Ngô Quyền là ai? Giới thiệu đôi nét về tiểu sử Ngô Quyền

Ngô Quyền (897-944) là một anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử. Ông sinh ra vào ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (năm 897) tại ấp Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội. Cha của ông là Ngô Mân, đang làm chức châu mục Đường Lâm, còn mẹ ông là bà họ Phạm. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:
Môn:

Lịch Sử 7 430 tài liệu

Thông tin:
5 trang 5 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Ngô Quyền là ai? Giới thiệu đôi nét về tiểu sử Ngô Quyền

Ngô Quyền (897-944) là một anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử. Ông sinh ra vào ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (năm 897) tại ấp Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội. Cha của ông là Ngô Mân, đang làm chức châu mục Đường Lâm, còn mẹ ông là bà họ Phạm. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

21 11 lượt tải Tải xuống
Ngô Quyền là ai? Giới thiệu đôi nét về tiểu sử Ngô Quyền
1. Tiểu sử và thân thế Ngô Quyền
Ngô Quyền (897-944) là một anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử. Ông sinh ra vào ngày
12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (năm 897) tại ấp Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội. Cha của ông là Ngô Mân,
đang làm chức châu mục Đường Lâm, còn mẹ ông là bà họ Phạm. Ngô Quyền được miêu tả trong
sử sách là một người anh hùng tuấn kiệt, có trí dũng. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã được cha dạy bảo và
truyền thống yêu nước của mảnh đất hai vua. Khi trưởng thành, ông được đánh giá cường tráng,
khôi ngô và đã rèn luyện võ nghệ để chuẩn bị cho việc đánh đuổi quân đô hộ.
Theo sử sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi Ngô Quyền mới sinh ra, nhà có ánh sáng lạ đầy, dung
mạo khác thường có 3 nốt ruồi trên lưng. Thầy tướng cho rằng ông thể làm chủ một phương,
nên đặt tên ông là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, có vẻ khôi ngô, mắt ng như chớp, dáng đi thong
thả như hổ và có trí dũng. Sức mạnh của ông được miêu tả là có thể nâng được vạc bằng đồng.
Theo lịch sử, Ngô Quyền cùng với Dương Đình Nghệ đã đánh đuổi quân Nam Hán chiếm thành
Đại La vào năm 931. Khi Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, ông được giao cai quản vùng Châu
Ái (Thanh Hóa ngày nay) và được xưng là Tiết độ sứ.
Ngô Quyền một anh hùng tài năng nhiệt huyết, đã cống hiến hết mình để mang lại cuộc
sống an lành đầy đủ cho nhân dân trong khu vực của mình. Với sự khâm phục về tài đức của
Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã cho con gái yêu quý của mình, Dương Như Ngọc, làm vợ Ngô
Quyền.
Trong thời thơ ấu, Ngô Quyền sống cùng cha mẹ tại quê hương. Với sự giáo dục từ cha, Ngô
Quyền đã sớm trở thành một chuyên gia về nghệ sử dụng khí như gươm giáo binh
pháp. Khi đất nước mới giành được quyền tự trị với sự khởi đầu từ gia đình Khúc, Ngô Quyền đã
đứng lên tập hợp lực lượng trở thành một nhân vật quan trọng Đường Lâm, được nhân dân
địa phương kính trọng.
Ngô Quyền, vị vua đầu tiên của triều đại Ngô, chỉ một người vợ bốn người con trai. Con
trưởng Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập được cho là sinh vào thập niên thứ hai của thế kỉ 10
được chọn làm người kế vị của Ngô Quyền. Tuy nhiên, khi Ngô Quyền qua đời, Dương Tam
Kha đã cướp ngôi và Ngô Xương Ngập phải bỏ trốn. Sau khi Dương Tam Kha bị lật đổ vào năm
950, em trai của Ngô ơng Ngập, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đón anh trở về và hai anh
em cùng làm vua. Ngô Xương Văn đã phế truất Dương Bình Vương trùng hưng lại triều đại
Ngô, trị cùng với anh trai từ năm 950 đến năm 954. Sau khi anh trai mất vào năm 954, Ngô
Xương Văn tiếp tục trị vì độc lập cho đến khi qua đời vào năm 965, đánh dấu sự sụp đổ của triều
đại Ngô. Còn hai con trai còn lại của Ngô Quyền Ngô Nam Hưng Ngô Càn Hưng không
được sử sách đề cập gì thêm.
