Nguồn của luật dân sự gì? Phân loại nguồn
của luật dân sự?
1. Khái niệm nguồn của luật dân s
Nguồn của pháp luật đã được nghiên cứu trong lý luận chung về nhà nước
pháp luật, về mặt hội học, nguồn của pháp luật ý chí của giai cấp thống
trị đưa lên thành luật nội dung được c định bởi các điều kiện chính trị,
kinh tế tồn tại trong hội cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật
ý chí của giai cấp thống tr đưa thành luật, thể hiện quan điểm giai cấp về
hình mẫu hội, trong đó các quan h hội nào được điều chỉnh bằng pháp
luật với phương thức nào do giai cấp thống trị quy định thông qua hoạt
động lập pháp của nhà nước.
Để xem xét các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự
thì cần nghiên cứu về nguồn luật dân sự. Nguồn của luật n sự được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau gôm:
Thứ nhất, theo nguồn gốc phát sinh quy phạm pháp luật thì nguồn của luật
Dân sự những quan hệ hội cần thiết phải được pháp luật dân sự điều
chỉnh;
Thứ hai, dưới góc độ hội học thì nguồn của luật Dân sự ý chí của giai
cấp thống trị được đưa lên thành luật mà nội dung được quyết định bởi điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - hội phong tục, tập quán;
Thứ ba, theo hình thức biểu hiện ra bên ngoài t nguồn của luật Dân sự
những văn bản quy phạm pháp luật dân sự.
Mỗi ngành luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định cách thức xử sự
của các chủ thể tham gia o các quan hệ đó phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị. Trong điều kiện của chúng ta hiện nay - Đảng “là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước hội” (Điều 4 Hiến pháp năm 1992), đại biểu trung thành
của giai cấp công nhân nhân dân lao động, của dân tộc thì pháp luật là sự
thể chế hoá đường lối của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Đường lối,
chủ trương của Đảng được các quan nhà nước thẩm quyền thể chế
hoá bằng quá trình lập pháp. Bởi vậy, “Nhà nước ta phải đủ quyền lực
đủ khả năng định ra luật pháp tổ chức, quản mọi mặt đời sống bằng
pháp luật”.
Nguồn của luật n sự hiểu theo nghĩa hẹp những n bản pháp luật (hình
thức của pháp luật) do quan nhà nước thẩm quyền ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ tài sản các quan h nhân thân. Một văn bản được
coi nguồn của luật dân sự phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
- Văn bản do quan nhà nước thẩm quyền ban hành;
- Chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự;
- Phải ban hành theo trình tự, thủ tục do luật định.
Nguồn của pháp luật bao gồm nguồn nội dung nguồn hình thức, trong
đó, “nguồn nội dung của pháp luật xuất xứ, căn nguyên của pháp luật bởi
được các chủ thể thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành
giải thích pháp luật” “nguồn hình thức của pháp luật được hiếu phương
thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay nơi chứa đựng,
nơi thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức những căn cứ các chủ
thể thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết c vụ việc pháp xảy ra trong
thực tế”.
Quan niệm về nguồn của luật dân sự sự thay đổi theo thời gian, dựa trên
quy định của luật tương ứng với thời kỳ đó. Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu
tiên chính thức ghi nhận việc áp dụng án lệ, trong việc giải quyết c tranh
chấp dân sự phát sinh. Do đó, luật Dân sự bao gồm một hệ thống các văn
bản pháp luật (luật thành văn) cùng với tập quán, án lệ trong đó chứa đựng
các quy tắc xử sự chung theo một chuẩn mực pháp nhất định. thế,
nguồn của luật dân sự quy tắc ứng xử được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật do quan thẩm quyền của nhà nước ban hành, những tập
quán, khuôn mẫu được xác định từ án lệ theo đó, các chủ thể phải tuân
theo khi tham gia thực hiện các quan hệ dân sự.
Trong số c loại nguồn của luật dân sự thì hệ thống các vãn bản pháp luật
được xác định nguồn ch yếu quan trọng nhất bởi hệ thống pháp luật
nước ta theo truyền thống pháp luật Civil law - luật thành văn. Văn bản quy
phạm pháp luật nguồn của luật dân sự do do quan nhà nước thẩm
quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định chứa các quy phạm pháp
luật n sự, nhằm điều chỉnh các quan hệ nhân thân quan hệ tài sản. Một
vãn bản quy phạm pháp luật được coi nguồn của luật dân sự phải đáp ứng
những yêu cầu sau đây:
Một là, phải văn bản quy phạm pháp luật dân sự, tức chứa đựng các quy
tắc xử sự chung để điều chỉnh quan hệ tài sản quan hệ nhân thân thuộc
đối tượng điều chỉnh của luật Dân sự;
Hai là, văn bản quy phạm pháp luật dân sự phải do quan Nhà nước
thẩm quyền ban hành; Ba là, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
dân sự phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định.
2. Phân loại nguồn của luật n sự hiện nay
Nguồn của luật dân sự rất đa dạng, phong phú. Trong đó, nguồn chiếm ưu
thế quan trọng nhất của luật Dân sự luật thành văn. Ngoài ra, tập quán,
án lệ cũng được thừa nhận chính thức nguồn của luật Dân sự.
Luật thành văn: Luật thành văn c văn bản pháp luật của quan nhà
nước thẩm quyền được ban hành theo một trình tự luật định. Luật thành
văn với các tên gọi khác nhau như bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, thông
tư, nghị quyết... nhưng chỉ được coi nguồn của luật dân sự khi các vãn bản
của luật thành văn đó chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự. Theo
nguyên tắc chung, các quy phạm pháp luật dân sự đều hiệu lực bắt buộc
thi hành. Nhưng căn cứ vào hình thức của n bản, quan ban hành
hiệu lực pháp luật của n bản, luật thành văn nguồn của luật dân sự được
chia thành các loại sau: Hiến pháp, B luật Dân sự, các luật, bộ luật liên quan,
các văn bản dưới luật.
Thứ nhất, Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật bản, đạo luật gốc của một
quốc gia, “xương sống, trụ cột” của hệ thống pháp luật, sở xây dựng
các văn bản pháp luật khác. Hiến pháp đạo luật bản của hệ thống pháp
luật, căn cứ vào hiến pháp, các ngành luật cụ thể a bằng các quy định để
tác động tới các quan hệ nói nhiệm vụ điều chỉnh. Hiến pháp nguồn
của mọi ngành luật nói chung của luật dân sự nói riêng. Đối với luật Dân
sự, Hiến pháp nguồn quan trọng bởi trên sở những quy định chung
mang tính chất nguyên tắc của Hiến pháp Bộ luật Dân sự cụ thể hóa.
Những nội dung của Hiến pháp năm 2013 liên quan trực tiếp đến luật Dân
sự Chương II (Chế độ kinh tế) Chương V (Quyền nghĩa vụ bản
của công dân).
Chương II của Hiến pháp năm 2013 ghi nhận sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế, khẳng định sự tồn tại của các hình thức sở hữu khác nhau n
sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu nhân...Trên sở quy định của
Hiến pháp năm 2013 về chế độ sở hữu, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cụ thể
hóa các quy định này với c quy định cụ thể về xác lập quyền sở hữu, các
hình thức sở hữu... Nội dung Chương V của Hiến pháp năm 2013 quy định
về các quyền nghĩa vụ của công dân. Một loạt các quyền của ng dân
được Hiến pháp ghi nhận n quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu những
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở; quyền thừa kế...Trên sở này,
Bộ luật Dân sự đã cụ thể hóa c quy định về quyền nhân thân, năng lực
pháp luật dân sự của nhân, thừa kế, sở hữu...
Thứ hai, Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự nguồn chủ yếu, trực tiếp quan
trọng nhất của luật Dân sự. Tính đến hiện tại, nước ta đã thông qua thi
hành ba Bộ luật Dân sự: Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005
Bộ luật Dân sự năm 2015. Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015(Ngày
24/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa 13 đã thông qua Bộ luật Dân sự
năm 2015 (Luật số 91/2015/QH13). Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã được
Chủ tịch nước công bố theo Lệnh số 20/2015/L-CTN ngày 08/12/2015. Bộ
luật Dân sự năm 2015 hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 thay thế
Bộ luật Dân sự năm 2005) đang hiệu lực thi hành. Bộ luật Dân sự năm
2015 gồm 6 phần, 27 chương 689 Điều với nhiều chế định mới tiến bộ, thể
hiện một cách đầy đ nhất với tính chất là luật chung định hướng cho việc
xây dựng c văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc thù, xử lý
bất cập của luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn
cuộc sống.
Mục tiêu, quan điểm xây dựng Bộ luật Dân sự được xác định n sau: Bộ
luật được xây dựng trên sở cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013; xây dựng Bộ
luật với ý nghĩa, vai trò luật chung của pháp luật tư; ghi nhận, bảo vệ tốt
hơn quyền nghĩa vụ của các ch thể trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường; kế thừa truyền thống pháp luật dân sự nước
ta từ trước đến nay.
Bố cục những nội dung chủ yếu của Bộ luật Dân sự năm 2015 bao gồm:
Phần thứ nhất “Quy định chung” (Điều 1 đến Điều 157): Quy định về phạm vi
điều chỉnh, nguyên tắc bản của pháp luật dân sự, mối quan hệ giữa B
luật Dân sự với luật khác liên quan điều ước quốc tế, chế pháp
giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp không quy định của pháp luật,
xác lập, thực hiện bảo vệ quyền dân sự, địa vị pháp của chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự, tài sản, giao dịch dân sự, đại diện, thời hạn thời
hiệu được kết cấu thành 10 chương. Đây phần đưa ra các quy định
chung được áp dụng xuyên suốt toàn bộ nội dung của Bộ luật Dân sự
được cụ thể hóa trong tất cả các phần của Bộ luật Dân sự. Những nội dung
đã được quy định trong phần chung sẽ không cần phải quy định lặp lại trong
các chế định riêng. Kết cấu này đảm bảo sự khoa học của Bộ luật Dân sự,
tránh sự cồng kềnh hạn chế trình trạng trùng lặp không cần thiết.
Phần thứ hai “Quyền sở hữu quyền khác đối với tài sản” iều 158 - Điều
273): Quy định về nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản, bảo vệ giới hạn quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản,
chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng
dụng, quyền bề mặt được kết cấu thành 4 chương. Quyền sở hữu
quyền khác đối với tài sản chế định quan trọng của Bộ luật dân sự nước ta
cũng như của các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới. Điều này xuất
phát t tầm quan trọng của quyên sở hữu quyền khác đối với mọi chủ thể
trong hội. Trong mọi quốc gia trên thế giới cũng như tại Việt Nam, i sản
chế đ sở hữu ý nghĩa quan trọng, quyết định mối liên quan đến
nhiều các quan hệ hội khác nhau. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 đã ghi
nhận:
“1. Mọi người quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, liệu sinh hoạt, liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tố chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu nhân quyền thừa kế được pháp luật bảo
hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết do quốc phòng, an ninh hoặc
lợi ích quốc gia, nh trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng bồi thường tài sản của
tổ chức, cả nhân theo giá thị trường”.
Dựa trên quy định chung của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cụ thể
hóa các quy định về bảo hộ quyền sở hữu, chế độ sở hữu, hình thức sở
hữu... để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế qua
đó tạo động lực để các chủ thể lao động, sản xuất nhằm làm tăng của cải cho
bản thân, gia đình hội.
Phần thứ ba “Nghĩa vụ hợp đồng” (Điều 274 - Điều 608): Quy định về căn
cứ phát sinh, thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm dân sự, bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, giao kết, thực hiện chấm dứt hợp đồng, một số hợp đồng thông
dụng, hứa thuởng thi giải, thực hiện công việc không y quyền,
nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không
căn cứ pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được kết cấu thành 6 chương. Đây phần dung lượng điều luật lớn nhất
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 với 334 Điều. Các hợp đồng nghĩa vụ giữa
các chủ thể phát sinh ngày càng nhiều đa dạng chủng loại trên thực tế nên
phần này vai trò quan trọng để định hướng cho việc thiết lập quan hệ hợp
đồng giữa các bên. Đồng thời, trong quá trình thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng phát sinh tranh chấp, phần thứ 3 “Nghĩa vụ hợp đồng sở
pháp quan trọng được áp dụng để giải quyết tranh chấp này giữa các bên.
