm mắt ngừng thở.Nghe tin Giác Hoàng tức
đứa trẻ len ba mà Lý Nhân Tông muốn nhận nuôi chết,nhà vua cho lính bắt Từ
Đạo Hạnh vào cung bắt giam trong ngục.Sùng Hiền Hậu hay tin biết rằng Từ
Đạo Hạnh dùng phép để diệt kiếp thoát thai của Đại Điên nên xin đức Vua thả
Từ Đạo Hạnh ra ngoài,nghe Sùng Hiền Hậu giải bày Nài lền đồng ý và dăn
trước khi sinh vài ngày hãy đến báo cho Đạo Hạnh biết.Thế rồi Từ Đạo Hạnh về
khẩn xin thần núi ba ngày.Quả nhiên ba năm sau Sùng Hiền Hậu hạ sinh Lý
Dương Khoán tức Lý Thần Tông sau này.Khi Sùng Hiền Hậu trở dạ,có người
lên báo tin thì Từ Đạo Hạnh tắm rửa sạch sẽ,dặn để tử của mình mối lương
duyên của ta chưa hết ta phải tạm thoát sinh làm đế vương trong thời hạn gần
một kỷ đến lúc ấy thấy thân thể a rủa nát thì mới là lúc ta không còn ở trên cõi
đời này nữa.Trong”Việt diện u linh” chép rằng Ngài lên động tiên đập đầu vào
vách đá,niệm chân lên bàn đá rồi hóa nay vết đầu và vết chân vẫn còn in dấu,xét
ra vẫn có phần nói quá về cái chết của ngài.Các đệ tử của thầy vừa buồn thương
vừa cảm kích,đèm mang thân xác về thờ nhưng lạ thay mặc cho thời gian trôi di
nhưng nét mặt của ngài vẫn không thay đổi lại còn tỏa hương thơm.Ai ai cũng
cho rằng thầy chính là tiên là phật xuống trần gian này. Về phía Sùng Hiền
Hậu,khi hạ sinh đứa con của mình dù chỉ nuôi nấng sơ sài nhưng đứa trẻ ấy
ngày một nhanh lớn những đứa bé khác,chưa học hành gì mà đầu óc cũng sáng
láng,càng lớn càng đẹp người và có nhiều tài cán lạ.Khi được ba tuổi Lý Nhân
Tông đưa vào cung nuôi dạy và lập làm Hoàng Thái Tử,đến khi Lý Nhân Tông lOMoAR cPSD| 57855709
mất Hoàng Thái Tử nối ngôi thành vua Lý Thần Tông vào năm 1128. Trong
khoảng thời gian mà Đạo Hạnh đang tu hành ở Thiên Phúc có một đệ tử sáng
lạn hơn cả tên Nguyễn Chí Thành,Từ Đạo Hạnh tiên đoán được năm 20 tuổi Lý
Thần Tông mắc trọng bệnh khó chữa trị nên đã dạy cho Chí Thành cách chữa
khỏi bệnh,còn đặt cả tên ấn cho Chí Thành tên là Minh Không.Khi Đạo Hạnh
trúc xác Minh Không đã tiếp tục tu tại chùa ở quê nhà.Bỗng nhiên năm 21 tuổi
nhà vua mắc bệnh lạ khắp người mọc đầy long lá tiếng kêu thì gầm rú,khắp các
thái y chữa trị mà vẫn không khỏi,không một ai biết đó là bệnh gì.Tại Gia Viễn-
Ninh Bình, Minh Không đã truyền cho trẻ chăn trâu ca dao: Muốn chữa Lý cửa
Trùng phải tìm Nguyễn Minh Không.Câu hát mỗi ngày truyền ra xa.Triều đình
nghe vậy liền sai người đón Minh Không vào cung.Đến nơi Minh Không nhờ