2. Sự nghiệp của Ngô Quyền
Vào tháng 3 mùa xuân năm 937, Dương Đình Nghệ, tiết độ sứ Giao Châu, bị giết bởi nha tướng
Kiều Công Tiễn để lên chức. Hành động phản bội này gây ra sự phẫn nộ trong dân chúng bị
phản đối kịch liệt bởi các tướng sĩ. Hoảng sợ trước sự trừng phạt của Ngô Quyền, họ Kiều đã cầu
cứu Nam Hán châm ngòi cho xâm lược của quân Nam Hán vào nước ta. Ngô Quyền đã đánh
bại quân xâm lược và giết Kiều Công Tiễn, nhưng vua Nam Hán đã sai con trai Lưu Hoằng Thao
đem thủy quân sang xâm lược nước ta, đe dọa đến nền độc lập của dân tộc.
Vào mùa đông năm 938, trong bối cảnh quân giặc Nam Hán dự định xâm lược nước ta qua sông
Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đưa ra một kế hoạch tài tình lợi dụng thủy triều để đánh bại giặc.
Ông đã bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt và cắm xuống lòng sông. Khi quân giặc tiến vào sông,
quân ta nhử giặc vượt qua trận địa cọc. Ngô Quyền đã chỉ huy quân từ ba phía tấn công giặc khi
thủy triều xuống. Quân giặc bị tấn công bất ngờ, quay đầu chạy ra biển nhưng bị cọc nhọn đâm
vào. Kết quả là, cửa sông Bạch Đằng trở thành nơi chôn vùi quân giặc Nam Hán tướng giặc
Hoằng Thao đã tử nạn. Vua Nam Hán sợ hãi và rút quân khỏi biên giới nước ta, không còn ý định
xâm lăng.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đánh dấu sự vinh quang của dân tộc, kết thúc thời kỳ
đô hộ của phương Bắc. Từ đó, đất nước độc lập và tự chủ. Ngô Quyền lên ngôi vua sau chiến thắng
lịch sử, đóng đô tại Cổ Loa, mở ra một kỷ nguyên mới xây dựng đất nước độc lập và tự chủ. Ông
bãi bỏ chức Tiết độ sứ tự xưng vương, đặt hiệu Tiền Ngô Vương. Điều này chấm dứt hơn
1000 năm đô hộ và bắt đầu một thời kỳ phục hưng đất nước. Ngô Quyền không để lại bất kỳ tác
phẩm văn học nào, nhưng sử sách ghi lại nhiều câu chuyện tốt đẹp về ông. Ngô Quyền được coi
người đã mở ra một kỷ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam với chiến thắng Bạch Đằng
lịch sử.
3. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền
Sau khi đánh bại được nội phản, Ngô Quyền họp các tướng để bàn kế sách. Với tài năng thao lược
vượt trội, Ngô Quyền được xem người chỉ huy thông minh nhất. Trong cuộc họp, Ngô Quyền
đã được đồng hành cùng người hùng xứ Đường Lâm. Ông Lâm đã cho rằng: “Hoằng Tháo là một
người ích, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, nghe tin Công Tiễn đã bị giết, không
người làm nội ứng, chúng ta đã thua rồi. Nhưng quân ta vẫn còn sức mạnh, địch đang lợi thế
về số lượng thuyền. Nếu ta không đề phòng trước thì có thể sẽ thất bại".
Trước cuộc xâm lược của nhà Hán, Ngô Quyền đã biết trước kế hoạch của chúng nắm quy
luật lên xuống của sông Bạch Đằng. Sông này rộng hơn hai dặm, có nhiều nhánh sông đổ lại, với
sóng cồn man mác giáp tận chân trời và cây cối um tùm che lấp bờ bến. Do vị trí địa lý, thủy triều
rất ảnh hưởng đến mực nước của sông, khiến lòng sông rộng lại sâu hơn, nước rút nhanh đến
30 cm mỗi giờ. Mực nước chênh lệch giữa lúc cao và lúc thấp có thể lên đến 2,5 - 3 mét.
