









Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601590 NGÔN NGỮ 1. KHÁI NIỆM
Ngôn ngữ chính là hệ thống tín hiệu thứ hai.
Hệ thống tín hiệu thứ hai là những tín hiệu của tín hiệu thứ nhất và nó phản ánh sự
vật, hiện tượng một cách khái quát. Bao gồm những kích thích là lời nói và chữ viết
cùng hệ thống những đường liên hệ thần kinh tạm thời trên vỏ não do loại kích thích này gây nên. 2. ĐẶC ĐIỂM
Ngôn ngữ là một tác nhân kích thích có điều kiện( rất phức tạp). Tiếng nói và chữ viết
được vỏ não tiếp nhận thông qua các cơ quan phân tích thị giác, thính giác , xúc giác.
Khi nói và viết còn có sự tham gia của các cơ quan phân tích cảm giác-vận động.
Ngoài ra , ngôn ngữ còn là một loại tác nhân kích thích đặc biệt, đặc trưng ở người.
Vd : nếu một người thích ăn một món ăn nào đó thì khi nhắc đến tên món ăn đó thì họ
sẽ tiết nước bọt
Ngôn ngữ là tín hiệu loại hai , “ tín hiệu của tín hiệu”, báo hiệu gián tiếp sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan cũng như trạng thái bên trong cơ thể.
Vd : Ta hành lập cho mình một phản xạ có điều kiện là giữ im lặng khi có tiếng nhạc
phát ra. Trong quá trình thành lập phản xạ có điều kiện với tiếng nhạc thì ta luôn nhắc
đến từ “ nhạc” mỗi khi nghe thấy tiếng nhạc được phát ra. Sau một số lần như vậy, chỉ
cần nghe nói từ “ nhạc” hoặc “ nhạc kìa” là ta sẽ giữ im lặng.
Giải thích: ở đây, tiếng nhạc phát ra là tín hiệu của sự im lặng còn từ “nhạc” là tín hiệu
của tiếng nhạc phát ra. Nên từ “nhạc” là tín hiệu của tín hiệu. 3. VAI TRÒ
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng với con người
- Ngôn ngữ làm tăng tác nhân kích thích có điều kiện ( nghĩa là một từ nói ra
nhưng lại gây nhiều kiểu phản ứng khác nhau do phụ thuộc vào cách nói, ngữ lOMoAR cPSD| 61601590
điệu, văn cảnh lúc nói, còn phụ thuộc vào trạng thái sinh lý và tâm lý của người nghe.
- Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp . Là công cụ giao tiếp giữa người với người trong
xã hội , giúp con người truyền đạt kiến thức kinh nghiệm, tri thức từ người này
sang người khác , từ đời này sang đời khác.
- Ngôn ngữ giúp con người trừu tượng hóa và khái quát hóa những sự vật , hiện
tượng , sự kiện riêng lẻ thành khái niệm chung
- Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong y học và điều khiển học TƯ DUY 1. KHÁI NIỆM
Đứng trước những bài toán, những tình huống mà chỉ dùng cảm giác và tri giác , con
người sẽ không thể hay trả lời được những câu hỏi mang tính bản chất, những cái chưa
biết hay trước những thử thách của cuộc sống, con người không thể giải quyết được
nhiệm vụ phức tạp nếu chỉ ra những đặc điểm bên ngoài hay phản ánh ở thực tại. Vì
vậy, con người phải tư duy để giải quyết vấn đề, tìm ra cái mới mà cái mới ấy chính là
những đặc điểm bên trong , những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ quan hệ có
tính quy luật …..Mức độ nhận thức ấy đó gọi là quá trình tư duy vì nó diễn ra theo một
diễn tiến có mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Vậy tư duy là gì?
- Tư duy là một quá trình sáng tạo giúp con người học hỏi, rèn luyện để có tri thức
biết nhận viết vấn đề và cách giải quyết những vấn đề đó. Nói chung, tư duy của
não bộ vận hành với những kỹ năng học được có thể giúp trí thông minh được
nuôi dưỡng và phát triển mà ở đó con người dùng suy nghĩ , xem xét, giải quyết
những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống.