người túc trực đun cho một vạc dầu lớn lại bảo đi tìm 100 cái đinh và một cành
hòe,khi dầu sôi Minh Không sai thả 100 cái đinh vào đó một lát sau ngài cầm
100 cái đinh ấy vớt ra lại câm cành hòe nhúng vào dầu sôi rải đều khắp mình
nhà vua,lạ thay lông lá trên mình nhà vua tự nhiên rụng hết,chẳng còn tiếng
gâm gừ,run sợ như lúc trước,nét mặt nhà Vua cũng tươi tỉnh dàn lên giọng nói
cũng trở lại bình thường,sau đó nhà Vua hoàn toàn khỏi bệnh.Nhà
Vua liền phong Nguyễn Minh Không lên làm Quốc Sư ban cho mấy trăm họ
được hưởng lộc suốt đời.Niên hiệu Thái Bình thứ 22 Minh Không tạ thế hưởng
76 tuổi.Còn Vua Lý Thần Tông đúng như Từ Đạo Hạnh báo chỉ tạm làm vua
một Kỷ mà thôi quả nên sau khi khỏi bệnh Lý Thần Tông chỉ sống thêm được
hai năm nữa.Nhà Vua mất ở tuổi 23 năm 1138. Khi nhà vua mất ở trên núi Sài
Sơn bỗng có khí thiêng bốc lên ai ai cũng sợ hãi. Vua Lý Anh Tông con của vua
Lý Thần Tông bèn sai người làm lễ quốc tế lại tôn phong Từ Đạo Hạnh làm
Thượng Đẳng Tứ Linh Thần khi ấy thân xác của Từ Đạo Hạnh vẫn còn nguyên
trong khám thể không rửa nát lại có mùi hương thơm phức. Gần 300 năm sau,
khi ấy nhà Lý đã hết cả nhà Trần và nhà Hồ sau đó cũng đã hết.Vào niên hiệu
Vĩnh Lạc nhà Minh năm 1403 đến 1424 nước ta đang bị ngoại bang đô hộ và
xâm lược thực thi chính sách triệt phá văn hóa đến tận gốc,cùng với việc thu
gom sách vở,giấy tờ hiện vật văn hóa,đem về nước hoặc dốt bỏ đi.Bọn quan
quân nhà Minh cũng không chừa đến cả chân thân Đại Thánh Từ Đạo Hạnh,khi
đến núi Sài Sơn chùa Thiên Phúc bọn chúng nhìn vào kháng thể còn nguyên
vẹn,tươi tỉnh như khi đang sống lại có mùi thơm từ đáy phát ra.Bọn chúng chất
cũi vào châm củi đốt,tuy vậy nhưng chúng run sợ liền đem trọ đắp thành tượng lOMoAR cPSD| 57855709
đem vào khám thể vào chùa như cũ.Đến niên hiệu Quanh Thuận năm 1406 đến
năm 1469 đời Vua Lê Thánh Tông Trường Lan Hoàng Hậu sai Trình Quốc
Công lên chùa Thiên phúc Cầu Tự liên thấy một phiến đá bay vào đàn tràng,nên
liền mang về trình với Hoàng Hậu.Ít lâu sau Hoàng Hậu mơ thấy rồng vàng đậu
bên sườn rồi có mang sinh ra vua Lê Hiến Tông.Sau đó để trả ơn Hoàng Hậu sai
xây dựng am hiển thị tại chùa Thiên Phúc và cho khắc bia ghi lại sự tích này.Từ
đó chùa ngày một lih thiêng,mỗi khi có sự gì quan trọng dân chúng lại đến đây
cầu đạo và nhận thấy việc gì cũng linh ứng,tới nay hương khói không lúc nào dứt.