Ngô Quyền đã đưa ra kế hoạch củng cố phòng thcủa mình bằng cách đóng các cọc lớn đóng
ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt. Thuyền của địch khi nước triều lên, tiến vào bên
trong hàng cọc, bấy giờ nghĩa quân sẽ dễ dàng chế ngự địch. Với sự ủng hộ của nghĩa quân, Ngô
Quyền cho lên rừng đẵn những y gỗ lim vót thành cọc đầu bịt sắt, sau đó cho lên thuyền và
đóng xuống lòng sông và dọc theo hai bờ sông Bạch Đằng để cản sức tiến công của địch.
Khi nước triều lên, Ngô Quyền cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến và rút nhanh để dụ giặc vào bãi cọc.
Thuyền của địch chủ yếu thuộc vào dạng lớn, khi nước sông Bạch Đằng xuống, thuyền dễ bị mắc
kẹt. Nhờ vào kế hoạch thông minh này, nghĩa quân ta đã triệt tiêu địch một cách nhanh chóng và
hiệu quả. Theo nhà sử học Lê Văn Hưu, Ngô Quyền là người mưu cao và đánh cũng giỏi.
Vào một ngày cuối đông năm 938, hơn hai vạn tinh binh cầm đầu bởi Vạn Vương Hoằng Tháo đã
đến Việt Nam theo đường thủy lên sông Bạch Đằng. Quân ta đã cho thuyền nhỏ bơi ra lòng sông
để nhử giặc và bãi cọc. Trong khi đó, đội quân Hoằng Tháo đã hăm hở đuổi theo vào một bãi cọc
ngầm mà không hề hay biết. Nhưng khi thủy triều đến nước rút nhanh tnhững chiếc thuyền
địch đã bị mắc kẹt. Nhân hội này, nghĩa quân Việt đã mai phục hai bên đánh giáp cà. Để
đánh trực diện, một đội quân thủy mạnh đã được lên kế hoạch đi trên những chiếc thuyền nhỏ. Kế
sách này làm đến đội quân hùng mạnh nhà Nam Hán rơi vào thế bí, cả hơn 20.000 quân bị tổn hại
đến hơn một nửa, tướng cầm đầu là Hoằng Tháo cũng bị tử trận và vùi xác trong sóng Bạch Đằng
Giang. Nhuệ khí của nghĩa quân được lãnh đạo bởi Ngô Quyền mạnh tới mức, quân địch đang
đóng sát biên giới cũng không dám tiếp ứng.
Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm, chỉ còn cách khóc thương con và cố gắng thu nhặt tàn quân trở v
nước. Tuy nhiên, Vua Nam Hán không thể chấp nhận được thất bại đã đổ toàn bộ tội lỗi này
cho trước tước tá lang Hầu Dung với tội danh “Không làm cho tinh thần quân phấn chấn”. Dù đã
chết, vị tướng này vẫn bị đối xử một cách tàn bạo tới mức, bị quật mộ, phơi thây để hả giận không
thương tiếc.
Trận sông Bạch Đằng chống giặc ngoại xâm đã dành được chiến thắng oanh liệt vào cuối năm
938, điều này đã ghi dấu trong lịch sử Việt Nam một trang sử rực rỡ và đáng tự hào.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của Ngô Quyền - vị vua tài ba nhân vật lịch sử đầu tiên đã giúp
Việt Nam xóa bỏ ách đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, trong Đại Việt sử thi của
Hồ Đắc Duy có ghi chép một câu thật đầy cảm xúc: “Một chiến thắng ngàn năm để lại Sông Bạch
Đằng mãi mãi thiên thu Đường Lâm xây dựng đồ Ngô Vương lưu dấu để cho đến giờ”. Trận
chiến lịch sử Bạch Đằng được coi một trong những chiến thắng quân sự lớn nhất của dân tộc
Việt Nam, khi đánh bại hơn 2 vạn tinh binh của quân Nam Hán. Sau chiến thắng đó, Ngô Quyền
xưng vương mở ra một thời trung hưng rực rỡ cho dân tộc. Trong sử sách, các chuyên gia sử
học đã ưu ái gọi ông “vua của các vị vua”. đã trôi qua hơn 1000 năm, trận Bạch Đằng lưu
danh sử ch tiếng tăm của vị vua tài ba, sách lược vẫn là đồng thời biểu tượng sáng ngời
cho ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử. Nó cũng là động lực quan trọng
để khơi dậy đánh thức tinh thần yêu nước niềm tự hào dân tộc, đxây dựng đất nước hưng thịnh
trong thời kỳ hội nhập. Đó lý do tại sao, trận Bạch Đằng vẫn được nhắc đến trong những diễn
văn, thơ ca và bài học lịch sử ở Việt Nam ngày nay.