Các quy định trong phần này nhằm:
“bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia
quan hệ n sự; bảo vệ lợi ích của Nhà nước lợi ích công
cộng; góp phần đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của
nhân dân; đẩy mạnh giao lưu dân sự trong nước ng như với
nước ngoài đồng thời giải phóng mọi lực lượng sản xuất nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế hội nước ta”.
Phần thứ “Thừa kế” (Điều 609 - Điều 662): Quy định về quyền thừa kế,
thời điểm, địa điểm mở thừa kế, di sản, người thừa kế, người quản di sản,
từ chối nhận di sản, thời hiệu thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo
pháp luật, thanh toán, phân chia di sản được kết cấu theo 4 chưomg với
53 Điều. Thừa kế vấn đề quan trọng của Bộ luật Dân sự, được ghi nhận từ
rất sớm trong các Bộ luật của nước ta qua từng thời kỳ. Với cậc nguyên tắc
quy định về thừa kế, quyền của người để lại di sản, người thừa kế được
pháp luật công nhận bảo vệ. Quy định về thừa kế cũng chính củng cố
vững chắc cho quyền sở hữu tài sản quyền định đoạt tài sản của một chủ
thể trước khi chết. Đây cũng động lực khuyến khích mọi chủ thể trong việc
lao động, sản xuất đ tạo ra của cải cho bản thân, gia đình hội.
Phần thứ năm “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ n sự yếu tố nước
ngoài” iều 663 - Điều 687): Quy định về c định pháp luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự yếu tố nước ngoài, pháp luật áp dụng đối với nhân,
pháp nhân, đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân yếu tố nước ngoài
được kết cấu thành 3 chương với 24 Điều. Đây phần quan trọng đ áp
dụng giải quyết các tranh chấp xảy ra đối với các quan hệ n sự yếu
tố nước ngoài. Quan hệ dân sự yếu tố nước ngoài quan hệ dân sự
thuộc một trong c trường hợp sau đây: ít nhất một trong các bên tham
gia nhân, pháp nhân nước ngoài; các bên tham gia đều là công n Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm
dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; các bên tham gia đều công dân Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó nước
ngoài. Với sự giao thương kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, các quan hệ dân
sự yếu t nước ngoậi ngày càng nhiều phát sinh phổ biến mọi mặt
trong đời sống hội.
Phần thứ sáu “Điều khoản thi hành” (Điều 688 Điều 689). Phần này gồm
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 với tiên gọi: ‘'Điều khoản chuyển
tiếp” nhằm phân định về cách thức áp dụng giữa Bộ luật Dân sự năm 2015
Bộ luật Dân sự năm 2005. Còn Điều 689 quy định về hiệu lực thi hành của Bộ
luật Dân sự năm 2015, cụ thể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Bộ luật Dân sự
số 33/2005/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật này hiệu lực.
Thứ ba, luật các bộ luật khác liên quan. Khi B luật Dân sự được ban
hành với cách là nguồn chủ yếu quan trọng thì các đạo luật khác giá trị
như là nguồn bổ trợ. Do đó, các b luật, các luật khác như: Bộ luật Lao động,
Luật Đất đai, Luật Hôn nhân gia đình, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật
Thương mại, Luật Doanh nghíêp, Luật Trẻ em, Luật Phá sản doanh nghiệp,
Luật Sở hữu t tuệ... nguồn của luật dân sự. Ngay tại Điều 4 Bộ luật Dân
sự đã ghi nhận về việc áp dụng Bộ luật Dân sự luật khác liên quan n
sau:
“1. Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự.
2. Luật khác cỏ liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong c
lĩnh vực cụ th không được trải với các nguyên tẳc bản của
pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của B luật này.
3.Trường hợp luật khác liên quan không quy định hoặc
quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điểu này thì quy định của B
luật này được áp dụng".
Theo đó, nếu các luật khác liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các
lĩnh vực cụ thể (hôn nhân, lao động, kinh doanh thương mại...) thì luật này
sẽ được ưu tiên áp dụng trước nếu như không trái với các nguyên tắc bản
của pháp luật dân sự. Trường hợp luật khác liến quan không quy định
hoặc quy định trái với các nguyên tắc bản của pháp luật dân sự thì B luật
Dân sự được áp dụng.
Thứ tư, Nghị quyết của Quốc hội. Đây n bản do Quốc hội ban hành,
hiệu lực như văn bản pháp luật. Ke từ khi ban hành Bộ luật Dân sự, Quốc hội
đã ban hành một số Nghị quyết ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với luật
dân sự, đó là: Một, Nghị quyết ngày 28/10/1995 về việc thi hành Bộ luật Dân
sự năm 1995. Nghị quyết liệt những văn bản pháp luật hết hiệu lực khi Bộ
luật Dân sự bắt đầu hiệu lực quy định phạm vi áp dụng Bộ luật Dân sự
để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước ngày Bộ luật Dân sự hiệu lực.
Theo Nghị quyết này, Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 hiệu lực
từ ngày 1 tháng 7 năm 1996. Các pháp lệnh sau đây hết hiệu lực kể t ngày
1 tháng 7 năm 1996: Pháp lệnh Hợp đồng dân sự ngày 29 tháng 4 năm 1991;
Pháp lệnh Nhà ngày 26 tháng 3 m 1991; Pháp lệnh Thừa kế ngày 30
tháng 8 năm 1990; Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ngày 28
tháng 1 năm 1989; Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả ngày 2 tháng 12 năm
1994; Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam ngày 5
tháng 12 năm 1988; Hai, Ngh quyết số 58 ngày 20/8/1998 về Giao dịch dân
sự về nhà được xác lập trước ngày 01/7/1991 ý nghĩa quan trọng trong
việc giải quyết c tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự về n giai
đoạn trước ngày 01/7/1991, nội dung nh đến mọi mặt hội đối với vấn
đề nhà . Nguyên tắc giải quyết các giao dịch dân sự về nhà thuộc sở hữu
nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (ngày Pháp lệnh Nhà
năm 1991 hiệu lực) được giải quyết theo quy định của Nghị quyết này;
việc giải quyết phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện kinh tế -
hội của đất nước phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: Khuyến khích,
tôn trọng sự thoả thuận của các bên tham gia giao dịch dân sự, phát huy
truyền thống đoàn kết, tương thân,, tương ái, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
trong nội bộ nhân dân; tránh lãng p của cải, vật chất phát sinh do việc đòi lại
nhà y ra; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng; trong quá trình giải quyết cần quan tâm thích đáng
đối với bên tham gia giao dịch dân sự người công với cách mạng, người
thuộc diện được hưởng chính sách hội, người nghèo đang phải thuê n
ở, mượn nhà ở; giữ vững ổn định hội, kh năng thực thi được nhân
dân đồng tình, về phạm vi áp dụng, Nghị quyết này được áp dụng đối với các
giao dịch dân sự n đang thuộc sở hữu nhân được xác lập trước
ngày 1 tháng 7 m 1991 giữa nhân với nhân, giữa nhân với
quan, tổ chức, bao gồm: a) Thuê n ở; b) Cho mượn, cho nhờ nhà ở; c)
Mua bán n ở; d) Đổi nhà ở; đ) Tặng cho nhà ; e) Thừa kế nhà ở; g) Quản
nhà vắng chủ giữa nhân với nhân. Nghị quyết này không áp dụng
đối với giao dịch dân sự về n thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước
ngày 1 tháng 7 năm 1991 người Việt Nam định nước ngoài,
nhân, tổ chức nước ngoài tham gia; Nghị quyết số 45/2005/NQ-QH11 ngày
14 tháng 6 năm 2005 về việc thi hành B luật Dân sự năm 2005. Nghị quyết
ghi nhận, B luật Dân sự được Quốc hội nước Cộng h hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, hiệu
lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Bộ luật Dân sự này thay thế Bộ luật Dân
sự được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995; Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế ngày 29 tháng 9 m 1989 hết hiệu lực kể t ngày Bộ luật Dân
sự hiệu lực. Đồng thời, Nghị quyết quy định phạm vi áp dụng Bộ luật Dân
sự để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước ngày B luật Dân sự hiệu
lực.
Thứ năm, các vãn bản dưới luật. Các n bản dưới luật như Pháp lệnh của
Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Nghị định của Chính phủ, Ngh quyết của Hội
đồng thẩm phán T án nhân dân Tối cao... Cụ thể: Một là, Pháp lệnh của ủy
ban thường vụ Quốc hội. Đây văn bản được ban hành để giải thích, hướng
dẫn cụ thể những quy định của Bộ luật Dân sự hoặc quy định những nội dung
luật chưa đủ điều kiện để quy định; Hai là, Nghị định của Chính phủ. Quy
định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của
UBTVQH, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước. Rất nhiều Nghị định vai trò
nguồn bổ trợ trực tiếp của luật Dân sự như Nghị định quy định sinh con
theo phưorng pháp khoa học, Nghị định về xác định lại giới tính, Nghị định về
giao dịch bảo đảm, Nghị định về kinh doanh dịch vụ đòi nợ, Nghị định về hụi,
họ, Nghị định về ban hành quy chế bán đấu giá i sản...; Ba là, Nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban hành để hướng
dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.
Tập quán: Tập quán được hiểu thói quen đã thành nếp sống trong đời sống
hội, trong sản xuất sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận
m theo. Tập quán chính cách xử sự được cộng đồng địa phương, dân
tộc thừa nhận như chuẩn mực ứng xử đối với các thành viên trong cộng
đồng dân tộc, địa phương đó. Theo khoản 1 Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015
định nghĩa:
“Tập quán là quy tắc xử sự nội đung rõ ràng để xác định
quyền, nghĩa vụ của nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự
cụ thê, được nh thành lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời
gian dài, được thừa nhận áp dụng rộng rãi trong một vùng,
miền, dân tộc, cộng đồng dân hoặc trong một lĩnh vực dân
sự".
Các nhà lập pháp quan niệm tập quán quy tắc xử sự được áp dụng một
cách rộng rãi trong một lĩnh vự dân sự cụ thể. Như vậy, một thói quen (phong
tục, tục lệ, tục, tập tục) chỉ được coi tập quán tập quán đó chỉ được áp
dụng để giải quyết tranh chấp dân sự khi thỏa n các điều kiện sau:
Thứ nhất, quy tắc xử sự nội dung ràng. Điều này được hiểu, tập quán
phải chứa đựng cách thức định hướng ứng xử cho các chủ thể trong hội.
Điều này được hiểu, với mỗi tập quán, các chủ thể trong cộng đồng, địa
phương sẽ biết mình phải thực thực như thế nào đúng chuẩn mực.
Thứ hai, liên quan đến quyền, nghĩa vụ của chủ thể. Tập quán được xác
định nguồn của luật Dân sự phải chứa đựng nội dung liên quan đến quyền,
nghĩa vụ của chủ thể. Nếu thói quen chỉ là cái ăn sâu o đời sống hội
việc tuân theo hay không tuân theo không ảnh hưởng đến quyền nghĩa
vụ của người khác thì thói quen đó không bắt buộc phải tuân theo, không
phải quy tắc xử sự bắt buộc nên chủ thể không thực hiện theo không phải
chịu trách nhiệm. Do đó, tập quán nguồn của luật Dân sự được hiểu
những xử sự cùa người này không tuân theo quy tắc xử sự đó sẽ ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích của người khác.
Thứ ba, thói quen này phải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài,
được thừa nhận áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng
đồng dân hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Điều này được hiểu, tập quán
thói quen đã trở thành nếp sống. góc độ hội, thói quen phải nề nếp
trong đời sống hội, trong lao động sản xuất trong sinh hoạt thường
ngày do vậy, mọi người trong cộng đồng đều phải tuân theo nề nếp đó.
góc độ quy phạm, thói quen đã trở thành quy tắc xử sự chung cho mọi người
mọi người trong cộng đồng phải tuân theo quy tắc xử sự đó.