*Vai trò của Thiền Sư Từ Đạo Hạnh :
Từ Đạo Hạnh không chỉ là người luôn nuôi trí lớn, hiếu học mà còn ham thích
văn hóa, nghệ thuật, thể thao và các trò vui chơi dân giã. Ông là một người đa
tài. Việc Từ Đạo Hạnh quan hệ với nho gia Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và
nhà sư Giác Hải, Minh Không, nghệ sĩ phường chèo tên Vi Ất và tìm những nhà
sư đương thời nổi tiếng để “tầm sư, học đạo” cho thấy, ông vốn là con người
ham hiểu biết và có khả năng tiếp thu tinh hoa tri thức để tự bồi dưỡng làm giàu
năng lực trí tuệ của mình và trở thành một người đa tài. Không những vậy Thiền
Sư Từ Đạo Hạnh còn là tổ nghề của loại hình nghệ thuật múa rối nước. Ông giỏi
về văn thơ và để lại những bài thơ nổi tiếng mà điển hình là “Giáo trò”, đến
mức Lê Mạnh Thát coi: “Giáo trò trở thành tác phẩm văn học tiếng Việt đầu tiên
hiện biết ”. Là một thiền sư, Đạo Hạnh luôn gắn đạo với đời, Phật giáo với dân
tộc. Ông thực sự lo cho vận nước khi có tà đạo lũng loạn làm mê hoặc lòng
người, phá rối chính pháp. Việc Đạo Hạnh chặn lại tiến trình thác thai của Giác
Hoàng là biểu hiện của một nhà sư có trách nhiệm với dân với đạo, cho dù bản
thân ông bị ghép vào trọng tội. Ông chỉ thoát chết, khi Sùng Hiền Hầu đứng ra
giải cứu. Nên coi đó là hành vi can đảm của Đạo Hạnh, khi dám chấp nhận sự
hy sinh của cá nhân để cứu lấy những sinh mạng con trẻ. Nếu sự thực Lý Thần
Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh, thì thông qua vị vua này, ông đã
làm cho: “Sản xuất nông nghiệp phát triển. Dân no đủ nên giặc giã cũng ít. Theo
khảo sát của một số nhà nghiên cứu, thiền sư Từ Đạo Hạnh còn là một nghệ sĩ
chèo và có những đóng góp quan trọng trong bước đi ban đầu của bộ môn nghệ
thuật sân khấu đặc sắc này. Gạt bỏ những chuyện huyễn hoặc, kỳ bí như lớp lOMoAR cPSD| 57855709
sương mù bao quanh Từ Đạo Hạnh, ta thấy lộ ra một vị Thiền sư đa tài. Ông đã
có đóng góp nhất định cho chính trị, đạo đức, văn hóa dân tộc.
2. các lớp tôn giáo, tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của chùa Thầy:
***Khái niệm Tứ Bất Tử:
“ Tứ” nghĩa là bốn ; “ Bất” nghĩa là không . Tứ Bất Tử là bốn vị thánh bất tử
trong tín ngưỡng Việt Nam; đó là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên vương,
Chử Đồng Tử và Công chúa Liễu Hạnh.
Tản Viên Sơn Thánh, hay Sơn Tinh, là vị thần núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của
các núi ở Việt Nam. Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai.
Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng, tượng trưng cho tinh thần chống giặc
ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ.
Chử Đồng Tử, còn được gọi là Chử Đạo Tổ; tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa,
tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có.
Công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh; tượng trưng
cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng, thơ văn.
Trong 4 vị trên thì 3 vị nam thần đầu tiên theo truyền thuyết có từ thời Hùng
Vương và đã được thờ ở rất nhiều nơi từ rất lâu. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là người
phụ nữ duy nhất có thật, mới được đưa vào hệ thống Thần Thánh từ thời Hậu Lê.
Do Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện khá muộn so với 3 vị kia nên có ý kiến cho rằng
bên cạnh 4 vị thánh kia, Tứ bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt Nam còn có 2
vị thánh khác là Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không. lOMoAR cPSD| 57855709
Từ Đạo Hạnh, còn được gọi là Thánh Láng; Nguyễn Minh Không, còn được gọi
là Thánh Nguyễn; các vị này là Thánh Tổ của Phật giáo, đóng vai trò trong Tứ
Bất Tử trước thế kỷ 15-16; tượng trưng cho khả năng phi phàm tồn tại trong
chính mỗi người nếu được khai phát một cách đúng đắn. Họ là đại diện của văn
hóa Lý - Trần vốn lấy Phật giáo làm quốc giáo
*** Tín ngưỡng và phong tục thờ cúng tại chùa Thầy
Chùa Thầy theo đạo Phật giáo Đại thừa, một trong ba phái lớn của Phật giáo,
tập trung vào việc tu tập và giảng dạy theo những bài pháp thoại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Khi đến với chùa thầy, phật tử thường thực hiện các nghi lễ cung dường, điển
hình như cúng tượng phật, dâng hoa, dâng nến. Các nghi lễ này thực hiện nhằm
bày tỏ lòng tôn kính, đức tin đối với Đức Phật và các vị thần linh.