4. Đất nước ta dưới sự trị vì của Ngô Quyền
Ngô Quyền lên ngôi vào ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức là ngày 1 tháng 2 năm 939). Trong mùa
xuân năm 939, Ngô Quyền đã tự xưng Ngô Vương xây dựng một nhà nước độc lập, trở thành
vị vua sáng lập ra nhà Ngô. Sách Đại Việt Sử Toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương,
cho biết rằng trong mùa xuân đó, vua đã bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt
trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Sách Việt sử tiêu án cũng có đoạn tương tự, nhưng nói
rằng Vương đã giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu,
đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô Cổ Loa thành, và đã làm
vua được 6 năm rồi mới qua đời.
Tuy nhiên, trước khi lên ngôi, Ngô Quyền đã trải qua nhiều khó khăn thử thách. Ông đã phải
đối mặt với sự thù địch của các chúa tể khác trong khu vực, và sau đó phải đối đầu với quân Nam
Hán xâm lược. Tuy nhiên, với tài năng và sự quyết tâm, Ngô Quyền đã đánh bại quân Nam Hán
trong trận chiến Bạch Đằng nổi tiếng, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử Việt Nam.
Sau khi lên ngôi, Ngô Quyền đã tập trung vào việc xây dựng đất nước. Ông đã thành lập các
quan quản nhà nước, đặt ra các chính sách kinh tế hội để phát triển đất nước. Ngoài ra,
ông cũng đã lập ra nhiều hệ thống phòng thủ để đảm bảo an ninh cho đất nước.
Với những đóng góp của mình, Ngô Quyền đã để lại di sản lớn cho đất nước và được tôn vinh
một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
- Về kinh đô: Ngô Quyền lên ngôi chuyển kinh đô lên Cổ Loa thuộc Phong Châu thay vì Đại
La vì ý thức tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ kinh nghiệm cũ đ
lại. Đại La từng trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, trung tâm
thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Lực lượng phương
Bắc tại Đại La dễ tiếp tay cho quân phương Bắc trở lại, vì vậy Ngô Quyền không chọn Đại La để
tránh thất bại như Khúc Thừa Mỹ.
- Về lãnh thổ: Học giả Đào Duy Anh cho rằng các triều đại phong kiến đầu tiên cai trị 8 châu nằm
trên đất Giao Châu cũ. Ngô Quyền chỉ quyền lực các châu miền trung và miền đồng bằng Bắc
bộ, vùng Thanh Nghệ. Các châu ky my trên miền thượng du thuộc nhà Đường trước đây do các
trưởng nắm giữ chỉ phải cống nạp. Những người thân cận, các tướng tá, hào trưởng địa
phương đã quy phục được nhà Ngô phong tước, cấp đất, như Phạm Lệnh Công Trà Hương,
Lê Lương ở Ái châu, và Đinh Công Trứ ở Hoan Châu.
5. Di tích thờ Ngô Quyền ở nước ta
Ở làng Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) có nhiều địa điểm liên quan đến Ngô Quyền và các tướng
lĩnh thuộc triều đại Ngô Vương. Tuy nhiên, đền thờ lăng Ngô Quyền thôn Cam m, xã
Đường Lâm, thị xã Sơn Tâymột trong những địa điểm nổi tiếng nhất. Đền được xây dựng bằng
gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, tường bao quanh được trang trí bằng hoành phi
khắc bốn chữ “Tiền Vương bất vọng”. Ngoài việc là một địa chỉ du lịch hấp dẫn, đền thờ và lăng
Ngô Quyền còn một điểm đến tâm linh được nhiều người dân trong ngoài vùng tìm đến để
cầu nguyện và dâng lễ. Hiện nay, tòa đại bái trong đền được sử dụng làm phòng trưng bày về thân
thế, sự nghiệp của NQuyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng. Với tầm quan trọng lịch
sử và tâm linh của nó, đền thờ và lăng Ngô Quyền là một địa điểm không thể bỏ qua khi đến làng
Đường Lâm.