Tập quán cũng thể thói quen về một lĩnh vực dân sự cụ thể. Các lĩnh
vực dân sự rất đa dạng, phong phú. Trong số đó, những nh vực tập
quán, lĩnh vực không. Những nh vực tập quán thường những lĩnh
vực từ xa xưa; n những lĩnh vực dân sự hiện đại mới được nh thành
trong những khoảng thời gian gần đây thì thường không tập quán áp dụng.
rất nhiều thói quen đã trở thành tập quán nhưng thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau nhưng ch th áp dụng thói quen để giải quyết một vấn đề nào đó
nếu thói quen đó thuộc về một nh vực cụ thể không thể áp dụng một thói
quen chung chung. dụ như, việc áp dụng đơn vị đo lường giạ lúa; chục
miền Nam; chia thịt thú rừng các vùng dân tộc...
Án lệ: Đối với các nước theo hệ thống luật thành văn thì sự ra đời của hệ
thống án lệ nhằm giải quyết sự thiếu hụt của hệ thống pháp luật. Tòa án sẽ
viện dẫn những căn cứ được coi hợp để đưa ra một phán quyết tính
đột phá đối với vụ việc đang cần giải quyết luật chưa quy định hoặc
nhưng chưa ràng, đang còn nhiều cách hiểu khác nhau bản án này sẽ
được Tòa án tối cao công bố án lệ đ áp dụng cho c trường hợp tương
tự xảy ra trong tương lai.
Trên sở chủ trương của Đảng được xác định trong Nghị quyết số 49/NQ-
TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách pháp: “Tờữ án
nhân dân tối cao nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật, phát triến án lệ xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm”, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 đã quy định về nhiệm vụ của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân n tối cao: “Lựa chọn quyết định giảm
đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phản Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết
định đã hiệu lực pháp luật, tỉnh chuắn mực của c Tòa án, tổng kết
phát triển thành án lệ công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng
trong xét xử,”- Điểm c khoản 2 Điều 22, Luật t chức TAND 2014. Dựa trên
tình thần này, B luật Dân sự 2015 đã quy định án lệ một trong những loại
nguồn được áp dụng đ giải quyết các tranh chấp dân sự.
Án lệ hiểu theo nghĩa rộng nhất nguyên tắc bắt buộc đòi hỏi thẩm phán khi
xét xử một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ vào các bản án, các vụ việc trước
đó, đặc biệt các phán quyết của các Tòa cấp cao Tòa án tối cao hoặc
căn cứ vào hệ thống những nguyên tắc bất thành n đã được công nhận
hình thành thông qua các quyết định của Tòa án. Theo nghĩa hẹp thì án lệ
bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tuyên bố bởi Tòa án giá
trị như một nguồn của luật được áp dụng đ giải quyết c vụ việc tương tự
xảy ra trong tương lai.
Để sở cho việc áp dụng án lệ, ngày 28/10/2015, Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về
quy trình lựa chọn, công bố áp dụng án lệ, bắt đầu hiệu lực từ ngày
16/12/2015. Đây văn bản pháp đầu tiên quy định về việc áp dụng án lệ.
Sau một thời gian, văn bản này đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Do đó,
ngày 18 tháng 6 năm 2019 Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao đã
ban hành Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố
áp dụng án lệ đ thay thế cho Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP.
Theo Điều 1 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP:
“Án lệ những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã
hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội
đồng Thẩm phản a án nhân dân tối cao lựa chọn được
Chánh ản Tòa án nhân dân tối cao công bố án lệ để c a
án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.
Án lệ được lựa chọn đ trở thành nguồn của luật Dân sự cần phải thỏa mãn
các tiêu chí sau đây: (i) giá trị làm quy định của pháp luật còn cách
hiểu khác nhau, phân ch, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp chỉ ra
nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ
việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ ng bằng đối với những vấn đề chưa điều
luật quy định cụ thể; (ii) tính chuẩn mực; (iii) giá trị hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử.
Để trở thành án lệ cần trải qua các bước sau đây:
Bước thứ nhất, đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ. nhân,
quan, t chức thể gửi đề xuất bản án, quyết định đã hiệu lực pháp
luật của Tòa án chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí luật
định cho a án nhân dân tối cao để xem xét, phát triển thành án lệ. Các Tòa
án trách nhiệm tổ chức soát, phát hiện bản án, quyết định đã hiệu
lực pháp luật của Tòa án mình chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng c
tiêu chí gửi cho Tòa án nhân dân tối cao đ xem xét, phát triến thành án lệ.
Bước thứ hai, lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đ xuất lựa chọn,
phát triển thành án lệ. Bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển
thành án lệ, nội dung đề xuất án lệ, dự thảo án lệ phải được đăng tải trên
cổng thông tin điện t của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án, chuyên
gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, nhân, quan, tổ chức quan
tâm tham gia ý kiến, trừ trường họp hướng dẫn tại các điểm b, c d khoản 2
Điều 6 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Ý kiến góp ý được gửi về Tòa
án nhân dân tối cao. Thời gian lấy ý kiến góp ý 30 ngày kể từ ngày đăng tải.
Trên sở kết quả lấy ý kiến rộng rãi đối với các bản án, quyết định được đề
xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất án lệ, dự thảo án lệ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định việc lấy ý kiến của Hội
đồng tư vấn án lệ. Việc lấy ý kiến của Hội đồng vấn án lệ được thực hiện
theo hướng dẫn tại khoản 2 khoản 3 Điều 5 của Nghị quyết số
04/2019/NQ-HĐTP.
Bước thứ ba, Hội đồng vấn án lệ. Hội đồng vấn án lệ do Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao thành lập gồm ít nhất 09 thành viên. Chủ tịch Hội đồng
Chủ tịch Hội đồng khoa học a án nhân dân tối cao, 01 Phó Chủ tịch Hội
đồng Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học Tòa án nhân dân tối cao, các thành
viên khác đại diện Bộ pháp, Viện Kiểm sát nhân n tối cao, Liên đoàn
Luật Việt Nam, đại diện quan, tổ chức liên quan, các chuyên gia về
pháp luật 01 đại diện lãnh đạo V Pháp chế Quản khoa học Tòa án
nhân dân tối cao ồng thời Thư Hội đồng). Trường hợp vấn án lệ về
hình sự thì thành phần của Hội đồng tư vấn án lệ phải đại diện quan
điều tra của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hoặc Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao.
Hội đồng vấn án l trách nhiệm thảo luận cho ý kiến đối với các bản án,
quyết định được đ xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất
án lệ, dự thảo án lệ. Việc lấy ý kiến của Hội đồng vấn án lệ được thực hiện
thông qua phiên họp thảo luận trực tiếp hoặc bằng văn bản. Chủ tịch Hội
đồng tư vấn án lệ quyết định phương thức lấy ý kiến của các thành viên Hội
đồng báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kết quả vấn.
Bước thứ tư, thông qua án lệ. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức
phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán a án nhân dân tối cao để thảo
luận, biểu quyết thông qua án lệ. Án l được xem xét thông qua khi thuộc một
trong các trường hợp sau: (i). Được phát triển từ bản án, quyết định hiệu
lực pháp luật của Tòa án đã được lấy ý kiến theo hướng dẫn tại Điều 4
Điều 5 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP; (ii). Được Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao đề xuất; (iii). Được ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao đề xuất; (iv). Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa
chọn khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải ít nhất hai
phần ba tổng số thành viên tham gia. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng
Thẩm phán biểu quyết tán thành. Kết quả biểu quyết phải được ghi vào biên
bản phiên họp lựa chọn, thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán căn
cứ để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công b án lệ.
Bước thứ năm, công bố án lệ. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành
quyết định công bố án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán a án nhân dân tối
cao thông qua. Nội dung công bố bao gồm: số, tên án lệ; số, tên bản án,
quyết định của Tòa án nội dung được phát triển thành án lệ; Tình huống
pháp lý, giải pháp pháp lý của án lệ; Quy định của pháp luật liên quan đến
án lệ; Từ khóa về những tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ;
Các tình tiết trong vụ án phán quyết của Tòa án liên quan đến án lệ; Nội
dung của án lệ. Án lệ được đăng tải ưên cổng thông tin điện tử của Tòa án
nhân n tối cao, được gửi cho các Tòa án, các đơn vị thuộc Tòa án nhân
dân tối cao được đưa o Tuyển tập án lệ đ xuất bản. Án lệ được nghiên
cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố. Khi xét xử, Thẩm
phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc
tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp
vụ việc tình huống pháp tương t nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì
phải nêu rõ do trong bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp Tòa án áp
dụng án lệ để giải quyết vụ việc thì số, tên án lệ, tình huống pháp lý, giải pháp
pháp ưong án lệ tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết
phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”. Tùy từng
trường hợp cụ thể thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội dung của án lệ
để làm quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết vụ việc tương tự.
Án lệ đương nhiên bị bãi bỏ trong trường hợp án lệ không còn p hợp do
sự thay đổi của pháp luật. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem
xét, quyết định việc bãi bỏ án lệ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i). Án lệ không còn phù hợp do chuyển biến tình hình; (ii). bản án, quyết định
nội dung được lựa chọn phát triển thành án lệ đã bị hủy, sửa toàn bộ hoặc
phần liên quan đến án lệ.
Lẽ công bằng: Điều 14 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về vấn đề bảo vệ
quyền dân sự thông qua quan thẩm quyền. Theo đó, Tòa án, quan
thẩm quyền khác trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của
nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc tranh
chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án
hoặc Trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực
hiện trong trường hợp luật quy định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ
tục hành chính thể được xem xét lại tại Tòa án. Lần đầu tiên trong Bộ luật
Dân sự hiện hành đưa ra nguyên tắc quan trọng trong hoạt động xét xử của
Tòa án: “Tòa án không được từ chổi giải quyết vụ, việc dân sự do chưa
điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 Điều 6
của Bộ luật này được áp dụng”. Như vậy, trường họp một vụ việc phát sinh
nhưng chưa quy định của pháp luật đ giải quyết t Tòa án cần áp dụng
tập quán, tương tự pháp luật, án lệ hoặc lẽ công bằng.
Như vậy. theo nguyên tắc chung, các quy phạm pháp luật dân sự đều hiệu
lực bắt buộc thi hành. Nhưng căn cứ vào hình thức của văn bản, quan ban
hành hiệu lực pháp luật của văn bản, nguồn của luật dân sự thể được
chia thành các loại sau:
- Hiến pháp;
- Bộ luật dân sự (BLDS);
- Các luật, bộ luật liên quan;
- Các văn bản dưới luật.
- Án lệ.
2.1 Hiến pháp là nguồn của pháp luật dân sự
Hiến pháp đạo luật bản, đạo luật gốc của một quốc gia, “xương sống,
trụ cột” của hệ thống pháp luật, sở xây dựng các văn bản pháp luật
khác. Hiến pháp đạo luật bản của hệ thống pháp luật, căn cứ vào quy
định của Hiến pháp, các ngành luật cụ thể h bằng các quy định để tác động
tới các quan hệ nhiệm vụ điều chỉnh.
Đối với luật dân sự, Hiến pháp nguồn đặc biệt quan trọng, mặc dù Hiến
pháp chỉ quy định những vấn đề chung nhất của luật dân sự. Hiển pháp năm
1992 quy định những nguyên tắc bản của chế độ hội Việt Nam giai
đoạn đầu thời quá độ tiến lên chủ nghĩa hội với nền kinh tế thị trường
sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng hội chủ nghĩa. Trong Hiến
pháp năm 2013, Chương II Chương III những quy định liên quan nhiều
nhất đến luật dân sự:
Chương II - Quyền con người, quyền nghĩa vụ bản của công dân:
Ngoài những quyền về chính trị - hội, Hiến pháp còn xác nhận những
quyền dân sự bản của ng dân, đó quyền tự do kinh doanh; quyền sở
hữu những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở; quyền thừa kế,
quyền bình đẳng về năng lực pháp luật của nhân; các quyền nhân thân
quyền tài sản khác...
