Nguyên tắc khách quan - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý vềtính thống nhất vật chất của thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Cơ s lý lun:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về
tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau:
khi nhận thức khách thể (đối tượng), sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực -chủ thể tư
duy phải nắm bắt, tái hiện trong chính không được thêm hay bớt một cách tùy
tiện.
Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý
thức, ta trong hành động phải xuất phát từ chính bản thân sự vật với nhữngnhận thức
thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của nó, những quy luật khách quan, phảithái độ
tôn trọng sự thật, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách mạng. Tuy nhiên, việc
thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính
năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo
của ý thức, của nhân tố chủ quan.
Vật chất cái trước tư Vật chất tồn tại vĩnh viễn một giai đoạn phát triển nhất
định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên tron g
quá trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ duy, từ ý kiến chủ quan của
chúng ta về đối tượng mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó,
không được ”bắt” đối tượng tuân theo duy phải “bắt” duy tuân theo đối tượng.
Không ép đối tượng thỏa mãn một đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, phải rút
ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát
triển của chính đối tượng đó.
Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém
trong sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện
thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật, “nghệ thuật” chinh
phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái đó xa lạ với
chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào
để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về vật khách quan, phù
hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu
cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng.
Giới tự nhiên hội không bao giờ tự phơi bày toàn bộ bản chất của mình ra
thành các hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái
gì bộc lộ ra trước chủ thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ
thể tư duy không thể không bổ sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả
thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học ….thiếu những điều này duy sẽ không
mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính sáng tạo thông qua trí tưởng
tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng độn g sáng tạo của chủ thể
đòi hỏi chủ thể duy phải biến đổi, thậm ccải tạo đối tượng để m ra bản
chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó chủ quan nhưng không phải tùy tiện,
mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc
lĩnh vực nghiên cứu.
Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các
hiện tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và
cái tinh thần chứa đầy những cái chủ quan, những cái tưởng luôn chịu sự
tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí, lợi
ích, mục đích, nhân cách, tính khác nhau ) của con người. đây đối tượng,
khách thể duy quyện chặt vào chủ thể duy bằng hệ thống những mối liên
hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong xem xét
các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy tính năng
động, sáng tạo của chủ thể nguyên tắc tính đảng. Điều này nghĩa
nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ
chính đối tượng, từ những quy luật vận động phát triển của nó, không được
thêm bớt tùy tiện chủ quan, còn phải biết phân biệt những quan hệ vật
chất với những quan hệ tưởng, các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ
quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tạihội là nhân tố quyết
định, còn những hiện tượng tinh thần, tưởng được quy định bởi đời sống vật
chất của con người các quan hệ kinh tế của họ nhưng chúng ảnh hưởng
ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát
triển không ngừng chứ không phải cái đó kết thành một cách máy móc.
Phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái
kinh tế hội nhất định cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành
phát triển của hình thái xã hội đó.
Khi nhận thức các hiện tượng hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan
tâm năng lực nhận thức của các lực lượng hội đối với việc giải quyết các
vấn đề hội, đối với khuynh hướng phát triển của các hiện tượng hội, đối
với việc đánh giá tình hìnhhội ….những đánh giá có giá trị hơn, những cách
giải quyết đúng hơn thường những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về
các lực lượng hội biết đứng trên lập trường của tiên tiến, của nhữnggiai cấp
lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các
hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên
tắc này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét,
dễ biến thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các
hiện tượng xã hội phức tạp.
Đng Cng Sn Vit Nam đã vn dng vào s nghip cách mng ca Vit Nam:
Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng đã “
”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của
CNXH trong điều kiện nước ta mới chặng đường đầu tiên”: “chưa nắm vững vận
dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất trình độ SX”; việc
đầu tưsở sai và tràn lan, không cósở khoa học, không phù hợp với điều kiện thực
tế về tài nguyên, lao động của từng vùng nên việc khai thác nguồn vốn đầu tư không hiệu
quả, nhiều công trình đầu dở dang thậm chí không đủ nguyên liệu để đưa vào hoạt
động (cụ thể như đầu nhà máy đường đều khắp các tỉnh nhưng tỉnh không đủ
nguyên vật liệu để cung cấp cho nhà máy hoạt động); dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ
huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, “duy trì quá lâu chế quản kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp” một chế “gắn liền với duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản
đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí”, “có nhiều chủ trương
sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ cùng với “việc bố trí cấu kinh tế
trước hết SX đầu thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính
đến điều kiện khả năng thực tế nên dẫn đến việc SX chậm phát triển, mâu thuẫn giữa
cung cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi
phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế SX (quy luật cung cầu quyhàng hóa
luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …).
