


Preview text:
lOMoAR cPSD| 59452058 DÂN TỘC LỰ
1. Nguồn gốc lịch sử -
Người Lự có vốn có nguồn gốc ở Xíp Xoong Păn Na (Vân Nam, Trung Quốc),
dicư vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ XII sau công nguyên. Họ là một trong những
cư dân có mặt sớm nhất tại vùng thung lũng Mường Thanh (tỉnh Điện Biên ngày nay). -
Tại đây họ đã xây thành Xam Mứn (Tam Vạn) và khai khẩn nhiều ruộng đồng
- Vào thời chiến tranh phong kiến, người Lự phải phân tán đi khắp nơi, một bộ phận
nhỏ chạy lên sinh sống ở vùng núi Phong Thổ, Sìn Hồ. -
Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Tây Bắc, họ có mối quan hệ lịch sử, xã
hội với nhiều tộc người, đặc biệt với cộng đồng người Thái Đen, do các chúa đất
cầm đầu trong việc chiếm cứ đất đai, nhất là các vùng thung lũng, nơi thuận lợi cho
kinh tế nông nghiệp vùng miền núi. Họ cũng có quan hệ với cộng đồng Lự ở Trung Quốc và Lào.
2 Phân bố địa lý
- Ngày nay, người Lự cư trú chủ yếu tại các xã Bản Hon, Bình Lư, Nà Tằm, huyện
Tam Đường (thuộc huyện Phong Thổ cũ); các xã Ma Quai, Nậm Tăm, huyện Sìn
Hồ, tỉnh Lai Châu và một số ít sống rải rác, xen kẽ với người Thái ở huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên và huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.
- Người Lự cư trú thành cộng đồng bản tương đối tập trung và biệt lập ở vùng thấp
ven chân núi và các thung lũng nhỏ. Trên địa bàn tỉnh Lai Châu, người Lự cư trú
tập trung tại 17 bản thuộc bốn xã, hai huyện, với dân số các bản ít nhất từ 19 hộ
với trên 100 khẩu (bản Bãi Trâu, xã Bản Hon, Tam Đường) và bản đông nhất hơn
120 hộ với hơn 600 khẩu (bản Đông Pao cũng thuộc xã Bản Hon, Tam Đường).
3. Dân số, ngôn ngữ -
Dân số: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, dân số dân tộc
Lự là 6.757 người (trong đó nam: 3.439 người, nữ: 3.318). -
Ngôn ngữ: Tiếng nói chính thức của người Lự là tiếng Lự, thuộc nhóm ngôn
ngữ Tày-Thái, họ ngôn ngữ Kra-Dai (Tai-Kadai). ( có thể nói 1 vài câu tiếng tạo điểm nhấn) -
Dân tộc Lự có tiếng nói riêng tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng. Trong giao
tiếp giữa các thành viên họ vẫn sử dụng ngôn ngữ truyền thống, ngoài ra còn sử
dụng tiếng phổ thông (tiếng Việt) để giao tiếp với các cộng đồng khác. Bên cạnh đó,
họ còn học và sử dụng một số tiếng của người Thái, Lào, H’Mông. 4.Đặc điểm
chính của dân tộc Lự *Tôn giáo, tín ngưỡng: lOMoAR cPSD| 59452058 -
Người Lự quan niệm vũ trụ có ba tầng: Mường Phạ (mường trời) - tầng cao
nhất của thế giới các vị Then, nơi trú ngụ của tổ tiên các dòng họ (đẳm pang); Mường
Piêng - tầng mặt đất, thế giới của con người và muôn vật; Mường Lúm (tầng dưới
cùng) - thế giới của người lùn nằm sâu trong lòng đất. Mường trời hình tròn úp lên
mặt đất, do Then lớn (then luông) chỉ huy các then đúc, then làm mưa, then ánh
sáng, then xử tội... cai quản. -
Tín ngưỡng dân gian của người Lự là tín ngưỡng đa thần. Người Lự tin rằng,
các cơ thể sống đều có hồn, khi chết biến thành ma (phi). Người Lự quan niệm có
ma lành và ma ác. Ma lành là ma tổ tiên, ma bản làng thường hay phù hộ con cháu
mạnh khỏe, mùa màng bội thu, chăn nuôi phát triển. Ma ác là loại ma của những
người chết bất đắc kỳ tử, không ai thờ cúng, hay quấy nhiễu vòi ăn hoặc ma sông, ma suối, ma rừng… -
Người Lự thờ cúng tổ tiên ở gian “húng” trong nhà, mỗi năm một lần vào
tháng Giêng (theo lịch người Lự, tương đương với tháng mười âm lịch). *Trang phục: -
Từ khâu trồng bông, cán bông, xe sợi đến khi thành hình tấm áo, manh quần,
bộ trang phục truyền thống đều do tay người phụ nữ Lự đảm nhiệm. Bộ nữ phục Lự
gồm: khăn, áo, váy, thắt lưng và các đồ trang sức đi kèm như hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích, túi… -
Để trang điểm thêm, trên mỗi khăn, họ đều đính những dây cườm màu vàng
có kết những tua bông ngũ sắc ở đầu dây. Đối với các cô gái trẻ chưa có chồng, trong
những dịp lễ, tết, hội hè, cưới xin họ còn nối thêm vào đầu khăn một dải kim loại
màu trắng và gắn thêm nhiều tua bông vắt theo dải khăn phía sau đầu. -
Trong các dịp lễ, phụ nữ lớn tuổi thường mặc áo dài màu đen, kín tà (chỉ xẻ
một quãng ngắn ở dưới hông), người Việt gọi là áo “tầm vông” hay áo “cổ Bà Lai”,
quần ống rộng, màu đen và quanh cổ quấn một khăn trắng vắt qua vai thành hai múi.