Chương III - Kinh tế, hội, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ môi
trường
Điều 51 quy định:
“7. Nền kinh tể Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
1. Các thành phần kinh tế đều bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác cạnh tranh theo pháp luật.
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh
nghiệp nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh;
phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất
nước. Tài sản hợp pháp của nhân, tồ chức đầu , sản xuất,
kinh doanh được pháp luật bảo hộ không bị quẻc hữu hoá”.
2.2 Bộ luật dân sự nguồn của pháp luật dân sự
BLDS nguồn chủ yếu, trực tiếp quan trọng nhất của luật dân sự. BLDS
năm 2015 gồm 6 phần, 27 chương 689 điều với nhiều chế định mới, tiến
bộ, thể hiện một cách đầy đủ nhất với tính chất luật chung định hướng
cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc
thù, xử lílí bất cập của luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc
trong thực tiễn cuộc sống.
Đây bộ luật lớn nhất của Nhà nước ta về mọi phương diện: phạm vi điều
chỉnh, thời gian chuẩn bị thông qua, số lượng điều luật... BLDS đã thể chế
hoá Cương lĩnh chiến lược phát triển kinh tế hội, các nghị quyết của Đảng
cụ thể hoá Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động của cả dân tộc, góp phần giải phóng sức sản
xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân sống làm
việc theo pháp luật, sự nghiệp phát triển đất nước, mục tiêu dân giàu
nước mạnh, hội công bằng, văn minh; xây dựng các chuẩn mực pháp
cho các tổ chức, nhân khi tham gia o các quan hệ dân sự nhằm tăng
cường quản hội bằng pháp luật theo định hướng hội ch nghĩa, thể
hiện truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc ta. BLDS góp
phần hạn chế tranh chấp tiêu cực trong các quan h dân sự, bảo đảm dân
chủ, công bằng, n định, đoàn kết ttong nội bộ nhân dân, mỗi người cộng
đồng cộng đồng mỗi người. Đồng thời, việc ban hành BLDS là thực hiện
một bước quan trọng pháp điển hoá pháp luật dân sự, khắc phục tình ttạng
tản mạn, không đầy đủ của pháp luật trong lĩnh vực dân sự, nhằm phát huy
vai trò tác dụng của pháp luật dân sự ttong việc đẩy mạnh các quan hệ dân
sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, tạo sở thuận
lợi cho việc áp dụng thi hành pháp luật. BLDS cũng sự kế thừa, phát triển
của pháp luật dân sự của ông cha ta những tinh hoa của pháp luật dân sự
trên thế giới vận dụng o điều kiện cụ thể của chúng ta hiện nay.
Nội dung chủ yếu của BLDS năm 2015:
Phần thứ nhất: Những quy định chung.
Phần này được kết cấu bởi 10 chương với 157 điều. Nội dung ch yếu của
phần này xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2015, địa vị pháp của
nhân, pháp nhân. Hộ gia đình, tổ hợp tác tổ chức khác không tư
cách pháp nhân trong quan h n sự. Đồng thời quy định những nguyên tắc
bản trong việc xác lập, thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự, giải quyết
các tranh chấp áp dụng luật dân sự; quy định các căn cứ xác lập quyền
nghĩa vụ dân sự, là nền tảng của các quy định cụ thể trong toàn B luật.
Ngoài ra, còn quy định các quyền nhân thân của nhân như h tên.., nơi
trú, tuyên b chết, quy định về tài sản, quy định về giao dịch dân sự, về đại
diện, thời hạn, thời hiệu.
Những quy định trong phần này mang tính chất chung, xuyên suốt toàn bộ nội
dung của BLDS được cụ thể hoá trong tất cả các phần của BLDS nhằm
bảo đảm tính thống nhất về nội dung, tránh tình ữạng trùng lặp không cần
thiết.
Phần thứ hai: Quyền sở hữu quyền khác đối với tài sản.
Phần này gồm 4 chương, 115 điều (t Điều 158 đến Điều 273), quy định
những nguyên tắc bản của quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản,
chiếm hữu, các hình thức sở hữu, nội dung quyền sở hữu quyền khác đối
với tài sản, các căn cứ c lập, chấm dứt quyền sở hữu bảo vệ quyền sở
hữu,
quyền khác đối với tài sản; đặc biệt Chương XIV với tiêu đề “Quyền khác đối
với tài sản quy định về quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng
dụng quyền bề mặt.
Xuất phát từ vai trò chi phối của sở kinh tế hạ tầng đối với pháp luật,
BLDS khẳng định vị trí trung tâm của chế định quyền sở hữu trong c chế
định luật dân sự. Trong mọi hội, phương thức chiếm hữu của cải vật chất
chế độ sở hữu ý nghĩa quyết định. BLDS cụ thể hoá quy định về chế đ
sở hữu Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, tạo sở pháp cho các
quy định cụ thể các phần tiếp theo của BLDS các văn bản pháp luật
khác về quan hệ tài sản. Những quy định phần này thể hiện tính định
hướng hội chủ nghĩa, bảo đảm được quyền sở hữu của nhân, pháp
nhân các chủ thể khác, khuyến khích phát triển tài sản, m rộng đầu
phát triển sản xuất, kinh doanh.
Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự hợp đồng dân sự.
Phần này gồm 5 chương, 334 điều (từ Điều 274 đến Điều 608). Đây phần
số điều luật lớn nhất của BLDS, quy định những n cứ làm phát sinh
nghĩa vụ dân sự; nguyên tắc c lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ
dân sự; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trách nhiệm
dân sự nói chung trách nhiệm dân sự đối với từng loại nghĩa vụ riêng biệt.
Với cách căn cứ ch yếu, thông dụng hợp pháp làm phát sinh nghĩa
vụ dân sự, hợp đồng dân sự được quy định tương xứng phù hợp với quy
của nó, bao gồm những quy định chung về hợp đồng một số hợp đồng
dân sự thông dụng ttong đời sống dân sự thường ngày.
Nghĩa vụ dân sự loại quan hệ dân sự mang tính chất “động”, liên quan đến
việc dịch chuyển tài sản, dịch vụ từ chủ thể này sang chủ thể khác. Đối tượng
của nghĩa vụ thể i sản, một việc phải làm hoặc không được m. Tài
sản công việc được m, không được làm những đối tượng của nghĩa
vụ dân sự rất đa dạng, phức tạp, cho nên các quy định trong phần này của
BLDS chủ yếu những quy định khung tính chất định tính không thiên
về định lượng. Bởi vậy, các nguyên tắc bản được quy định những định
hướng cho việc xác lập, thực hiện nghĩa vụ xuyên suốt phần này của
BLDS. Những nguyên tắc bản đó là:
+ Cá nhân, pháp nhân các chủ thể khác quyền tự do giao kết hợp đồng
nhưng không ttái pháp luật đạo đức hội, trên sở bình đẳng với nhau
bình đẳng trước pháp luật;
+ Người nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung
thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật đạo đức
hội;
+ Người nào hưởng lợi không căn cứ thì phải hoàn trả lại;
+ Người nào vi phạm quyền n sự của người khác thì phải chịu trách nhiệm
dân sự, nếu gây thiệt hại phải bồi thường.
Những nguyên tắc bản các quy định trong phần này nhằm bảo đảm
quyền lợi ích họp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự; bảo vệ
lợi ích của Nhà ớc lợi ích công cộng; góp phần đáp ứng các nhu cầu vật
chất, tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh giao lưu dân sự trong nước cũng như
với ngoài nước đồng thời giải phóng mọi lực lượng sản xuất nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế hội nước ta.
Phần thứ tư: Thừa kế.
Phần này gồm 4 chương, 53 điều (từ Điều 609 đến Điều 662) quy định việc
dịch chuyển di sản của người chết cho những người còn sống; về người để
lại di sản, người hưởng di sản; những nguyên tắc của việc dịch chuyển di sản
các trình tự dịch chuyên di sản; thừa kế theo di chúc thừa kế theo pháp
luật. BLDS quy định những nguyên tắc bản của thừa kế bình đẳng,
quyền tự định đoạt của người di sản để lại của người hưởng di sản.
Nhằm bảo vệ quyền tự định đoạt của người di sản, Bộ luật quy định về
việc thừa kế theo di chúc c hình thức của di chúc, quyền của người lập
di chúc trong việc định đoạt tài sản của họ thông qua di chúc. Người thừa kế
quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế, nếu nhận di sản họ phải thực
hiện nghĩa vụ của người chết để lại trong phạm vi di sản đã nhận. Phần này
cũng xác định những trường hợp thừa kế theo luật, những người thừa kế
các hàng thừa kế; thừa kế thế vị thừa kế của những người liên quan.
Ngoài ra, còn quy định về trình tự thanh toán di sản cách thức phân chia di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự yếu tố nước
ngoài.
Phàn này gồm 3 chương, 24 điều (từ Điều 663 đến Điều 687) quy định về
thẩm quyền pháp luật được áp dụng khi giải quyết các tranh chấp dân sự
(hiểu theo nghĩa rộng) yếu tố nước ngoài.
2.3 Các văn bản Luật nguồn của pháp luật dân sự
Khi BLDS được ban hành với cách là nguồn chủ yếu quan trọng thì các
đạo luật khác giá trị như nguồn bổ trợ.
Bởi vì, BLDS quy định: Nếu pháp luật quy định hoặc trong BLDS chỉ
dẫn một đạo luật nào đó được áp dụng thì áp dụng quy định đó. Với ý
nghĩa đó, các luật như Luật hôn nhân gia đình, Luật doanh nghiệp, Luật
phá sản doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật trẻ em, Luật về bảo vệ phát triển
rừng... nguồn của luật dân sự.
2.4 Nghị quyết của Quốc hội nguồn của pháp luật dân sự:
Đây là văn bản do Quốc hội ban hành, hiệu lực n văn bản pháp luật. Kể
từ khi ban hành BLDS, Quốc hội đã ban hành 2 nghị quyết ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với luật dân sự, đó là: Nghị quyết ngày 28/10/1995 về việc
thi hành BLDS. Nghị quyết đã liệt những văn bản pháp luật hết hiệu lực khi
BLDS bắt đầu hiệu lực quy định phạm vi áp dụng BLDS để giải quyết
các tranh chấp phát sinh trước ngày BLDS hiệu lực; Nghị quyết số 58
ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà được xác lập trước ngày
01/7/1991 ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên
quan đến giao dịch n sự về nhà giai đoạn trước ngày 01/7/1991, nội
dung tính đến mọi mặt hội đối với vấn đề nhà ở.
2.5 Các văn bản dưới luật nguồn của pháp luật dân sự
+ Pháp lệnh: văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trước đây,
khi chưa ban hành BLDS thì pháp lệnh loại nguồn quan trọng phổ biến của
luật dân sự. Nhưng đến nay, các pháp lệnh đó không còn hiệu lực. Các pháp
lệnh sau này thể được ban hành để giải thích, hướng dẫn cụ thể những
quy định của BLDS hoặc pháp lệnh sẽ quy định những lĩnh vực chưa đủ
chín muồi để ban hành luật.
+ Nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư,
chỉ thị của các bộ, c quan ngang bộ.
Các loại văn bản này ý nghĩa với từng loại quan hệ trong một lĩnh vực cụ
thể; nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích những quy định của BLDS. Những
quy định của các bộ, quan ngang bộ được áp dụng giải quyết cho các
quan hệ tương ứng.
+ Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Toà án nhân n tối cao, các báo cáo tổng
kết của Toà án nhân dân tối cao.