| 1/5

Preview text:

Ngô Quyền là ai? Giới thiệu đôi nét về tiểu sử Ngô Quyền
1. Tiểu sử và thân thế Ngô Quyền
Ngô Quyền (897-944) là một anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử. Ông sinh ra vào ngày
12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (năm 897) tại ấp Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội. Cha của ông là Ngô Mân,
đang làm chức châu mục Đường Lâm, còn mẹ ông là bà họ Phạm. Ngô Quyền được miêu tả trong
sử sách là một người anh hùng tuấn kiệt, có trí dũng. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã được cha dạy bảo và
truyền thống yêu nước của mảnh đất hai vua. Khi trưởng thành, ông được đánh giá là cường tráng,
khôi ngô và đã rèn luyện võ nghệ để chuẩn bị cho việc đánh đuổi quân đô hộ.
Theo sử sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi Ngô Quyền mới sinh ra, nhà có ánh sáng lạ đầy, dung
mạo khác thường và có 3 nốt ruồi trên lưng. Thầy tướng cho rằng ông có thể làm chủ một phương,
nên đặt tên ông là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, có vẻ khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong
thả như hổ và có trí dũng. Sức mạnh của ông được miêu tả là có thể nâng được vạc bằng đồng.
Theo lịch sử, Ngô Quyền cùng với Dương Đình Nghệ đã đánh đuổi quân Nam Hán chiếm thành
Đại La vào năm 931. Khi Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, ông được giao cai quản vùng Châu
Ái (Thanh Hóa ngày nay) và được xưng là Tiết độ sứ.
Ngô Quyền là một anh hùng có tài năng và nhiệt huyết, đã cống hiến hết mình để mang lại cuộc
sống an lành và đầy đủ cho nhân dân trong khu vực của mình. Với sự khâm phục về tài đức của
Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã cho con gái yêu quý của mình, Dương Như Ngọc, làm vợ Ngô Quyền.
Trong thời thơ ấu, Ngô Quyền sống cùng cha mẹ tại quê hương. Với sự giáo dục từ cha, Ngô
Quyền đã sớm trở thành một chuyên gia về võ nghệ và sử dụng vũ khí như gươm giáo và binh
pháp. Khi đất nước mới giành được quyền tự trị với sự khởi đầu từ gia đình Khúc, Ngô Quyền đã
đứng lên tập hợp lực lượng và trở thành một nhân vật quan trọng ở Đường Lâm, được nhân dân
địa phương kính trọng.
Ngô Quyền, vị vua đầu tiên của triều đại Ngô, chỉ có một người vợ và bốn người con trai. Con
trưởng Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập được cho là sinh vào thập niên thứ hai của thế kỉ 10
và được chọn làm người kế vị của Ngô Quyền. Tuy nhiên, khi Ngô Quyền qua đời, Dương Tam
Kha đã cướp ngôi và Ngô Xương Ngập phải bỏ trốn. Sau khi Dương Tam Kha bị lật đổ vào năm
950, em trai của Ngô Xương Ngập, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đón anh trở về và hai anh
em cùng làm vua. Ngô Xương Văn đã phế truất Dương Bình Vương và trùng hưng lại triều đại
Ngô, trị vì cùng với anh trai từ năm 950 đến năm 954. Sau khi anh trai mất vào năm 954, Ngô
Xương Văn tiếp tục trị vì độc lập cho đến khi qua đời vào năm 965, đánh dấu sự sụp đổ của triều
đại Ngô. Còn hai con trai còn lại của Ngô Quyền là Ngô Nam Hưng và Ngô Càn Hưng không
được sử sách đề cập gì thêm.
