Ngữ Văn 12 - Vợ nhặt (Kim Lân) Một số nhận định, lời bình và tư liệu

Ngữ Văn 12 - Vợ nhặt (Kim Lân) Một số nhận định, lời bình và tư liệu.Tài liệu gồm 35 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
1
V NHT (Kim Lân)
MT S NHN ĐNH, LI BÌNH VÀ TƯ LIU
1. Wikipedia:
Về tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân viết:
"Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốnng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói
người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà
vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người."
2. Phân tích v đẹp ca tình ngưi và nim hy vng vào cuc sng các nhân vt: Tràng, ngưi
v nht, bà c T trong truyn ngn V nht (Kim Lân).
Nạn đói khng khiếp d dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn hiện thực
có thể xem con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay
sau Cách mng, ông đã bắt tay viết ngay tiu thuyết "Xóm ng cư" khi hòa bình lp lại (1954), ni trăn
trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời. Trong
lần này, Kim Lân đã tht sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu
toàn tác phm. Đó là v đẹp ca tình nời và niềm hi vọng vào cuc sống ca những ngưing dân
nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng
dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn
cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái
chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, cận kề bên i chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai. H vn mun sng, sng cho ra con ngưi". Và đim sáng mà nhà văn mun đem vào tác phm
chính là ch đó. Đó chính là tình ngưi và nim hi vng v cuc sng, v tương lai ca những con người
đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, y dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với
khả năng phân tích diễn biến tâm nhân vật thật tinh tế sdụng thành công ngôn ngng n,
ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có s chn lc k lưngy, nhà văn đã tái hin li trưc mt ta
một không gian năm đói thật thảm hại, tlương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những
bóng ma vt v, lng l gia tiếng h khóc và tiếng gào thét kinh hoàng ca đám qu. Bng tấm lòng đôn
hậu chân thành nhà n đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang
cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao qy và nhà
văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đ
phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật sự xuất sắc khi dựng lên tình huống "nhặt vợ" của anh cu Tràng.
Tình huống ấy cánh cửa khép mở đnhân vật bộc lnét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong
đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao thể
đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha
và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một
điều ngược lại như các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt bà cTứ. Chúng ta từng kinh hãi trước
"xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn
lên mùi hôi của rác ởi mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng qua kêu từng hồi thê
thiết" ấy nhưng lthay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp bình
thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên củai xóm
ngụ ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng dường như ngờ nghệch thô
kch và xu xí ấy lại cha đựng biết bao nghĩanh cao đẹp. "i đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào",
vậy Tràng vẫn đèo bòng thêm một vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao.
Tràng đã thật liều lĩnh. ngay vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
2
đình. Điều y thật éo le xót thương vô cùng. dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã
bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. dường như hắn đang ngầm chứa một ao
ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù
tình, không có chủ đích, chỉ tầm ptầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm
của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương
nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình
cảm của vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình
trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh
chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh
phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như
có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "trong một lúc Tràng dường như quên đi
tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc.
Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn những thay đổi thật bất ngờ nhưng
rất hợp logic. Những thay đổi y không khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác giàu tình yêu thương
hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc y thật khác lạ. Tràng
không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách
nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn
một cảnh gia đình hạnh phúc. "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "hắn thấy mình
trách nhiệm n với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ
ấy Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường đó sbiến chuyển lớn. Chính tình yêu của người
vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống
sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói cđbay phấp phới. Rồi sphận, cuộc đời của hắn,
của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ
ánh ng của cuộc sống tự do đang phía trước trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân
không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không
phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư
nghèo nàn, m tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ
con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị
biến đổi như thế? Đó chính là tình người, tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn
bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có
trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người. Thị xuất
hiện không tên tuổi, quê quán, trong thư thế "vân áo đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại
nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến
không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người
th dung cha mt niềm tin, mt ước vng cao c vào s sng, vào tương lai. Th đưc miêu tả khá ít song
đó lại nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa,
cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật
này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong
những con người đói khổ ấy. thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh
phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra
một nét độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật
cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ ngòi bút vững ng, già dặn của mình trong bút pháp miêu
tả tâm nhân vật. cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật y, tác
phm skhông có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim n đã cho chúng
ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi
bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật ng thng. đó dĩ nhiên phi có s đu
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
3
tranh không ngừng không những giữa các nhân vật độc đáo hơn ngay chính trong nội tâm của
nhân vật ấy. cụ Tứ một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức
người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà
trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhn bà cụ đã "cúi
đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động y chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nổi tủi cực,
nỗi lo niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều
nhìn con dâu đang "vân áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. thiết ng"người ta
gặp bước khó khăn này, người ta mi ly đến con mình, con mình mi đưc v". Và thậtc đng
cụ đã i, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa ý nghĩa cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải
kiếp với nhau u cũng mừng lòng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực
thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói
rét thật nhưng trong lòng cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. thương con, thương
dâu thương cho chính bản thân mình. cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực vgia cảnh vẫn không
ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương
xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính người mẹ nghèo kấy,
ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói
nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin vcuộc sống.
nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đcái, bà lão nói toàn truyện
vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. đã đón nhận hạnh phúc của các con đtự sưởi m lòng
mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình ngưi. Ni chè cám
nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ
mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiếu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước
mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót
thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình
thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về
nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành côngba nhân vật. Điều làm chúng
ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất
ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình
cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính những điểm sáng mà Kimn từng trăn trở trong thời gian dài để
thể hiện sao cho độc đáo một đề i không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả
tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân-một nhà văn được đánh giá là viết ít
nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vt con ni" (Dostoevsky). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện sức
mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân
hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một
quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm
hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Nguyn Th Thu Trang
3. Báo Dân Trí:
“Tôi thật cảm động, trong khi giới trẻ đang bị chi phối bởi nhiều vấn đề của hội, vẫn
một học sinh cảm nhận được vẻ đp sâu sắc của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng. Bài văn
của em thật xứng đáng được điểm 10”.
Thế sau khi được đọc bài văn của Trang, ông có còn nghi ngờ?
Khi viết Vợ nhặt, i viết theo tình cảm, một cách tự nhiên, như sự thăng hoa nhưng cốt
truyện lạia ra rt chặt chẽ. Bởinh đã có sự say mê t nhiên, mình đã một ch đề tưởng sẵn
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
4
rồi. Chính cái chủ đề bắt mình, làm mình phải viết như thế, phải ngvề những con người ấy như
thế. Và tự nhiên những chi tiết đó đã xuất hiện ra như thế.
Những chi tiết như: quạ u, mùi đống rấm, tất cả hình ảnh về những xác chết... đều đến rất tự
nhiên. Chính bạn đọc, người đọc đã khám phá ra cho tôi nhiều hơn. Bài viết của Trang đã thêm một lần
khám phá ra cái mới của tác phẩm…
Ý ông muốni,i viết ca Trang đã khám p thêm những cái mi vềc phẩm của ông,
mà những người trước đó chưa hề đề cập đến?
Đúng thế ! Khi tôi được đọc bài văn của cháu tôi thực sự bị bất ngờ ghê gớm. Tôi không thể tưởng
tượng được một đứa trẻ với vốn sống chưa được bao nhiêu, cái vốn sống về những năm của nạn
đói ling kng, thế mà làm sao cháu li nhìn rai đói đó để phân tích đưc mtch kỹ càng
lại hợp tình hợp lý, nâng cao được những nội dung của u chuyện đến như thế. Tôi nói thật, nói như
thế này hơi buồn cười, nhưng lại là sự thật thế: Thủ khoa là Trạng chứ gì? Cháu Trang đã Trạng
Văn rồi chứ còn gì nữa! Khi đọc toàn bài văn của Trang phân tích về “Vợ nhặt” của i, nói thật Trang
đã tìm ra sự mới mẻ hơn so với những i của những cây “đại thụ” như GS Đỗ Đức Hiểu, GS Đỗ Kim Hồ...
Dù họ là những vị giáo sư đã từng viết rất hay.
Nhưng bài văn của cháu viết cũng không kém phần tinh xảo, u sắc cũng không m phần
khám phá, không kém phần có những phát hiện mới ở trong đấy. Ví dụ như cháu lại ví truyện của tôi có
cái gì giống với Đôtôiepki của Nga-một nhà văn viết về những người cùng khổ.
Từ trong hoàn cảnh đen tối, lòng thương nó nâng con người lên. Từ ví dụ như thế, tôi thấy cháu
này không phải chỉ đọc của tôi đã đọc của nhiều người. vậy, trình độ cảm nhận về văn chương
của cháu cũng rất tinh tế. Tôi tâm phục, khẩu phục và thấy điểm 10 rất là đích đáng.
Trưc đây nhng ngưi viết phênh về văn của ông chưa ai ví “Vợ nht vớin của
Đôtôiepki?
Đúng thế ! Và cũng chưa có ai nói đến ch hiếu ca anh cu Tràng c, mà trong này cháu li nói
đến chữ hiếu của Tràng. Quả nhiên đúng như thế thật. Trước đây nhân vật Tràng rất nhố nhăng đến
khi vợ thì về nói chuyện với mẹ rất lễ phép tự dưng quý trọng mẹ mình cùng. Cảm thấy yêu
thương ngôi nhà, yêu thương mảnh vườn của mình, yêu thương cả những công việc rất đỗi bình thường.
Sự phát hiện đó của Trang rất đẹp đẽ.
Vy s phát hin đó ca em Trang có nm ngoài ý đ ca nhà văn khi ông viếtV
nhặt” không?
Thông thường thì bạn đọc phát hiện, mổ xẻ tác phẩm giúp nhà văn, chứ nhà văn khi viết thì cũng
chưa nghĩ được sâu sắc đến thế. Tôi thấy bài viết của cháu Trang đã nâng tầm truyện “Vợ nhặt” của tôi.
Trong bài viết ca mình, Trang có trích dn mt câu ca ông, khi ông nói v ý đ viết chuyn
“Vợ nhặt”. Điều đó chứng tỏ, từ lâu Trang đã theo sát hoạt động của nhà văn ?
Trong một lần đi i chuyện vc phẩm này, tôi cói với mọi người đại ý rằng: Ni ta viết
về cái đói, cái khát thì nó bi thảm, đau thương và tối tăm, nhưng tôi muốn viết trong cái đói, cái khát ấy,
con người ta hướng về sự sống, khao khát về sự sống. Chính sự khao khát ấy đưa đến một sự thật là, có
cùng khổ người ta mới thành thương yêu đùm bọc được nhau, chứ cùng sướng thì chưa chắc đã sự
thương yêu.
Sau đó báo chí có đăng. Trong bài viết của mình, cháu Trang đã trích dẫn rất đúng ý mà tôi đã nói. Đây
lẽ ý không trong sách vở, nhưng cháu lại biết để trích dẫn, rồi lấy đó làm chủ đề xuyên suốt đ
phân tích trong i viết của mình. i cho rằng, không phải tự nhiên nắm bắt được đâu, phải yêu
câu chuyện mình đọc, phải yêu người viết thì Trang mới có tình cảm, mới dõi theo và biết được câu nói
ấy của tôi.
Điều đặc biệt nữa nhà n không thích hình ảnh cờ đỏ sao vàng cuối truyện, bởi tình yêu
đến, thương u nhau đến như thế, đến buổi ng quét sân là hết chuyện rồi. Họ cho rằng, việc đưa hình
ảnh sao vàng lấp lánh là gượng ép.
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
5
Thế nhưng Trang đã phân tích hình ảnh đó thật đẹp rất hợp với logic của câu chuyện. Bởi vì,
thương yêu nhau đến mấy không Cách mạng thì cũng chôn vùi hết cả. mở cho những con
người này sống thì phải đi theo ch mạng, phải Cách mạng. Tràng stham gia ch mạng, sđi bộ
đội. Đấy là thực tế của xã hội lúc bấy giờ. Khi tôi viết xong anh Nguyễn Đình Thi cũng khen tôi chỗ đấy.
Theo tôi đấy là sự tinh tế trong việc cảm nhận của cháu Trang. Và tất nhiên, tôi hiểu để viết được
như thế cháu cũng phải đọc nhiều i của các bậc thầy đã từng viết về tác phẩm.học thầy nhưng khi
viết, Trang lại viết theo cảm nhận của mình chứ không phải viết theo lối bắt chước thầy. Đấy là sự sáng
tạo. theo tôi cháu Trangmột người già dặn hơn nhiều so với lứa tuổi. ở tuổi của cháu lại thích
được đến thế, phân tích được sâu sắc như thế thì thật cảm động. Tôi phải cảm ơn Trang !
Ngoài việc phân tích, Trang còn nhận xét “thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng
dựng chuyện, dẫn chuyn…”. Một học sinh ph thông lại dám nhậnt về bút pháp của một nhà
văn, ông có tự ái ?
Sao lại tự ái? Trang nói thế là trúng đấy. Chính tôi viết là có cảnh, bao giờ cũng vào một cảnh ngộ.
Nhận xét đó làm sao mà có thể tự ái được, mà phấn khởi quá đi chứ. Phải cảm ơn cháu nữa chứ. Tôi nói
thật, một ông khác mà khen thì thiên hạ chú ý ít thôi, nhưng bây giờ một học sinh ít tuổi mà khen thế thì
báo chí cũng phải cý. Trong thời điểm hiện nay, thanh niên quan niệm về n học nhiều rắc rối
lắm, nên việc một người trẻ như thế mà phân tích kỹ càng, đến nơi đến chốn lại phân tích rất ngay ngắn
về tư tưởng như vậy là đáng quý lắm.
Thưa ông, đưc biết đã có nhiu ngưi làm lun văn thc sĩ v truyn ngn này, nhưng
dường như chưa ai có những phân tích mới mẻ như của Trang, dù bài văn viết rất ngắn?
Tôi đã gặp rất nhiều người làm luận n thạc sĩ về c phẩm này, hiện một số người cũng
đang làm. Họ đã gặp tôi và nói chuyện, nhưng nói thật, cái này (bài văn của Trang-PV), lại ngang với bậc
thầy. Nó chẳng khác gì so với bài của các vị.
Nhưng tôi cũng phải nói đi nói lại, chắc là cháu Trang có đọc bài viết củac bậc thầy thì mới
được những nhận xét, đánh giá sâu sắc như thế. Vì vậy, nếu trước đây nghi ngờ thì bây giờ (sau khi được
đọc bài văn của Trang-PV) trong tôi cái sự nghi ngờ đấy đã biến mất và thay vào đó là sự cảm phục, quý
mến. Nhân gặp các anh, tôi muốn nói lời cảm ơn cháu Trang, cảm ơn cả các thầy cô đã dạy cháu.
4. Báo Mi:
Sự sống và cái chết trong truyện ngắn 'Vợ nhặt'
Nạn đói năm Ất Dậu (1945) là một cơn ác mộng, là nỗi nhức nhối khó quên trong lịch sử dân tộc
Vit Nam. Thm hay din ra trên 32 tnh min Bc và Bc Trung B. Nhà văn Kim Lân đã chn bi
cảnh ấy cho truyện ngắn Vợ nhặt.
1. Trên nền hiện thực của nạn đói, bằng việc xây dựng nên một tình huống truyện độc đáo,
đi u miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp của các nhân vật ng tạo những chi tiết, hình nh đặc sắc,
nhà văn chuyên viết truyện ngắn này đã để lại trong lòng người đọc những ám ảnh nghệ thuật khó quên.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đối mặt giữa sự sống và cái chết của những người nông dân trong nạn đói
khủng khiếp năm ấy.
2. Không gian của truyện xóm ngụ cư, bên bờ sông ven chợ xác xơ, heo hút. Từng trận gió
từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào ánh đèn lửa. Điểm
vào đó là âm thanh thê thiết của tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ đang gào lên từng hồi, là tiếng
ai hờ khóc lúc to, lúc nhỏ vẳng đến từ phía những nhà người chết đói. Không khí đây vẩn lên mùi
m thối của ráci và mùi gây của xác nời. Quyện trong đó còn mùi khét lẹt của đống rấm được
đốt ở những nhà có người chết.
Bằng sự kết hợp của các yếu tố hình ảnh, âm thanh và mùi vị, nhà văn Kim Lân đã tạo ra ấn tượng
về không gian truyện đặc trưng, mang màu tử khí. Rồi như một cận cảnh, ống kính của nhà văn dừng
lại ở một bữa ăn ngày đói thật thảm hại.
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
6
Ở đó, miếng ăn dường như đã không phải dành cho con người nữa. Giữai mt rách độc một
lùm rau chui thái ri, và mt đĩa mui ăn vi cháo. Niêu cháo lõng bõng, ch kp chia cho mi ngưi được
có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Người mẹ già lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái ni khói bốc
lên nghi ngút, gọi đó món chè khoán. Cái món ngon đáo để y thc cht là cháo cám, th mà con
người khi đói nhìn thấy hai con mắt đã tối lại, khi ăn thì không nuốt nổi đắng chát và nghẹn bứ trong
cổ.
Cái đói và cái chết nắm tay nhau càn quam ngụ cư. Người người lượt bồng bế, dắt díu nhau
lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi
sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.
Cái đói sức mạnh tàn phá ghê gớm cả về hình i đến phẩm gcon người. Mọi khuôn mặt
xóm ngụ đều đã mang dấu tích của cái đói. trẻ con trong m độ y ngồi dưới những
đường không buồn nhúc nhích. Ngay như Tràng - một thanh niên to khỏe trong xóm, giờ cũng chỉ bước
đi từng bước mệt mỏi. Khật khưỡng trong bóng chiều nhá nhem là dáng điệu tả tơi của hắn - chiếc áo nâu
tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước.
Dấu vết tàn phá ghê gớm nht của cái đói vi con ngưi vn th, ngưi vợ mà Tràng nhặt được
trong thảm cảnh của cái đói. Người phụ nữ này không tên. Nhà văn gọi nhân vật là người đàn bà,
thị. Có lẽ số phận, những mảnh đời như thị không phải là hiếm trong nạn đói ấy. Th mang một bộ dng
rách rưới, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, tn cái khuôn mặtỡiy xám xịt chỉ còn thy hai
con mắt. Có lẽ đã đói lâu ngày, nên vì miếng ăn, thị trở nên sấn sổ, trơ trẽn.
Chỉ bằng một câu hò tầm phơ tầm phào của Tràng - nhưng là câu hò có lời hứa về miếng ăn, Muốn
ăn cơm trng mấy g này! Li đây mà đẩy xe vi anh, nì!, thị vùng đứng dậy ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng, rồi liếc mắt cười tít. Nhưng lần đó thị không được ăn. Lần thứ hai gặp Tràng, thị đâu sầm sập
chạy đến, đứng trước mặt Tràng sưng sỉa kết tội: - Điêu! Người thế mà điêu!; - m ấy leo lẻoi mồm hẹn
xuống, thế mất mặt. Và lần này, thị được ăn thật. Trước miếng ăn hai con mắt trũng hoáy của thị tức
thì sáng lên, thị đon đả: - Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì. Thị ngồi xuống, cắm đầu ăn một chặp bốnt
bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: - Hà, ngon!
Có ai biết chăng, con người đang sà vào kiếm miếng ăn ấy vốn là một người đàn bà hiền hậu, đúng
mực. Sự đói khát đã hủy hoại nhân ch của thị, buộc thị phải vứt bỏ ý thức, phép tắc, sĩ diện, xấu hổ.
Miếng ăn làm cho con người ta trở n chao chát, chỏng lỏn; cái đói làm cho con nời khôngn biết
đến thể diện; sự gào thét của cái bụng rỗng khiến con người trở nên trơ trẽn làm sao! Thái đhành
động của thị trước miếng ăn làm ta xót xa đến rơi nước mắt. Nhưng trong cái điêu tàn và rữa nát, trong
s ba vây ca cái chết, s sng vn không ngng tri dy, vươn lên. T thoi thóp, leo lét, có lúc nó mãnh
liệt như có phép màu.
3. thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói, khi xóm ngụ đang bbao trùm bởi tử k
lạnh lẽo, khi sự sống đang phải đối đầu khốc liệt với cái chết thì vào một buổi chiều, người trong xóm
thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Sự xuất hiện của thị đã làm mọi thứ thay đổi đột ngột, lạ lùng,
thắp lên cái ng tươi trên cái phông âm u, rùng rợn của cái đói, cái chết; thắp lên ước thay đổi s
phận cho bao kiếp nời leo lắt nơim chợ chiều này. Chỉ là vnhặt, nhưng thị thực smột hào
quang, một luồng khí ấm, tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và màu nhiệm (Nguyễn Thị Thanh
Cảnh).