Hiện nay, tại chùa Thầy đang thờ Ninh Sơn Từ Đạo Hạnh với ba vai trò : một vị
vua, một vị phật, một vị thánh. Ông được tôn kính và thờ cúng với ba vai trò bởi
lẽ xuất phát từ những đóng góp và cuộc đời kỳ diệu của ông: a. Vị vua: -
Từ Đạo Hạnh, sau khi tu hành và đạt được nhiều phép thần thông, được
cho là đã chuyển kiếp thành vua Lý Thần Tông. Truyền thuyết kể rằng sau khi
vua Lý Nhân Tông qua đời mà không có con nối dõi, Từ Đạo Hạnh đã nhập thể
vào con trai của Sùng Hiền Hầu để trở thành Lý Thần Tông. Vai trò này được
nhắc đến để tôn vinh sự đóng góp của ông cho triều đình và đất nước. b.Vị Phật: -
Từ Đạo Hạnh không chỉ là một tu sĩ xuất chúng mà còn được coi là một
vị Bồ Tát sống, một người đã đạt được nhiều thành tựu tâm linh cao cả. Ông đã lOMoAR cPSD| 57855709
tu hành và dạy dỗ đệ tử, giúp nhiều người đạt được giác ngộ. Với sự nghiệp tu
hành và những phép lạ, ông được dân gian coi là hiện thân của Phật, người
mang lại sự bình an và hạnh phúc cho chúng sinh. c. Vị thánh:
- Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Từ Đạo Hạnh còn được tôn kính như
một vị thánh, người có khả năng thần thông và bảo vệ dân lành. Các câu chuyện
về ông thường gắn liền với các phép lạ và hành động cứu nhân độ thế. Ông
được coi là một vị thánh trong lòng người dân, biểu tượng của sự che chở và linh thiêng.
Những vai trò này phản ánh sự đa dạng và phong phú trong cách nhìn nhận và
tôn thờ các nhân vật lịch sử và tôn giáo trong văn hóa Việt Nam. Từ Đạo Hạnh
được thờ cúng không chỉ vì sự nghiệp chính trị hay tôn giáo mà còn vì những
giá trị tinh thần và văn hóa ông để lại cho đời sau.
Các lễ hội của chùa Thầy
Lễ mộc dục hay còn gọi là lễ tắm tượng, hằng năm vào sáng mùng 5 tháng ba,
người dân cùng với người trong chùa chuẩn bị nước thơm và khăn mới để tiến
hành nghi lễ. Nước tắm tượng là nước mưa được nấu cùng 5 loại lá thơm. Tham
gia lễ tắm tượng với sư trụ trì trong chùa là 12 vị bô lão trong làng. Để được
chọn tham gia vào nghi lễ này thì các bô lão phải là người có đạo đức tốt, được
tính nhiệm và được người dân trong làng kính trọng, gia đình hạnh phúc, tuy
lớn tuổi nhưng đầu óc phải minh mẫn. Buổi lễ được diễn ra trong không khí
trang nghiêm chỉnh tề dưới sự chứng kiến của khách thập phương và dân làng.
Lễ phụng nghênh bài vị và cúng An vị
Tiếp theo của phần lễ là lễ rước bài vị Đức Thánh Từ Đạo từ tòa điện Thánh
xuống tòa chùa Trung để đức Thánh có thể chứng kiến những nghi lễ diễn ra lOMoAR cPSD| 57855709
trong ba ngày hội. Nghi lễ bắt đầu bằng bài đọc kinh trong làng hương khói
nghi ngút. Sau khi đọc bài kinh xin phép thì nhà sư và các bô lão tiến hành tắm
tượng thành. Tượng được tiến hành rau rửa cẩn thận, kỹ lưỡng bằng nước thơm
và thay áo mới. Mọi hoạt động điều được diễn ra trong sự trang nghiêm và kính
cẩn, bài vị của thánh được khiên cẩn thận, dọc lối đi xuống là hàng bô lão đeo
tràng hạt, cầm phướn, bài bị được rước yên vị ở tòa chùa Trung
- Biểu tượng “thượng gia hạ kiều”
Khi đi tham quan chùa Thầy, ta sẽ bắt gặp hai dạng kiến trúc: Dạng cầu Thượng
gia hạ kiều ở hai chiếc cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên nối hai bên bờ và đảo của
Hồ Long Trì và Dạng gian Ống Muống nối Tiền Đường với Thượng Điện có kết
cấu theo kiểu Thượng gia hạ kiều. Đây là biểu tượng cho chiếc cầu của tâm, của
giác, là cấu nối dẫn dắt chúng sinh tiến lại gần hơn với Phật và Bồ Tát, đưa con
người rời khỏi mê muội để về với thế giới Phật, kết nối thế giới trần tục của con
người với thế giới thanh tịnh của nhà Phật…mặc dù bên dưới không hề có nước.