2. Sự nghiệp của Ngô Quyền
Vào tháng 3 mùa xuân năm 937, Dương Đình Nghệ, tiết độ sứ Giao Châu, bị giết bởi nha tướng
Kiều Công Tiễn để lên chức. Hành động phản bội này gây ra sự phẫn nộ trong dân chúng và bị
phản đối kịch liệt bởi các tướng sĩ. Hoảng sợ trước sự trừng phạt của Ngô Quyền, họ Kiều đã cầu
cứu Nam Hán và châm ngòi cho xâm lược của quân Nam Hán vào nước ta. Ngô Quyền đã đánh
bại quân xâm lược và giết Kiều Công Tiễn, nhưng vua Nam Hán đã sai con trai Lưu Hoằng Thao
đem thủy quân sang xâm lược nước ta, đe dọa đến nền độc lập của dân tộc.
Vào mùa đông năm 938, trong bối cảnh quân giặc Nam Hán dự định xâm lược nước ta qua sông
Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đưa ra một kế hoạch tài tình và lợi dụng thủy triều để đánh bại giặc.
Ông đã bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt và cắm xuống lòng sông. Khi quân giặc tiến vào sông,
quân ta nhử giặc vượt qua trận địa cọc. Ngô Quyền đã chỉ huy quân từ ba phía tấn công giặc khi
thủy triều xuống. Quân giặc bị tấn công bất ngờ, quay đầu chạy ra biển nhưng bị cọc nhọn đâm
vào. Kết quả là, cửa sông Bạch Đằng trở thành nơi chôn vùi quân giặc Nam Hán và tướng giặc
Hoằng Thao đã tử nạn. Vua Nam Hán sợ hãi và rút quân khỏi biên giới nước ta, không còn ý định xâm lăng.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đánh dấu sự vinh quang của dân tộc, kết thúc thời kỳ
đô hộ của phương Bắc. Từ đó, đất nước độc lập và tự chủ. Ngô Quyền lên ngôi vua sau chiến thắng
lịch sử, đóng đô tại Cổ Loa, mở ra một kỷ nguyên mới xây dựng đất nước độc lập và tự chủ. Ông
bãi bỏ chức Tiết độ sứ và tự xưng vương, đặt hiệu là Tiền Ngô Vương. Điều này chấm dứt hơn
1000 năm đô hộ và bắt đầu một thời kỳ phục hưng đất nước. Ngô Quyền không để lại bất kỳ tác
phẩm văn học nào, nhưng sử sách ghi lại nhiều câu chuyện tốt đẹp về ông. Ngô Quyền được coi
là người đã mở ra một kỷ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử.
3. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền
Sau khi đánh bại được nội phản, Ngô Quyền họp các tướng để bàn kế sách. Với tài năng thao lược
vượt trội, Ngô Quyền được xem là người chỉ huy thông minh nhất. Trong cuộc họp, Ngô Quyền
đã được đồng hành cùng người hùng xứ Đường Lâm. Ông Lâm đã cho rằng: “Hoằng Tháo là một
người vô ích, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, nghe tin Công Tiễn đã bị giết, không có
người làm nội ứng, chúng ta đã thua rồi. Nhưng quân ta vẫn còn sức mạnh, và địch đang có lợi thế
về số lượng thuyền. Nếu ta không đề phòng trước thì có thể sẽ thất bại".
Trước cuộc xâm lược của nhà Hán, Ngô Quyền đã biết trước kế hoạch của chúng và nắm rõ quy
luật lên xuống của sông Bạch Đằng. Sông này rộng hơn hai dặm, có nhiều nhánh sông đổ lại, với
sóng cồn man mác giáp tận chân trời và cây cối um tùm che lấp bờ bến. Do vị trí địa lý, thủy triều
rất ảnh hưởng đến mực nước của sông, khiến lòng sông rộng lại sâu hơn, và nước rút nhanh đến
30 cm mỗi giờ. Mực nước chênh lệch giữa lúc cao và lúc thấp có thể lên đến 2,5 - 3 mét.