Vợ nhặt có thể xemmột kết hợp từ rất đặc biệt chỉ có ở trong bối cảnh nạn đói kinh hoàng năm
1945. Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch, mạng người trở nên rẻ rúng, thể nhặt được như
người ta nhặt bất cứ thứ đồ vật gì. Nhặt thì không ra gì nhưng vợ thì vinh dự. Chính từ tư cách người vợ
ấy, thị đã dần lột xác. Và nàng dâu ấy đến xóm ngụ cư mang theo một luồng gió mới, một ánh nắng mới,
thắp lên sự ấm áp, niềm hi vọng và niềm tin vào ngày mai.
Giữa đám đông mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho, thị còn mang vẻ cong cớn, chẳng chút
e dè, nhưng chỉ sau khi đồng ý khuân hàng lên xe rồi cùng về với Tràng, thị đã khác. Trên đường theo
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
7
Tràng về, theo sau chừng ba bốn bước, th đã có v rón rén, e thn. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống,
cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Che để bớt thẹn thùng, hay che để dõi theo mỗi
bước chân số phận?
Sự xuất hiện của người đàn đi bên cạnh Tràng o buổi chiều ấy đã xua đi vẻ mặt ủ rũ, xanh
xám của những người dân xóm ngụ cư đang trong cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Trên khuôn mặt mỏi
mệt, đăm chiêu của Tràng giờ đã một vẻ phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và
hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem, có đứa còn cong cổ gào lên: -
Anh Tràng ơi! Chông vợ hài. Người trong xóm cũng lạ lắm - Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán.
Những khuôm mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Th vm ngụ mang theo cái lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối nơi đây.
Về đến nhà, bước chân vào ngôi nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những
búi c di, thị đang cố nén một tiếng thở i. Chất chứa trong i ngc lép nhô lên ấy biết bao tủi hổ, buồn
bã, bbàng… đây, thị cũng chỉ giám ngồi mớm mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần
thần. Thị đang ý thức rất rõ về tình cảnh của mình. Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh y chính cái thế
phân n trong lòng thị: chuyện thành vợ Tràng vừa thực lại vừa như không thực; thân phận lủi thủi,
trơ trọi trôi dạt vì miếng ăn, liệu có tìm được chốn nương thân?...
Thế rồi, th gp m Tràng - người sẽ quyết định duyên phận cho thị trong ngôi nhà này. Người mẹ
nghèo đã rất ngạc nhiên không tin o mắt mình khi thấy sự xuất hiện của một người đàn trong
nhà mình. Bao nhiêu câu hỏi dội về đầy băn khoăn - Quái sao có người đàn bà nào ấy nhỉ? Người đàn bà
nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại gọi mình bằng u? Không phải con cái Đục
mà. Ai thế nhỉ?... Ô hay, thế là thế nào nhỉ?
Thế rồi, Tràng bưc li gn nói với mẹ: - Nhà tôi nó v làm bn vi tôi đy u ạ! Chúng tôi phi duyên
phải kiếp với nhau… Chẳng qua cũng lài số cả… Giờ thì bà lão đã hiểu. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiu ra bao nhiêu cơ s va ai oán, va xót thương cho s kiếp đa con mình. Bà lão đăm đăm nhìn
người đàn , trong lòng cũng đầy thương xót. Trước mặtlão, thị cúi mặt, tay vân vê tà áo đã rách bợt,
khép nép đứng nguyên chỗ cũ.
Rồi, thị cũng đã được chấp nhận. Bà cụ Tứ đã xem thị là nàng dâu mới. Bà nhẹ nhàng với thị: - ,
thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng… còn hạ thấp giọng xuống thân
mật: - Kểra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt
chii lúc này. Cốtm sao chúng màya thuận là u mừng rồi. Năm nay đói to đấy. Cng mày lấy nhau
lúc này, u thương quá…
4. Sau một đêm thị về làm vợ của Tràng, sau một đêm làm dâu nhà bà cụ Tứ, ngôi nhà ấy như
có phép màu. Ngôi nhà m trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại, nay đã được quét tước,
thu dọn sạch sẽ, gọnng. Mấy chiếc áo rách như tđỉa vẫn vắt khươm mươi niên một góc nhà nay đã
được lấy ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác
mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch. Ngoài vườn, người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham
nhở, trong sân, cô con dâu đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Tất cả đều
đã thay đổi mới mẻ.
Xung quanh thay đổi, cảm xúc của con người cũng khác. Thấm thía cảm động nhất vẫn là Tràng.
Hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Bấy giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn bổn phận phải lo lắng cho v con
sau này.
Trong mắt Tràng, giờ đây thị cũng đã khác lắm, ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực. Bà m
Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của rạng rỡ hẳn lên. Bà c
kể chuyện làm ăn gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này,
chuyện Khi nào có tin ta mua ly đôi gà Ngonh đi ngonh li ch my mà có ngay đàn gà cho mà xem
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
8
Một không kấm áp chan hòa trong ngôi nhà ấy, chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa
hợp như thế.
Tình yêu thương chính là ngọn nguồn làm nên sự đầm ấm, hạnh phúc, đó chỉ là những điều
thật đơn giản, bình thường. Hạnh phúc m cho con người ta thay đổi. Hạnh phúc làm cho con người ta
xích lại gần nhau, sưởi ấm cho nhau. tưởng nhân đạo của Kim Lân được truyền đến người đọc một
cách nhẹ nhàng mà thấm thía.
Dẫu vẫn n đó, những bữa ăn ngày đói thảm hại, dẫu cho trống thúc thuế vẫn dội lên dồn dập,
vội ở ngoài đình, trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ đàn quạ vẫn hốt hoảng bay lên, lượn
thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đãm mây đen, nhưng câu chuyện về cái đói đã chuyển
hướng khác. Theo lời của cô con dâu, - Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế
nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy. Tràng đã biết đến Việt Minh.
Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước
có lá cờ đỏ to lắm. Lá cờ đỏ đó vẫn bay phấp phới trong óc Tràng...
Hình ảnh kết thúc truyện đã gieo o lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, rằng Tràng gia
đình bé nhỏ của anh, rằng hàng triệu những con người khốn khổ scờ đỏ dẫn đường đi giành áo
cơm sự sống cho mình. Đây chính là điểm khác biệt giữa Vợ nhặt với các tác phẩm cùng viết về đề tài
người nông dân trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, năm 1945.
5. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, hành trình giành giật ssống từ cái đói, i chết của những
người nông dân nghèo trong nạn đói 1945 đã được nhà văn Kim Lân dồn nén đến mức căng thẳng, đến
tận cùng của giới hạn ở tình huống truyện độc đáo. Tình huống trở trêu, éo le từ việc Tràng nhặt vợ được
tạo ra trong hoàn cảnh đối đầu khốc liệt giữa sự sống cái chết, giữa hạnh phúc đau khổ, giữa hi
vọng và tuyệt vọng, giữa cái ấm áp của tình người và cái lạnh lẽo thê lương của chết chóc…
Đặt nhân vật vào tình huống ấy để thử thách sức sống của con người, nhà văn muốn thể hiện
tưởng nhân đạo sâu sắc trong việc ngợi ca, trân trọng đặt niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người.
Bằng giọng kể trầm buồn, Kim Lân đi sâu o diễn biến nội tâm rất phức tạp tinh tế của mỗi nhân
vật, nhn ra cuộc đu tranh ging co quyết liệt gia s sống cái chết, gia vị k v tha, gia thc ti
ước mơ… trong những hoàn cảnh thử thách nghiệt ngã, phát hiện ra thứ ánh sáng lấp lánh, ng lên
trong mỗi con người, mỗi số phận, đó chính là tình người. Tình người sxua tan u ám, thắp lên niềm
vui, niềm hi vọng để con người vượt qua khó khăn, sống tốt cho ngày mai.
Sức sống của một tác phẩm văn học phải được nẩy mầm từ cội rễ của những giá trị nhân văn sâu
sắc, và nở hoa cùng tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Vợ nhặt của Kim Lân là tác phẩm như thế.
Trần Thị Thanh Nga
6. Báo Đà Nng Chuyn đi và ngh ca bc tài hoa Kim Lân:
Sáng tạo trên cái nền hiện thực đời sống
Đối với nhà văn Kim Lân, cách mạng không chỉ mang lại sthay đổi cuộc sống của bản thân
gia đình, còn giúp đổi thay snghiệp cầm bút của ông. Khi tham gia hoạt động văn hóa cứu quốc,
ông được gặp trao đổi nghề nghiệp với các nhà văn Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn
Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài,... Từ đó, cách viết của nhà văn Kim Lân bắt đầu đổi khác, như lời
ông nói: trình đmột anh nhà quê viết theo bản năng, cảm tính mới dần dần thấy được công việc thực
sự của người viết văn chuyên nghiệp. Và bài học ông rút ra: “Theo kinh nghiệm của tôi, những chuyện
thật mà tôi ghi lại được thì đều nhạt nhẽo và khô cứng. Nhưng sự thật cũng có giá trị của sự thật, rất giá
trị, rất cần thiết nữa. Tất cả những truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu đều dựa trên cái
nền sự thật. Còn những truyện khác, kể cả ng, hầu hết tôi bịa. Bịa cả nhân vật lẫn tình tiết. Bởi
không sự tht o như thế cả. Nhưng cái bịa ấy cái điều chính tác giả muốn nói. chính tác
giả muốn nói nên mới sinh ra cái bịa. Gọi là bịa chứ kỳ thực chính là sáng tạo”.
Cái bịa hay ng tạo trong tác phẩm văn học đôi khi lại trở nên thực, thậm chí rất thực n đời
thường. Đó cũng chính là một điểm mấu chốt thể hiện tài năng của nhà văn. Hiện thực chlà chất liệu
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
9
thô, qua lăng kính nhà văn thì hiện thực được thăng hoa. Như nhà văn Kim Lân lý giải: “Vì sao phải bịa?
Người viết muốn nói một việc gì, một ý nghĩ gì thì chuyện đời thường hằng ngày tự thân đã có tiếng
nói riêng của nó, còn tiếng nói của chính tâm linh người viết chỉ có bịa mới ra được. Nhưng như
vậy không có nghĩa tách rời hoàn cảnh hội, tách rời đời sống, mà hình như thực hơn.
Chính vì vậy tôi cũng thường nói bịa lại thực n. thực với chính mình trước tiên. Và kỳ lạ
khi mình bịa ấy, mình viết say mê hơn nhiều. Không biết khi mình say sưa bịa ấy có phải là những giây
phút thăng hoa nhất của người viết không?”.
Một điều nữa nhà n Kim Lân trăn trở khi trò chuyện với chúng tôi, đó trong mấy mươi
năm nhiều cây bút thường viết chạy theo thời sự, nói về chính sách hay một cuộc chiến đấu nhằm cổ vũ
cho chính sách hay cuộc chiến đấu đó. Nếu so với hàng ngàn năm lịch sử dân tộc trước đây chỉ một
số ít bài thơ yêu nước và thể hiện tinh thần chiến đấu chống ngoại m của Thường Kiệt, Nguyễn
Trãi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình Chiểu,... thì trong khoảng nửa sau thế kỷ XX, văn học Việt Nam xuất
hiện cả một bề dày tác phẩm đồ sộ viết về đề tài này. Ông nói: “Theo tôi, kháng chiến và mọi chính sách
chỉ nên quan niệm là cái nền của con người đang sống. Con người vẫn là quan trọng. Ngòi bút của tôi
hướng về cái đời thường, diễn ra hằng ngày, về quan hệ vợ chồng, con cái. Qua đó, tôi cũng có thể
thấy được chính sách hay cuộc chiến đấu nó có tác động vào đời sống như thế nào”.
Từ quan niệm như trên, nhà n Kim Lân tỏ ra không thích kiểu dùng lẽ trong những trang
viết mang tính thời sự, một căn bệnh mà một số nhà văn từng mắc phải. Theo ông: “Dùng lý lẽ để thuyết
phục trong văn chương cũng là một thứ cưỡng chế. Những lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó làm cho người
ta không giữ được chính mình. Nói một cách khác, hết sức mềm mại thì người cầm bút phải viết như
chơi, viết thoải mái bằng tấm lòng của mình, hướng vào cái thật, cái đẹp, giúp cho con người sống
thật, sống đẹp với nhau. khi nhà văn gặp cái trái với i thật, cái đẹp thì phải biết bất bình,
phải dám lên tiếng nữa”.
7. Kim Lân Cây bút độc đáo của làng quê Việt Nam:
Kim Lân một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ
XX. Sự nghiệp văn học của ông tuy không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó trộn lẫn.
Từ những trang viết thành công về đề tài nông thôn
Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều cay xè khói bếp, thơm thơm mùi lúa
mới, ngai ngái mùi rơm rạ, bảng lảng những cánh cò chao nhịp...
Đặc biệt, cũng với chất liệu của đề tài làng quê Việt Nam, nơi những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan… đã khai thác tưởng chừng ở mức thấu triệt, song cũng trên mảnh đất xưa cũy nhà
văn Kim Lân cũng đã xây cho mình ngôi nhà rất riêng, rất vững giữa lòng người thách thức với thời
gian.
Khác với tư tưởng của các cây viết cùng đề tài, làng quê trong văn Kim Lân dẫu với các nhân vật
nghèo, dân lao động thô sơ vẫn không bao giờ bị lam lũ, thô mộc, tuềnh toàng vây bủa. Có lẽ ảnh hưởng
từ nét hào hoa, thượng với những thú chơi phong tục như chơi chim, chọi gà, đánh vật, đánh võ, chơi
pháo… của làng chợ Giầu, PLưu hình nh làng quê người nông dân trong văn học Kim Lân
không u tối, bần hàn mà vẫn toát lên những nét yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Chính thế giá trị lớn nhất cao nhất trong các tác phẩm của ông không phải gtrị hiện
thực bản o trạng gtrị nhân đạo. Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng một
chất thơ của hồn người. Ánh sáng của tình người toả ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha
thiết và cảm động.
Tư tưởng này xuyên suốt trong các tác phẩm của Kim Lân và có thể nhận thẫy rõ nhất trong “Vợ
nhặt” một trong những c phẩm kinh điển của văn học Việt Nam. Chính nhà văn Kim Lân khi nói về
tác phẩm này đã cho biết: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết
về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một
truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
10
không nghĩ đến cái chết vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng tương lai. Họ vẫn muốn
sống, sống cho ra con người".
Sau này vẫn viết về nông thôn, Kim Lân đề cập đến sự đổi mới mặtnh cảm của người nông dân
trong cách mạng kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải ch ruộng đất nhưng hoạt động phục vụ
cách mạng. Tuy thầm lặng, bình thường nhưng thật đáng quý trọng. Về phương diện này, nhà thơ Trần
Ninh Hồ viết: "Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo
đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương lịch sử tâm trạng con người thì Kim n quả nhà
văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy".
Nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm Kim Lân viết trước Cách
mạng tháng Tám đến các tác phẩm sau này, người đọc dễ ng nhận ra nét riêng của ông một ngòi
bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng con
người, từng số phận riêng để từ đó góp một tiếng nói riêng vào trang sử chung về tâm tư, tình cảm con
người Việt Nam của văn học hiện đại.
8. Phỏng vấn Kim Lân về tác phẩm Vợ nhặt:
Thưa nhà văn, dịch đói năm 1944-1945 đã cướp đi rất nhều sinh mạng của đồng bào ta.
các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng, cha
m, con cái ly tán khp nơi. S sng của mi ngưi b cái đói đe da tng ngày. Trong bi cnh
hội đó, truyện Vợ Nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống
cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế?
Nhà văn Kim Lân:
Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần
dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến
bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận tính cách con ngươì họ sbiểu lộ ra. Chết đói
một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua
những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn của tâm
hn h. Có nhng ni đói ngày ny bi rác tìm mt mu thc ăn tha, bui ti h li v nm cnh
nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con
cái đi xin mang phn v cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp nì giữa nhà để ăn. Có ni đói xô vào
cướp m đăn, bđánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng
h vn phi làm vì đói. Nói tóm li, bi kch sng ca mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau:
Đói. Nó va cay đng, va đau đn, đng thi mt mt nào đó nó li loé lên mt tia sáng v đo đc,
danh dự.
Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.
Cái đói là đ tài ca rt nhiu nhà văn. Cái đói trong V nht có khác gì nhng cái đói khác
mà các nhà văn thường mô tả?
Nhà văn Kim Lân:
i đói” là mỗi lo lắng của con nời tất cả mọin tộc mọi thời đại. Cho nên đó là mt đề
tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết v cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực ca
con người trước nó. Con người phạm tội làm đủ mọi chuyện dại dột khác chỉ đói. Khi tôi viết, ý
tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt
hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn
hành hạ họ.
Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật trong cuộc sống?
Nhà văn Kim Lân:
Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau
khi hoà bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có một đoạn luôn
ám nh tôi đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng vùng quê người ta ra chợ nhặt xác
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
11
người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện
Vợ nhặt hoàn toàn không thực do tôi sáng tạo ra. Không thể một mẹ như thế, một con
dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng thân phận của con người trong cái
hoàn cảnh cùng đừơng ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào s
sống, sự yêu thương nhau, không phải là sự giành giựt nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là
l đó li đưc hin ra vi v chân thật. Vợ nhặt được rút ra từ tậpCon chó xấu xí, sau khi in ở t tun báo
Văn. Bối cảnh của truyện là khi i đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng
ở nỡng ca ca cái đói. Nơi nỡng cửa khn khổ đó, hsẽ chng tỏ số phận tính cách của mình,
đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, dù là rất mong manh.
Dân ngụ cư dân đi đợ, không phải dân gốc nên thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện mẩu hồi
ức “trước kia mỗi chiều” có vẻ yên ả nhưng i hồi ức y quá ngắn, trôi qua quá nhanh. Hiện tại là cảnh
đói khát rủ, cảnh những người ăn xin “xanh xám như bóng ma”, cảnh thây người chết “nằm còng queo
bên đường”. Vậy một buổi chiều anh chàng Tràng trở về với một vmặt “vẻ phởn phơ khác
thường”, một nụ cười tủm tỉm và “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, bên cạnh lại có người đàn bà rón rén e
thẹn. Đó là một sự kiện quá ư lạ lùng giữa lúc người ta chỉ nghĩ đến sự sống chết.
Tràng khi đó có ý thức được việc mình làm?
Nhà văn Kim Lân:
Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng
dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, th tục cưới cheo ny đó rườm rà, tốnm lm. Vậy mà tựng anh
chàng lại “nhặt” được vợ. Sự kiện nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy
cô kiang theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàngng vào, bấu víu vào bất cứ cái có
thể bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn ta về? Tràng một người nông cạn, không biết tính
toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ chậc lưỡi, theo đúng
cách của người hay “ngửa mặt lên trơì cười hềnh hệch”. Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của
dân xóm, Tràng mới kịp nhn ra sự thay đổi trong cuộc sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi,
còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.
Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh của mình?
Nhà văn Kim Lân:
Thị đã bvực. Số phận Thị đã ràng Thị hiểu được điều y. Cho n thị đi bên Tràng
đầu cuối xuống, chiếc nón rách “nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Thị mặc cảm, gần như nỗi mặc
cảm của người nhận lời n mình trước sự chứng kiến của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ
con mới đùa một câu thị đã tỏ vẻ khó chịu.
Tại sao việc Tràng và ngưi đàn bà ngang qua xóm ng cư li khiến cho nhngkhuôn mt
hốc hác u tối” từ những hiên nhà xác xơ đột nhiên “rạng rỡ hẳn lên”? Sự xuất hiện của Tràng và
người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt vọng của họ một luồng sinh khí tươi mát?
Nhà văn Kim Lân:
Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh đơn độc của Tràng không gây ra
bât kỳ một xao động nào trong đời sống của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thế phụ
thuộc vào hình ảnh người đàn bà n Tràng. Mi ngưi bàn tán và cũng đôi phn đóan ra đưc câu
chuyện của Tràng. Họ đóan được bằng chính hoàn cảnh cuả họ. Việc lấy vợ lấy chồng luôn là một niềm
vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứá con. Nhìn Tràng và
người đàn bà, bất chợt họ cũng hồ đến tương lai của chính họ. Tràng đã khiến cho họ tin vào
cuộc sống thêm một chút.Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giây lát đó, họ sẽ nghĩ rằng “Đó,
anh ta không những còn sống còn nuôi thêm được một người nữa trong hoàn cảnh y”. Nhưng
niềm vui trôi qua rât nhanh. Một tiếng “ôi chao” lời than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát,
cùng quẫn, “họ nín lặng”.