- Biểu tượng núi, tín ngưỡng thờ đá
Chắc hẳn các bạn sẽ khá ngạc nhiên về điều này nhỉ? Ngoài được bao phủ bởi
quần núi tự nhiên đồ sộ bao quanh chùa, ta sẽ còn bắt gặp một biểu tượng núi
trong kiến trúc của tòa Điện Thánh nằm ở gian cuối - chùa Hạ. Tương truyền
rằng, Từ Đạo Hạnh đã cho trấn yểm trước khi cho xây dựng chùa. Ở vị trí ngay
lối vào Điện Phật tiếp giáp với Điện Thánh hiện vẫn còn một tảng đá lớn chôn
dưới đất- phiến đá huyết long mạch, hay còn gọi là phiến đá âm, được Đức
Thánh Tổ trấn yểm. Người dân và các Phật tử thường bỏ dép để đi chân đất lên
đá xem đó là cách tốt nhất để có được sự giao tiếp với trời đất. Phiến đá được
Từ Đạo Hạnh trì chú kinh Đại Bi Đà La cho các vị trư thiên đình nghe chú niệm
phật. Nếu như chùa Hạ có phiến đá âm mà Đức Thánh Tổ trì chú kinh Đại Bi
Đà La thì chùa Thượng có phiến đá dương nổi lên mặt đất và không di chuyển,
nếu di chuyển thì ngôi chùa sẽ bị động. Ngoài ra, ta còn phải kể đến Hang
Thánh Hóa, hang Cắc Cớ nơi lưu giữ nhiều truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ đá. lOMoAR cPSD| 57855709 - Biểu tượng hoa sen
Nằm giữa hồ nước lung linh, nhà Thủy Đình hiện lên với những mái đao uốn
cong, ngói mũi hài lô xô, ăn nhập với hàng lan can gỗ, phần cổ diêm và những ô
cửa rỗng quanh những bức tường cao làm cho cảnh sắc nơi đây thêm phần cổ
kính, thiêng liêng trong không gian tĩnh mịch nhà Phật. Với hình khối vuông,
bốn mái uốn cong, hai tầng với tám đầu đao so le nhau ôm vào mái, Thủy Đình
hiện trên mặt hồ chẳng khác gì một bông sen trên mặt nước.
***Địa điểm nghiên cứu:
Tiền đường (chùa Hạ): dài 20m, rộng 5m, cao 5,2m gồm 3 gian 2 chái, dựng trên
nền cao khoảng 1m so với sân chùa. Kết cấu bộ vì có 4 hàng chân cột, bộ vì nóc
giá chiêng - kẻ suốt, mái lợp ngói mũi hài, bốn đầu đao cong vươn lên. Trang trí
trên bộ mái có makara, lân, rồng. Hai đầu hồi làm kiểu vỉ ruồi, trổ thủng hình mặt
trời, hoa cúc, vấn xoắn tròn xen lẫn với mây cụm hình đao mác. Hệ thống cửa
kiểu bức bàn. Ở ván nong, ván lá gió trang trí tia lửa, lá đề …
chùa thờ ba đức phật cao nhất :Tam thế trư phật. Đức phật từ quá khứ; Đức Phật
tu thời hiện tại và Đức Phật tu thời tương lai. Đức phật tu trong quá khứ mang
dáng vẻ gầy gò ngài mặc áo bán thân nửa người . Tên ngài là Tuyết Sơn .Ngài
tu trong rừng 6 năm, ngày ngày ngài chỉ ăn một hạt vừng, uống một chén nước
Tam Thế Trư Phật mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc về cuộc sống. Nó không
chỉ nhắc nhở ta phải biết trân trọng cuộc sống hiện tại và sống sao khi nhìn lại
quá khứ ta thấy thật đáng quý, mà sống cuộc sống hiện tại lạc quan, vui vẻ.