Tóm lại, việc bỏ qua không thừa nhận vận dụng những quy luật khách quan của
phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa… o việc chế định các chủ trương
chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ khủng hoảng trầm trọng à nguyên
nhân: Đó sự yếu kém lạc hậu về duy luận, trí thức luận không đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn. Đó là việc hiểuvận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm
trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa
bản, của nhân loại, thậm chí còn định kiến phủ nhận một cách cực đoan những
thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực tiễn
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận và
lý luật suông.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đại hội Đảng lần VI (1986) đã chỉ rõ bài học kinh
nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta“Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” (Văn kiện
Đại hội Đảng lần VI trang 30). Đây là sự vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan, thừa
nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc
đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước
ta từ sau ĐH Đảng lần VI
Đại hội Đảng lần VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩamột
công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm
trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: “Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh
cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội, với những hình thức bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất, luôn tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất”. Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận,
hoàn toàn mới mẻ: “Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không
chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, cả khi quan hệ sản xuất phát triển
không đồng bộ, những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất”. Trên sở đó, Đại hội xác định: “Nền kinh tế nhiều thành phần một đặc trưng
của thời kỳ quá độ”.
Trong cơ cấu sản xuấtcơ cấu đầu tư, ĐảngNhà nước đã điều chỉnh lại theo hướng
“không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện khả năng thực tế”, tập
trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương
thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng sản xuất hàng xuất khẩu. Đây những
chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều
kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa.
Về chế quản kinh tế, lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị trường được đưa vào
Nghị quyết một cách rõ ràng “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng hội chủ nghĩa, vận hành theo chế thị trường sự quản của Nhà nước”
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: ). Cơ chế quản
lý kinh tế được Đại hội VI xác định : “Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản
lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền
tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý kinh tế”. Vì vậy, chúng ta phấn đấu thi hành
chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng
chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch
toán kinh tế.
Vấn đề phân phối đã được chú trọng hơn trong quan hệ SX bằng việc thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế chủ yếu,
đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và
phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ công bằng hội ngay trong từng bước
trong suốt quá trình phát triển. Công bằng hội phải thể hiện cả khâu phân phối
hợp liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất. Văn kiện Đại hội chỉ rõ:
“Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận
trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải
luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp,
chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo”.
Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đầu từ việc Đảng phải
đổi mới duy luận, nâng cao năng lực, trình độ luận của Đảng để nhận thức đúng
và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật khách quan. Đồng thời với việc đổi
mới tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT,
đội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không
ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnhluận về hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới
kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị … là những biện pháp
nhằm từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ quan duy ý chí.
Phép biện chứng duy vật một môn khoa học về những quy luật phổ biến sự vận động,
phát triển của tự nhiên. xã hộitư duy. Trong phép biện chứng duy vật, theo quan niệm
của Mác- Ăng ghen: những quy luật tự nhiên về hội những quy luật khách quan;
những quy luật về ý thức, tưởng, duy quy luật chủ quan. Quy luật khách quan
quan hệ biện chứng với quy luật chủ quan, trong đó quy luật khách quan quyết định chi
phối quy luật chủ quan, quy luật chủ quan vai trò to lớn tác động tích cực trở lại với
quy luật khách quan.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên bản, những phạm trù những quy
luật cơ bản. Tư tưởng xuyên suốt của toàn bộ phép biện chứng duy vật mối liên hệ phổ
biến phát triển của sự vật hiện tượng, làm hai nguyên này những quy luật về
sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật một khoa học về những quy luật phổ biến sự vận động, phát
triển của tự nhiên.hội và tư duy. Trong phép biện chứng duy vật, theo quan niệm của
Mác- Ăng ghen: những quy luật tự nhiên về xã hội là những quy luật khách quan; những
quy luật về ý thức, tưởng, duy quy luật chủ quan. Quy luật khách quan quan hệ
biện chứng với quy luật chủ quan, trong đó quy luật khách quan quyết định chi phối quy
luật chủ quan, quy luật chủ quan vai trò to lớn tác động tích cực trở lại với quy luật
khách quan.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên bản, những phạm trù những quy
luật cơ bản. Tư tưởng xuyên suốt của toàn bộ phép biện chứng duy vật mối liên hệ phổ
biến phát triển của sự vật hiện tượng, làm hai nguyên này những quy luật về
sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật.
Đảng ta nhận thức giải quyết đúng đắn, hiệu quả những nhiệm vụ đặt ra trong quá
trình phát triển của đất nước. Do đó mọi vấn đề lý luận trong văn kiện đại hội IX đều liên
quan đến những nguyên lý, những quy luật của phép biện chứng duy vật. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng cho rằng, mâu thuẫn: nguồn gốc đấu tranh của các mặt đối lập;
động lực của sự vận động phát triển đi lên CNXH. Trước thời kỳ đổi mới, mâu thuẫn
cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta được Đảng xác định là mâu thuẫn giữa
hai con đường: XHCN và TBCN. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH đến đại hội Đảng
IX là sự tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về mâu thuẫn cơ bản, đồng thời nhận thức
giải quyết những mặt khác nhau của mâu thuẫn đó trong những chặng đường trước
mắt của thời kỳ quá độ. Qua việc đánh giá những thành tựu những hạn chế, nguyên
nhân những bài học kinh nghiệm , đặc biệt việc chỉ ra những nguy cơ, thách thức
lớn, cho thấy Đảng ta đã nhận thức sâu sắc những mâu thuẫn trong xã hội, đề ra nhiệm vụ
giải quyết, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới. Việc giải quyết mâu thuẫn
hội bao giờ cũng sự thống nhất giữa chủ quan khách quan, song phương diện
khách quan của mâu thuẫn quy định nội dung, phương thức giải quyết chúng. Do đó phải
căn cứ vào bản chất mâu thuẫn, điều kiện khách quan chủ quan, trong ngoài nước,
ngoài ra còn liên quan đến thời điểm giải quyết mâu thuẫn để tìm ra phương thức giải
quyết thích hợp.