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
12
Chuyện Tràng “nhặt” vợ một sự lạ, nhưng mọi người nthể thừa nhận điều đó một
cách dễ dàng?
Nhà văn Kim Lân:
Sự kiện đó chỉ gây ra sự mò một chút ban đầu thôi. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống,
mọi ngươì không còn đủ sức đnhận ra điều đó ngược đời. còn được dùng như một cái thước
đo vô hình, kim li cuc sng hin ti của họ. Nhưng câu chuyện của Tràng nhanh chóng không n
được bàn tán nữa khi họ “ cùng nín lặng” hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lững trên đầu họ.
Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy làm “thích ý” lắm, và hắn vênh vênh “
tự đắc với mình”. lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình pha một chút “anh hùng”,
“kiêu bạc” trong cuộc sống khó khăn hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo sợ,
Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải “đèo bồng” thêm một người nữa ư?
Nhà văn Kim Lân:
Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải “một mình” đối diện với người đàn bà.
Khi đi từ chợ tỉnh về, ngang qua xóm ngụ cư, những ánh mắt, tiếng cười của người khác đã m cho
Tràng bớt cảm thấy sự mặt của ngươì đành bà. Nhưng khi còn hai người “con đường sâu thăm
thẳm” vắng vẻ thì ràng người đàn kia laàtoaà bộ cuộc sống bên ngoài đối với Tràng. Tràng phải
tìm hiểu nó. Tràng ý thức đầy đủ sự có mặt của thị là dành cho Tràng. “Hắn định nói với thị một vài câu
rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia”. Tại sao vậy?
Tại vì thực sự người đàn bà đi bên cạnh Tràng còn hoàn toàn xa lạ với Tràng.
Tại sao thị không cảm thấy mà Tràng lại cảm thấy như thế?
Nhà văn Kim Lân:
Tôi chủ ý không tả tâm trạng của người đàn khi đó. Nếu tả kỹ quá thị sẽ mất đi sự “xa lạ”
không phù hợp với hoàn cảnh của câu chuyện. Sự yên lặng xa lạ của thị khiến cho không gian như
đọng lại cho Tràng cảm thấy thị thật gần mình. Điều này khiến Tràng đột nhiên hình như quên
hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày”. Tràng khi đó có lẽ đã quên tất cả, không phải với vẻ bất
cần là do hình ảnh thị đã dần xâm nhập và chiếm trọn cõi lòng của Tràng. người “đàn ông nghèo
khổ” này cuộc sống đột nhiên mới mẻ” lạ lùng. Đó cảm giác có thật, “mơn man khắp da thịt”.
Có một điều thật ý nghĩa đang diễn ra với Tràng “Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn
người đàn bà đi bên”.
Nhưng tên, hoàn cảnh, quê quán, cha mẹ thị Tràng đều chưa biết. Người đọc có cảm giác
là “tình nghĩa” của Tràng đối với người đàn bà là không thật?
Nhà văn Kim Lân:
Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để tình nghĩa người ta cần phải thời gian đ
thấu hiểu nhau. Đặt trong hoàn cảnh khốn khó lúc bấy giờ, khi mỗi người cần đến sự giúp đỡ nhiêù hơn
của người khác về cả vật chất lẫn tinh thần, thì Tràng cái phai cuối cùng, là tất cả hy vọng của người
đàn bà. Vy cái nghĩa ca Tràng là s gn kết gia con ngưi vi con người trong một hoàn cảnh cấp
bách. Hơn nữa đó còn là “nghĩa” cuả một người đàn ông nghèo không đủ khả năng lấy vợ bỗng dưng
được một người đàn bà “ưng thuận về không” làm vợ. Và khi cảm thấy có “tình nghĩa” với người đàn bà
thì sự đối diện của Tràng với chị ta không còn đáng sợ nữa.
Hoàn cnh đã xô đy ngưi đàn bà đến vi Tràng. Vy gia h liu có tình cm thc s
không?
Nhà văn Kim Lân:
Sao lại không. Câu chuyện giữa hai người diễn ra như bất cứ với cặp tình nhân nào. Ban đầu
bắt chuyện vu vơ, rồi trêu chọc nhau. Khi câu chuyện ra chiều “thân thân”, người đàn bà đã “tủm tỉm”
cưi phá đi v mt cau có, ngượng ngập. Chị ta bắt đu quen vi hoàn cảnh mới. khi Tràng đ“vợ
mới vợ miếc” và cười cợt, thị đã “phát đánh đét” vào lưng hắn. Đâycử chỉ “tỏ tình” của thị đối với ân
nhân, nó đầy âu yếm và cũng đáng yêu. Nó là cho Tràng hnh phúc. Anh chàng “thích chín ngửa cổ cươờ
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
13
khanh khách”. Cuộc sống thường thật khốn khổ bị quên lãng. Với Tràng, thị là người đàn bà thứ hai sau
mẹ annh yêu thương cần đến anh. Yêu thương thể chưa rõ nhưng cần thì đã rõ. Anh ta hớn hở
điều đó. Riêng với người đàn bà, hiểu hoàn cảnh mình nên cử chỉ “tỏ tình” trên kia vừa m chứa sự
biết ơn vừa tỏ thái độ ưng thuận.
Một lần nữa sự khắc nghiệt của cuộc sống phá tan niềm vui mong manh của hai người,
tiếng chó sủa váng lên làm Tràng thẹn thùng xấu hổ, nthể có ai đó nhòm vào hạnh phúc
của anh. Hình n Tng hiểu ra rằng anh ta đangy dựng hạnh phúc của mình tn nền một
cuộc sống thật bất trắc và khốn đốn?
Nhà văn Kim Lân:
Đúng là anh ta có cảm giác đó. Anh ta phải xua cái cảm giác đó đi bằng cách “ nhặt một hòn gạch
vung tay ném mạnh một cái”, như thể ném thẳng vào những thách thức đau đớn của cuộc sống. Tràng
cm thấy có lỗi đối với nời đàn bà kia về chuyn không đủ tin cưới xin,lỗi chưa xin phép mẹ, lỗi
cả chuyện hòan cảnh gia đình khốn đốn khó có thể cưu mang được thêm người nữa. Nhưng “ý nghĩ” này
của Tràng chứng tỏ Tràng đã có nhiều tình cảm với thị lắm. Cái mặc cảm ấy bây giờ mới nhận ra khiến
Tràng thốt lên “Mẹ bố chúng y cắn thế”, “cắn thế” tiếng chó sủa ngay trước cổng nhà Tràng ,
nơi Tràng phải thực sự đối mặt với tất cả những điều Tràng mặc cảm thấy.
Đi đến cổng nhà Tràng người đàn bà nhìn quanh và “cái ngực gầyp nhô hẳn lên nén một
tiếng thở dài”.Phải chăng thị thất vọng vì sự nghèo túng thái quá mà căn nhà của Tràng đập vào
mắt?
Nhà văn Kim Lân :
Không hẳn tiếng “thở dài” ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc
thừa hiểu đóan được hoàn cảnh của một người đi kéo xe thuê. Thị theo về nhưng trong lòng thị
vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân o ngõ, khi không thể
thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi
nữa, thì một tiếng thở dài và không tránh khỏi.
Dẫn thị vào nhà, Tràng tỏ ra bối rối. “Tràng quay lại nhìn thị cười cười” cố tỏ vẻ tự nhiên
cho thị và cũng cho cảnh, Tràng nói đùa: “ không có nời đàn bà n cửa thế đấy” Nghe câu
đó thị lại nhếch mép cười nhạt nhẽo”.Có lẽ, thị không hề có ý “khinh thị” cái từ ncửa”
Tràng gán cho túp lều tồi tàn của mình. Vậy thị “nhếch mép” vì điều gì?
Nhà văn Kim Lân:
Thị “nhếch mép” nhạt nhẽo ý khác. Thị tủi cho cái thân phận của thị, thân phận theo trai vì
đói: thị biết thị theo Tràng chỉ đói như thế không xứng đáng với tư cách người đàn trong gia
đình Tràng vừa gán cho.
Nhưng Tràng lại bối rối thật sự, Tràng sợ mất thị do hoàn cảnh của mình ư?
Nhà văn Kim Lân:
Đúng thế. đây diễn ra một tình cảnh khá lạ lùng. Tràng “nhặt” được một người đàn nhưng
rồi lại sợ mất thị. Cảnh nghèo đói đã hiện lên ràng. Tràng thấy tội đã che giấu không thể kể
cho thị nghe trước. Sự im lặng của thị, nỗi mặc cảm của thị Tràng không hiểu nổi. n nữa Tràng không
th t quyết đưc tất c mi vic. Còn ý kiến ca bà c T na ch. Liu m có đng ý không? S ch
đợi mẹ về thật nặng nhọc với Tràng. “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc” rồi lấm lét bước vội”
ra sân. Tràng sợ rằng người đàn sẽ bất ngờ từ chối không làm vợ Tràng nữa. Tràng không dám trở lại
nhà chỉ luẩn quẩn n, ngõ. Một lần nữa, Tràng sợ đối diện với thị, nhưng kng phải sựxa
lạ” như trước mà sợ sự “đột nhiên từ chối”.
Khi viết, ý nghĩay có lúc ln trong đầu ông không? Thng thể bỏ Tng để đi ăn
xin hay “theo” một kẻ khác khá hơn chứ?
Nhà văn Kim Lân:
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
14
Không bào giờ. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống
với đôi mắt hồn nhìn “bần thần” đâu đó. Thị chỉ dám ngồi mép giường. Sự “ngồi mớm mép giường”
và hai tay vẫn không rời cái thúng, chứng tỏ thị hơn ai hết hỉu rõ số phận của mình.
Trong tâm trạng bồn chồn của Tràng và sự tủi thân câm lặng của cô vợ, việc bà cụ Tứ trở
về đã xua tan được không khí bế tắc. Tràng vui vẻ hẳn, còn người đàn bà lạ cất mộtu chào ấp
áp: “U đã về ạ”. Bà cụ Tứ có ngỡ ngàng chút ít, nhưng bà cũng đồng ý chóng vánh. Không thấy bà
lc vn hi han gì con trai, điu mà các bà m thưng làm. Vy trong mch truyn, s đng ý
nhanh chóng của người mẹ có quá gượng ép?
Nhà văn Kim Lân:
Chúng ta nên hiểu m trạng của mẹ. Bà cụ Tứ ngay từ khi về đến nhà đã bngạc nhiên s
vui vẻ chờ đợi “nóng cả ruột” của con trai mình. càng ngạc nhiên khi người đàn lạ trong
nhà mà li đngđu giưng thng con. Ngươì đó li chào bà bng u. Cái cnh đó chưa đưc gii thích
đến ni bà c tưng nhm mình đang mơ thy cái Đc con gái đã chết hiện về. khi Tràng giải
thích, “nín lặng” hiểu ra mọi chuyện. tủi phận đã không xứng đáng là một người mẹ, không lo
cho con một cách đàng hoàng như người khác. Hơn cả đứa con, hiểu n hoàn cảnh của chúng.
Nời ta gp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy mình. con mình mới vợ được”
nghĩ. Có thể bà hơi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác “hàm ơn” đối với ngươì đàn bà
nhiều hơn, người đã giúp bà “lo” cho con trai bằng ch làm vợ anh ta. Bà không dám tin rằng Chúng
nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này”. Ý ngvề cuộc sống tương lai, hiện tại gian nan có
người đàn bà lạ tham dự vào một cách bà đồng ý với Tràng . Cuộc sống không cho họ đòi hỏi nhiều hơn.
Dù họ có vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói
treo lơ lửng trước mặt.
Tương lai của cặp vợ chồng mới nay như bóng tối trong con mắt bà. “Bà lão đăm đăm nhìn
ra ngi. Bóng tối trùm lấy hai con mắt”. Xen vào ý nghĩ tối tăm, hiện thực cuộc sống đồng thanh
xác nhn điu đó bng mùi tru khét lt nhà nhng ngưi chết. Bà nghĩ đến cuc đi bà và
ngm so sánh vi cuc sng ca cp v chng này. Chúng ch có mt đim chung là không mt
chút nào tươi sáng. Bà nhcCon ngi xuống đây”. Lời nhắc này ý nghĩa với lời chào thuận
lòng của người mẹ. thực sự chấp nhận thị là con dâu hay do hoàn cảnh phải chấp
nhận?
Nhà văn Kim Lân:
Cuộc gặp đầu tiên đó không i ý nghĩa “mẹ chồng con dâu”. i tình cảm chiếm nhiều nhất
trong lòng bà cụ Tứ là tình cảm “thương xót” một người đàn bà cùng đường. Hơn nữa, có một nỗi “hàm
ơn mơ h luôn bám ly bà. Nơì đàn bà đã giúp bà cái vic không th làm cho con trai là lấy v cho
anh ta.
đon văn này, ti sao tác gi lại không phân tích tâm trạng của người đàn bà, tâm trạng
nơm nớp vì có lẽ bà cụ Tứ sẽ không bằng lòng?
Nhà văn Kim Lân:
Tôi vẫn ý định không tả trực tiếp trạng thái tâm của người đàn bà. Tôi muốn qua cách
nhìn của Tràng, của bà cụ Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của chị. Ở đây, mỗi khi thay đổi cách gọi :
người đàn bà, thị, ả là một lần “nhân vật vợ mi” thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn
giấu cảm nghĩ của mình na. kể lể về đám cưới với dăm ba mâm cỗ chong xóm, họ hàng, nhưng
nhà nghèo” và “năm nay thì đói to” nên chỉ cần “chúng mày hoà hợp là u mừng”. Sự thành thật xen lẫn
nỗi đắng cay khiến bà khóc. Bà khóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó có thể giữ nổi
trong cuộc sống đói khổ này.
Tràng hồi hộp, háo hức ch m và khi bà c T đng ý ,Tràng th đánh phào mt cái,
như vừa trút hết gánh nặng. Như vậy Tràng chính thức vợ. Nhưng Tràng hiểu được những
giọt nước mắt của mẹ?
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
15
Nhà văn Kim Lân:
Tràng hiểu bà mẹ chỉ nhìn thấy ở việc mình có vợ những viễn cảnh tăm tối. Đó chính là điều đặc
sắc của Tràng. Tràng tin tưởng mình, tin tưởng những điều tốt đẹp nẩy sinh từ lòng mình. Những
điều đó không thể có một kết cục tệ hại được. Có thể là ý nghĩ nhất thời nhưng Tràng phải nhắc nhở mẹ
và vợ về điều này.
Và ngọn đèn Tràng thắp lên đã an ủi cả mấy người?
Nhà văn Kim Lân:
Tràng “hầm hầm bước o” “đánh diêm đốt đèn”. nh động kiên quyết tạo ra một hình tượng
“Ngọn đèn tỏa sáng căn nhà tối tăm”. Tại sao Tràng không thắp đèn ngay khi về nhà? Bởi Tràng chỉ thắp
khi phải củng cố niềm tin dù nhỏ nhoi cho ngưi kc. Ngn đèn vừa mang biểu tượng cho mtơng
lai tươi sáng, vừa liên kết gắn ba người lại với nhau ba con nời đóich. Ngọn đèn là niềmu
thương, cảm thông lẫn nhau đcùng vượt lên trên sphận buồn thương của họ. khi thấy sáng ,
lão “vội ng lau nước mắt”. ràng là căn nhà trong lòng bà lão đều tối như nhau. Ánh sáng như
một lời hứa quyết tâm của người con trai gửi đến mẹ. Dầu đắt thế nhưng bởi có vợ mới nên con trai
bà cũng mua được cơ mà. Tuy nhiên đèn sáng lên bà cũng chỉ “uể oải” đứng dậy đi nằm. Cái rạng rỡ của
ánh sáng cũng chỉ là một viễn cảnh quá xa.
Ánhng soi rõ lòng mẹ và một lần nữa ngọn đèn tỏa dọi vào cuộc sống chung của đôi
vợ chồng mới?
Nhà văn Kim Lân:
Thực tại luôn luôn o người ta lại với nó. “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”
đã lấy mất không khí lãng mạn ngọn đèn vừa mang đến.Cả hai một lần nữa lại “sượng sùng” khộng biết
nói gì. Hình ảnh thực nhất hình ảnh “ngọn đèn” hạnh phúc tương lai soi di h vàkéo dài hai cái
bóng trên vách”. Hai cái bóng đó chính cuộc sống thực của họ. Hai cái ng lờ mờ, thê, khốn khổ.
Sự thât trần trụi họ phải tiếp nhận là như thế.
Đêm tân hôn của cặp vợ chồng là đêm hạnh phúc. Mọi khó khăn đều tạm thời quên đi. Hai
người hưởng cái niềm vui tột cùng mà thiên nhiiên trao tặng. Nhưng cái niềm vui ấy được bao
quanh bởi tiếng khóc tỉ nghe càng rõ”. Một đêm tân hôn trong tiếng khóc người chết mùi
trấu hun khê nồng. Tràng có cảm thấy hạnh phúc không?
Nhà văn Kim Lân:
Tôi tả đêm tân hôn trong hòan cảnh đó đphân tích xem hạnh phúc tột cùng đó có chiến thắng
cái đói không. Tràng hạnh phúc. Trong khung cảnh tăm tối và ghê rợn như thế nhưng niềm vui của con
người vẫn không mất đi. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy rất muộn khi “mặt trời lên bằng con sào”, chứng
tỏ niềm hạnh phúc mà anh được nếm trải. Anh ta trở thành một con người khác. Một người chồng thực
sự. Ánh nắng buổi ng mùa hè ng lóa xoí vào hai con mắt” của Tràng mọi thứ bỗng nhiên thay đổi.
Đó là thay đổi thực hay Tràng chỉ cảm thấy thế?
Nhà văn Kim Lân:
Cuộc sống thay đổi thực dù không nhiều với gia đình ấy. Tràng thấy mọi thứ “mới mẻ, khác lạ”.
Nhà cửa, vườn tược được thu vén gọn gàng. Các lu đựng nước đầy ắp. Quần áo được giặt giũ và phơi
nắng. Một nếp sống khác bắt đầu xuất hiện. Người làm thay đổi nếp sống ấy người vợ đang “quét lại
cái n, tiếng chổi từng nhát kêu n sạt trên mặt đất”. Cái âm thanh ấy, ngày thường Tràng cũng nghe
nhưng chưa bao giờ gợi cảm như thế. Người vợ mới muốn quét mạnh tay để tạo ra những âm thanh rộn
rã khẳng định sự có mặt của mình trong ngôi nhà.
Cnh tưng đó đã khiến Tràng thythương yêu gn bó vi cái nhà ca hn l lùng. Tràng
là con, là chồng, Tràng có nhiều trách nhiệm hơn với ngôi nhà. Cái trách nhiệm, cái niềm vui của
cuộc sống mới đã khiến cho Tràng có “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong
lòng vàcũng mun làm mt vic đ d phn sa li căn nhà. Tt c mi ni đu hiu phải
tiến gần nhau hơn?
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
16
Nhà văn Kim Lân:
đây tôi không ch tâm din t cái đói mà là mun th hin cuc sng ca mt cp v chng mi
trong nạn đói. Cho nên cuộc sống đói khổ chỉ cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó mà niềm vui của cặp
vợ chồng luôn bấp nh. Ở đây có một ẩn ý: Cả ba nời đều không quên thc tại cố gắng của họ là
tìm thấy niềm vui trong cuộc sống tối m. Cái bữa ăn đầu tiên ba người ngồi ăn chung mang ý nghĩa
như bữa “tiệc cưới” tội nghiệp. Giữa i mẹ rách có độc một chùm rau chuối thái rối một đĩa muối
ăn với cháo”. Sự tồi tàn của bữa ăn trong tương phản niềm vui của họ. Họ đều “ăn rất ngon lành”
“vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh”. Họ gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan
ngoãn nghe lời mẹ. “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại a hợp thế”. Tầm quan trọng của bữa
ăn đầu thật rõ. Nhưng “tiệc cưới” kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai lưng cháo “lõng bõng”. Màn
cuối của bữa hòan toàn phủ phàng khiến mọi ngươờ nhớ đến thực tại khắc nghiệt. dâu đón lấy bát
ăn “đưa n mắt nhìn” rồi hai con mắt thị tối lại” cảm nhận tận cùng i cực của cuộc sống
mới. Nhưng thị đã “điềm nhiên và vào miệng”. Đấy dù sao cũng là lối tốt nhất cho cuộc đời của thị.