Xét về chức năng, toà án các cấp quan t xử (Điềul Luật tổ chức t
án), không phải quan ban hành các văn bản pháp luật. Nhưng ttong một
thời gian dài, hệ thống các văn bản pháp luật dân sự thiếu không đồng bộ,
trong khi việc giải quyết các tranh chấp dân sự cần thiết không thể trì
hoãn được, để giúp các toà án cấp dưới giải quyết tranh chấp, Toà án nhân
dân tối cao đã ban hành các thông hướng dẫn giải quyết các tranh chấp
trong những lĩnh vực nhất định như: Thông số 173 (1972) về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng; Thông số 81 (1981) giải quyết các ttanh chấp về
thừa kế... Khi chưa các văn bản pháp luật điều tiết, áp dụng các thông
này để giải quyết c tranh chấp xác đáng. Hệ thống pháp luật dân sự
ngày càng hoàn thiện nhưng việc áp dụng các văn bản pháp luật của các
quan xét xử khác nhau nhiều khi không thống nhất. Nhằm thống nhất việc áp
dụng pháp luật ttong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, Hội đồng thấm
phán Toà án nhân dân tối cao tổng kết thực tịễn xét xử, ban hành các nghị
quyết hướng dẫn giải quyết các vụ, việc nh sự, kinh tế.., trong đó nghị
quyết về các vấn đề dân sự. Ngoài ra, hàng năm Toà án nhân dân tối cao
tổng kết rút kinh nghiệm thống nhất việc áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử. Những loại văn bản này không nguồn của luật dân sự nhưng
kịp thời khắc phục những lỗ hổng trong luật dân sự, hướng dẫn giải quyết
những vụ việc cụ thể.
2.6 Án lệ nguồn của pháp luật dân sự
Khoản 2 Điều 6 BLDS m 2015 quy định: Trường hợp không thể áp dụng
tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên
tắc bản của pháp luật n sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ
công bằng”. Như vậy, án lệ đã được chính thức thừa nhận một nguồn bổ
trợ cho sự giải thích áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt
động xét xử của toà án. Bản chất chức năng của án l với cách
nguồn luật mà toà án sử dụng sự khác nhau trong mỗi hệ thống pháp luật.
Trong hệ thống thông luật (common law), án lệ được quan niệm một nguồn
luật giá trị bắt buộc án lệ thể được coi căn cứ pháp cho toà án ra
các quyết định trong xét xử. Trong hệ thống luật thành văn (civil law) thì án lệ
chủ yếu đóng vai t nguồn luật thứ yểu bổ trợ cho nguồn luật thành văn
toà án sử dụng trong xét xử. Ngày nay, hệ thống pháp luật của c nước
đang phát triển theo xu hướng tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau đều thừa
nhận án lệ với những chức năng hữu ích của nó. Án lệ thể khắc phục
được những hạn chế về tính chi tiết hoá sự dự liệu những tình huống đa

Preview text:

Nguồn của luật dân sự là gì? Phân loại nguồn của luật dân sự?
1. Khái niệm nguồn của luật dân sự
Nguồn của pháp luật đã được nghiên cứu trong lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, về mặt xã hội học, nguồn của pháp luật là ý chí của giai cấp thống
trị đưa lên thành luật mà nội dung được xác định bởi các điều kiện chính trị,
kinh tế tồn tại trong xã hội cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật
là ý chí của giai cấp thống trị đưa thành luật, thể hiện quan điểm giai cấp về
hình mẫu xã hội, trong đó các quan hệ xã hội nào được điều chỉnh bằng pháp
luật và với phương thức nào là do giai cấp thống trị quy định thông qua hoạt
động lập pháp của nhà nước.
Để xem xét các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự
thì cần nghiên cứu về nguồn luật dân sự. Nguồn của luật Dân sự được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau gôm:
Thứ nhất, theo nguồn gốc phát sinh quy phạm pháp luật thì nguồn của luật
Dân sự là những quan hệ xã hội cần thiết phải được pháp luật dân sự điều chỉnh;
Thứ hai, dưới góc độ xã hội học thì nguồn của luật Dân sự là ý chí của giai
cấp thống trị được đưa lên thành luật mà nội dung được quyết định bởi điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và phong tục, tập quán;
Thứ ba, theo hình thức biểu hiện ra bên ngoài thì nguồn của luật Dân sự là
những văn bản quy phạm pháp luật dân sự.
Mỗi ngành luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định cách thức xử sự
của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị. Trong điều kiện của chúng ta hiện nay - Đảng “là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”
(Điều 4 Hiến pháp năm 1992), là đại biểu trung thành
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của dân tộc thì pháp luật là sự
thể chế hoá đường lối của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Đường lối,
chủ trương của Đảng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế
hoá bằng quá trình lập pháp. Bởi vậy, “Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và
đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật”.
Nguồn của luật dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là những văn bản pháp luật (hình
thức của pháp luật) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân. Một văn bản được
coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
- Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;
- Chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự;
- Phải ban hành theo trình tự, thủ tục do luật định.
Nguồn của pháp luật bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức, trong
đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi
vì nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và
giải thích pháp luật”
“nguồn hình thức của pháp luật được hiếu là phương
thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng,
nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ
thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”.
Quan niệm về nguồn của luật dân sự có sự thay đổi theo thời gian, dựa trên
quy định của luật tương ứng với thời kỳ đó. Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu
tiên chính thức ghi nhận việc áp dụng án lệ, trong việc giải quyết các tranh
chấp dân sự phát sinh. Do đó, luật Dân sự bao gồm một hệ thống các văn
bản pháp luật (luật thành văn) cùng với tập quán, án lệ trong đó chứa đựng
các quy tắc xử sự chung theo một chuẩn mực pháp lý nhất định. Vì thế,
nguồn của luật dân sự là quy tắc ứng xử được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành, những tập
quán, khuôn mẫu được xác định từ án lệ mà theo đó, các chủ thể phải tuân
theo khi tham gia và thực hiện các quan hệ dân sự.
Trong số các loại nguồn của luật dân sự thì hệ thống các vãn bản pháp luật
được xác định là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất bởi hệ thống pháp luật
nước ta theo truyền thống pháp luật Civil law - luật thành văn. Văn bản quy
phạm pháp luật là nguồn của luật dân sự do do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định có chứa các quy phạm pháp
luật dân sự, nhằm điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Một
vãn bản quy phạm pháp luật được coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
Một là, phải là văn bản quy phạm pháp luật dân sự, tức là chứa đựng các quy
tắc xử sự chung để điều chỉnh quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc
đối tượng điều chỉnh của luật Dân sự;
Hai là, văn bản quy phạm pháp luật dân sự phải do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành; Ba là, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
dân sự phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định.
2. Phân loại nguồn của luật dân sự hiện nay
Nguồn của luật dân sự rất đa dạng, phong phú. Trong đó, nguồn chiếm ưu
thế và quan trọng nhất của luật Dân sự là luật thành văn. Ngoài ra, tập quán,
án lệ cũng được thừa nhận chính thức là nguồn của luật Dân sự.
Luật thành văn: Luật thành văn là các văn bản pháp luật của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền được ban hành theo một trình tự luật định. Luật thành
văn với các tên gọi khác nhau như bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, thông
tư, nghị quyết... nhưng chỉ được coi là nguồn của luật dân sự khi các vãn bản
của luật thành văn đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự. Theo
nguyên tắc chung, các quy phạm pháp luật dân sự đều có hiệu lực bắt buộc
thi hành. Nhưng căn cứ vào hình thức của văn bản, cơ quan ban hành và
hiệu lực pháp luật của vãn bản, luật thành văn là nguồn của luật dân sự được
chia thành các loại sau: Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, các luật, bộ luật liên quan,
các văn bản dưới luật.
Thứ nhất, Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của một
quốc gia, là “xương sống, trụ cột” của hệ thống pháp luật, là cơ sở xây dựng
các văn bản pháp luật khác. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của hệ thống pháp
luật, căn cứ vào hiến pháp, các ngành luật cụ thể hóa bằng các quy định để
tác động tới các quan hệ mà nói có nhiệm vụ điều chỉnh. Hiến pháp là nguồn
của mọi ngành luật nói chung và của luật dân sự nói riêng. Đối với luật Dân
sự, Hiến pháp là nguồn quan trọng bởi trên cơ sở những quy định chung
mang tính chất nguyên tắc của Hiến pháp mà Bộ luật Dân sự cụ thể hóa.
Những nội dung của Hiến pháp năm 2013 có liên quan trực tiếp đến luật Dân
sự là Chương II (Chế độ kinh tế) và Chương V (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
Chương II của Hiến pháp năm 2013 ghi nhận sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế, khẳng định sự tồn tại của các hình thức sở hữu khác nhau như
sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân...Trên cơ sở quy định của
Hiến pháp năm 2013 về chế độ sở hữu, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cụ thể
hóa các quy định này với các quy định cụ thể về xác lập quyền sở hữu, các
hình thức sở hữu. . Nội dung Chương V của Hiến pháp năm 2013 quy định
về các quyền và nghĩa vụ của công dân. Một loạt các quyền của công dân
được Hiến pháp ghi nhận như quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu những
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở; quyền thừa kế...Trên cơ sở này,
Bộ luật Dân sự đã cụ thể hóa các quy định về quyền nhân thân, năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân, thừa kế, sở hữu. .
Thứ hai, Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự là nguồn chủ yếu, trực tiếp và quan
trọng nhất của luật Dân sự. Tính đến hiện tại, nước ta đã thông qua và thi
hành ba Bộ luật Dân sự: Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005
và Bộ luật Dân sự năm 2015. Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015(Ngày
24/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa 13 đã thông qua Bộ luật Dân sự
năm 2015 (Luật số 91/2015/QH13). Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã được
Chủ tịch nước công bố theo Lệnh số 20/2015/L-CTN ngày 08/12/2015. Bộ
luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 và thay thế
Bộ luật Dân sự năm 2005) đang có hiệu lực thi hành. Bộ luật Dân sự năm
2015 gồm 6 phần, 27 chương và 689 Điều với nhiều chế định mới tiến bộ, thể
hiện một cách đầy đủ nhất với tính chất là luật chung và định hướng cho việc
xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc thù, xử lý
bất cập của luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn cuộc sống.
Mục tiêu, quan điểm xây dựng Bộ luật Dân sự được xác định như sau: Bộ
luật được xây dựng trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013; xây dựng Bộ
luật với ý nghĩa, vai trò là luật chung của pháp luật tư; ghi nhận, bảo vệ tốt
hơn quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường; kế thừa truyền thống pháp luật dân sự nước ta từ trước đến nay.
Bố cục và những nội dung chủ yếu của Bộ luật Dân sự năm 2015 bao gồm:
Phần thứ nhất “Quy định chung” (Điều 1 đến Điều 157): Quy định về phạm vi
điều chỉnh, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, mối quan hệ giữa Bộ
luật Dân sự với luật khác có liên quan và điều ước quốc tế, cơ chế pháp lý
giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp không có quy định của pháp luật,
xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự, địa vị pháp lý của chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự, tài sản, giao dịch dân sự, đại diện, thời hạn và thời
hiệu và được kết cấu thành 10 chương. Đây là phần đưa ra các quy định
chung được áp dụng xuyên suốt toàn bộ nội dung của Bộ luật Dân sự và
được cụ thể hóa trong tất cả các phần của Bộ luật Dân sự. Những nội dung
đã được quy định trong phần chung sẽ không cần phải quy định lặp lại trong
các chế định riêng. Kết cấu này đảm bảo sự khoa học của Bộ luật Dân sự,
tránh sự cồng kềnh và hạn chế trình trạng trùng lặp không cần thiết.
Phần thứ hai “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” (Điều 158 - Điều
273): Quy định về nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản, bảo vệ và giới hạn quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản,
chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng
dụng, quyền bề mặt và được kết cấu thành 4 chương. Quyền sở hữu và
quyền khác đối với tài sản là chế định quan trọng của Bộ luật dân sự nước ta
cũng như của các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới. Điều này xuất
phát từ tầm quan trọng của quyên sở hữu và quyền khác đối với mọi chủ thể
trong xã hội. Trong mọi quốc gia trên thế giới cũng như tại Việt Nam, tài sản
và chế độ sở hữu có ý nghĩa quan trọng, quyết định và có mối liên quan đến
nhiều các quan hệ xã hội khác nhau. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận:
“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tố chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc
vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
tổ chức, cả nhân theo giá thị trường”.