Ngô Quyền đã đưa ra kế hoạch củng cố phòng thủ của mình bằng cách đóng các cọc lớn đóng
ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt. Thuyền của địch khi nước triều lên, tiến vào bên
trong hàng cọc, bấy giờ nghĩa quân sẽ dễ dàng chế ngự địch. Với sự ủng hộ của nghĩa quân, Ngô
Quyền cho lên rừng đẵn những cây gỗ lim vót thành cọc và đầu bịt sắt, sau đó cho lên thuyền và
đóng xuống lòng sông và dọc theo hai bờ sông Bạch Đằng để cản sức tiến công của địch.
Khi nước triều lên, Ngô Quyền cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến và rút nhanh để dụ giặc vào bãi cọc.
Thuyền của địch chủ yếu thuộc vào dạng lớn, khi nước sông Bạch Đằng xuống, thuyền dễ bị mắc
kẹt. Nhờ vào kế hoạch thông minh này, nghĩa quân ta đã triệt tiêu địch một cách nhanh chóng và
hiệu quả. Theo nhà sử học Lê Văn Hưu, Ngô Quyền là người mưu cao và đánh cũng giỏi.
Vào một ngày cuối đông năm 938, hơn hai vạn tinh binh cầm đầu bởi Vạn Vương Hoằng Tháo đã
đến Việt Nam theo đường thủy lên sông Bạch Đằng. Quân ta đã cho thuyền nhỏ bơi ra lòng sông
để nhử giặc và bãi cọc. Trong khi đó, đội quân Hoằng Tháo đã hăm hở đuổi theo vào một bãi cọc
ngầm mà không hề hay biết. Nhưng khi thủy triều đến và nước rút nhanh thì những chiếc thuyền
địch đã bị mắc kẹt. Nhân cơ hội này, nghĩa quân Việt đã mai phục hai bên đánh giáp lá cà. Để
đánh trực diện, một đội quân thủy mạnh đã được lên kế hoạch đi trên những chiếc thuyền nhỏ. Kế
sách này làm đến đội quân hùng mạnh nhà Nam Hán rơi vào thế bí, cả hơn 20.000 quân bị tổn hại
đến hơn một nửa, tướng cầm đầu là Hoằng Tháo cũng bị tử trận và vùi xác trong sóng Bạch Đằng
Giang. Nhuệ khí của nghĩa quân được lãnh đạo bởi Ngô Quyền mạnh tới mức, quân địch đang
đóng sát biên giới cũng không dám tiếp ứng.
Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm, chỉ còn cách khóc thương con và cố gắng thu nhặt tàn quân trở về
nước. Tuy nhiên, Vua Nam Hán không thể chấp nhận được thất bại và đã đổ toàn bộ tội lỗi này
cho trước tước tá lang Hầu Dung với tội danh “Không làm cho tinh thần quân phấn chấn”. Dù đã
chết, vị tướng này vẫn bị đối xử một cách tàn bạo tới mức, bị quật mộ, phơi thây để hả giận không thương tiếc.
Trận sông Bạch Đằng chống giặc ngoại xâm đã dành được chiến thắng oanh liệt vào cuối năm
938, điều này đã ghi dấu trong lịch sử Việt Nam một trang sử rực rỡ và đáng tự hào.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của Ngô Quyền - vị vua tài ba và nhân vật lịch sử đầu tiên đã giúp
Việt Nam xóa bỏ ách đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, trong Đại Việt sử thi của
Hồ Đắc Duy có ghi chép một câu thật đầy cảm xúc: “Một chiến thắng ngàn năm để lại Sông Bạch
Đằng mãi mãi thiên thu Đường Lâm xây dựng cơ đồ Ngô Vương lưu dấu để cho đến giờ”. Trận
chiến lịch sử Bạch Đằng được coi là một trong những chiến thắng quân sự lớn nhất của dân tộc
Việt Nam, khi đánh bại hơn 2 vạn tinh binh của quân Nam Hán. Sau chiến thắng đó, Ngô Quyền
xưng vương và mở ra một thời trung hưng rực rỡ cho dân tộc. Trong sử sách, các chuyên gia sử
học đã ưu ái gọi ông là “vua của các vị vua”. Dù đã trôi qua hơn 1000 năm, trận Bạch Đằng lưu
danh sử sách và tiếng tăm của vị vua tài ba, sách lược vẫn là đồng thời là biểu tượng sáng ngời
cho ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử. Nó cũng là động lực quan trọng
để khơi dậy đánh thức tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc, để xây dựng đất nước hưng thịnh
trong thời kỳ hội nhập. Đó là lý do tại sao, trận Bạch Đằng vẫn được nhắc đến trong những diễn
văn, thơ ca và bài học lịch sử ở Việt Nam ngày nay.