Vd : Để làm một bài toán 2x+1=0 , không đơn giản nhìn vào là làm được ngay nếu
trước đó chúng ta chưa được học và làm quen với nó. Sau một thời gian suy nghĩ và
áp dụng những kiến thức đã được học về môn toán thì ta nhận dạng được đây là bài lOMoAR cPSD| 61601590
toán tìm ẩn x , một phương trình có nghiệm , chuyển đổi các hạng tử để đưa x về một
vế 2x= -1 sau cùng là tìm được x = -½
Hiện nay có nhiều loại hình tư duy như tư duy trực quan hành động, tư duy trực quan
hình ảnh, tư duy trừu tượng, tư duy thực hành, tư duy hình ảnh cụ thể, tư duy lí luận,
tư duy sáng tạo. Mỗi người sẽ có sở trường về một loại hình tư duy và cũng có thể
thành công trong lĩnh vực hoạt động đó. 2. ĐẶC ĐIỂM
- Tư duy có tính vấn đề
- Tư duy có tính gián tiếp
- Tư duy có tính khái quát
- Tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ 3. VAI TRÒ
- Là thành phần không thể thiếu không hoạt động nhận thức của con người
- Tư duy là đặc trưng chỉ có ở con người mới có và thể hiện quyền năng của nhận thức
- Tư duy mở rộng giới hạn và phạm vi của nhận thức cảm tính, giúp con người vượt
qua khỏi kinh nghiệm trực tiếp do cảm giác và tri giác mang lại.
- Giúp con người tiết kiệm sức lực trong quá trình lao động
- Tư duy giúp con người chinh phục thế giới và làm cho xã hội không ngừng tiến bộ.
MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUY
Các bạn đã bao giờ tự hỏi: Ngôn ngữ liệu có ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của bạn hay
không? Và câu trả lời sẽ là có, tư duy của con người là hệ thống phản ánh luôn đi liền
với ngôn ngữ.. Vì ngôn ngữ là cái biểu đạt tư duy, nên ngôn ngữ là công cụ để con
người suy nghĩ; là phương tiện để con người giao tiếp với nhau, truyền đạt tư duy cho
nhau. Tư duy là thuộc tính của bộ não con người, là hình ảnh chủ quan về thế giới
khách quan. Ngôn ngữ là cái biểu đạt tư duy và có nhiều hình thức khác nhau. Tiếng lOMoAR cPSD| 61601590
nói là hình thức cơ bản đầu tiên của ngôn ngữ. Hình thức cơ bản thứ hai của ngôn ngữ
là chữ viết. Tiếng nói của con người có từ khi loài người hình thành. Chữ viết chỉ xuất
hiện khi con người đạt đến một trình độ văn minh nhất định. Ngoài tiếng nói và chữ
viết, ngôn ngữ còn có nhiều hình thức khác, đó là cử chỉ của con người (như lắc đầu,
gật đầu, nhắm mắt, trợn mắt, chỉ tay, giơ tay, khoanh tay, chắp tay, cười, khóc, nhảy,...),
tín hiệu và ký hiệu (như đèn xanh, đèn đỏ, đèn vàng, bảng chỉ dẫn, biểu tượng,...) cũng
được con người dùng để biểu đạt những ý nghĩ nào đó của tư duy, tức cũng là ngôn ngữ.
Nhiều nhà triết học cũng như ngôn ngữ học đã khẳng định: Ngôn ngữ là vỏ
bọc của tư duy, là công cụ của tư duy. Bởi tư duy là cái ẩn sâu trong não bộ
con người. Chỉ duy nhất cá nhân người đó biết hết. Còn ngôn ngữ là cái biểu
hiện ra với người khác.
Ví dụ: Cho cả lớp nhìn vô bức ảnh và mời các bạn nêu cảm nghĩ của mình sau khi nhìn bức ảnh đó. lOMoAR cPSD| 61601590
- Qua hoạt động này chúng ta có thể làm rõ được mối liên hệ mật thiết giữa ngôn
ngữ và tư duy, chúng phụ thuộc vào nhau mà tồn tại . KHÔNG CÓ ngôn ngữ thì
KHÔNG CÓ tư duy vì ngôn ngữ là vỏ chất của tư tưởng, là công cụ để hình thành tư tưởng.
- Tư duy là là một thực thể tinh thần, muốn tồn tại, muốn được truyền bá và phát
triển trong xã hội con người, phải “nương tựa” vào thực thể vật chất là ngôn ngữ
- Ngôn ngữ và tư duy không thể tồn tại tách rời nhau. Ngôn ngữ của con người
ngày càng phát triển thì càng thúc đẩy tư duy của con người phát triển. Ngược
lại, tư duy của con người càng phát triển thì càng thúc đẩy ngôn ngữ phát triển.