Dựa trên quy định chung của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cụ thể
hóa các quy định về bảo hộ quyền sở hữu, chế độ sở hữu, hình thức sở
hữu... để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế qua
đó tạo động lực để các chủ thể lao động, sản xuất nhằm làm tăng của cải cho
bản thân, gia đình và xã hội.
Phần thứ ba “Nghĩa vụ và hợp đồng” (Điều 274 - Điều 608): Quy định về căn
cứ phát sinh, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự, bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng, một số hợp đồng thông
dụng, hứa thuởng và thi có giải, thực hiện công việc không có ủy quyền,
nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không
có căn cứ pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và
được kết cấu thành 6 chương. Đây là phần có dung lượng điều luật lớn nhất
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 với 334 Điều. Các hợp đồng và nghĩa vụ giữa
các chủ thể phát sinh ngày càng nhiều và đa dạng chủng loại trên thực tế nên
phần này có vai trò quan trọng để định hướng cho việc thiết lập quan hệ hợp
đồng giữa các bên. Đồng thời, trong quá trình thực hiện nghĩa vụ và hợp
đồng mà phát sinh tranh chấp, phần thứ 3 “Nghĩa vụ và hợp đồng ” là cơ sở
pháp lý quan trọng được áp dụng để giải quyết tranh chấp này giữa các bên.
Các quy định trong phần này nhằm:
“bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia
quan hệ dân sự; bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích công
cộng; góp phần đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của
nhân dân; đẩy mạnh giao lưu dân sự trong nước cũng như với
nước ngoài đồng thời giải phóng mọi lực lượng sản xuất nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở nước ta”.

Phần thứ tư “Thừa kế” (Điều 609 - Điều 662): Quy định về quyền thừa kế,
thời điểm, địa điểm mở thừa kế, di sản, người thừa kế, người quản lý di sản,
từ chối nhận di sản, thời hiệu thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo
pháp luật, thanh toán, phân chia di sản và được kết cấu theo 4 chưomg với
53 Điều. Thừa kế là vấn đề quan trọng của Bộ luật Dân sự, được ghi nhận từ
rất sớm trong các Bộ luật của nước ta qua từng thời kỳ. Với cậc nguyên tắc
và quy định về thừa kế, quyền của người để lại di sản, người thừa kế được
pháp luật công nhận và bảo vệ. Quy định về thừa kế cũng chính là củng cố
vững chắc cho quyền sở hữu tài sản và quyền định đoạt tài sản của một chủ
thể trước khi chết. Đây cũng là động lực khuyến khích mọi chủ thể trong việc
lao động, sản xuất để tạo ra của cải cho bản thân, gia đình và xã hội.
Phần thứ năm “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài” (Điều 663 - Điều 687): Quy định về xác định pháp luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, pháp luật áp dụng đối với cá nhân,
pháp nhân, đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có yếu tố nước ngoài
và được kết cấu thành 3 chương với 24 Điều. Đây là phần quan trọng để áp
dụng và giải quyết các tranh chấp xảy ra đối với các quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự
thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có ít nhất một trong các bên tham
gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm
dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước
ngoài. Với sự giao thương kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, các quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoậi ngày càng nhiều và phát sinh phổ biến ở mọi mặt trong đời sống xã hội.
Phần thứ sáu “Điều khoản thi hành” (Điều 688 và Điều 689). Phần này gồm
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 với tiên gọi: ‘'Điều khoản chuyển
tiếp”
nhằm phân định về cách thức áp dụng giữa Bộ luật Dân sự năm 2015 và
Bộ luật Dân sự năm 2005. Còn Điều 689 quy định về hiệu lực thi hành của Bộ
luật Dân sự năm 2015, cụ thể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Bộ luật Dân sự
số 33/2005/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật này có hiệu lực.
Thứ ba, luật và các bộ luật khác có liên quan. Khi Bộ luật Dân sự được ban
hành với tư cách là nguồn chủ yếu quan trọng thì các đạo luật khác có giá trị
như là nguồn bổ trợ. Do đó, các bộ luật, các luật khác như: Bộ luật Lao động,
Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật
Thương mại, Luật Doanh nghíêp, Luật Trẻ em, Luật Phá sản doanh nghiệp,
Luật Sở hữu trí tuệ... là nguồn của luật dân sự. Ngay tại Điều 4 Bộ luật Dân
sự đã ghi nhận về việc áp dụng Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan như sau:
“1. Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự.
2. Luật khác cỏ liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các
lĩnh vực cụ thể không được trải với các nguyên tẳc cơ bản của
pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.
3.Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có
quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điểu này thì quy định của Bộ
luật này được áp dụng".

Theo đó, nếu các luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các
lĩnh vực cụ thể (hôn nhân, lao động, kinh doanh và thương mại...) thì luật này
sẽ được ưu tiên áp dụng trước nếu như không trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự. Trường hợp luật khác có liến quan không có quy định
hoặc quy định trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì Bộ luật Dân sự được áp dụng.
Thứ tư, Nghị quyết của Quốc hội. Đây là văn bản do Quốc hội ban hành, có
hiệu lực như văn bản pháp luật. Ke từ khi ban hành Bộ luật Dân sự, Quốc hội
đã ban hành một số Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với luật
dân sự, đó là: Một, Nghị quyết ngày 28/10/1995 về việc thi hành Bộ luật Dân
sự năm 1995. Nghị quyết liệt kê những văn bản pháp luật hết hiệu lực khi Bộ
luật Dân sự bắt đầu có hiệu lực và quy định phạm vi áp dụng Bộ luật Dân sự
để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực.
Theo Nghị quyết này, Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 có hiệu lực
từ ngày 1 tháng 7 năm 1996. Các pháp lệnh sau đây hết hiệu lực kể từ ngày
1 tháng 7 năm 1996: Pháp lệnh Hợp đồng dân sự ngày 29 tháng 4 năm 1991;
Pháp lệnh Nhà ở ngày 26 tháng 3 năm 1991; Pháp lệnh Thừa kế ngày 30
tháng 8 năm 1990; Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ngày 28
tháng 1 năm 1989; Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả ngày 2 tháng 12 năm
1994; Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam ngày 5
tháng 12 năm 1988; Hai, Nghị quyết số 58 ngày 20/8/1998 về Giao dịch dân
sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có ý nghĩa quan trọng trong
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự về nhà ở giai
đoạn trước ngày 01/7/1991, nội dung có tính đến mọi mặt xã hội đối với vấn
đề nhà ở. Nguyên tắc giải quyết các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu
tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (ngày Pháp lệnh Nhà ở
năm 1991 có hiệu lực) được giải quyết theo quy định của Nghị quyết này;
việc giải quyết phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện kinh tế -
xã hội của đất nước và phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: Khuyến khích,
tôn trọng sự thoả thuận của các bên tham gia giao dịch dân sự, phát huy
truyền thống đoàn kết, tương thân,, tương ái, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
trong nội bộ nhân dân; tránh lãng phí của cải, vật chất phát sinh do việc đòi lại
nhà gây ra; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng; trong quá trình giải quyết cần quan tâm thích đáng
đối với bên tham gia giao dịch dân sự là người có công với cách mạng, người
thuộc diện được hưởng chính sách xã hội, người nghèo đang phải thuê nhà
ở, mượn nhà ở; giữ vững ổn định xã hội, có khả năng thực thi và được nhân
dân đồng tình, về phạm vi áp dụng, Nghị quyết này được áp dụng đối với các
giao dịch dân sự vê nhà ở đang thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước
ngày 1 tháng 7 năm 1991 giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ
quan, tổ chức, bao gồm: a) Thuê nhà ở; b) Cho mượn, cho ở nhờ nhà ở; c)
Mua bán nhà ở; d) Đổi nhà ở; đ) Tặng cho nhà ở; e) Thừa kế nhà ở; g) Quản
lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân. Nghị quyết này không áp dụng
đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước
ngày 1 tháng 7 năm 1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá
nhân, tổ chức nước ngoài tham gia; Nghị quyết số 45/2005/NQ-QH11 ngày
14 tháng 6 năm 2005 về việc thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005. Nghị quyết
ghi nhận, Bộ luật Dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Bộ luật Dân sự này thay thế Bộ luật Dân
sự được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995; Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế ngày 29 tháng 9 năm 1989 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật Dân
sự có hiệu lực. Đồng thời, Nghị quyết quy định phạm vi áp dụng Bộ luật Dân
sự để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực.
Thứ năm, các vãn bản dưới luật. Các văn bản dưới luật như Pháp lệnh của
Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Nghị định của Chính phủ, Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao.. Cụ thể: Một là, Pháp lệnh của ủy
ban thường vụ Quốc hội. Đây là văn bản được ban hành để giải thích, hướng
dẫn cụ thể những quy định của Bộ luật Dân sự hoặc quy định những nội dung
mà luật chưa đủ điều kiện để quy định; Hai là, Nghị định của Chính phủ. Quy
định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của
UBTVQH, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước. Rất nhiều Nghị định có vai trò
là nguồn bổ trợ trực tiếp của luật Dân sự như Nghị định quy định sinh con
theo phưorng pháp khoa học, Nghị định về xác định lại giới tính, Nghị định về
giao dịch bảo đảm, Nghị định về kinh doanh dịch vụ đòi nợ, Nghị định về hụi,
họ, Nghị định về ban hành quy chế bán đấu giá tài sản.. ; Ba là, Nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban hành để hướng
dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.
Tập quán: Tập quán được hiểu là thói quen đã thành nếp sống trong đời sống
xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận
và làm theo. Tập quán chính là cách xử sự được cộng đồng địa phương, dân
tộc thừa nhận như là chuẩn mực ứng xử đối với các thành viên trong cộng
đồng dân tộc, địa phương đó. Theo khoản 1 Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015 định nghĩa:
“Tập quán là quy tắc xử sự có nội đung rõ ràng để xác định
quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự
cụ thê, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời
gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng,
miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự".

Các nhà lập pháp quan niệm tập quán là quy tắc xử sự được áp dụng một
cách rộng rãi trong một lĩnh vự dân sự cụ thể. Như vậy, một thói quen (phong
tục, tục lệ, tục, tập tục) chỉ được coi là tập quán và tập quán đó chỉ được áp
dụng để giải quyết tranh chấp dân sự khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng. Điều này được hiểu, tập quán
phải chứa đựng cách thức định hướng ứng xử cho các chủ thể trong xã hội.
Điều này được hiểu, với mỗi tập quán, các chủ thể trong cộng đồng, địa
phương sẽ biết mình phải thực thực như thế nào là đúng chuẩn mực.
Thứ hai, có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của chủ thể. Tập quán được xác
định là nguồn của luật Dân sự phải chứa đựng nội dung liên quan đến quyền,
nghĩa vụ của chủ thể. Nếu thói quen chỉ là cái ăn sâu vào đời sống xã hội mà
việc tuân theo hay không tuân theo nó không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa
vụ của người khác thì thói quen đó không bắt buộc phải tuân theo, không
phải là quy tắc xử sự bắt buộc nên chủ thể không thực hiện theo không phải
chịu trách nhiệm. Do đó, tập quán là nguồn của luật Dân sự được hiểu là
những xử sự cùa người này không tuân theo quy tắc xử sự đó sẽ ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích của người khác.
Thứ ba, thói quen này phải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài,
được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng
đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Điều này được hiểu, tập quán
là thói quen đã trở thành nếp sống. Ở góc độ xã hội, thói quen phải là nề nếp
trong đời sống xã hội, trong lao động sản xuất và trong sinh hoạt thường
ngày và do vậy, mọi người trong cộng đồng đều phải tuân theo nề nếp đó. Ở
góc độ quy phạm, thói quen đã trở thành quy tắc xử sự chung cho mọi người
và mọi người trong cộng đồng phải tuân theo quy tắc xử sự đó.