chùa Hạ còn thờ bốn vị Tứ Trấn Thiên Vương gồm thần Sấm, thần Sét , thần
Mưa , thần Gió.Bốn vị về chù nghe chú đại bi Đà La Ni của Đức Thánh Tổ, vì
mãi nghe nên khi trở về trời mà trời đã tối, bốn vị này lộ thiên cơ nên không thể
trở về trời được nữa. Người đời sau ghi nhớ công ơn Đức Thánh Tổ đã tạc bốn
vị này để trấn giữ bốn cửa Đông Tây Nam Bắc. Mọi người truyền tai nhau, khi
ai đi đâu đến đây xin sẽ được các ngài phù hộ bình an, mưa thuận gió hòa
Nhà cầu (ống muống): có chức năng nối tiền đường với thượng điện, gồm 1
gian, có 2 mái chạy dọc, dài 4,1m, rộng 4,5m, kết cấu 2 bộ vì 4 hàng chân cột
và 4 kẻ góc đỡ đầu mái. Bộ vì kèo kiểu kẻ chuyền giá chiêng với những trụ lOMoAR cPSD| 57855709
ngắn. Ở 2 hàng lan can, vách ngăn gỗ trang trí chấn song con tiện, bên dưới chia
4 tầng, có nhiều họa tiết trang trí điển hình cho nghệ thuật điêu khắc gỗ thế kỷ XVII.
Thượng điện (chùa Trung): gồm 3 gian 2 chái, dài 20m, rộng 9,5m và cao
5,5m, nền cao hơn nền tiền đường 0,5m. Thượng điện có khám thờ bên trong. Kết
cấu bộ vì kiểu chồng rường - giá chiêng và giá chiêng kẻ suốt. Mái lợp ngói mũi
hài, với kết cấu tàu đao - lá mái với các góc đầu đao uốn cong. Thượng điện có
kết cấu khá thông thoáng nhờ vào hệ thống cửa bức bàn gỗ bao hai bên hồi và phía sau.
Điện Thánh (chùa Thượng): cao hơn điện Phật 0,95m, gồm 1 gian 2 chái lớn,
dài 14,7m, rộng 11,7m và cao 6m. Bộ khung gồm 4 cột cái, 16 cột quân. Trong 4
cột cái có 1 cột gỗ ngọc am và một cột gỗ chò vẩy có chu vi 1,8m. Vì nóc kiểu
chồng rường con nhị - giá chiêng”. Trang trí hoa văn bên trong điện Thánh rất ít.
Bên ngoài, ở cả 3 mặt ván gỗ bưng được chạm trổ khá cầu kỳ các đề tài rồng, lân,
phượng, hoa lá, vân mây và những đường cánh sen chạm lộng nhiều lớp. Phía
sau, từ cửa hậu xuống là hệ thống bậc đá (có đôi sấu đá đầu nghê, mình sóc mang
đậm phong cách điêu khắc thời Trần
Ngoài ra, chùa Thầy còn được biết đến với những pho tượng cổ, quý giá. Tổng số
36 pho tượng cổ, những pho tượng ấy mang ý nghĩa to lớn cho nền tảng tín
ngưỡng, tôn giáo của dân tộc 3. Kết luận:
Như vậy,chùa Thầy gắn với tên tuổi của Thiền Sư Từ Đạo Hạnh, một người
không chỉ có đức hạnh cao cả mà Ngài còn mang một vai trò to lớn cho văn hóa,
kinh tế, chính trị đối với Đất Nước ta. Ngài không chỉ là một vị Thiền Sư, vị
Thánh mà còn là một “người thầy”, bởi Ngài là người dạy cho dân chúng biết đến
nghệ thuật múa rối nước, làm thuốc trị bệnh cứu người, hơn thế nữa Đạo Hạnh là
một Thiền Sư luôn gắn đạo với đời Ông thực sự lo cho vận nước khi có tà đạo
lũng loạn làm mê tín lòng người phá rối chính pháp. Qua những vai trò to lớn ấy,
khẳng định rằng Thiền Sư Từ Đạo Hạnh là một vị đáng tôn thờ , không chỉ qua
sự “linh thiêng” của chùa Thầy được truyền lại qua lớp thời gian mà còn thể hiện
sự tôn trọng , biết ơn đến công lao to lớn của Đạo Hạnh. Không những vậy,chùa
Thầy còn mang tín ngưỡng thờ hiện tượng tự nhiên thể hiện qua phiến đá âm và lOMoAR cPSD| 57855709
phiến đá dương được Đức Thánh Tổ trấn yểm, với mong muốn đem lại sức
khỏe,bình an , may mắn cho mọi người.