- Đã có ý kiến cho rằng mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là 2 mặt của một tờ
giấy. Nghĩa là ngôn ngữ và tư duy thống nhất nhưng sẽ không đồng nhất với
nhau. Đặc điểm là không có ngôn ngữ thì con người sẽ không thể tư duy bởi
ngôn ngữ là vỏ bọc của tư duy và là công cụ để con người có thể hình thành tư
duy. Tư duy là một thực tế muốn tồn tại và muốn được phát triển trong xã hội
thì con người phải dựa vào chính là ngôn ngữ.
- Nhưng nếu không có tư duy thì ngôn ngữ sẽ không xuất hiện vì tư duy sẽ cung
cấp nội dung tinh thần và đảm bảo rằng ngôn ngữ tồn tại. Không có các kết quả
tư duy thì ngôn ngữ sẽ chỉ là hình thức âm thanh thuần túy. Sẽ không có tiếng
gió, tiếng nước chảy hay tiếng ho, hắt hơi, tiếng khóc của con người.
- Qua những nội dung trên chúng ta thấy ngôn ngữ đóng góp vai trò rất quan
trọng cho tư duy. Các bạn có thể cho mình biết các bạn đã là gì để phát triển
ngôn ngữ của bản thân các bạn vậy ?
- Các bạn có bao giờ tự hỏi giống như mình là tại sao chúng ta lại phải học văn và
được khuyên nên đọc sách nhiều ko?
- Vì theo các nhà nghiên cứu đã chứng minh được thường xuyên Đọc sách sẽ làm
tăng vốn từ của bạn, đặc biệt là sách ngoại văn. Bạn sẽ học ngoại ngữ tốt hơn
nhiều bằng cách đọc sách đấy.
- Vốn từ ngữ được mở rộng Điều này đi liền với lợi ích 3: bạn đọc càng nhiều,
càng được tiếp xúc với nhiều từ ngữ, chắc chắn rằng tất cả sẽ đi vào vốn từ vựng lOMoAR cPSD| 61601590
hàng ngày của bạn. Ăn nói lưu loát và khéo léo giúp ích rất nhiều trong bất kỳ
ngành nghề nào, và nếu bạn có thể nói chuyện với sự tự tin có nghĩa là lòng tự
trọng của bạn đã được nâng cao lên rất nhiều. Điều này thậm chí có thể hỗ trợ
rất tốt cho sự nghiệp của bạn, như những người đọc nhiều hiểu rộng, ăn nói
khéo léo, và am hiểu về nhiều chủ đề có khuynh hướng được thăng chức nhanh
hơn (và thường xuyên hơn) so với những người có vốn từ vựng hạn chế và thiếu
nhận thức về văn học, đột phá khoa học, hay các sự kiện toàn cầu. Đọc sách
cũng rất quan trọng cho việc học một ngôn ngữ mới, như khi bạn tiếp xúc với
nhiều từ ngữ được sử dụng trong từng bối cảnh cụ thể, sẽ cải thiện kỹ năng nói
và viết của mình lưu loát hơn.
- Vì Ngôn ngữ và tư duy hỗ trợ lẫn nhau mà phát triển.
+ Tư duy phát triển, có thêm nhiều khái niệm phán đoán thì đồng thời ngôn ngữ
cũng có thêm nhiều nhiên liệu là từ ngữ mới
+ Ngôn ngữ càng phong phú về khả năng diễn đạt, càng phản ánh trung thực,
chính xác tư tưởng, quá trình tư duy của con người ngày càng phát triển
- Khi nhắc đến vấn để này mình lại nhớ hồi đi học có bao giờ các bạn bức xúc khi
bạn ngồi bên mình nhìn bài mình mà điểm cao hơn mình ko?
- Tất nhiên là có ha mình đã rất nhiều lần bức xúc và cảm thấy ko công bằng khi
mà bạn nhìn bài mình nhưng mình lại thua điểm bạn, có khi mình còn lấy bài
của bạn ra so từng chữ với mình xem nó viết ntn mà tại sao lại được điểm cao
hơn mình, có những lần mình xem bạn đó chỉ thêm có một 2 từ khác hay thay
đổi cách viết khác dựa theo ý ban đầu của mình thôi mà nhưng bạn ấy lại được
điểm cao hơn mình. khi đó mình mới nhận ra rằng chỉ là thay đổi hay thêm một
vài chữ nhưng tác dụng của những chữ đó lại giúp làm rõ bài hơn hay bài viết
được sâu sắc hơn, hoặc đi theo đúng hướng giáo viên muốn hơn. Nhiều khi
cùng làm một bài văn khi mà mình cứ vắt óc suy nghĩ phải viết gì, viết ntn thì
bạn ngồi bên cạnh mình đã bắt đầu cắm cúi viết, khi mình chưa viết hết được 1
mặt giấy thì bạn ngồi cạnh mình đã xin sang tờ giấy khác. khi làm bài xong mình lOMoAR cPSD| 61601590
đã hỏi bạn vì sao bạn có thể viết nhiều nv thì bạn đã trả lời mình là do bạn đó
đã đọc rất nhiều sách văn mẫu, sách văn học nước ngoài nên mỗi khi viết văn
bạn không phải nghĩ quá lâu mà tự dưng chữ trong đầu cứ tuôn ra và bạn đó
viết thôi. Thật tuyệt vời đúng ko các bạn!