Nồi cháo cám đã đập tan không khí vui tươi phần đầu bữa ăn. “ Bữa cơm từ đấy không
ai noí câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào tâm
trí mi người. Trong sách văn học lớp 12, phần được trích ging cũng dừng ở đoạn này. Câu văn
dường như bóc nốt lượt cuối lớp vỏ bên ngoài của cuc sng đ cho c ba thy cáiđng chát,
“cái nghẹn bứ trong cổ”. Cuộc sống không báo hiệu một tia hi vọng nào?
Nhà văn Kim Lân:
Thực ra với tứ truyện “Vợ nhặt” truyện nên kết thúc ở đây. Thâm tâm tôi cũng định thế nhưng do
điều kiện của tờ báo bấy gi , truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh
thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người làcuộc sống. tình ngưòi
hy vọng vào tương lai.
Thưa nhà văn, đoạn nào trong truyện là đoạn gây xúc động nhất cho riêng nhà văn?
Nhà văn Kim Lân:
Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện đoạn cụ Tứ trở về. đây tình của người
mẹ thật lớn. nhanh chóng hiểu hoàn cảnh chấp nhận ngay. không chỉ thương con trai
còn đầy lòng thương xót với người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó
chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.
Xin cảm ơn ông.
(Kim Lân, ‘Vợ nhặt’, in trong Tác giả nói về tác phẩm, Hỏi chuyện các tác giả có tác phẩm giảng
dạy trong nhà trường, Nguyễn Quang Thiều chủ biên, Nxb Trẻ, 2000)
9. Nạn đói năm Ất Dậu đã đi vào văn chương như thế nào ?
“Vợ nhặt”, “Một bữa no”, “Chuyện cũ Nội” những tác phẩm nổi tiếng khi đọc, người
ta rùng mình với một sự kiện thương đau đã qua.
Nạn đói khủng khiếp chắc chắn đã ám nh c nhà n, đtừ đó, họ viết nên những truyện,
những hồi ký ám ảnh người đọc về sau.
‘Chữ nghĩa tôi run rẩy khi viết về nạn đói’
Về nạn đói, Hoài viết: “Mỗi khi chợt nglại, i vẫn bàng hoàng về những năm khủng khiếp
ấy”, viết về nạn đói thì tác giả Dế Mèn thấy “chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.
Vậy, những chuyện gì đã ám ảnh Hoài khiến mấy chục năm sau nhà văn o thành vẫn rùng mình?
Trong cuốn Chuyện Nội, Tô Hoài với tư cách một nhân chứng đã ghi lại muôn mặt đời thường của
Hà Nội những năm 1930-1945.
Ông kể trong nạn đói, trẻ em brẻ rúng, được đưa đi buôn bán như mua n lợn: “Lại thêm
người đói c nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. làng tôi, người quảy trẻ
con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
17
lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn
khổ”.
Nội tuy không phải nơi nạn đói hoành hành, nhưng người đói đổ về đây những rất nhiều.
Phố phường Hà Nội trong cơn đói được miêu tả: “Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy
lượt người đói các nơi kéo vào… Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết
lầm lũi qua”.
Ánh mắt của những nạn nhân cơn đói được Hoài khắc đi khắc lại trong bài Chết đói. mấy
làng ven nội thành trong thành phố thì “chỉ bị khiếp đảm xanh mắt về nạn đói, chưa đến nỗi phải
chết”.
Hay nhà văn viết về anh Bùng - ngưi b suy kit vì đói:Tôi vn nh cái c cò l hu, đôi mt
tinh nhanh khi anh nói trước đây, khác hai con mắt anh lờ đờ những ngày đói”.
Vinh - con nhà dì của Tô Hoài - cũng đói xanh mắt: “Có gì mà ăn lúc này! Chân tay nó khẳng khiu,
xám ngắt. Tôi có thể đoán cái đói bằng con mắt Vinh. Mắt Vinh cứ xanh dần lên. Có hôm mt nó xanh lét
như mắt mèo. Đói xanh mắt - có thế thật. Các cụ ngày trước đã ví chẳng sai".
Những dáng người ban đầu còn khỏe, sau suy kiệt dần được Tô Hoài miêu tả: "Mới hôm nào anh
Bủng khỏe mạnh hẳn hoi mà bây giờ xanh rớt. Người vốn gầy cao lêu đêu, cứ rạc đi như que. Vào nhà
tôi, hai bàn chân anh đễ nề to ra, không bước lên nổi thềm đá bậc cửa”.
Hay một người tên Hiền - cùng tuổi, cùng xóm với Tô Hoài: “Hiền phải lê la kiếm miếng trên chợ,
trông đã tã lắm, ngụp đến nơi rồi. Hiền ngồi một chỗ, đầu rũ xuống, thở khù khừ như con mèo ốm”.
Trong Chuyện Hà Nội, Tô Hoài cũng trích lại những thông tin về nạn đói của phóng viên tờ Tin
Mới. Những thông tin y bị kiểm duyệt của phát xít Nhật cắt bỏ, nhưng thợ in đã đem cho Hoài
chuyển cho báo Cứu Quốc.
Đoạn trích này cho thấy trong cơn đói, người ta chôn cả những người còn thoi thóp: “Khi đi nhặt
xác, gp ai ngc ngoi, bn này cũng lôi đi chôn, vì nếu đlại thì rồi cũng đến chết nốt. Lúc bị vùi
xuống hố, những người ấy còn chắp tay van lạy nhưng bọn người đi chôn cũng cứ lấp đất đi không
chôn được người thì không được trả công”.
bài Chết đói, Hoài cũng kể việc ông và những người thân trong gia đình, bạn bè lao đao
nạn đói: “Năm ấy, Nam Cao lên ở với tôi. Viết truyện kiếm thêm, năm thoảng ba thì mới được cầm đồng
tiền. Nam Cao dạy mấy đứa cháu anh Khôi tôi ở làng trên. Anh Khôi đã ý tứ trả công thầy giáo bằng gạo.
Phỏng thử chẳng có nhữnggạo ấy, không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh, hay còn thế
nào nữa”.
Bài Ô Cầu Dền trong tập tản văn Bát phố, nhà văn Bảo Sinh nhắc về nạn đói: “Năm 1945, đây
mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân
tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được
đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả”.
Cái đói, cái chết đi vào nhng dòng thơ đầy nhân văn của nhạc sĩ, nhà thơ Văn Cao. Trong bài Chiếc
xe xác qua phường Dạ Lạc, Văn Cao viết: “Ngã nghiêng nghiêng xe xác/ Đi vào ngõ khói công yên/ Thấy
bâng khuâng lối cỏ huyền/ Hương nha phiến chập chờn mộng ảo/ Bánh nghiến nhựa đường nghe sào
sạo/ - Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe/ Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề/ Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi
vực.."
Bi kịch của phận người trong cơn đói
Nhà văn Nam Cao - người được Tô Hoài cho biết sốngt qua nạn đói nhờ ít gạo trả công dạy học
- dường như ám ảnh lớn với cái đói. Các truyện ngắn của ông, mỗi truyện khắc họa một bi kịch khác
nhau của phận người trong cái đói, cái nghèo.
Truyện Trẻ con không biết đói mở đầu: “Người mẹ rổ chuối luộc lên. Ba đứa con nhỏ ngay
đến y như những con gà con trông thấy một đoạn giun trên mỏ mẹ”.
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
18
Hoặc nhân vật lão trong Một bữa no được miêu tả với hoàn cảnh đói triền miên: “Hơn ba tháng,
bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa.
Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào
cũng cho như vậy?”
đói, khóc, cho đến lúc không còn sức khóc nữa, thì chợt “sáng trí”, ngra đứa cháu đang
đi ở cho nhà bà phó Thụ. Bằng tất cả sức lực còn lại, bà lão đi thăm cháu.
Đoạn hội thoại đầy nước mắt khi lão gặp “cái đĩ” cháu bà đã cho thấy tất cả tình cảnh đói cùng
quẫn: “Bà đến xin bà phó một bữa cơm ăn đây! Bà đói lắm”, “Chỉ nhịn thôi chứ lấy gì mà ăn”.
Một người đói quá lâu, cho tới khi có được một bữa no thì cơ thể không thể chịu được bữa no bất
thường ấy, rồi lão lăn ra chết. đây, khi được một miếng ăn rồi, người đói cũng chẳng thể thoát
khỏi bi kịch.
Truyện Vợ nhặt in trong tập Con c xấu của Kim Lân trở nên quen thuộc với bao độc giả
trích đoạn tác phẩm này được đưa vào chương trình giảng dạy văn học trong trường phổ thông. Truyện
lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 tràn lan khiến người chết như ngả rạ, người sống dật dờ như những bóng
ma.
Tràng là người xấu xí t kệch, làm nghề kéo xe bò thuê và sống trong xóm ngụ cùng mẹ già.
Trớ trêu thay, chỉ bởi nạn đói người như Tràng “nhặt” được vợ. Với một bữa ăn bốn bát bánh đúc,
lời chọc ghẹo ng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò/ Thì lên đẩy xe với anh”, i theo
Tràng về làm vợ.
Trước cái đói, phải đối diện tử thần, nhiều người mất nhân tính, cốt có cái đưa vào miệng. Nhưng
trong hoàn cảnh ấy, vẫn có những câu chuyện xúc động.
Truyện ngắn Tình người trong tập Hai chậu lan tố tâm của Phan Du, kể về Thuận - 15 tuổi mồ
cha mẹ, đi theo chuyến xe xác của ông Cẩm - 65 tuổi, người chuyên kéo xe chở xác chết tới bãi tha ma.
Trong cái nghèo, cái đói, và s cô đcy, hai mnh đời tìm thy hơim tình ni qua mt cái
siết tay, một nén nhang cho người chết không ai đưa tiễn.
10. Nhân vật “Vợ nhặt”:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
(Ca dao)
Thân phận người phụ nữ thời phong kiến đã tội nghiệp như vậy đấy. Vậy mà, dưới ách áp bức
của Pháp, Nhật trong nạn đói khủng khiếp năm t Dậu 1945, thân phận của họ còn đáng thương n
nữa. Kim Lân, một nhà văn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống cũng như con người thôn quê, sau khi
hòa bình lập lại (1954), dựa vào một phần tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” (viết sau Cách mạng tháng Tám 1945
nhưng chưa hoàn thành mất bản thảo) đã tái hiện lại bức chân dung chân thật, sinh động của người
phụ nữ năm đói với những gtrị hiện thực nhân đạo sâu sắc trong người “vợ nhặt”_nhân vật trong
“Vợ nhặt”_tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân, rút từ tập “Con chó xấu xí” (1962).
Người “vợ nhặt”_nhân vật chính được lấy làm nhan đề cho c phẩm_ vậy suốt từ đầu đến
cuối đều không được gọi bằng một cái tên cụ thể o, cũng chẳng biết gốc tích, lai lịch ra sao. Có quan
trọng gì với những con người đang đứng bên bmiệng cái chết? Những lần gặp gỡ giữa thị Tràng
cũng chỉ như bèo nước gặp nhau, đâu cần chào hỏi, đâu cần biết đối phương là ai. Cái đói đã hai lần đẩy
ni đàn này li vi Tràng. Nhưng gia hai ln đói, th đã biến đi ghê gm: t cô gái khe mnh
“liếc mắt, cười tít”, “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”, qua ít hôm đã trở nên “rách quá, áo quần tả tơi
như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên i khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” khiến Tràng
không nhận ra được. Thế mới biết, cuộc sống đối với thị đã khắc nghiệt đến thế nào! Không còn một chút
nét tươi tắn, không đưa đẩy tình tứ, lần gặp thứ hai y thị “sầm sập chạy đến”, đi ngay vào vấn đề, trách
móc Tràng bằng những lời lkhá thô tục đã không giữ lời hứa. Không cần giữ thể hiện, yêu cầu bức
thiết nhất của thị lúc y được cho ăn. thế mà khi Tràng tỏ thiện chí: “Đấy, muốn ăn gì thì ăn” thì
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
19
“Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”. Cái đói khiến thị “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trông thật đáng thương! Với i ch ăn ấy thì ch th là đóiu ny
rồi. Cách kết thúc bữa ăn cũng rất hồn nhiên theo kiểu đói: “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”,
vừa có vẻ khoái trá, vừa có vẻ tiếc rẻ. Rồi, với câu nói “tưởng nói đùa” của Tràng: “Này nói đùa chứ có
về với tthì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, “thị về thật” mà không một điều kiện ràng buộc nào.
Giữa lúc “Người chết như ngả rạ” thì người đàn này đã bị đẩy đến chỗ cùng đường liều lĩnh rồi.
Cứ nhìn i cách thị ăn đủ hiểu. Ai biết được chng bao lâu nữa thị cũng sẽ là một giữa bao nhiêu cái xác
“nằm còng queo bên đường”? Cái đói như con ác thú mà bọn Pháp, Nhật nuôi tạo đã ngốn lấy thị, hút đi
bao nhiêu là sinh khí, phẩm giá, lòng tự trọng, để rồi nhả ra con người mọn, dường như nghĩa
mang tên “vợ nhặt”. Ôi chaoxót xa, tủi hổ! Thị như đứa con hoang mà chính sách bóc lột tàn bạo của
những kẻ thống trị đã sản sinh rồi vứt ra đầu đường chợ trong cuộc sống tha phương cầu thực, mặc
kệ sự sống chết, may mắn được anh cu Tràng_một chàng trai ngụ cư nghèo, xấu xí, nhưng đôn hậu, vui
vẻ tốt bụng “nhặt” về. bao giờ con người bị “mất giánhư thế này chăng? “tấm lụa đào phất p
giữa chợ” ít ra còn đổi được vài đồng, đằng này, thị theo không Tràng…
thì theo không! Ừ thì bé mọn! Lẽ nào lại khoanh tay chờ chết!? Người đàn bàTràng “nhặt”
về ấy, tưởng như nghĩa, tưởng như còn gánh nặng: “thóc gạo này đến i thân mình cũng chả
biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, vậy mà lại có sức mạnh diệu kỳ làm cho vẻ mặt đăm chiêu, lo
lắng ngày thường của Tràng trở nên “phấn khởi”, “tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp
lánh”; lũ trẻ ủ rũ đi vì đói thích đùa trở lại; còn với những người hàng xóm khác: “Những khuôn mặt hốc
hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Phép màu còn xảy đến với cả thị, làm mt đi ở thị sự dn
dĩ, táo bạo mới rồi, chỉ còn lại những “rón rén, e thẹn” của dâu mới về nhà chồng. sự việc hi hữu
ch có trong nạn đói, sự việc lạng xy ra gia nạn đói, sự vic vẻ nợc đời nhưng lại “cái l
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối”. Sự xuất hiện của người “vợ nhặt” vừa là tiếng búa
đinh óc của hiện thực khốc liệt nhưng ánh sáng phát ra từ đó cũng đẹp llùng. Có sức biến cải, dù chỉ
trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Đó là lời tố o đanh thép đi vi xã hi đương thi, nơi mà giá trị con
người trở nên rẻ mạt, gần như nghĩa; đồng thời, tiếng nói đầy nhân đạo về khát vọng sống, khát
vọng hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong mỗi con người mà ở đây người “vợ nhặt” cũng không ngoại lệ.
Sau phút phấn chấn, hiện thực lại dội đến: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết
nuôi nổi nhau sống qua được i thì này không?”. Không chỉ là những người hàng xóm “cùng nín
lặng”, trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc đầy cỏ dại”, hẳn người “vợ nhặt” cũng
thất vọng đi nhiều lắm nên đi “lẳng lặng”, “cái ngực gầy lép nhô lên” có lẽ không chỉ để nén tiếng thở dài
thôi đâu. Tôi thấy ở đó c sự gồng mình chống chọi. Nời đàn y nhng mong bấu víu lấy sự sống
từ nơi Tràng. Thế mà, tội nghiệp thay, nơi bấu víu ấy lại cũng rất mong manh. Rồi mai cuộc sống sẽ sao
đây? Trong gương mặt “bần thần” của thị lẽ không chỉ lo âu về cuộc sống. Người mẹ chồng biết
chấp nhận khi “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”? Hành động “cúi mặt xuống, tay n
tà áo đã rách bợt” trông tội nghiệp, thảm thương quá! Đã lộ rõ bao lo âu, mặc cảm về thân phận. Nếu bà
cụ Tứ có ruồng rẫy, chắc cô cũng chỉ biết khóc thôi!
May thay, người mẹ già ấy đã đón nhận bằng cả sự đồng cảm, thương xót lẫn biết ơn: “Người
ta gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình con mình mới vợ được”.
Nhắm mắt bước liều, người phụ nữ này đã may mắn gặp được những con người giàu lòng nhân ái. Dẫu
có lo âu cho tương lai, ít ra cô cũng đã một gia đình, một nơi để dựa dẫm, phấn đấu và hi vọng. Đây
vẫn niềm hạnh phúc nho nhỏ của cô, trả về an phận trong vai một người vợ hiền, một nàng dâu
thảo. Nếu lúc đầu, cuộc sống khắc nghiệt với cái đói gngười đã hóa đá tâm hồn nữ tính của cô thì
giờ đây, hạnh phúc gia đình như những tia nắng m đã khiến chúng hồi sinh trở lại. Người đàn trở
nên “hiền hậu đúng mực” chứ không “chao chát, chỏng lỏn” như lúc chợ tỉnh nữa. Từ chỗ nghĩa
giữa cuộc đời, giờ đây, trong ngôi nhà này, sự tn ti của cô đầy ý nghĩa: nhà ca, sânờn “đều đưc
quét ớc, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng”; Tràng “thấy hắn nên người”, “vui sướng, phấn chấn”, ý thức
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
N NGC MINH QUÂN
20
trách nhiệm; “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của
rạng rỡ hẳn lên”. Trong tận cùng của đói khát và chết chóc, người đàn bà này đã đến, nhen nhóm ở đây
một tổ ấm, một cuộc sống mới
Thế thì… phải ăn mừng chứ nhỉ!? Bữa cơm được dọn ra, bữa cơm mừng nàng dâu mới giữa những
ngày đói thật thảm hại: “Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng hai t đã hết nhẵn”, còn cái món
“chè khoán” hóa ra lại cháo cám “đắng chát nghẹn bứ”. Người “vợ nhặt” hai mắt “tối lại” nhưng
vẫn “điềm nhiên vào miệng”. Chấp nhặt chi cái lúc y! Nhất là khi Tràng cụ Tứ đã mở rộng
lòng đón cô. Trong thái độ ngoan ngoãn ấy chứa đựng cả sự vị tha thông cảm. Nhưng dẫu sao, bát
co cám vẫn cái hiện thực khốc liệt đểnỗi tủi hờn leno tâm t mọi người” mặc cho bao lời đon
đả, bao viễn cảnh tốt đẹp mà bà cụ Tứ cố gợi ra. Rồi, như để làm tăng thêm cái hiện thực ảm đạm, tiếng
trống thúc thuế vang lên “dồn dập, vội vã”, cùng với lũ quạ “hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám
bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen”. Cuộc sống như bị đẩy đến chỗ cùng đường rồi. Đói khát
chết chóc đã hiển hiện ngay trước mắt. Nhưng, giữa lúc tối tăm mặt mũi ấy, người vợ nhặt như tình
cờ góp chuyện mà lại hé mở bao hy vọng về những con người gọi là “Việt Minh” đi “phá cả kho thóc của
Nhật, chia cho người đói”. nơi chân trời tối tăm vì cái đói này, đó là ánh sáng duy nht, con đưng
sống duy nhất. Với câu chuyện của mình, người vợ nhặt đã trở thành người báo tin cho một cuộc cách
mạng đang đến gần: Cách mạng tháng Tám.
thể nói, từ một nạn nhân bị giày vò, teo tóp bởi i đói, nhân vật của Kim Lân đã từng bước,
từng bước đi lên, trở thành một con người chủ thể. Bằng trái tim nhân hậu, sự am hiểu và nghệ thuật
phân tích tâm tinh tế, qua nhân vật của mình, nhà n Kim Lân đã dựng lên được bức tranh chân
thực, sinh động của nạn đói khủng khiếp năm 1945; đồng thời, để cho vẻ đẹp nhân đạo thấm sâu trong
tác phẩm qua ch con người đối với nhau, làm cho nhau, tình thương, sự thông cảm, những đổi thay
trong tâm tư, tính cách con người trước hạnh phúc. Người “vợ nhặt”, nhân vật chính nhưng không được
đặt tên phải chăng còn mang ý nghĩa phiếm chỉ về vô số những người đồng cảnh ngộ trong nạn đói, sống
đến tận cùng cơ cực vẫn khát khao hy vọng để rồi sẽ chứng kiến cuộc biến vĩ đại Cách mạng tháng Tám
1945?