Nếu trong gia đình và họ hàng có người thân qua đời thì mọi phụ nữ trong nhà phải
tháo những dây cườm có kết tủa bông màu ra và phải qua một cái Tết (âm lịch) mới đeo trở lại đủ bộ. -
Khi còn bé, trẻ em gái sau khi xỏ lỗ tai, phải đeo tăm với số lượng tăng dần,
đến khi đủ rộng sẽ chuyển sang đeo hoa tai. -
Đàn ông Lự thường đeo gươm, không những để tự vệ mà còn là một cách
trang trí. Trang phục của phụ nữ Lự rất giàu tính thẩm mỹ, nhất là nghệ thuật sử
dụng màu sắc, trang trí các mô típ hoa văn. *Hôn nhân gia đình -
Thanh niên Lự được tìm hiểu nhau tự do rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn,
nhưng họ phải nhờ thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới lấy nhau. Con trai phải lOMoAR cPSD| 59452058
ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Tục cưới xin gồm ba bước: ăn giáp tối (lễ nhập phòng),
ăn mới (tổ chức ăn uống và nhà trai dâng lễ vật cho nhà gái trong đó phải có một thanh gươm), đón dâu. -
Con gái lấy họ theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ, tên con gái có chữ đệm
Yý. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bỏ
vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo tập tục.
*Truyền thống nhuộm răng đen -
Người Lự có quy ước con gái từ 13 - 14 tuổi trở lên đều phải nhuộm răng đen,
nếu người con gái nào không nhuộm răng đen, thì không phải là con gái người Lự,
sẽ bị chê cười và nhất là sẽ kém duyên, những chàng trai người Lự sẽ không muốn
lấy làm vợ. Đây là một phong tục truyền thống có từ lâu đời của người dân tộc Lự
với ý nghĩa làm cho răng chắc và đẹp hơn. Người Lự nhuộm răng đen bằng loại cây
có tên “mạy chông cài” hay “mạy tỉu”. Việc nhuộm răng thường được thực hiện sau khi ăn cơm tối. -
Tuy nhiên, đến nay phong tục này đã bị mai một, hiện nay các cô gái Lự không
còn nhuộm răng đen, chỉ còn lại ít phụ nữ lớn tuổi vẫn còn giữ thói quen này.
5.Điều kiện kinh tế: -
Trồng trọt: thành thạo canh tác lúa nước, dùng sức kéo trâu, bò để cày bừa,
làm đất; sử dụng phân xanh, phân chuồng để bón lúa. Đặc biệt, người Lự sáng tạo
ra hệ thống mương, phai truyền thống để dẫn thủy nhập điền. -
Chăn nuôi: Đây là hoạt động kinh tế quan trọng trong việc cung cấp sức kéo,
thịt... cho các hộ gia đình và địa phương, hằng năm mang lại thu nhập đáng kể cho
các hộ gia đình. Người Lự thường chăn nuôi trâu để lấy sức kéo; nuôi lợn, gà, vịt để
lấy thịt; nuôi ngựa để thồ ngô, lúa,... -
Khai thác các nguồn lợi tự nhiên: hái lượm, săn bắt, phục vụ cuộc sống. Hàng
ngày, đồng bào khai thác gỗ, tre, vầu để làm nhà, thu hái các sản vật rừng như măng,
mọc nhĩ, nấm hương,… về làm rau ăn; lấy ong mật và các loại cây làm thuốc chữa
bệnh và săn bắn các loại chim thú, cá,… cải thiện bữa ăn. -
Nghề thủ công: Người Lự nổi tiếng khéo tay trong các nghề đan lát, dệt vải,
đúc bạc nén và làm đồ trang sức. . Mỗi gia đình thường có vài ba khung cửi. Tài
nghệ dệt, may, thêu đều khá cao, từ chiếc quần của đàn ông, váy, áo, khăn của phụ
nữ cho đến những đồ dùng sinh hoạt như rổ, rá, giỏ đựng rau... Tất cả những sản
phẩm này đều nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống tự cung tự cấp.