- Hay khi giáo viên, giảng viên đặt ra câu hỏi hoặc mọi người đặt ra cho ta những
vấn đề thì chúng ta lại nêu ý kiến cách lủng củng, thiếu logic, rõ ràng làm cho
mọi người khó hiểu, những lúc như thế mình chỉ có thể cảm thán ngưỡng mộ
nhìn bạn mình cũng nói cùng một ý như mình những cách diễn đạt của bạn lại
rất logic, rõ ràng và sử dụng từ ngữ rất phong phú. Qua đó chúng ta thấy rõ
được tầm quan trọng của việc đọc sách đối với ngôn ngữ khi viết hay là nói và
còn rất rất nhiều lợi ích khác nữa. Vậy nên chúng ta hãy dành ra 15- 30’ mỗi ngày để đọc sách nhé.
- Trong đời sống khi chúng ta giao tiếp, dựa vào cách đối phương nói chuyện hay
việc đối phương làm chúng ta có thể đánh giá và nhận ra một phần tính cách của đối phương.
VD : như khi chúng ta trò chuyện với đối phương mà trong suốt quá trình nói
chuyện đối phương toàn than thở kêu khổ hay nói những lời nói, kể những câu
chuyện không tốt, tiêu cực về công việc, người khác thì qua lần tiếp xúc đó
chúng ta cũng có phần nào đó nhận ra đối phương là người khá tiêu cực, luôn
nhìn nhận mọi việc và con người theo chiều phiến diện. Hay khi phải đối diện
với những khó khăn, những việc xảy ra trong cuộc sống hàng ngày mà ta luôn
miệng bảo sợ ko dám làm, sợ sai,.... hay qua hành động, việc làm của ta khi giải
quyết vấn đề đó thì người khác cũng đánh giá được ta 1 phần nào là người tự
ti, nhát, thiếu tư duy hay thiếu phân định trong công việc ngay.
- Nếu như suy nghĩ là một sức mạnh tạo nên những hệ quả lớn lao, thì lời nói lại
có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người. Suy nghĩ thì thai nghén, còn lời nói
thì sản sinh. Suy nghĩ, tư tưởng xấu có thể ngăn chặn kịp, những lời nói xấu thì lOMoAR cPSD| 61601590
không thể thu hồi được. Vậy nên ông cha ta đã luôn nhắc nhở con cháu “Uốn
lưỡi bảy lần trước khi nói” để khuyên răn chúng ta cần cẩn trọng trong lời ăn
tiếng nói của mình. Cử chỉ “uốn lưỡi bảy lần” nó như một khoảng thời gian để
con người ta im lặng trước khi cất lời nói, nhưng sâu xa hơn là suy nghĩ thận
trọng về nội dung, chuẩn bị , sắp xếp câu chữ và xem xét sự đúng đắn, tác động
của lời nói trước khi để nó phát ra thành tiếng. lời nói cũng là một cách khác để
phản ánh con người mỗi chúng ta. Một người có học thức, đứng đắn thì luôn
nói những lời lịch sự, chuẩn mực, một người thiếu văn hóa , vô đạo đức thì lại
thường ăn nói bốp chát, chợ búa. Bên cạnh đó, trong quá trình giao tiếp, mỗi
lời nói của ta cũng sẽ có tác động trực tiếp đối với người đối diện chẳng hạn
như một lời khích lệ, động viên họ lúc khó khăn, buồn bã sẽ khiến họ cảm thấy
ổn hơn, một lời khen ngợi khi họ đạt được thành công sẽ khiến người đó cảm
thấy vui vẻ và có động lực. Lời nói được coi như là phương tiện để truyền tải
những suy nghĩ, tình cảm , cảm xúc của bản thân, mang tính quyết định và có sức nặng.