11. Bàn luận về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ
văn 12, tp hai) có ý kiến cho rng: Tràng là mt gã trai quê nông ni, liu lĩnh nhưng li đy
khát khao tốt bụng. Anh/Chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Từ đó, liên h với nhân vật Chí Phèo
phần kết thúc truyện trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, tập một)
để nhận xét về số phận của người nông dân.
“Tôi định viết một số truyện ngắn những ý khác khi đói người ta không nghĩ đến con đường
chết chỉ ngđến con đường sống. trong tình huống bi thảm đến đâu, kbên cái chết vẫn
khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin o sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn
sống, sống cho ra người”. Đây lời tự sự của chính tác giả truyện ngắn Vợ nhặt nhà văn Kim Lân
người một lòng đi về với vẻ đẹp thuần hậu nguyên thủy ng qkhuất lấp sau dãy tre làng. Truyện
ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc không chỉ bởi thông điệp giàu ý
nghĩa còn bởi giá trị trị tinh thần giá trị giáo dục giàu của thiên truyện này. Truyện được lấy
cm hng và viết từ nn đói năm 1945. Sau đó, bị mất bản thảo nhưng khia nh lập lại (1954), ông
dựa vào cốt truyện cũ viết nên truyện ngắn này và in trong tập Con chó xấu xí.
Câu chuyện của truyện ngắn xoay quanh ba nhân vật là Tràng, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) Thị
người vợ nhặt (vợ Tràng).
Nhân vật nào cũng đều là hiện thân của những người nông dân trong nạn đói năm ấy, khốn khổ,
đói rách. Hoàn cảnh nạn đói ấy đã nh hưởng sâu sắc đến ngoại hình tính cách của họ. Tuy nhiên,
được sống trong tình thương của gia đình, của tình người, những phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn trong họ
mới lộ thiên.
| 1/35

Preview text:

Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019 VỢ NHẶT (Kim Lân)
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH, LỜI BÌNH VÀ TƯ LIỆU 1. Wikipedia:
Về tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân viết:
"Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói
người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà
vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.
"
2. Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người
vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn hiện thực
có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay
sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn
trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời. Trong
lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu
toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân
nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng
dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn
cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái
chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm
chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người
đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với
khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân,
ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta
một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những
bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn
hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang
cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà
văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ
phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật sự xuất sắc khi dựng lên tình huống "nhặt vợ" của anh cu Tràng.
Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong
đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể
đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha
và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một
điều ngược lại như ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước
"xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn
lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng qua kêu từng hồi thê
thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình
thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của cái xóm
ngụ cư ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch thô
kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào",
vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao.
Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia TÔN NGC MINH QUÂN 1
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã
bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao
ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô
tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm
của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương
nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình
cảm của vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình
trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh
chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh
phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như
có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "trong một lúc Tràng dường như quên đi
tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc.
Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng
rất hợp logic. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương
hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng
không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách
nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn
một cảnh gia đình hạnh phúc. "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "hắn thấy mình
có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ
ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người
vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống
sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn,
của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ
ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân
không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không
phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư
nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ
con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị
biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn
bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có
trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người. Thị xuất
hiện không tên tuổi, quê quán, trong thư thế "vân vê tà áo đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại
nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến
không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người
thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song
đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa,
bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật
này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong
những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh
phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra
một nét độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật
bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu
tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác
phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng
ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi
bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu TÔN NGC MINH QUÂN 2
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của
nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức
người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà
trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi
đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nổi tủi cực,
nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều
bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có
gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động
bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải
kiếp với nhau u cũng mừng lòng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực
thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói
rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương
dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không
ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương
xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy,
ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói
nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà
nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn truyện
vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng
mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám
nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ
mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiếu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước
mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót
thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình
thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về
nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng
ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất
ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình
cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để
thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả
tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân-một nhà văn được đánh giá là viết ít
nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Dostoevsky). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức
mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân
hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một
quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm
hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Nguyễn Thị Thu Trang 3. Báo Dân Trí:
“Tôi thật cảm động, trong khi giới trẻ đang bị chi phối bởi nhiều vấn đề của xã hội, vẫn có
một học sinh cảm nhận được vẻ đẹp sâu sắc của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng. Bài văn
của em thật xứng đáng được điểm 10”.

Thế sau khi được đọc bài văn của Trang, ông có còn nghi ngờ?
Khi viết Vợ nhặt, tôi viết theo tình cảm, một cách tự nhiên, nó như là sự thăng hoa nhưng cốt
truyện lại hóa ra rất chặt chẽ. Bởi mình đã có sự say mê tự nhiên, mình đã có một chủ đề tư tưởng sẵn TÔN NGC MINH QUÂN 3
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
rồi. Chính cái chủ đề nó bắt mình, làm mình phải viết như thế, phải nghĩ về những con người ấy như
thế. Và tự nhiên những chi tiết đó đã xuất hiện ra như thế.
Những chi tiết như: quạ kêu, mùi đống rấm, tất cả hình ảnh về những xác chết.. đều đến rất tự
nhiên. Chính bạn đọc, người đọc đã khám phá ra cho tôi nhiều hơn. Bài viết của Trang đã thêm một lần
khám phá ra cái mới của tác phẩm…
Ý ông muốn nói, bài viết của Trang đã khám phá thêm những cái mới về tác phẩm của ông,
mà những người trước đó chưa hề đề cập đến?
Đúng thế ! Khi tôi được đọc bài văn của cháu tôi thực sự bị bất ngờ ghê gớm. Tôi không thể tưởng
tượng được một đứa trẻ với vốn sống chưa có được bao nhiêu, mà cái vốn sống về những năm của nạn
đói lại càng không có, thế mà làm sao cháu lại nhìn ra cái đói đó để phân tích được một cách kỹ càng mà
lại hợp tình hợp lý, nâng cao được những nội dung của câu chuyện đến như thế. Tôi nói thật, nói như
thế này hơi buồn cười, nhưng nó lại là sự thật thế: Thủ khoa là Trạng chứ gì? Cháu Trang đã là Trạng
Văn rồi chứ còn gì nữa! Khi đọc toàn bài văn của Trang phân tích về “Vợ nhặt” của tôi, nói thật Trang
đã tìm ra sự mới mẻ hơn so với những bài của những cây “đại thụ” như GS Đỗ Đức Hiểu, GS Đỗ Kim Hồ. .
Dù họ là những vị giáo sư đã từng viết rất hay.
Nhưng bài văn của cháu viết cũng không kém phần tinh xảo, sâu sắc và cũng không kém phần
khám phá, không kém phần có những phát hiện mới ở trong đấy. Ví dụ như cháu lại ví truyện của tôi có
cái gì giống với Đôtôiepki của Nga-một nhà văn viết về những người cùng khổ.
Từ trong hoàn cảnh đen tối, lòng thương nó nâng con người lên. Từ ví dụ như thế, tôi thấy cháu
này không phải chỉ đọc của tôi mà đã đọc của nhiều người. Vì vậy, trình độ cảm nhận về văn chương
của cháu cũng rất tinh tế. Tôi tâm phục, khẩu phục và thấy điểm 10 rất là đích đáng.
Trước đây những người viết phê bình về văn của ông chưa có ai ví “Vợ nhặt” với văn của
Đôtôiepki?
Đúng thế ! Và cũng chưa có ai nói đến chữ hiếu của anh cu Tràng cả, mà trong này cháu lại nói
đến chữ hiếu của Tràng. Quả nhiên đúng như thế thật. Trước đây nhân vật Tràng rất nhố nhăng đến
khi có vợ thì về nói chuyện với mẹ rất lễ phép và tự dưng quý trọng mẹ mình vô cùng. Cảm thấy yêu
thương ngôi nhà, yêu thương mảnh vườn của mình, yêu thương cả những công việc rất đỗi bình thường.
Sự phát hiện đó của Trang rất đẹp đẽ.
Vậy sự phát hiện đó của em Trang có nằm ngoài ý đồ của nhà văn khi ông viết “Vợ
nhặt” không?
Thông thường thì bạn đọc phát hiện, mổ xẻ tác phẩm giúp nhà văn, chứ nhà văn khi viết thì cũng
chưa nghĩ được sâu sắc đến thế. Tôi thấy bài viết của cháu Trang đã nâng tầm truyện “Vợ nhặt” của tôi.
Trong bài viết của mình, Trang có trích dẫn một câu của ông, khi ông nói về ý đồ viết chuyện
“Vợ nhặt”. Điều đó chứng tỏ, từ lâu Trang đã theo sát hoạt động của nhà văn ?
Trong một lần đi nói chuyện về tác phẩm này, tôi có nói với mọi người đại ý rằng: Người ta viết
về cái đói, cái khát thì nó bi thảm, đau thương và tối tăm, nhưng tôi muốn viết trong cái đói, cái khát ấy,
con người ta hướng về sự sống, khao khát về sự sống. Chính sự khao khát ấy đưa đến một sự thật là, có
cùng khổ người ta mới thành thương yêu đùm bọc được nhau, chứ cùng sướng thì chưa chắc đã có sự thương yêu.
Sau đó báo chí có đăng. Trong bài viết của mình, cháu Trang đã trích dẫn rất đúng ý mà tôi đã nói. Đây
có lẽ là ý không có trong sách vở, nhưng cháu lại biết để trích dẫn, rồi lấy đó làm chủ đề xuyên suốt để
phân tích trong bài viết của mình. Tôi cho rằng, không phải tự nhiên nắm bắt được đâu, mà phải yêu
câu chuyện mình đọc, phải yêu người viết thì Trang mới có tình cảm, mới dõi theo và biết được câu nói ấy của tôi.
Điều đặc biệt nữa là nhà văn không thích hình ảnh cờ đỏ sao vàng ở cuối truyện, bởi vì tình yêu
đến, thương yêu nhau đến như thế, đến buổi sáng quét sân là hết chuyện rồi. Họ cho rằng, việc đưa hình
ảnh sao vàng lấp lánh là gượng ép. TÔN NGC MINH QUÂN 4
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
Thế nhưng Trang đã phân tích hình ảnh đó thật đẹp và rất hợp với logic của câu chuyện. Bởi vì,
thương yêu nhau đến mấy mà không có Cách mạng thì cũng chôn vùi hết cả. Mà mở cho những con
người này sống thì phải đi theo Cách mạng, phải có Cách mạng. Tràng sẽ tham gia Cách mạng, sẽ đi bộ
đội. Đấy là thực tế của xã hội lúc bấy giờ. Khi tôi viết xong anh Nguyễn Đình Thi cũng khen tôi chỗ đấy.
Theo tôi đấy là sự tinh tế trong việc cảm nhận của cháu Trang. Và tất nhiên, tôi hiểu để viết được
như thế cháu cũng phải đọc nhiều bài của các bậc thầy đã từng viết về tác phẩm. Dù học thầy nhưng khi
viết, Trang lại viết theo cảm nhận của mình chứ không phải viết theo lối bắt chước thầy. Đấy là sự sáng
tạo. Và theo tôi cháu Trang là một người già dặn hơn nhiều so với lứa tuổi. ở tuổi của cháu mà lại thích
được đến thế, phân tích được sâu sắc như thế thì thật cảm động. Tôi phải cảm ơn Trang !
Ngoài việc phân tích, Trang còn nhận xét “thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng
dựng chuyện, dẫn chuyện…”. Một học sinh phổ thông lại dám nhận xét về bút pháp của một nhà
văn, ông có tự ái ?

Sao lại tự ái? Trang nói thế là trúng đấy. Chính tôi viết là có cảnh, bao giờ cũng vào một cảnh ngộ.
Nhận xét đó làm sao mà có thể tự ái được, mà phấn khởi quá đi chứ. Phải cảm ơn cháu nữa chứ. Tôi nói
thật, một ông khác mà khen thì thiên hạ chú ý ít thôi, nhưng bây giờ một học sinh ít tuổi mà khen thế thì
báo chí cũng phải chú ý. Trong thời điểm hiện nay, thanh niên quan niệm về văn học có nhiều rắc rối
lắm, nên việc một người trẻ như thế mà phân tích kỹ càng, đến nơi đến chốn lại phân tích rất ngay ngắn
về tư tưởng như vậy là đáng quý lắm.
Thưa ông, được biết đã có nhiều người làm luận văn thạc sĩ về truyện ngắn này, nhưng
dường như chưa ai có những phân tích mới mẻ như của Trang, dù bài văn viết rất ngắn?
Tôi đã gặp rất nhiều người làm luận văn thạc sĩ về tác phẩm này, và hiện có một số người cũng
đang làm. Họ đã gặp tôi và nói chuyện, nhưng nói thật, cái này (bài văn của Trang-PV), lại ngang với bậc
thầy. Nó chẳng khác gì so với bài của các vị.
Nhưng tôi cũng phải nói đi nói lại, chắc là cháu Trang có đọc bài viết của các bậc thầy thì mới có
được những nhận xét, đánh giá sâu sắc như thế. Vì vậy, nếu trước đây nghi ngờ thì bây giờ (sau khi được
đọc bài văn của Trang-PV) trong tôi cái sự nghi ngờ đấy đã biến mất và thay vào đó là sự cảm phục, quý
mến. Nhân gặp các anh, tôi muốn nói lời cảm ơn cháu Trang, cảm ơn cả các thầy cô đã dạy cháu. 4. Báo Mới:
Sự sống và cái chết trong truyện ngắn 'Vợ nhặt'
Nạn đói năm Ất Dậu (1945) là một cơn ác mộng, là nỗi nhức nhối khó quên trong lịch sử dân tộc
Việt Nam. Thảm họa ấy diễn ra trên 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Nhà văn Kim Lân đã chọn bối
cảnh ấy cho truyện ngắn Vợ nhặt. 1.
Trên nền hiện thực của nạn đói, bằng việc xây dựng nên một tình huống truyện độc đáo,
đi sâu miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp của các nhân vật và sáng tạo những chi tiết, hình ảnh đặc sắc,
nhà văn chuyên viết truyện ngắn này đã để lại trong lòng người đọc những ám ảnh nghệ thuật khó quên.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đối mặt giữa sự sống và cái chết của những người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm ấy. 2.
Không gian của truyện là xóm ngụ cư, bên bờ sông ven chợ xác xơ, heo hút. Từng trận gió
từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn lửa. Điểm
vào đó là âm thanh thê thiết của tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ đang gào lên từng hồi, là tiếng
ai hờ khóc
lúc to, lúc nhỏ vẳng đến từ phía những nhà có người chết đói. Không khí ở đây vẩn lên mùi
ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người
. Quyện trong đó còn có mùi khét lẹt của đống rấm được
đốt ở những nhà có người chết.
Bằng sự kết hợp của các yếu tố hình ảnh, âm thanh và mùi vị, nhà văn Kim Lân đã tạo ra ấn tượng
về không gian truyện đặc trưng, mang màu tử khí. Rồi như một cận cảnh, ống kính của nhà văn dừng
lại ở một bữa ăn ngày đói thật thảm hại. TÔN NGC MINH QUÂN 5
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
Ở đó, miếng ăn dường như đã không phải dành cho con người nữa. Giữa cái mẹt rách có độc một
lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Niêu cháo lõng bõng, chỉ kịp chia cho mỗi người được
có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Người mẹ già lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc
lên nghi ngút,
bà gọi đó là món chè khoán. Cái món ngon đáo để ấy thực chất là cháo cám, thứ mà con
người khi đói nhìn thấy hai con mắt đã tối lại, khi ăn thì không nuốt nổi vì đắng chát và nghẹn bứ trong cổ.
Cái đói và cái chết nắm tay nhau càn qua xóm ngụ cư. Người người lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau
lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi
sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường
.
Cái đói có sức mạnh tàn phá ghê gớm cả về hình hài đến phẩm giá con người. Mọi khuôn mặt ở
xóm ngụ cư đều đã mang dấu tích của cái đói. Lũ trẻ con trong xóm độ này ngồi ủ rũ dưới những xó
đường không buồn nhúc nhích
. Ngay như Tràng - một thanh niên to khỏe trong xóm, giờ cũng chỉ bước
đi từng bước mệt mỏi
. Khật khưỡng trong bóng chiều nhá nhem là dáng điệu tả tơi của hắn - chiếc áo nâu
tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước
.
Dấu vết tàn phá ghê gớm nhất của cái đói với con người vẫn là ở thị, người vợ mà Tràng nhặt được
trong thảm cảnh của cái đói. Người phụ nữ này không có tên. Nhà văn gọi nhân vật là người đàn bà, là
thị. Có lẽ số phận, những mảnh đời như thị không phải là hiếm trong nạn đói ấy. Thị mang một bộ dạng
rách rưới, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai
con mắt
. Có lẽ đã đói lâu ngày, nên vì miếng ăn, thị trở nên sấn sổ, trơ trẽn.
Chỉ bằng một câu hò tầm phơ tầm phào của Tràng - nhưng là câu hò có lời hứa về miếng ăn, Muốn
ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!, thị vùng đứng dậy ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng
, rồi liếc mắt cười tít. Nhưng lần đó thị không được ăn. Lần thứ hai gặp Tràng, thị ở đâu sầm sập
chạy đến
, đứng trước mặt Tràng sưng sỉa kết tội: - Điêu! Người thế mà điêu!; - Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn
xuống, thế mà mất mặt. Và lần này, thị được ăn thật. Trước miếng ăn hai con mắt trũng hoáy của thị tức
thì sáng lên, thị đon đả: - Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thị ngồi sà xuống, cắm đầu ăn một chặp bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: - Hà, ngon!
Có ai biết chăng, con người đang sà vào kiếm miếng ăn ấy vốn là một người đàn bà hiền hậu, đúng
mực. Sự đói khát đã hủy hoại nhân cách của thị, buộc thị phải vứt bỏ ý thức, phép tắc, sĩ diện, xấu hổ.
Miếng ăn làm cho con người ta trở nên chao chát, chỏng lỏn; cái đói làm cho con người không còn biết
đến thể diện; sự gào thét của cái bụng rỗng khiến con người trở nên trơ trẽn làm sao! Thái độ và hành
động của thị trước miếng ăn làm ta xót xa đến rơi nước mắt. Nhưng trong cái điêu tàn và rữa nát, trong
sự bủa vây của cái chết, sự sống vẫn không ngừng trỗi dậy, vươn lên. Từ thoi thóp, leo lét, có lúc nó mãnh liệt như có phép màu. 3.
Ở thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói, khi xóm ngụ cư đang bị bao trùm bởi tử khí
lạnh lẽo, khi sự sống đang phải đối đầu khốc liệt với cái chết thì vào một buổi chiều, người trong xóm
thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Sự xuất hiện của thị đã làm mọi thứ thay đổi đột ngột, lạ lùng,
thắp lên cái sáng tươi trên cái phông âm u, rùng rợn của cái đói, cái chết; thắp lên ước mơ thay đổi số
phận cho bao kiếp người leo lắt nơi xóm chợ chiều này. Chỉ là cô vợ nhặt, nhưng thị thực sự là một hào
quang, một luồng khí ấm, tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và màu nhiệm
(Nguyễn Thị Thanh Cảnh).
Vợ nhặt có thể xem là một kết hợp từ rất đặc biệt chỉ có ở trong bối cảnh nạn đói kinh hoàng năm
1945. Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch, mạng người trở nên rẻ rúng, có thể nhặt được như
người ta nhặt bất cứ thứ đồ vật gì. Nhặt thì không ra gì nhưng vợ thì vinh dự. Chính từ tư cách người vợ
ấy, thị đã dần lột xác. Và nàng dâu ấy đến xóm ngụ cư mang theo một luồng gió mới, một ánh nắng mới,
thắp lên sự ấm áp, niềm hi vọng và niềm tin vào ngày mai.
Giữa đám đông mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho, thị còn mang vẻ cong cớn, chẳng chút
e dè, nhưng chỉ sau khi đồng ý khuân hàng lên xe rồi cùng về với Tràng, thị đã khác. Trên đường theo TÔN NGC MINH QUÂN 6
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
Tràng về, theo sau chừng ba bốn bước, thị đã có vẻ rón rén, e thẹn. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống,
cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt
. Che để bớt thẹn thùng, hay che để dõi theo mỗi bước chân số phận?