Tập quán cũng có thể là thói quen về một lĩnh vực dân sự cụ thể. Các lĩnh
vực dân sự rất đa dạng, phong phú. Trong số đó, có những lĩnh vực có tập
quán, có lĩnh vực không. Những lĩnh vực có tập quán thường là những lĩnh
vực có từ xa xưa; còn những lĩnh vực dân sự hiện đại mới được hình thành
trong những khoảng thời gian gần đây thì thường không có tập quán áp dụng.
Có rất nhiều thói quen đã trở thành tập quán nhưng thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau nhưng chỉ có thể áp dụng thói quen để giải quyết một vấn đề nào đó
nếu thói quen đó thuộc về một lĩnh vực cụ thể mà không thể áp dụng một thói
quen chung chung. Ví dụ như, việc áp dụng đơn vị đo lường giạ lúa; chục ở
miền Nam; chia thịt thú rừng ở các vùng dân tộc...
Án lệ: Đối với các nước theo hệ thống luật thành văn thì sự ra đời của hệ
thống án lệ nhằm giải quyết sự thiếu hụt của hệ thống pháp luật. Tòa án sẽ
viện dẫn những căn cứ được coi là hợp lý để đưa ra một phán quyết có tính
đột phá đối với vụ việc đang cần giải quyết mà luật chưa có quy định hoặc có
nhưng chưa rõ ràng, đang còn nhiều cách hiểu khác nhau và bản án này sẽ
được Tòa án tối cao công bố là án lệ để áp dụng cho các trường hợp tương
tự xảy ra trong tương lai.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng được xác định trong Nghị quyết số 49/NQ-
TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp: “Tờữ án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật, phát triến án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm”,
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 đã quy định về nhiệm vụ của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Lựa chọn quyết định giảm
đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phản Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, có tỉnh chuắn mực của các Tòa án, tổng kết
phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng
trong xét
xử,”- Điểm c khoản 2 Điều 22, Luật tổ chức TAND 2014. Dựa trên
tình thần này, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định án lệ là một trong những loại
nguồn được áp dụng để giải quyết các tranh chấp dân sự.
Án lệ hiểu theo nghĩa rộng nhất là nguyên tắc bắt buộc đòi hỏi thẩm phán khi
xét xử một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ vào các bản án, các vụ việc trước
đó, đặc biệt là các phán quyết của các Tòa cấp cao và Tòa án tối cao hoặc
căn cứ vào hệ thống những nguyên tắc bất thành văn đã được công nhận và
hình thành thông qua các quyết định của Tòa án. Theo nghĩa hẹp thì án lệ
bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tuyên bố bởi Tòa án và có giá
trị như một nguồn của luật được áp dụng để giải quyết các vụ việc tương tự xảy ra trong tương lai.
Để có cơ sở cho việc áp dụng án lệ, ngày 28/10/2015, Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về
quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, bắt đầu có hiệu lực từ ngày
16/12/2015. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về việc áp dụng án lệ.
Sau một thời gian, văn bản này đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Do đó,
ngày 18 tháng 6 năm 2019 Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao đã
ban hành Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và
áp dụng án lệ để thay thế cho Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP.
Theo Điều 1 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP:
“Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội
đồng Thẩm phản Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được
Chánh ản Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa
án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.

Án lệ được lựa chọn để trở thành nguồn của luật Dân sự cần phải thỏa mãn
các tiêu chí sau đây: (i) Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách
hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra
nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ
việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều
luật quy định cụ thể; (i ) có tính chuẩn mực; (i i) có giá trị hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử.
Để trở thành án lệ cần trải qua các bước sau đây:
Bước thứ nhất, đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ. Cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thể gửi đề xuất bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí luật
định cho Tòa án nhân dân tối cao để xem xét, phát triển thành án lệ. Các Tòa
án có trách nhiệm tổ chức rà soát, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án mình chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các
tiêu chí và gửi cho Tòa án nhân dân tối cao để xem xét, phát triến thành án lệ.
Bước thứ hai, lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn,
phát triển thành án lệ. Bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển
thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ phải được đăng tải trên
cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án, chuyên
gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, cá nhân, cơ quan, tổ chức quan
tâm tham gia ý kiến, trừ trường họp hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 2
Điều 6 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Ý kiến góp ý được gửi về Tòa
án nhân dân tối cao. Thời gian lấy ý kiến góp ý là 30 ngày kể từ ngày đăng tải.
Trên cơ sở kết quả lấy ý kiến rộng rãi đối với các bản án, quyết định được đề
xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định việc lấy ý kiến của Hội
đồng tư vấn án lệ. Việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ được thực hiện
theo hướng dẫn tại khoản 2 và khoản 3 Điều 5 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.
Bước thứ ba, Hội đồng tư vấn án lệ. Hội đồng tư vấn án lệ do Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao thành lập gồm có ít nhất 09 thành viên. Chủ tịch Hội đồng
là Chủ tịch Hội đồng khoa học Tòa án nhân dân tối cao, 01 Phó Chủ tịch Hội
đồng là Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học Tòa án nhân dân tối cao, các thành
viên khác là đại diện Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn
Luật sư Việt Nam, đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia về
pháp luật và 01 đại diện lãnh đạo Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án
nhân dân tối cao (đồng thời là Thư ký Hội đồng). Trường hợp tư vấn án lệ về
hình sự thì thành phần của Hội đồng tư vấn án lệ phải có đại diện Cơ quan
điều tra của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hoặc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Hội đồng tư vấn án lệ có trách nhiệm thảo luận cho ý kiến đối với các bản án,
quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là
án lệ, dự thảo án lệ. Việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ được thực hiện
thông qua phiên họp thảo luận trực tiếp hoặc bằng văn bản. Chủ tịch Hội
đồng tư vấn án lệ quyết định phương thức lấy ý kiến của các thành viên Hội
đồng và báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kết quả tư vấn.
Bước thứ tư, thông qua án lệ. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức
phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để thảo
luận, biểu quyết thông qua án lệ. Án lệ được xem xét thông qua khi thuộc một
trong các trường hợp sau: (i). Được phát triển từ bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án và đã được lấy ý kiến theo hướng dẫn tại Điều 4 và
Điều 5 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP; (i ). Được Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao đề xuất; (i i). Được ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao đề xuất; (iv). Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa
chọn khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải có ít nhất hai
phần ba tổng số thành viên tham gia. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng
Thẩm phán biểu quyết tán thành. Kết quả biểu quyết phải được ghi vào biên
bản phiên họp lựa chọn, thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán và là căn
cứ để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố án lệ.
Bước thứ năm, công bố án lệ. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành
quyết định công bố án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua. Nội dung công bố bao gồm: số, tên án lệ; số, tên bản án,
quyết định của Tòa án có nội dung được phát triển thành án lệ; Tình huống
pháp lý, giải pháp pháp lý của án lệ; Quy định của pháp luật có liên quan đến
án lệ; Từ khóa về những tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ;
Các tình tiết trong vụ án và phán quyết của Tòa án có liên quan đến án lệ; Nội
dung của án lệ. Án lệ được đăng tải ưên cổng thông tin điện tử của Tòa án
nhân dân tối cao, được gửi cho các Tòa án, các đơn vị thuộc Tòa án nhân
dân tối cao và được đưa vào Tuyển tập án lệ để xuất bản. Án lệ được nghiên
cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố. Khi xét xử, Thẩm
phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có
tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp
vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì
phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp Tòa án áp
dụng án lệ để giải quyết vụ việc thì số, tên án lệ, tình huống pháp lý, giải pháp
pháp lý ưong án lệ và tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết
phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”. Tùy từng
trường hợp cụ thể có thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội dung của án lệ
để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết vụ việc tương tự.
Án lệ đương nhiên bị bãi bỏ trong trường hợp án lệ không còn phù hợp do có
sự thay đổi của pháp luật. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem
xét, quyết định việc bãi bỏ án lệ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i). Án lệ không còn phù hợp do chuyển biến tình hình; (i ). bản án, quyết định
có nội dung được lựa chọn phát triển thành án lệ đã bị hủy, sửa toàn bộ hoặc
phần liên quan đến án lệ.
Lẽ công bằng: Điều 14 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về vấn đề bảo vệ
quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, Tòa án, cơ quan
có thẩm quyền khác có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh
chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án
hoặc Trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực
hiện trong trường hợp luật quy định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ
tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án. Lần đầu tiên trong Bộ luật
Dân sự hiện hành đưa ra nguyên tắc quan trọng trong hoạt động xét xử của
Tòa án: “Tòa án không được từ chổi giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa
có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6
của Bộ luật này được áp dụng”.
Như vậy, trường họp một vụ việc phát sinh
nhưng chưa có quy định của pháp luật để giải quyết thì Tòa án cần áp dụng
tập quán, tương tự pháp luật, án lệ hoặc lẽ công bằng.
Như vậy. theo nguyên tắc chung, các quy phạm pháp luật dân sự đều có hiệu
lực bắt buộc thi hành. Nhưng căn cứ vào hình thức của văn bản, cơ quan ban
hành và hiệu lực pháp luật của văn bản, nguồn của luật dân sự có thể được chia thành các loại sau: - Hiến pháp;
- Bộ luật dân sự (BLDS);
- Các luật, bộ luật liên quan;
- Các văn bản dưới luật. - Án lệ.
2.1 Hiến pháp là nguồn của pháp luật dân sự
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của một quốc gia, là “xương sống,
trụ cột” của hệ thống pháp luật, là cơ sở xây dựng các văn bản pháp luật
khác. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của hệ thống pháp luật, căn cứ vào quy
định của Hiến pháp, các ngành luật cụ thể hoá bằng các quy định để tác động
tới các quan hệ mà nó có nhiệm vụ điều chỉnh.
Đối với luật dân sự, Hiến pháp là nguồn đặc biệt quan trọng, mặc dù Hiến
pháp chỉ quy định những vấn đề chung nhất của luật dân sự. Hiển pháp năm
1992 quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội Việt Nam ở giai
đoạn đầu thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Hiến
pháp năm 2013, Chương II và Chương III có những quy định liên quan nhiều
nhất đến luật dân sự:
Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
Ngoài những quyền về chính trị - xã hội, Hiến pháp còn xác nhận những
quyền dân sự cơ bản của công dân, đó là quyền tự do kinh doanh; quyền sở
hữu những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở; quyền thừa kế,
quyền bình đẳng về năng lực pháp luật của cá nhân; các quyền nhân thân và quyền tài sản khác...
Chương III - Kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường Điều 51 quy định:
“7. Nền kinh tể Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
1. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh
nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh;
phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất
nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tồ chức đầu tư, sản xuất,
kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quẻc hữu hoá”.

2.2 Bộ luật dân sự là nguồn của pháp luật dân sự
BLDS là nguồn chủ yếu, trực tiếp và quan trọng nhất của luật dân sự. BLDS
năm 2015 gồm 6 phần, 27 chương và 689 điều với nhiều chế định mới, tiến
bộ, thể hiện một cách đầy đủ nhất với tính chất là luật chung và định hướng
cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc
thù, xử lílí bất cập của luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc
trong thực tiễn cuộc sống.
Đây là bộ luật lớn nhất của Nhà nước ta về mọi phương diện: phạm vi điều
chỉnh, thời gian chuẩn bị thông qua, số lượng điều luật... BLDS đã thể chế
hoá Cương lĩnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội, các nghị quyết của Đảng
và cụ thể hoá Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, góp phần giải phóng sức sản
xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư sống và làm
việc theo pháp luật, vì sự nghiệp phát triển đất nước, vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; xây dựng các chuẩn mực pháp lí
cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm tăng
cường quản lí xã hội bằng pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể
hiện truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc ta. BLDS góp
phần hạn chế tranh chấp tiêu cực trong các quan hệ dân sự, bảo đảm dân
chủ, công bằng, ổn định, đoàn kết ttong nội bộ nhân dân, mỗi người vì cộng
đồng và cộng đồng vì mỗi người. Đồng thời, việc ban hành BLDS là thực hiện
một bước quan trọng pháp điển hoá pháp luật dân sự, khắc phục tình ttạng
tản mạn, không đầy đủ của pháp luật trong lĩnh vực dân sự, nhằm phát huy
vai trò tác dụng của pháp luật dân sự ttong việc đẩy mạnh các quan hệ dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, tạo cơ sở thuận
lợi cho việc áp dụng thi hành pháp luật. BLDS cũng là sự kế thừa, phát triển
của pháp luật dân sự của ông cha ta và những tinh hoa của pháp luật dân sự
trên thế giới vận dụng vào điều kiện cụ thể của chúng ta hiện nay.