Sức mạnh của lời nói là vô biên, chúng ta cần cẩn thận với phát ngôn của mình,
hãy rèn luyện cho mình một tư duy tích cực để có thể nói ra những điều tích cực
đặc biệt với những người như chúng ta với mong muốn trở thành những nhà
tham vấn học đường, dạy KNS hay làm việc với trẻ đặc biệt. Vì môi trường chúng
ta dạy là môi trường giáo dục và đối tượng của chúng ta làm việc là trẻ em, học sinh, sinh viên.
- Ngoài ra ta cũng có thể nhận ra cảm xúc, tình cảm , tư duy của người khác qua
cách sử dụng ngôn ngữ.
- Ví dụ như các bạn có thể liệt kê giúp mình những cách diễn đạt về cái chết:
● Kính trọng: từ trần, tạ thế, khuất núi, quy tiên, yên nghỉ muôn đời, qua đời,
mất, đi xa, ra đi, ra đi vĩnh viễn, ra đi mãi mãi, yên nghỉ, từ giã cõi đời, trút
hơi thở cuối cùng, băng hà (dùng cho vua chúa), hy sinh, ngã xuống, nằm lOMoAR cPSD| 61601590
xuống, nằm lại, tử trận, tuẫn tiết, vị quốc vong thân (vì nước mà chết), thịt
nát xương tan, rơi đầu (trong chiến đấu), không còn nữa, về với tổ tiên, về
cùng cha ông, về nơi an nghỉ cuối cùng, về viên tịch (đối với các nhà sư),...
● Kiêng kị: vĩnh biệt, trăm tuổi già, đi (ra đi), sang bên kia thế giới, tim của...
đã ngừng đập, giấc ngủ vĩnh viễn, đi vào giấc ngủ ngàn thu, an giấc ngàn thu,
● Tín ngưỡng, tôn giáo: viên tịch (Tăng sĩ Phật giáo),về với Chúa, về nhà Cha
(về nước Chúa), Chúa gọi về, hẹn gặp lại trong Nước Trời, quy tiên, về trời,.
● Trung lập: chết, qua đời, tử vong, thiệt mạng, tử .
- theo như nhóm chúng mình đã tìm hiểu thì những từ các bạn vừa nên đó chỉ là
1 phần trong hơn 1.001 cách diễn đạt về từ chết. Dù nhiều như vậy nhưng mỗi
từ đều mang ý nghĩa. vậy nên qua những cách diễn đạt của mỗi người chúng ta
có thể nhận thấy được cả thái độ, tình cảm, suy nghĩ của người nói muốn gửi
đến khi nói về cái chết.
- Để làm rõ hơn về vấn đề này chúng mình xin mời 3 bạn sẽ giúp mình làm 2 câu
thơ về tình mẹ ( mời…)
- Qua hoạt động vừa rồi chúng ta có thể thấy rõ được qua những câu thơ của các
bạn vừa nêu phần nào đó thể hiện được lòng yêu mến cũng như tâm tư, tình
cảm của các bạn muốn gửi đến mẹ của mình. Nhưng chúng ta cũng cần chú ý
khi trả lời hay làm một vấn đề nào đó trước hết chúng ta cần xác định rõ, đúng
yêu cầu của đề bài, câu hỏi để làm,trả lời cho đúng chứ ko lại trả lời, làm sai yêu
cầu thì thật là đáng tiếc.
- Hiểu và biết được những lợi ích to lớn của tư duy và ngôn ngữ thì Một trong
những ứng dụng của tư duy và ngôn ngữ được áp dụng trong cuộc sống hiện
nay đó chính là cho trẻ học toán tư duy và cho trẻ học ngoại ngữ sớm. Vì trẻ em lOMoAR cPSD| 61601590
trong quá trình học ngôn ngữ sẽ có khả năng bẩm sinh nghe được những âm
thanh tương phản. Nhận biết được được quá trình lặp đi lặp lại nhiều lần.
Hiểu được ngôn ngữ trong khoảng thời gian từ 6 - 7 tháng tuổi, biết được tên mình từ
4-5 tuổi. So với người lớn thì trẻ em đơn giản. Vậy nên chúng có thể học được được
tiếng anh hoặc toán tư duy ngay từ đầu. Việc học sẽ trở nên dễ dàng hơn, và ở lứa tuổi
này trẻ đang trong giai đoạn phát triển, việc tiếp thu kiến thức sẽ nhanh và hiệu quả hơn.