Sự xuất hiện của người đàn bà đi bên cạnh Tràng vào buổi chiều ấy đã xua đi vẻ mặt ủ rũ, xanh
xám của những người dân xóm ngụ cư đang trong cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Trên khuôn mặt mỏi
mệt, đăm chiêu của Tràng giờ đã có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và
hai mắt thì sáng lên lấp lánh.
Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem, có đứa còn cong cổ gào lên: -
Anh Tràng ơi! Chông vợ hài. Người trong xóm cũng lạ lắm - Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán.
Những khuôm mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên
. Thị về xóm ngụ cư mang theo cái lạ
lùng và tươi mát
thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối nơi đây.
Về đến nhà, bước chân vào ngôi nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những
búi cỏ dại, thị đang cố nén một tiếng thở dài. Chất chứa trong cái ngực lép nhô lên ấy biết bao tủi hổ, buồn
bã, bẽ bàng… Ở đây, thị cũng chỉ giám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần
thần
. Thị đang ý thức rất rõ về tình cảnh của mình. Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy chính là cái thế
phân vân trong lòng thị: chuyện thành vợ Tràng vừa thực lại vừa như không thực; thân phận lủi thủi,
trơ trọi trôi dạt vì miếng ăn, liệu có tìm được chốn nương thân?. .
Thế rồi, thị gặp mẹ Tràng - người sẽ quyết định duyên phận cho thị trong ngôi nhà này. Người mẹ
nghèo đã rất ngạc nhiên và không tin vào mắt mình khi thấy sự xuất hiện của một người đàn bà trong
nhà mình. Bao nhiêu câu hỏi dội về đầy băn khoăn - Quái sao có người đàn bà nào ấy nhỉ? Người đàn bà
nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại gọi mình bằng u? Không phải con cái Đục
mà. Ai thế nhỉ?. . Ô hay, thế là thế nào nhỉ?

Thế rồi, Tràng bước lại gần nói với mẹ: - Nhà tôi nó về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên
phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả… Giờ thì bà lão đã hiểu. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.
Bà lão đăm đăm nhìn
người đàn bà
, trong lòng cũng đầy thương xót. Trước mặt bà lão, thị cúi mặt, tay vân vê tà áo đã rách bợt,
khép nép đứng nguyên chỗ cũ.
Rồi, thị cũng đã được chấp nhận. Bà cụ Tứ đã xem thị là nàng dâu mới. Bà nhẹ nhàng với thị: - Ừ,
thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng… Bà còn hạ thấp giọng xuống thân
mật: - Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt
chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau
lúc này, u thương quá…
4.
Sau một đêm thị về làm vợ của Tràng, sau một đêm làm dâu nhà bà cụ Tứ, ngôi nhà ấy như
có phép màu. Ngôi nhà rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại, nay đã được quét tước,
thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà nay đã
được lấy ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác
mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch
. Ngoài vườn, người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham
nhở
, trong sân, cô con dâu đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Tất cả đều
đã thay đổi mới mẻ.
Xung quanh thay đổi, cảm xúc của con người cũng khác. Thấm thía cảm động nhất vẫn là Tràng.
Hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Bấy giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này
.
Trong mắt Tràng, giờ đây thị cũng đã khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực. Bà mẹ
Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà cụ
kể chuyện làm ăn gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này,
chuyện Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem… TÔN NGC MINH QUÂN 7
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
Một không khí ấm áp chan hòa trong ngôi nhà ấy, chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế.
Tình yêu thương chính là ngọn nguồn làm nên sự đầm ấm, hạnh phúc, dù đó chỉ là những điều
thật đơn giản, bình thường. Hạnh phúc làm cho con người ta thay đổi. Hạnh phúc làm cho con người ta
xích lại gần nhau, sưởi ấm cho nhau. Tư tưởng nhân đạo của Kim Lân được truyền đến người đọc một
cách nhẹ nhàng mà thấm thía.
Dẫu vẫn còn đó, những bữa ăn ngày đói thảm hại, dẫu cho trống thúc thuế vẫn dội lên dồn dập,
vội vã ở ngoài đình, trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ đàn quạ vẫn hốt hoảng bay vù lên, lượn
thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đãm mây đen
, nhưng câu chuyện về cái đói đã chuyển
hướng khác. Theo lời của cô con dâu, - Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế
nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy. Tràng đã biết đến Việt Minh.
Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước
có lá cờ đỏ to lắm
. Lá cờ đỏ đó vẫn bay phấp phới trong óc Tràng. .
Hình ảnh kết thúc truyện đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, rằng Tràng và gia
đình bé nhỏ của anh, rằng hàng triệu những con người khốn khổ sẽ có lá cờ đỏ dẫn đường đi giành áo
cơm và sự sống cho mình. Đây chính là điểm khác biệt giữa Vợ nhặt với các tác phẩm cùng viết về đề tài
người nông dân trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, năm 1945. 5.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, hành trình giành giật sự sống từ cái đói, cái chết của những
người nông dân nghèo trong nạn đói 1945 đã được nhà văn Kim Lân dồn nén đến mức căng thẳng, đến
tận cùng của giới hạn ở tình huống truyện độc đáo. Tình huống trở trêu, éo le từ việc Tràng nhặt vợ được
tạo ra trong hoàn cảnh đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hi
vọng và tuyệt vọng, giữa cái ấm áp của tình người và cái lạnh lẽo thê lương của chết chóc…
Đặt nhân vật vào tình huống ấy để thử thách sức sống của con người, nhà văn muốn thể hiện tư
tưởng nhân đạo sâu sắc trong việc ngợi ca, trân trọng và đặt niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người.
Bằng giọng kể trầm buồn, Kim Lân đi sâu vào diễn biến nội tâm rất phức tạp và tinh tế của mỗi nhân
vật, nhận ra cuộc đấu tranh giằng co quyết liệt giữa sự sống và cái chết, giữa vị kỉ và vị tha, giữa thực tại
và ước mơ… trong những hoàn cảnh thử thách nghiệt ngã, phát hiện ra thứ ánh sáng lấp lánh, sáng lên
trong mỗi con người, mỗi số phận, đó chính là tình người. Tình người sẽ xua tan u ám, thắp lên niềm
vui, niềm hi vọng để con người vượt qua khó khăn, sống tốt cho ngày mai.
Sức sống của một tác phẩm văn học phải được nẩy mầm từ cội rễ của những giá trị nhân văn sâu
sắc, và nở hoa cùng tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Vợ nhặt của Kim Lân là tác phẩm như thế.
Trần Thị Thanh Nga
6. Báo Đà Nẵng – Chuyện đời và nghề của bậc tài hoa Kim Lân:
Sáng tạo trên cái nền hiện thực đời sống
Đối với nhà văn Kim Lân, cách mạng không chỉ mang lại sự thay đổi cuộc sống của bản thân và
gia đình, mà còn giúp đổi thay sự nghiệp cầm bút của ông. Khi tham gia hoạt động văn hóa cứu quốc,
ông được gặp và trao đổi nghề nghiệp với các nhà văn Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn
Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài,. . Từ đó, cách viết của nhà văn Kim Lân bắt đầu đổi khác, như lời
ông nói: trình độ một anh nhà quê viết theo bản năng, cảm tính mới dần dần thấy được công việc thực
sự của người viết văn chuyên nghiệp. Và bài học mà ông rút ra: “Theo kinh nghiệm của tôi, những chuyện
thật mà tôi ghi lại được thì đều nhạt nhẽo và khô cứng. Nhưng sự thật cũng có giá trị của sự thật, rất giá
trị, rất cần thiết nữa. Tất cả những truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu xí đều dựa trên cái
nền là sự thật. Còn những truyện khác, kể cả Làng, hầu hết là tôi bịa. Bịa cả nhân vật lẫn tình tiết. Bởi
không có sự thật nào như thế cả. Nhưng cái bịa ấy là cái điều mà chính tác giả muốn nói. Và chính tác
giả muốn nói nên mới sinh ra cái bịa. Gọi là bịa chứ kỳ thực chính là sáng tạo”.
Cái bịa hay sáng tạo trong tác phẩm văn học đôi khi lại trở nên thực, thậm chí rất thực hơn đời
thường. Đó cũng chính là một điểm mấu chốt thể hiện tài năng của nhà văn. Hiện thực chỉ là chất liệu TÔN NGC MINH QUÂN 8
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
thô, qua lăng kính nhà văn thì hiện thực được thăng hoa. Như nhà văn Kim Lân lý giải: “Vì sao phải bịa?
Người viết muốn nói một việc gì, một ý nghĩ gì thì chuyện đời thường hằng ngày tự thân đã có tiếng
nói riêng của nó, còn tiếng nói của chính tâm linh người viết chỉ có bịa mới ra được. Nhưng như
vậy không có nghĩa là nó tách rời hoàn cảnh xã hội, tách rời đời sống, mà hình như nó thực hơn.
Chính vì vậy mà tôi cũng thường nói bịa lại thực hơn.
Vì nó thực với chính mình trước tiên. Và kỳ lạ
khi mình bịa ấy, mình viết say mê hơn nhiều. Không biết khi mình say sưa bịa ấy có phải là những giây
phút thăng hoa nhất của người viết không?”.
Một điều nữa mà nhà văn Kim Lân trăn trở khi trò chuyện với chúng tôi, đó là trong mấy mươi
năm nhiều cây bút thường viết chạy theo thời sự, nói về chính sách hay một cuộc chiến đấu nhằm cổ vũ
cho chính sách hay cuộc chiến đấu đó. Nếu so với hàng ngàn năm lịch sử dân tộc trước đây chỉ có một
số ít bài thơ yêu nước và thể hiện tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm của Lý Thường Kiệt, Nguyễn
Trãi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình Chiểu,. . thì trong khoảng nửa sau thế kỷ XX, văn học Việt Nam xuất
hiện cả một bề dày tác phẩm đồ sộ viết về đề tài này. Ông nói: “Theo tôi, kháng chiến và mọi chính sách
chỉ nên quan niệm là cái nền của con người đang sống. Con người vẫn là quan trọng. Ngòi bút của tôi
hướng về cái đời thường, diễn ra hằng ngày, về quan hệ vợ chồng, con cái. Qua đó, tôi cũng có thể
thấy được chính sách hay cuộc chiến đấu nó có tác động vào đời sống như thế nào
”.
Từ quan niệm như trên, nhà văn Kim Lân tỏ ra không thích kiểu dùng lý lẽ trong những trang
viết mang tính thời sự, một căn bệnh mà một số nhà văn từng mắc phải. Theo ông: “Dùng lý lẽ để thuyết
phục trong văn chương cũng là một thứ cưỡng chế. Những lý lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó làm cho người
ta không giữ được chính mình. Nói một cách khác, hết sức mềm mại thì người cầm bút phải viết như
chơi, viết thoải mái bằng tấm lòng của mình, hướng vào cái thật, cái đẹp, giúp cho con người sống
thật, sống đẹp với nhau. Và khi nhà văn gặp cái gì trái với cái thật, cái đẹp thì phải biết bất bình,
phải dám lên tiếng nữa
”.
7. Kim Lân – Cây bút độc đáo của làng quê Việt Nam:
Kim Lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ
XX. Sự nghiệp văn học của ông tuy không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó trộn lẫn.
Từ những trang viết thành công về đề tài nông thôn
Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều cay xè khói bếp, thơm thơm mùi lúa
mới, ngai ngái mùi rơm rạ, bảng lảng những cánh cò chao nhịp. .
Đặc biệt, cũng với chất liệu của đề tài làng quê Việt Nam, nơi những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan… đã khai thác tưởng chừng ở mức thấu triệt, song cũng trên mảnh đất xưa cũ ấy nhà
văn Kim Lân cũng đã xây cho mình ngôi nhà rất riêng, rất vững giữa lòng người và thách thức với thời gian.
Khác với tư tưởng của các cây viết cùng đề tài, làng quê trong văn Kim Lân dẫu với các nhân vật
nghèo, dân lao động thô sơ vẫn không bao giờ bị lam lũ, thô mộc, tuềnh toàng vây bủa. Có lẽ ảnh hưởng
từ nét hào hoa, mã thượng với những thú chơi phong tục như chơi chim, chọi gà, đánh vật, đánh võ, chơi
pháo… của làng chợ Giầu, Phù Lưu mà hình ảnh làng quê và người nông dân trong văn học Kim Lân
không u tối, bần hàn mà vẫn toát lên những nét yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Chính vì thế mà giá trị lớn nhất và cao nhất trong các tác phẩm của ông không phải giá trị hiện
thực là bản cáo trạng mà là giá trị nhân đạo. Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng một
chất thơ của hồn người. Ánh sáng của tình người toả ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha thiết và cảm động.
Tư tưởng này xuyên suốt trong các tác phẩm của Kim Lân và có thể nhận thẫy rõ nhất trong “Vợ
nhặt” – một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam. Chính nhà văn Kim Lân khi nói về
tác phẩm này đã cho biết: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết
về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một
truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy TÔN NGC MINH QUÂN 9
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn
sống, sống cho ra con người".
Sau này vẫn viết về nông thôn, Kim Lân đề cập đến sự đổi mới mặt tình cảm của người nông dân
trong cách mạng và kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất nhưng hoạt động phục vụ
cách mạng. Tuy thầm lặng, bình thường nhưng thật đáng quý trọng. Về phương diện này, nhà thơ Trần
Ninh Hồ viết: "Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo
đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà
văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy".
Nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm Kim Lân viết trước Cách
mạng tháng Tám đến các tác phẩm sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét riêng của ông là một ngòi
bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng con
người, từng số phận riêng để từ đó góp một tiếng nói riêng vào trang sử chung về tâm tư, tình cảm con
người Việt Nam của văn học hiện đại.
8. Phỏng vấn Kim Lân về tác phẩm Vợ nhặt:
Thưa nhà văn, dịch đói năm 1944-1945 đã cướp đi rất nhều sinh mạng của đồng bào ta. Ở
các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng, cha
mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh
xã hội đó, truyện Vợ Nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống
cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế?
Nhà văn Kim Lân:
Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần
dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến
bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con ngươì họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là
một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua
những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm
hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh
nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con
cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngôì giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào
cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng
họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau:
Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự.
Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.
Cái đói là đề tài của rất nhiều nhà văn. Cái đói trong Vợ nhặt có khác gì những cái đói khác

mà các nhà văn thường mô tả? Nhà văn Kim Lân:
“Cái đói” là mỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề
tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của
con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ mọi chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý
tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt
hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.
Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật trong cuộc sống? Nhà văn Kim Lân:
Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau
khi hoà bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có một đoạn luôn
ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở vùng quê người ta ra chợ nhặt xác TÔN NGC MINH QUÂN 10
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện
Vợ nhặt hoàn toàn không có thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như thế, một cô con
dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái
hoàn cảnh cùng đừơng ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự
sống, sự yêu thương nhau, không phải là sự giành giựt nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là
lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật. Vợ nhặt được rút ra từ tậpCon chó xấu xí, sau khi in ở tờ tuần báo
Văn. Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng
ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình,
đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, dù là rất mong manh.
Dân ngụ cư là dân đi ở đợ, không phải dân gốc nên thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện là mẩu hồi
ức “trước kia mỗi chiều” có vẻ yên ả nhưng cái hồi ức này quá ngắn, trôi qua quá nhanh. Hiện tại là cảnh
đói khát ủ rủ, cảnh những người ăn xin “xanh xám như bóng ma”, cảnh thây người chết “nằm còng queo
bên đường”. Vậy mà một buổi chiều anh chàng Tràng trở về với một vẻ mặt có “vẻ gì phởn phơ khác
thường”, một nụ cười tủm tỉm và “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, bên cạnh lại có người đàn bà rón rén e
thẹn. Đó là một sự kiện quá ư lạ lùng giữa lúc người ta chỉ nghĩ đến sự sống – chết.
Tràng khi đó có ý thức được việc mình làm? Nhà văn Kim Lân:
Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng
dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo ngày đó rườm rà, tốn kém lắm. Vậy mà tự dưng anh
chàng lại “nhặt” được vợ. Sự kiện nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy mà
cô kia cũng theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có
thể bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về? Vì Tràng là một người nông cạn, không biết tính
toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ chậc lưỡi, theo đúng
cách của người hay “ngửa mặt lên trơì cười hềnh hệch”. Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của
dân xóm, Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong cuộc sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi,
còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.
Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh của mình? Nhà văn Kim Lân:
Thị đã ở bờ vực. Số phận Thị đã rõ ràng và Thị hiểu được điều ấy. Cho nên thị đi bên Tràng mà
đầu cuối xuống, chiếc nón rách “nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Thị mặc cảm, gần như nỗi mặc
cảm của người nhận lời bán mình trước sự chứng kiến của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ
con mới đùa một câu thị đã tỏ vẻ khó chịu.
Tại sao việc Tràng và người đàn bà ngang qua xóm ngụ cư lại khiến cho những “khuôn mặt
hốc hác u tối” từ những hiên nhà xác xơ đột nhiên “rạng rỡ hẳn lên”? Sự xuất hiện của Tràng và
người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt vọng của họ một luồng sinh khí tươi mát?
Nhà văn Kim Lân:
Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh đơn độc của Tràng không gây ra
bât kỳ một xao động nào trong đời sống của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thế phụ
thuộc vào hình ảnh người đàn bà bên Tràng. Mọi người bàn tán và cũng đôi phần đóan ra được câu
chuyện của Tràng. Họ đóan được bằng chính hoàn cảnh cuả họ. Việc lấy vợ lấy chồng luôn là một niềm
vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứá con. Nhìn Tràng và
người đàn bà, bất chợt họ cũng mơ hồ mơ đến tương lai của chính họ. Tràng đã khiến cho họ tin vào
cuộc sống thêm một chút.Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giây lát đó, họ sẽ nghĩ rằng “Đó,
anh ta không những còn sống mà còn nuôi thêm được một người nữa trong hoàn cảnh này”. Nhưng
niềm vui trôi qua rât nhanh. Một tiếng “ôi chao” và lời than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát,
cùng quẫn, “họ nín lặng”. TÔN NGC MINH QUÂN 11
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
Chuyện Tràng “nhặt” vợ là một sự lạ, nhưng mọi người như thể thừa nhận điều đó một
cách dễ dàng? Nhà văn Kim Lân:
Sự kiện đó chỉ gây ra sự tò mò một chút ban đầu thôi. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống,
mọi ngươì không còn đủ sức để nhận ra điều đó là ngược đời. Và nó còn được dùng như một cái thước
đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của họ. Nhưng câu chuyện của Tràng nhanh chóng không còn
được bàn tán nữa khi họ “ cùng nín lặng” hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lững trên đầu họ.
Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy làm “thích ý” lắm, và hắn vênh vênh “
tự đắc với mình”. Có lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình pha một chút “anh hùng”,
“kiêu bạc” trong cuộc sống khó khăn hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo sợ,
Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải “đèo bồng” thêm một người nữa ư?
Nhà văn Kim Lân:
Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải “một mình” đối diện với người đàn bà.
Khi đi từ chợ tỉnh về, ngang qua xóm ngụ cư, những ánh mắt, tiếng cười của người khác đã làm cho
Tràng bớt cảm thấy sự có mặt của ngươì đành bà. Nhưng khi còn hai người ở “con đường sâu thăm
thẳm” vắng vẻ thì rõ ràng người đàn bà kia laàtoaà bộ cuộc sống bên ngoài đối với Tràng. Tràng phải
tìm hiểu nó. Tràng ý thức đầy đủ sự có mặt của thị là dành cho Tràng. “Hắn định nói với thị một vài câu
rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia”. Tại sao vậy?
Tại vì thực sự người đàn bà đi bên cạnh Tràng còn hoàn toàn xa lạ với Tràng.
Tại sao thị không cảm thấy mà Tràng lại cảm thấy như thế? Nhà văn Kim Lân:
Tôi có chủ ý không tả tâm trạng của người đàn bà khi đó. Nếu tả kỹ quá thị sẽ mất đi sự “xa lạ”
không phù hợp với hoàn cảnh của câu chuyện. Sự yên lặng và xa lạ của thị khiến cho không gian như
đọng lại và cho Tràng cảm thấy thị ở thật gần mình. Điều này khiến Tràng đột nhiên “ hình như quên
hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày”. Tràng khi đó có lẽ đã quên tất cả, không phải với vẻ bất
cần mà là do hình ảnh thị đã dần xâm nhập và chiếm trọn cõi lòng của Tràng. Ở người “đàn ông nghèo
khổ” này cuộc sống đột nhiên “ mới mẻ” và lạ lùng. Đó là cảm giác có thật, nó “mơn man khắp da thịt”.