4. Đất nước ta dưới sự trị vì của Ngô Quyền
Ngô Quyền lên ngôi vào ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức là ngày 1 tháng 2 năm 939). Trong mùa
xuân năm 939, Ngô Quyền đã tự xưng là Ngô Vương và xây dựng một nhà nước độc lập, trở thành
vị vua sáng lập ra nhà Ngô. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương, và
cho biết rằng trong mùa xuân đó, vua đã bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt
trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Sách Việt sử tiêu án cũng có đoạn tương tự, nhưng nói
rằng Vương đã giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu,
đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô Cổ Loa thành, và đã làm
vua được 6 năm rồi mới qua đời.
Tuy nhiên, trước khi lên ngôi, Ngô Quyền đã trải qua nhiều khó khăn và thử thách. Ông đã phải
đối mặt với sự thù địch của các chúa tể khác trong khu vực, và sau đó phải đối đầu với quân Nam
Hán xâm lược. Tuy nhiên, với tài năng và sự quyết tâm, Ngô Quyền đã đánh bại quân Nam Hán
trong trận chiến Bạch Đằng nổi tiếng, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử Việt Nam.
Sau khi lên ngôi, Ngô Quyền đã tập trung vào việc xây dựng đất nước. Ông đã thành lập các cơ
quan quản lý nhà nước, đặt ra các chính sách kinh tế và xã hội để phát triển đất nước. Ngoài ra,
ông cũng đã lập ra nhiều hệ thống phòng thủ để đảm bảo an ninh cho đất nước.
Với những đóng góp của mình, Ngô Quyền đã để lại di sản lớn cho đất nước và được tôn vinh là
một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
- Về kinh đô: Ngô Quyền lên ngôi và chuyển kinh đô lên Cổ Loa thuộc Phong Châu thay vì Đại
La vì ý thức tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ kinh nghiệm cũ để
lại. Đại La từng là trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, là trung tâm
thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Lực lượng phương
Bắc tại Đại La dễ tiếp tay cho quân phương Bắc trở lại, vì vậy Ngô Quyền không chọn Đại La để
tránh thất bại như Khúc Thừa Mỹ.
- Về lãnh thổ: Học giả Đào Duy Anh cho rằng các triều đại phong kiến đầu tiên cai trị 8 châu nằm
trên đất Giao Châu cũ. Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu miền trung và miền đồng bằng Bắc
bộ, vùng Thanh Nghệ. Các châu ky my trên miền thượng du thuộc nhà Đường trước đây do các tù
trưởng nắm giữ và chỉ phải cống nạp. Những người thân cận, các tướng tá, và hào trưởng địa
phương đã quy phục và được nhà Ngô phong tước, cấp đất, như Phạm Lệnh Công ở Trà Hương,
Lê Lương ở Ái châu, và Đinh Công Trứ ở Hoan Châu.
5. Di tích thờ Ngô Quyền ở nước ta
Ở làng Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) có nhiều địa điểm liên quan đến Ngô Quyền và các tướng
lĩnh thuộc triều đại Ngô Vương. Tuy nhiên, đền thờ và lăng Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm, xã
Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là một trong những địa điểm nổi tiếng nhất. Đền được xây dựng bằng
gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, có tường bao quanh và được trang trí bằng hoành phi
khắc bốn chữ “Tiền Vương bất vọng”. Ngoài việc là một địa chỉ du lịch hấp dẫn, đền thờ và lăng
Ngô Quyền còn là một điểm đến tâm linh được nhiều người dân trong và ngoài vùng tìm đến để
cầu nguyện và dâng lễ. Hiện nay, tòa đại bái trong đền được sử dụng làm phòng trưng bày về thân
thế, sự nghiệp của Ngô Quyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng. Với tầm quan trọng lịch
sử và tâm linh của nó, đền thờ và lăng Ngô Quyền là một địa điểm không thể bỏ qua khi đến làng Đường Lâm.