Nội dung chủ yếu của BLDS năm 2015:
Phần thứ nhất: Những quy định chung.
Phần này được kết cấu bởi 10 chương với 157 điều. Nội dung chủ yếu của
phần này là xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2015, địa vị pháp của
cá nhân, pháp nhân. Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân trong quan hệ dân sự. Đồng thời quy định những nguyên tắc
cơ bản trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, giải quyết
các tranh chấp và áp dụng luật dân sự; quy định các căn cứ xác lập quyền và
nghĩa vụ dân sự, là nền tảng của các quy định cụ thể trong toàn Bộ luật.
Ngoài ra, còn quy định các quyền nhân thân của cá nhân như họ tên.., nơi cư
trú, tuyên bố chết, quy định về tài sản, quy định về giao dịch dân sự, về đại
diện, thời hạn, thời hiệu.
Những quy định trong phần này mang tính chất chung, xuyên suốt toàn bộ nội
dung của BLDS và được cụ thể hoá trong tất cả các phần của BLDS nhằm
bảo đảm tính thống nhất về nội dung, tránh tình ữạng trùng lặp không cần thiết.
Phần thứ hai: Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản.
Phần này gồm 4 chương, 115 điều (từ Điều 158 đến Điều 273), quy định
những nguyên tắc cơ bản của quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản,
chiếm hữu, các hình thức sở hữu, nội dung quyền sở hữu và quyền khác đối
với tài sản, các căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản; đặc biệt Chương XIV với tiêu đề “Quyền khác đối
với tài sản” quy định về quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt.
Xuất phát từ vai trò chi phối của cơ sở kinh tế hạ tầng đối với pháp luật,
BLDS khẳng định vị trí trung tâm của chế định quyền sở hữu trong các chế
định luật dân sự. Trong mọi xã hội, phương thức chiếm hữu của cải vật chất
và chế độ sở hữu có ý nghĩa quyết định. BLDS cụ thể hoá quy định về chế độ
sở hữu mà Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, tạo cơ sở pháp lí cho các
quy định cụ thể ở các phần tiếp theo của BLDS và các văn bản pháp luật
khác về quan hệ tài sản. Những quy định ở phần này thể hiện tính định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm được quyền sở hữu của cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác, khuyến khích phát triển tài sản, mở rộng đầu tư và
phát triển sản xuất, kinh doanh.
Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.
Phần này gồm 5 chương, 334 điều (từ Điều 274 đến Điều 608). Đây là phần
có số điều luật lớn nhất của BLDS, quy định những căn cứ làm phát sinh
nghĩa vụ dân sự; nguyên tắc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ
dân sự; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm
dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự đối với từng loại nghĩa vụ riêng biệt.
Với tư cách là căn cứ chủ yếu, thông dụng và hợp pháp làm phát sinh nghĩa
vụ dân sự, hợp đồng dân sự được quy định tương xứng phù hợp với quy mô
của nó, bao gồm những quy định chung về hợp đồng và một số hợp đồng
dân sự thông dụng ttong đời sống dân sự thường ngày.
Nghĩa vụ dân sự là loại quan hệ dân sự mang tính chất “động”, liên quan đến
việc dịch chuyển tài sản, dịch vụ từ chủ thể này sang chủ thể khác. Đối tượng
của nghĩa vụ có thể là tài sản, một việc phải làm hoặc không được làm. Tài
sản và công việc được làm, không được làm là những đối tượng của nghĩa
vụ dân sự rất đa dạng, phức tạp, cho nên các quy định trong phần này của
BLDS chủ yếu là những quy định khung có tính chất định tính mà không thiên
về định lượng. Bởi vậy, các nguyên tắc cơ bản được quy định là những định
hướng cho việc xác lập, thực hiện nghĩa vụ và xuyên suốt phần này của
BLDS. Những nguyên tắc cơ bản đó là:
+ Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có quyền tự do giao kết hợp đồng
nhưng không ttái pháp luật và đạo đức xã hội, trên cơ sở bình đẳng với nhau
và bình đẳng trước pháp luật;
+ Người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung
thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật và đạo đức xã hội;
+ Người nào hưởng lợi mà không có căn cứ thì phải hoàn trả lại;
+ Người nào vi phạm quyền dân sự của người khác thì phải chịu trách nhiệm
dân sự, nếu gây thiệt hại phải bồi thường.
Những nguyên tắc cơ bản và các quy định trong phần này nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích họp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự; bảo vệ
lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng; góp phần đáp ứng các nhu cầu vật
chất, tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh giao lưu dân sự trong nước cũng như
với ngoài nước đồng thời giải phóng mọi lực lượng sản xuất nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Phần thứ tư: Thừa kế.
Phần này gồm 4 chương, 53 điều (từ Điều 609 đến Điều 662) quy định việc
dịch chuyển di sản của người chết cho những người còn sống; về người để
lại di sản, người hưởng di sản; những nguyên tắc của việc dịch chuyển di sản
và các trình tự dịch chuyên di sản; thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp
luật. BLDS quy định những nguyên tắc cơ bản của thừa kế là bình đẳng,
quyền tự định đoạt của người có di sản để lại và của người hưởng di sản.
Nhằm bảo vệ quyền tự định đoạt của người có di sản, Bộ luật quy định về
việc thừa kế theo di chúc và các hình thức của di chúc, quyền của người lập
di chúc trong việc định đoạt tài sản của họ thông qua di chúc. Người thừa kế
có quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế, nếu nhận di sản họ phải thực
hiện nghĩa vụ của người chết để lại trong phạm vi di sản đã nhận. Phần này
cũng xác định những trường hợp thừa kế theo luật, những người thừa kế và
các hàng thừa kế; thừa kế thế vị và thừa kế của những người liên quan.
Ngoài ra, còn quy định về trình tự thanh toán di sản và cách thức phân chia di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Phàn này gồm 3 chương, 24 điều (từ Điều 663 đến Điều 687) quy định về
thẩm quyền và pháp luật được áp dụng khi giải quyết các tranh chấp dân sự
(hiểu theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài.
2.3 Các văn bản Luật là nguồn của pháp luật dân sự
Khi BLDS được ban hành với tư cách là nguồn chủ yếu quan trọng thì các
đạo luật khác có giá trị như là nguồn bổ trợ.
Bởi vì, BLDS có quy định: Nếu pháp luật có quy định hoặc trong BLDS chỉ
dẫn rõ một đạo luật nào đó được áp dụng thì áp dụng quy định đó. Với ý
nghĩa đó, các luật như Luật hôn nhân và gia đình, Luật doanh nghiệp, Luật
phá sản doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật trẻ em, Luật về bảo vệ và phát triển
rừng... là nguồn của luật dân sự.
2.4 Nghị quyết của Quốc hội là nguồn của pháp luật dân sự:
Đây là văn bản do Quốc hội ban hành, có hiệu lực như văn bản pháp luật. Kể
từ khi ban hành BLDS, Quốc hội đã ban hành 2 nghị quyết có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với luật dân sự, đó là: Nghị quyết ngày 28/10/1995 về việc
thi hành BLDS. Nghị quyết đã liệt kê những văn bản pháp luật hết hiệu lực khi
BLDS bắt đầu có hiệu lực và quy định phạm vi áp dụng BLDS để giải quyết
các tranh chấp phát sinh trước ngày BLDS có hiệu lực; Nghị quyết số 58
ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày
01/7/1991 có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên
quan đến giao dịch dân sự về nhà ở giai đoạn trước ngày 01/7/1991, nội
dung có tính đến mọi mặt xã hội đối với vấn đề nhà ở.
2.5 Các văn bản dưới luật là nguồn của pháp luật dân sự
+ Pháp lệnh: Là văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trước đây,
khi chưa ban hành BLDS thì pháp lệnh là loại nguồn quan trọng phổ biến của
luật dân sự. Nhưng đến nay, các pháp lệnh đó không còn hiệu lực. Các pháp
lệnh sau này có thể được ban hành để giải thích, hướng dẫn cụ thể những
quy định của BLDS hoặc pháp lệnh sẽ quy định những lĩnh vực mà chưa đủ
chín muồi để ban hành luật.
+ Nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư,
chỉ thị của các bộ, các cơ quan ngang bộ.
Các loại văn bản này có ý nghĩa với từng loại quan hệ trong một lĩnh vực cụ
thể; có nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích những quy định của BLDS. Những
quy định của các bộ, cơ quan ngang bộ được áp dụng giải quyết cho các quan hệ tương ứng.
+ Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, các báo cáo tổng
kết của Toà án nhân dân tối cao.
Xét về chức năng, toà án các cấp là cơ quan xét xử (Điềul Luật tổ chức toà
án), không phải là cơ quan ban hành các văn bản pháp luật. Nhưng ttong một
thời gian dài, hệ thống các văn bản pháp luật dân sự thiếu và không đồng bộ,
trong khi việc giải quyết các tranh chấp dân sự là cần thiết và không thể trì
hoãn được, để giúp các toà án cấp dưới giải quyết tranh chấp, Toà án nhân
dân tối cao đã ban hành các thông tư hướng dẫn giải quyết các tranh chấp
trong những lĩnh vực nhất định như: Thông tư số 173 (1972) về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng; Thông tư số 81 (1981) giải quyết các ttanh chấp về
thừa kế... Khi chưa có các văn bản pháp luật điều tiết, áp dụng các thông tư
này để giải quyết các tranh chấp là xác đáng. Hệ thống pháp luật dân sự
ngày càng hoàn thiện nhưng việc áp dụng các văn bản pháp luật của các cơ
quan xét xử khác nhau nhiều khi không thống nhất. Nhằm thống nhất việc áp
dụng pháp luật ttong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, Hội đồng thấm
phán Toà án nhân dân tối cao tổng kết thực tịễn xét xử, ban hành các nghị
quyết hướng dẫn giải quyết các vụ, việc hình sự, kinh tế.., trong đó có nghị
quyết về các vấn đề dân sự. Ngoài ra, hàng năm Toà án nhân dân tối cao
tổng kết rút kinh nghiệm và thống nhất việc áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử. Những loại văn bản này không là nguồn của luật dân sự nhưng
nó kịp thời khắc phục những lỗ hổng trong luật dân sự, hướng dẫn giải quyết
những vụ việc cụ thể.
2.6 Án lệ là nguồn của pháp luật dân sự
Khoản 2 Điều 6 BLDS năm 2015 quy định: ‘Trường hợp không thể áp dụng
tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ
công bằng”.
Như vậy, án lệ đã được chính thức thừa nhận là một nguồn bổ
trợ cho sự giải thích và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt
động xét xử của toà án. Bản chất và chức năng của án lệ với tư cách là
nguồn luật mà toà án sử dụng có sự khác nhau trong mỗi hệ thống pháp luật.
Trong hệ thống thông luật (common law), án lệ được quan niệm là một nguồn
luật có giá trị bắt buộc và án lệ có thể được coi là căn cứ pháp lí cho toà án ra
các quyết định trong xét xử. Trong hệ thống luật thành văn (civil law) thì án lệ
chủ yếu đóng vai trò là nguồn luật thứ yểu bổ trợ cho nguồn luật thành văn
mà toà án sử dụng trong xét xử. Ngày nay, hệ thống pháp luật của các nước
đang phát triển theo xu hướng tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau và đều thừa
nhận án lệ với những chức năng hữu ích của nó. Án lệ có thể khắc phục
được những hạn chế về tính chi tiết hoá và sự dự liệu những tình huống đa