Có một điều thật ý nghĩa đang diễn ra với Tràng “Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và
người đàn bà đi bên”.
Nhưng tên, hoàn cảnh, quê quán, cha mẹ thị Tràng đều chưa biết. Người đọc có cảm giác
là “tình nghĩa” của Tràng đối với người đàn bà là không thật? Nhà văn Kim Lân:
Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để có tình nghĩa người ta cần phải có thời gian để
thấu hiểu nhau. Đặt trong hoàn cảnh khốn khó lúc bấy giờ, khi mỗi người cần đến sự giúp đỡ nhiêù hơn
của người khác về cả vật chất lẫn tinh thần, thì Tràng là cái phai cuối cùng, là tất cả hy vọng của người
đàn bà. Vậy cái nghĩa của Tràng là sự gắn kết giữa con người với con người trong một hoàn cảnh cấp
bách. Hơn nữa đó còn là “nghĩa” cuả một người đàn ông nghèo không đủ khả năng lấy vợ bỗng dưng
được một người đàn bà “ưng thuận về không” làm vợ. Và khi cảm thấy có “tình nghĩa” với người đàn bà
thì sự đối diện của Tràng với chị ta không còn đáng sợ nữa.
Hoàn cảnh đã xô đẩy người đàn bà đến với Tràng. Vậy giữa họ liệu có tình cảm thực sự không? Nhà văn Kim Lân:
Sao lại không. Câu chuyện giữa hai người diễn ra như bất cứ với cặp tình nhân nào. Ban đầu là
bắt chuyện vu vơ, rồi trêu chọc nhau. Khi câu chuyện ra chiều “thân thân”, người đàn bà đã “tủm tỉm”
cười phá đi vẻ mặt cau có, ngượng ngập. Chị ta bắt đầu quen với hoàn cảnh mới. Và khi Tràng đuà “vợ
mới vợ miếc” và cười cợt, thị đã “phát đánh đét” vào lưng hắn. Đây là cử chỉ “tỏ tình” của thị đối với ân
nhân, nó đầy âu yếm và cũng đáng yêu. Nó là cho Tràng hạnh phúc. Anh chàng “thích chín ngửa cổ cươờ TÔN NGC MINH QUÂN 12
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
khanh khách”. Cuộc sống thường thật khốn khổ bị quên lãng. Với Tràng, thị là người đàn bà thứ hai sau
mẹ annh yêu thương và cần đến anh. Yêu thương có thể chưa rõ nhưng cần thì đã rõ. Anh ta hớn hở vì
điều đó. Riêng với người đàn bà, hiểu hoàn cảnh mình nên cử chỉ “tỏ tình” trên kia vừa hàm chứa sự
biết ơn vừa tỏ thái độ ưng thuận.
Một lần nữa sự khắc nghiệt của cuộc sống phá tan niềm vui mong manh của hai người,
tiếng chó sủa váng lên làm Tràng thẹn thùng và xấu hổ, như thể có ai đó nhòm vào hạnh phúc
của anh. Hình như Tràng hiểu ra rằng anh ta đang xây dựng hạnh phúc của mình trên nền một
cuộc sống thật bất trắc và khốn đốn?
Nhà văn Kim Lân:
Đúng là anh ta có cảm giác đó. Anh ta phải xua cái cảm giác đó đi bằng cách “ nhặt một hòn gạch
vung tay ném mạnh một cái”, như thể ném thẳng vào những thách thức đau đớn của cuộc sống. Tràng
cảm thấy có lỗi đối với người đàn bà kia về chuyện không đủ tiền cưới xin,lỗi vì chưa xin phép mẹ, lỗi
cả chuyện hòan cảnh gia đình khốn đốn khó có thể cưu mang được thêm người nữa. Nhưng “ý nghĩ” này
của Tràng chứng tỏ Tràng đã có nhiều tình cảm với thị lắm. Cái mặc cảm ấy bây giờ mới nhận ra khiến
Tràng thốt lên “Mẹ bố chúng mày cắn gì thế”, “cắn gì thế” là tiếng chó sủa ngay trước cổng nhà Tràng ,
nơi Tràng phải thực sự đối mặt với tất cả những điều Tràng mặc cảm thấy.
Đi đến cổng nhà Tràng người đàn bà nhìn quanh và “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên nén một
tiếng thở dài”.Phải chăng thị thất vọng vì sự nghèo túng thái quá mà căn nhà của Tràng đập vào mắt? Nhà văn Kim Lân :
Không hẳn tiếng “thở dài” ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc
thừa hiểu và đóan được hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về nhưng trong lòng thị
vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể
thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi
nữa, thì một tiếng thở dài và không tránh khỏi.
Dẫn thị vào nhà, Tràng tỏ ra bối rối. “Tràng quay lại nhìn thị cười cười” cố tỏ vẻ tự nhiên
cho thị và cũng cho cả mình, Tràng nói đùa: “ không có người đàn bà nhà cửa thế đấy” Nghe câu
đó thị lại “ nhếch mép cười nhạt nhẽo”.Có lẽ, thị không hề có ý “khinh thị” cái từ “ nhà cửa” mà
Tràng gán cho túp lều tồi tàn của mình. Vậy thị “nhếch mép” vì điều gì?
Nhà văn Kim Lân:
Thị “nhếch mép” nhạt nhẽo vì ý khác. Thị tủi cho cái thân phận của thị, thân phận theo trai vì
đói: thị biết thị theo Tràng chỉ vì đói và như thế không xứng đáng gì với tư cách người đàn bà trong gia
đình Tràng vừa gán cho.
Nhưng Tràng lại bối rối thật sự, Tràng sợ mất thị do hoàn cảnh của mình ư? Nhà văn Kim Lân:
Đúng thế. Ở đây diễn ra một tình cảnh khá lạ lùng. Tràng “nhặt” được một người đàn bà nhưng
rồi lại sợ mất thị. Cảnh nghèo đói đã hiện lên rõ ràng. Tràng thấy có tội vì đã che giấu mà không thể kể
cho thị nghe trước. Sự im lặng của thị, nỗi mặc cảm của thị Tràng không hiểu nổi. Hơn nữa Tràng không
thể tự quyết được tất cả mọi việc. Còn ý kiến của bà cụ Tứ nữa chứ. Liệu mẹ có đồng ý không? Sự chờ
đợi mẹ về thật nặng nhọc với Tràng. “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc” rồi “ lấm lét bước vội”
ra sân. Tràng sợ rằng người đàn bà sẽ bất ngờ từ chối không làm vợ Tràng nữa. Tràng không dám trở lại
nhà mà chỉ luẩn quẩn ở sân, ở ngõ. Một lần nữa, Tràng sợ đối diện với thị, nhưng không phải vì sự “xa
lạ” như trước mà sợ sự “đột nhiên từ chối”.
Khi viết, ý nghĩa ấy có lúc loé lên trong đầu ông không? Thị cũng có thể bỏ Tràng để đi ăn
xin hay “theo” một kẻ khác khá hơn chứ? Nhà văn Kim Lân: TÔN NGC MINH QUÂN 13
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
Không bào giờ. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống
với đôi mắt vô hồn nhìn “bần thần” đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép giường. Sự “ngồi mớm ở mép giường”
và hai tay vẫn không rời cái thúng, chứng tỏ thị hơn ai hết hỉu rõ số phận của mình.
Trong tâm trạng bồn chồn của Tràng và sự tủi thân câm lặng của cô vợ, việc bà cụ Tứ trở
về đã xua tan được không khí bế tắc. Tràng vui vẻ hẳn, còn người đàn bà lạ cất một câu chào ấp
áp: “U đã về ạ”. Bà cụ Tứ có ngỡ ngàng chút ít, nhưng bà cũng đồng ý chóng vánh. Không thấy bà
lục vấn hỏi han gì con trai, điều mà các bà mẹ thường làm. Vậy trong mạch truyện, sự đồng ý
nhanh chóng của người mẹ có quá gượng ép?
Nhà văn Kim Lân:
Chúng ta nên hiểu tâm trạng của bà mẹ. Bà cụ Tứ ngay từ khi về đến nhà đã bị ngạc nhiên vì sự
vui vẻ và chờ đợi “nóng cả ruột” của con trai mình. Bà càng ngạc nhiên khi có người đàn bà lạ ở trong
nhà mà lại đứng ở “đầu giường thằng con”. Ngươì đó lại chào bà bằng u. Cái cảnh đó chưa được giải thích
đến nỗi bà cụ tưởng nhầm mình đang mơ thấy cái Đục – cô con gái đã chết hiện về. Và khi Tràng giải
thích, bà “nín lặng” hiểu ra mọi chuyện. Bà tủi phận vì đã không xứng đáng là một người mẹ, không lo
cho con một cách đàng hoàng như người khác. Hơn cả đứa con, bà hiểu rõ hơn hoàn cảnh của chúng.
“Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy mình. Mà con mình mới có vợ được” bà
nghĩ. Có thể bà hơi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác “hàm ơn” đối với ngươì đàn bà là
nhiều hơn, người đã giúp bà “lo” cho con trai bà bằng cách làm vợ anh ta. Bà không dám tin rằng “ Chúng
nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này”. Ý nghĩ về cuộc sống tương lai, và hiện tại gian nan có
người đàn bà lạ tham dự vào một cách bà đồng ý với Tràng . Cuộc sống không cho họ đòi hỏi nhiều hơn.
Dù họ có vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói
treo lơ lửng trước mặt.
Tương lai của cặp vợ chồng mới nay như bóng tối trong con mắt bà. “Bà lão đăm đăm nhìn
ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt”. Xen vào ý nghĩ tối tăm, hiện thực cuộc sống đồng thanh
xác nhận điều đó bằng mùi trấu khét lẹt ở nhà những người chết. Bà nghĩ đến cuộc đời bà và
ngầm so sánh với cuộc sống của cặp vợ chồng này. Chúng chỉ có một điểm chung là không một
chút nào tươi sáng. Bà nhắc “Con ngồi xuống đây”. Lời nhắc này có ý nghĩa với lời chào thuận
lòng của người mẹ. Bà thực sự chấp nhận thị là con dâu bà hay do hoàn cảnh mà bà phải chấp nhận?
Nhà văn Kim Lân:
Cuộc gặp đầu tiên đó không có cái ý nghĩa “mẹ chồng con dâu”. Cái tình cảm chiếm nhiều nhất
trong lòng bà cụ Tứ là tình cảm “thương xót” một người đàn bà cùng đường. Hơn nữa, có một nỗi “hàm
ơn mơ hồ” luôn bám lấy bà. Ngươì đàn bà đã giúp bà cái việc không thể làm cho con trai là lấy vợ cho anh ta.
Ở đoạn văn này, tại sao tác giả lại không phân tích tâm trạng của người đàn bà, tâm trạng
nơm nớp vì có lẽ bà cụ Tứ sẽ không bằng lòng? Nhà văn Kim Lân:
Tôi vẫn có ý định không mô tả trực tiếp trạng thái tâm lý của người đàn bà. Tôi muốn qua cách
nhìn của Tràng, của bà cụ Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của chị. Ở đây, mỗi khi thay đổi cách gọi :
người đàn bà, thị, ả là một lần “nhân vật vợ mới” thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn
giấu cảm nghĩ của mình nữa. Bà kể lể về đám cưới với dăm ba mâm cỗ cho hàng xóm, họ hàng, nhưng
“nhà nghèo” và “năm nay thì đói to” nên chỉ cần “chúng mày hoà hợp là u mừng”. Sự thành thật xen lẫn
nỗi đắng cay khiến bà khóc. Bà khóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó có thể giữ nổi
trong cuộc sống đói khổ này.
Tràng hồi hộp, háo hức chờ mẹ và khi bà cụ Tứ đồng ý , “Tràng thở đánh phào một cái”,
như vừa trút hết gánh nặng. Như vậy là Tràng chính thức có vợ. Nhưng Tràng có hiểu được những
giọt nước mắt của mẹ?
TÔN NGC MINH QUÂN 14
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019 Nhà văn Kim Lân:
Tràng hiểu bà mẹ chỉ nhìn thấy ở việc mình có vợ những viễn cảnh tăm tối. Đó chính là điều đặc
sắc của Tràng. Tràng tin tưởng ở mình, tin tưởng ở những điều tốt đẹp nẩy sinh từ lòng mình. Những
điều đó không thể có một kết cục tệ hại được. Có thể là ý nghĩ nhất thời nhưng Tràng phải nhắc nhở mẹ
và vợ về điều này.
Và ngọn đèn Tràng thắp lên đã an ủi cả mấy người? Nhà văn Kim Lân:
Tràng “hầm hầm bước vào” và “đánh diêm đốt đèn”. Hành động kiên quyết tạo ra một hình tượng
“Ngọn đèn tỏa sáng căn nhà tối tăm”. Tại sao Tràng không thắp đèn ngay khi về nhà? Bởi Tràng chỉ thắp
khi phải củng cố niềm tin dù là nhỏ nhoi cho người khác. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho một tương
lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với nhau – ba con người đói rách. Ngọn đèn là niềm yêu
thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn thương của họ. Và khi thấy sáng , bà
lão “vội vàng lau nước mắt”. Rõ ràng là căn nhà và trong lòng bà lão đều tối như nhau. Ánh sáng như
một lời hứa quyết tâm của người con trai gửi đến bà mẹ. Dầu đắt thế nhưng bởi có vợ mới nên con trai
bà cũng mua được cơ mà. Tuy nhiên đèn sáng lên bà cũng chỉ “uể oải” đứng dậy đi nằm. Cái rạng rỡ của
ánh sáng cũng chỉ là một viễn cảnh quá xa.
Ánh sáng soi rõ lòng bà mẹ và một lần nữa ngọn đèn tỏa dọi vào cuộc sống chung của đôi
vợ chồng mới? Nhà văn Kim Lân:
Thực tại luôn luôn kéo người ta lại với nó. “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”
đã lấy mất không khí lãng mạn ngọn đèn vừa mang đến.Cả hai một lần nữa lại “sượng sùng” khộng biết
nói gì. Hình ảnh thực nhất là hình ảnh “ngọn đèn” hạnh phúc tương lai soi dọi họ và “kéo dài hai cái
bóng trên vách”. Hai cái bóng đó chính là cuộc sống thực của họ. Hai cái bóng lờ mờ, lê thê, khốn khổ.
Sự thât trần trụi họ phải tiếp nhận là như thế.
Đêm tân hôn của cặp vợ chồng là đêm hạnh phúc. Mọi khó khăn đều tạm thời quên đi. Hai
người hưởng cái niềm vui tột cùng mà thiên nhiiên trao tặng. Nhưng cái niềm vui ấy được bao
quanh bởi “tiếng khóc tỉ tê nghe càng rõ”. Một đêm tân hôn trong tiếng khóc người chết và mùi
trấu hun khê nồng. Tràng có cảm thấy hạnh phúc không?
Nhà văn Kim Lân:
Tôi tả đêm tân hôn trong hòan cảnh đó và để phân tích xem hạnh phúc tột cùng đó có chiến thắng
cái đói không. Tràng hạnh phúc. Trong khung cảnh tăm tối và ghê rợn như thế nhưng niềm vui của con
người vẫn không mất đi. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy rất muộn khi “mặt trời lên bằng con sào”, chứng
tỏ niềm hạnh phúc mà anh được nếm trải. Anh ta trở thành một con người khác. Một người chồng thực
sự. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xoí vào hai con mắt” của Tràng và mọi thứ bỗng nhiên thay đổi.
Đó là thay đổi thực hay Tràng chỉ cảm thấy thế? Nhà văn Kim Lân:
Cuộc sống thay đổi thực dù không nhiều với gia đình ấy. Tràng thấy mọi thứ “mới mẻ, khác lạ”.
Nhà cửa, vườn tược được thu vén gọn gàng. Các lu đựng nước đầy ắp. Quần áo cũ được giặt giũ và phơi
nắng. Một nếp sống khác bắt đầu xuất hiện. Người làm thay đổi nếp sống ấy là người vợ đang “quét lại
cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Cái âm thanh ấy, ngày thường Tràng cũng nghe
nhưng chưa bao giờ gợi cảm như thế. Người vợ mới muốn quét mạnh tay để tạo ra những âm thanh rộn
rã khẳng định sự có mặt của mình trong ngôi nhà.
Cảnh tượng đó đã khiến Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Tràng
là con, là chồng, Tràng có nhiều trách nhiệm hơn với ngôi nhà. Cái trách nhiệm, cái niềm vui của
cuộc sống mới đã khiến cho Tràng có “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong
lòng” và “cũng muốn làm một việc gì để dự phần sửa lại căn nhà”. Tất cả mọi người đều hiểu phải
tiến gần nhau hơn?
TÔN NGC MINH QUÂN 15
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019 Nhà văn Kim Lân:
Ở đây tôi không chủ tâm diễn tả cái đói mà là muốn thể hiện cuộc sống của một cặp vợ chồng mới
trong nạn đói. Cho nên cuộc sống đói khổ chỉ là cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó mà niềm vui của cặp
vợ chồng luôn bấp bênh. Ở đây có một ẩn ý: Cả ba người đều không quên thực tại và cố gắng của họ là
tìm thấy niềm vui trong cuộc sống tối tăm. Cái bữa ăn đầu tiên ba người ngồi ăn chung mang ý nghĩa
như bữa “tiệc cưới” tội nghiệp. “ Giữa cái mẹ rách có độc một chùm rau chuối thái rối và một đĩa muối
ăn với cháo”. Sự tồi tàn của bữa ăn trong tương phản niềm vui của họ. Họ đều “ăn rất ngon lành” và
“vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh”. Họ gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan
ngoãn và nghe lời mẹ. “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại hòa hợp thế”. Tầm quan trọng của bữa
ăn đầu thật rõ. Nhưng “tiệc cưới” kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai lưng cháo “lõng bõng”. Màn
cuối của bữa hòan toàn phủ phàng khiến mọi ngươờ nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu đón lấy bát
ăn và “đưa lên mắt nhìn” rồi “ hai con mắt thị tối lại” vì cảm nhận tận cùng cái cơ cực của cuộc sống
mới. Nhưng thị đã “điềm nhiên và vào miệng”. Đấy dù sao cũng là lối tốt nhất cho cuộc đời của thị.
Nồi cháo cám đã đập tan không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. “ Bữa cơm từ đấy không
ai noí câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào tâm
trí mọi người”. Trong sách văn học lớp 12, phần được trích giảng cũng dừng ở đoạn này. Câu văn
dường như bóc nốt lượt cuối lớp vỏ bên ngoài của cuộc sống để cho cả ba thấy cái “đắng chát”,
“cái nghẹn bứ trong cổ”. Cuộc sống không báo hiệu một tia hi vọng nào?
Nhà văn Kim Lân:
Thực ra với tứ truyện “Vợ nhặt” truyện nên kết thúc ở đây. Thâm tâm tôi cũng định thế nhưng do
điều kiện của tờ báo bấy giờ , truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh
thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình ngưòi là có
hy vọng vào tương lai.
Thưa nhà văn, đoạn nào trong truyện là đoạn gây xúc động nhất cho riêng nhà văn? Nhà văn Kim Lân:
Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đây tình của người
mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà
còn đầy lòng thương xót với người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó
chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện. Xin cảm ơn ông.
(Kim Lân, ‘Vợ nhặt’, in trong Tác giả nói về tác phẩm, Hỏi chuyện các tác giả có tác phẩm giảng
dạy trong nhà trường, Nguyễn Quang Thiều chủ biên, Nxb Trẻ, 2000)
9. Nạn đói năm Ất Dậu đã đi vào văn chương như thế nào ?
“Vợ nhặt”, “Một bữa no”, “Chuyện cũ Hà Nội” là những tác phẩm nổi tiếng mà khi đọc, người

ta rùng mình với một sự kiện thương đau đã qua.
Nạn đói khủng khiếp chắc chắn đã ám ảnh các nhà văn, để từ đó, họ viết nên những truyện,
những hồi ký ám ảnh người đọc về sau.
‘Chữ nghĩa tôi run rẩy khi viết về nạn đói’
Về nạn đói, Tô Hoài viết: “Mỗi khi chợt nghĩ lại, tôi vẫn bàng hoàng về những năm khủng khiếp
ấy”, viết về nạn đói thì tác giả Dế Mèn thấy “chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.
Vậy, những chuyện gì đã ám ảnh Tô Hoài khiến mấy chục năm sau nhà văn lão thành vẫn rùng mình?
Trong cuốn Chuyện cũ Hà Nội, Tô Hoài với tư cách một nhân chứng đã ghi lại muôn mặt đời thường của
Hà Nội những năm 1930-1945.
Ông kể trong nạn đói, trẻ em bị rẻ rúng, được đưa đi buôn bán như mua gà bán lợn: “Lại thêm
người đói các nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người quảy trẻ
con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán TÔN NGC MINH QUÂN 16
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
gà lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ”.
Hà Nội tuy không phải là nơi nạn đói hoành hành, nhưng người đói đổ về đây những rất nhiều.
Phố phường Hà Nội trong cơn đói được miêu tả: “Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy lũ
lượt người đói các nơi kéo vào… Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết lầm lũi qua”.
Ánh mắt của những nạn nhân cơn đói được Tô Hoài khắc đi khắc lại trong bài Chết đói. Ở mấy
làng ven nội thành và trong thành phố thì “chỉ bị khiếp đảm xanh mắt về nạn đói, chưa đến nỗi phải chết”.
Hay nhà văn viết về anh Bùng - người bị suy kiệt vì đói: “Tôi vẫn nhớ cái cổ cò lộ hầu, đôi mắt
tinh nhanh khi anh nói trước đây, khác hai con mắt anh lờ đờ những ngày đói”.
Vinh - con nhà dì của Tô Hoài - cũng đói xanh mắt: “Có gì mà ăn lúc này! Chân tay nó khẳng khiu,
xám ngắt. Tôi có thể đoán cái đói bằng con mắt Vinh. Mắt Vinh cứ xanh dần lên. Có hôm mắt nó xanh lét
như mắt mèo. Đói xanh mắt - có thế thật. Các cụ ngày trước đã ví chẳng sai".
Những dáng người ban đầu còn khỏe, sau suy kiệt dần được Tô Hoài miêu tả: "Mới hôm nào anh
Bủng khỏe mạnh hẳn hoi mà bây giờ xanh rớt. Người vốn gầy cao lêu đêu, cứ rạc đi như que. Vào nhà
tôi, hai bàn chân anh đễ nề to ra, không bước lên nổi thềm đá bậc cửa”.
Hay một người tên Hiền - cùng tuổi, cùng xóm với Tô Hoài: “Hiền phải lê la kiếm miếng trên chợ,
trông đã tã lắm, ngụp đến nơi rồi. Hiền ngồi một chỗ, đầu rũ xuống, thở khù khừ như con mèo ốm”.
Trong Chuyện cũ Hà Nội, Tô Hoài cũng trích lại những thông tin về nạn đói của phóng viên tờ Tin
Mới. Những thông tin này bị kiểm duyệt của phát xít Nhật cắt bỏ, nhưng thợ in đã đem cho Tô Hoài
chuyển cho báo Cứu Quốc.
Đoạn trích này cho thấy trong cơn đói, người ta chôn cả những người còn thoi thóp: “Khi đi nhặt
xác, gặp ai ngắc ngoải, bọn này cũng lôi đi chôn, vì nếu có để lại thì rồi cũng đến chết nốt. Lúc bị vùi
xuống hố, những người ấy còn chắp tay van lạy nhưng bọn người đi chôn cũng cứ lấp đất đi vì không
chôn được người thì không được trả công”.
Ở bài Chết đói, Tô Hoài cũng kể việc ông và những người thân trong gia đình, bạn bè lao đao vì
nạn đói: “Năm ấy, Nam Cao lên ở với tôi. Viết truyện kiếm thêm, năm thoảng ba thì mới được cầm đồng
tiền. Nam Cao dạy mấy đứa cháu anh Khôi tôi ở làng trên. Anh Khôi đã ý tứ trả công thầy giáo bằng gạo.
Phỏng thử chẳng có những xó gạo ấy, không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh, hay còn thế nào nữa”.
Bài Ô Cầu Dền trong tập tản văn Bát phố, nhà văn Bảo Sinh nhắc về nạn đói: “Năm 1945, đây là
mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe bò chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân
tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được
đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả”.
Cái đói, cái chết đi vào những dòng thơ đầy nhân văn của nhạc sĩ, nhà thơ Văn Cao. Trong bài Chiếc
xe xác qua phường Dạ Lạc, Văn Cao viết: “Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác/ Đi vào ngõ khói công yên/ Thấy
bâng khuâng lối cỏ hư huyền/ Hương nha phiến chập chờn mộng ảo/ Bánh nghiến nhựa đường nghe sào
sạo/ - Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe/ Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề/ Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi
vực.."
Bi kịch của phận người trong cơn đói
Nhà văn Nam Cao - người được Tô Hoài cho biết sống sót qua nạn đói nhờ ít gạo trả công dạy học
- dường như ám ảnh lớn với cái đói. Các truyện ngắn của ông, mỗi truyện khắc họa một bi kịch khác
nhau của phận người trong cái đói, cái nghèo.
Truyện Trẻ con không biết đói mở đầu: “Người mẹ bê rổ chuối luộc lên. Ba đứa con nhỏ sà ngay
đến y như những con gà con trông thấy một đoạn giun trên mỏ mẹ”. TÔN NGC MINH QUÂN 17
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
Hoặc nhân vật bà lão trong Một bữa no được miêu tả với hoàn cảnh đói triền miên: “Hơn ba tháng,
bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa.
Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy?”
Bà đói, khóc, cho đến lúc không còn sức mà khóc nữa, thì chợt “sáng trí”, nghĩ ra đứa cháu đang
đi ở cho nhà bà phó Thụ. Bằng tất cả sức lực còn lại, bà lão đi thăm cháu.
Đoạn hội thoại đầy nước mắt khi bà lão gặp “cái đĩ” cháu bà đã cho thấy tất cả tình cảnh đói cùng
quẫn: “Bà đến xin bà phó một bữa cơm ăn đây! Bà đói lắm”, “Chỉ nhịn thôi chứ lấy gì mà ăn”.
Một người đói quá lâu, cho tới khi có được một bữa no thì cơ thể không thể chịu được bữa no bất
thường ấy, rồi bà lão lăn ra chết. Ở đây, khi có được một miếng ăn rồi, người đói cũng chẳng thể thoát khỏi bi kịch.
Truyện Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí của Kim Lân trở nên quen thuộc với bao độc giả vì
trích đoạn tác phẩm này được đưa vào chương trình giảng dạy văn học trong trường phổ thông. Truyện
lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 tràn lan khiến người chết như ngả rạ, người sống dật dờ như những bóng ma.
Tràng là người xấu xí thô kệch, làm nghề kéo xe bò thuê và sống trong xóm ngụ cư cùng mẹ già.
Trớ trêu thay, chỉ bởi nạn đói mà người như Tràng “nhặt” được vợ. Với một bữa ăn bốn bát bánh đúc,
lời chọc ghẹo bâng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò/ Thì lên mà đẩy xe bò với anh”, mà có cô gái theo Tràng về làm vợ.
Trước cái đói, phải đối diện tử thần, nhiều người mất nhân tính, cốt có cái đưa vào miệng. Nhưng
trong hoàn cảnh ấy, vẫn có những câu chuyện xúc động.
Truyện ngắn Tình người trong tập Hai chậu lan tố tâm của Phan Du, kể về Thuận - 15 tuổi mồ cô
cha mẹ, đi theo chuyến xe xác của ông Cẩm - 65 tuổi, người chuyên kéo xe chở xác chết tới bãi tha ma.
Trong cái nghèo, cái đói, và sự cô độc ấy, hai mảnh đời tìm thấy hơi ấm tình người qua một cái
siết tay, một nén nhang cho người chết không ai đưa tiễn.
10. Nhân vật “Vợ nhặt”:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” (Ca dao)

Thân phận người phụ nữ thời phong kiến đã tội nghiệp như vậy đấy. Vậy mà, dưới ách áp bức
của Pháp, Nhật trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, thân phận của họ còn đáng thương hơn
nữa. Kim Lân, một nhà văn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống cũng như con người thôn quê, sau khi
hòa bình lập lại (1954), dựa vào một phần tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” (viết sau Cách mạng tháng Tám 1945
nhưng chưa hoàn thành và mất bản thảo) đã tái hiện lại bức chân dung chân thật, sinh động của người
phụ nữ năm đói với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong người “vợ nhặt”_nhân vật trong
“Vợ nhặt”_tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân, rút từ tập “Con chó xấu xí” (1962).
Người “vợ nhặt”_nhân vật chính được lấy làm nhan đề cho tác phẩm_ vậy mà suốt từ đầu đến
cuối đều không được gọi bằng một cái tên cụ thể nào, cũng chẳng biết gốc tích, lai lịch ra sao. Có quan
trọng gì với những con người đang đứng bên bờ miệng cái chết? Những lần gặp gỡ giữa thị và Tràng
cũng chỉ như bèo nước gặp nhau, đâu cần chào hỏi, đâu cần biết đối phương là ai. Cái đói đã hai lần đẩy
người đàn bà này lại với Tràng. Nhưng giữa hai lần đói, thị đã biến đổi ghê gớm: từ cô gái khỏe mạnh
“liếc mắt, cười tít”, “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”, qua ít hôm đã trở nên “rách quá, áo quần tả tơi
như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” khiến Tràng
không nhận ra được. Thế mới biết, cuộc sống đối với thị đã khắc nghiệt đến thế nào! Không còn một chút
nét tươi tắn, không đưa đẩy tình tứ, lần gặp thứ hai này thị “sầm sập chạy đến”, đi ngay vào vấn đề, trách
móc Tràng bằng những lời lẽ khá thô tục vì đã không giữ lời hứa. Không cần giữ thể hiện, yêu cầu bức
thiết nhất của thị lúc này là được cho ăn. Vì thế mà khi Tràng tỏ thiện chí: “Đấy, muốn ăn gì thì ăn” thì TÔN NGC MINH QUÂN 18
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
“Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”. Cái đói khiến thị “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trông thật đáng thương! Với cái cách ăn ấy thì chỉ có thể là đói lâu ngày
rồi. Cách kết thúc bữa ăn cũng rất hồn nhiên theo kiểu đói: “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”,
vừa có vẻ khoái trá, vừa có vẻ tiếc rẻ. Rồi, với câu nói “tưởng là nói đùa” của Tràng: “Này nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, “thị về thật” mà không một điều kiện ràng buộc nào.
Giữa lúc mà “Người chết như ngả rạ” thì người đàn bà này đã bị đẩy đến chỗ cùng đường liều lĩnh rồi.
Cứ nhìn cái cách thị ăn đủ hiểu. Ai biết được chẳng bao lâu nữa thị cũng sẽ là một giữa bao nhiêu cái xác
“nằm còng queo bên đường”? Cái đói như con ác thú mà bọn Pháp, Nhật nuôi tạo đã ngốn lấy thị, hút đi
bao nhiêu là sinh khí, phẩm giá, lòng tự trọng, để rồi nhả ra là con người bé mọn, dường như vô nghĩa
mang tên “vợ nhặt”. Ôi chao là xót xa, tủi hổ! Thị như đứa con hoang mà chính sách bóc lột tàn bạo của
những kẻ thống trị đã sản sinh rồi vứt ra đầu đường xó chợ trong cuộc sống tha phương cầu thực, mặc
kệ sự sống chết, may mắn được anh cu Tràng_một chàng trai ngụ cư nghèo, xấu xí, nhưng đôn hậu, vui
vẻ và tốt bụng “nhặt” về. Có bao giờ con người bị “mất giá” như thế này chăng? “tấm lụa đào phất phơ
giữa chợ” ít ra còn đổi được vài đồng, đằng này, thị theo không Tràng…
Ừ thì theo không! Ừ thì bé mọn! Lẽ nào lại khoanh tay chờ chết!? Người đàn bà mà Tràng “nhặt”
về ấy, tưởng như là vô nghĩa, tưởng như còn là gánh nặng: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả
biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, vậy mà lại có sức mạnh diệu kỳ làm cho vẻ mặt đăm chiêu, lo
lắng ngày thường của Tràng trở nên “phấn khởi”, “tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp
lánh”; lũ trẻ ủ rũ đi vì đói thích đùa trở lại; còn với những người hàng xóm khác: “Những khuôn mặt hốc
hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Phép màu còn xảy đến với cả thị, làm mất đi ở thị sự dạn
dĩ, táo bạo mới rồi, chỉ còn lại những “rón rén, e thẹn” của cô dâu mới về nhà chồng. Là sự việc hi hữu
chỉ có trong nạn đói, sự việc lạ lùng xảy ra giữa nạn đói, sự việc có vẻ ngược đời nhưng lại là “cái gì lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối”. Sự xuất hiện của người “vợ nhặt” vừa là tiếng búa
đinh óc của hiện thực khốc liệt nhưng ánh sáng phát ra từ đó cũng đẹp lạ lùng. Có sức biến cải, dù chỉ
trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Đó là lời tố cáo đanh thép đối với xã hội đương thời, nơi mà giá trị con
người trở nên rẻ mạt, gần như vô nghĩa; đồng thời, là tiếng nói đầy nhân đạo về khát vọng sống, khát
vọng hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong mỗi con người mà ở đây người “vợ nhặt” cũng không ngoại lệ.
Sau phút phấn chấn, hiện thực lại dội đến: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết
có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Không chỉ là những người hàng xóm “cùng nín
lặng”, trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc đầy cỏ dại”, hẳn người “vợ nhặt” cũng
thất vọng đi nhiều lắm nên đi “lẳng lặng”, “cái ngực gầy lép nhô lên” có lẽ không chỉ để nén tiếng thở dài
thôi đâu. Tôi thấy ở đó cả sự gồng mình chống chọi. Người đàn bà ấy những mong bấu víu lấy sự sống
từ nơi Tràng. Thế mà, tội nghiệp thay, nơi bấu víu ấy lại cũng rất mong manh. Rồi mai cuộc sống sẽ sao
đây? Trong gương mặt “bần thần” của thị có lẽ không chỉ là lo âu về cuộc sống. Người mẹ chồng biết có
chấp nhận cô khi mà “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”? Hành động “cúi mặt xuống, tay vân vê
tà áo đã rách bợt” trông tội nghiệp, thảm thương quá! Đã lộ rõ bao lo âu, mặc cảm về thân phận. Nếu bà
cụ Tứ có ruồng rẫy, chắc cô cũng chỉ biết khóc thôi!
May thay, người mẹ già ấy đã đón nhận cô bằng cả sự đồng cảm, thương xót lẫn biết ơn: “Người
ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có vợ được”.
Nhắm mắt bước liều, người phụ nữ này đã may mắn gặp được những con người giàu lòng nhân ái. Dẫu
có lo âu cho tương lai, ít ra cô cũng đã có một gia đình, một nơi để dựa dẫm, phấn đấu và hi vọng. Đây
vẫn là niềm hạnh phúc nho nhỏ của cô, trả cô về an phận trong vai một người vợ hiền, một nàng dâu
thảo. Nếu lúc đầu, cuộc sống khắc nghiệt với cái đói ghê người đã hóa đá tâm hồn và nữ tính của cô thì
giờ đây, hạnh phúc gia đình như những tia nắng ấm đã khiến chúng hồi sinh trở lại. Người đàn bà trở
nên “hiền hậu đúng mực” chứ không “chao chát, chỏng lỏn” như lúc ở chợ tỉnh nữa. Từ chỗ vô nghĩa
giữa cuộc đời, giờ đây, trong ngôi nhà này, sự tồn tại của cô đầy ý nghĩa: nhà cửa, sân vườn “đều được
quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng”; Tràng “thấy hắn nên người”, “vui sướng, phấn chấn”, có ý thức TÔN NGC MINH QUÂN 19
Trưng THPT chuyên Trn Đi Nghĩa Năm hc: 2018-2019
trách nhiệm; “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà
rạng rỡ hẳn lên”. Trong tận cùng của đói khát và chết chóc, người đàn bà này đã đến, nhen nhóm ở đây
một tổ ấm, một cuộc sống mới…
Thế thì… phải ăn mừng chứ nhỉ!? Bữa cơm được dọn ra, bữa cơm mừng nàng dâu mới giữa những
ngày đói thật thảm hại: “Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng hai bát đã hết nhẵn”, còn cái món
“chè khoán” hóa ra lại là cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”. Người “vợ nhặt” hai mắt “tối lại” nhưng
vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Chấp nhặt chi cái lúc này! Nhất là khi Tràng và bà cụ Tứ đã mở rộng
lòng đón cô. Trong thái độ ngoan ngoãn ấy chứa đựng cả sự vị tha và thông cảm. Nhưng dẫu sao, bát
cháo cám vẫn là cái hiện thực khốc liệt để “nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người” mặc cho bao lời đon
đả, bao viễn cảnh tốt đẹp mà bà cụ Tứ cố gợi ra. Rồi, như để làm tăng thêm cái hiện thực ảm đạm, tiếng
trống thúc thuế vang lên “dồn dập, vội vã”, cùng với lũ quạ “hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám
bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen”. Cuộc sống như bị đẩy đến chỗ cùng đường rồi. Đói khát
và chết chóc đã hiển hiện ngay trước mắt. Nhưng, giữa lúc tối tăm mặt mũi ấy, người vợ nhặt như tình
cờ góp chuyện mà lại hé mở bao hy vọng về những con người gọi là “Việt Minh” đi “phá cả kho thóc của
Nhật, chia cho người đói”. Ở nơi chân trời tối tăm vì cái đói này, đó là ánh sáng duy nhất, con đường
sống duy nhất. Với câu chuyện của mình, người vợ nhặt đã trở thành người báo tin cho một cuộc cách
mạng đang đến gần: Cách mạng tháng Tám.
Có thể nói, từ một nạn nhân bị giày vò, teo tóp bởi cái đói, nhân vật của Kim Lân đã từng bước,
từng bước đi lên, trở thành một con người chủ thể. Bằng trái tim nhân hậu, sự am hiểu và nghệ thuật
phân tích tâm lý tinh tế, qua nhân vật của mình, nhà văn Kim Lân đã dựng lên được bức tranh chân
thực, sinh động của nạn đói khủng khiếp năm 1945; đồng thời, để cho vẻ đẹp nhân đạo thấm sâu trong
tác phẩm qua cách con người đối với nhau, làm cho nhau, tình thương, sự thông cảm, những đổi thay
trong tâm tư, tính cách con người trước hạnh phúc. Người “vợ nhặt”, nhân vật chính nhưng không được
đặt tên phải chăng còn mang ý nghĩa phiếm chỉ về vô số những người đồng cảnh ngộ trong nạn đói, sống
đến tận cùng cơ cực vẫn khát khao hy vọng để rồi sẽ chứng kiến cuộc biến vĩ đại Cách mạng tháng Tám 1945? 11.
Bàn luận về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ
văn 12, tập hai) có ý kiến cho rằng: Tràng là một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy
khát khao và tốt bụng. Anh/Chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Từ đó, liên hệ với nhân vật Chí Phèo
ở phần kết thúc truyện trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, tập một)
để nhận xét về số phận của người nông dân.

“Tôi định viết một số truyện ngắn những ý khác là khi đói người ta không nghĩ đến con đường
chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn
khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn
sống, sống cho ra người”. Đây là lời tự sự của chính tác giả truyện ngắn Vợ nhặt – nhà văn Kim Lân –
người một lòng đi về với vẻ đẹp thuần hậu nguyên thủy làng quê khuất lấp sau dãy tre làng. Truyện
ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc không chỉ bởi thông điệp giàu ý
nghĩa mà còn bởi giá trị trị tinh thần và giá trị giáo dục giàu có của thiên truyện này. Truyện được lấy
cảm hứng và viết từ nạn đói năm 1945. Sau đó, bị mất bản thảo nhưng khi hòa bình lập lại (1954), ông
dựa vào cốt truyện cũ viết nên truyện ngắn này và in trong tập Con chó xấu xí.
Câu chuyện của truyện ngắn xoay quanh ba nhân vật là Tràng, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và Thị –
người vợ nhặt (vợ Tràng).
Nhân vật nào cũng đều là hiện thân của những người nông dân trong nạn đói năm ấy, khốn khổ,
đói rách. Hoàn cảnh nạn đói ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngoại hình và tính cách của họ. Tuy nhiên,
được sống trong tình thương của gia đình, của tình người, những phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn trong họ mới lộ thiên. TÔN NGC MINH QUÂN 20