Đại hội Đảng IX không những đã vạch ra những nhiệm vụ cụ thể giải quyết những mâu
thuẫn, còn thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức
phương thức giải quyết mâu thuẫn, chú trọng đến các phương pháp cải tạo hoà bình. Một
trong các phương pháp giải quyết mâu thuẫn có ý nghĩa hết sức quan trọngLê Nin đã
chỉ ra trong "Chính sách kinh tế mới" " Kết hợp các mặt đối lập một cách nguyên
tắc", để giải quyết mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ. Đó việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN nước ta, về bản chất "sự kết hợp giữa chế thị trường
với sự quản kế hoạch kinh tế, hội của nhà nước XHCN, kết hợp nhiều thành
phần kinh tế trong một cấu hỗn hợp nhưng thống nhất, vừa đấu tranh, vừa hợp tác,
phát huy mọi tiềm năng, mọi nguồn lực trong ngoài nước để phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân và từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới", đó là việc
sử dụng các hình thức kinh tế quá độ: Kinh tế bản nhà nước, kinh tế vốn đầu
nước ngoài, kinh tế tập thể, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chuyển sang các loại
hình kinh tế hỗn hợp. Bản chất của các loại mâu thuẫn hội quan hệ về lợi ích giữa
các giai cấp, các tầng lớp cộng đồng người khác nhau. vậy quan điểm xuyên suốt
trong tưởng Hồ Chí Minh đường lối của Đảng trong mọi thời kỳ của cách mạng
quan tâm đến lợi ích chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, có cơ chế, chính
sách giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích giữa cá nhân với tập thể và xã hội, giữa các giai
cấp, các tầng lớp, giữa các vùng, miền trong cả nước. Giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích
của các lực lượng hội sở để đoàn kết toàn dân, nòng cốt khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức, phát huy mọi nguồn
lực, sức mạnh của toàn xã hội. Đó chínhđộng lực to lớn nhất, quyết định nhất đối với
cách mạng nước ta. Vì thế đại hội Đảng IX đã xác định động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là: "Đại đoàn kết toàn dân, trên sở liên minh giữa công nhân, nông dân trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích nhân, tập thể hội phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội".
Đại hội IX của Đảng khẳng định "Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng
và phát huy mọi nguồn lực". Như vậy động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế nước ta
hiện nay được xác định sự giải phóng phát huy mọi nguồn lực. Trước hết "Đổi
mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, hội bộ máy nhà nước hướng vào hình thành
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ tính thần của toàn
dân, tạo động lực nguồn lực phát triển nhanh, bền vững". Nhà nước đại diện cho ý
chí quyền lực của dân, nhà nước của dân, do dân dân, phát huy sức mạnh của
toàn dân tộc, đó động lực trực tiếp ý nghĩa quyết định đối với công cuộc đổi mới.
Cùng với động lực kinh tế chính trị; văn hoá, khoa học, giáo dục cũng động lực
quan trọng. Ngoài các nguồn lực bên trong có vai trò quyết định trực tiếp và là các nguồn
lực chủ yếu cho sphát triển của đất nước, cần động lực bên ngoài: sức mạnh của
thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế là các nguồn lực rấtn bản. Tất cả động lực trên tạo
thành một tổng hợp lực to lớn để đưa đất nước tiến lên khi thực hiện được điểm mấu chốt
"Hình thành hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm giải
phóng phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ tinh thần
của toàn dân, tiếp tục cải thiện môi trường đầu để thu hút tốt hơn sử dụng hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài. Nội lực quyết định, ngoại lực là quan trong, gắn kết với
nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước".
Văn kiện đại hội IX của Đảng nhận mạnh "Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ CNTB là tạo
ra sự biến đổi về chất của hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức
tạp, cho nên phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, hội tính qúa độ". Vậy sở triết học của luận điểm trên mối
quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và biến đổi về chất trong qúa trình đổi mới
nước ta. Việc thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài, với nhiều chặng đượng cụ thể, như một quá trình tích luỹ về lượng, tạo ra
những biến đổi về chất, tạo tiền đề cho bước nhảy vọt về chất. Đại hội Đảng IX tiếp tục
đề ra chiến lược phát triển kinh tế hội 2001 đến 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo tiền để
nước ta cơ bản trở thành là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Đại hội Đảng IX
của Đảng coi việc phát triển nhanh, hiệu quả bền vững quan điểm tính nguyên
tắc. Phát triển nhanh nhưng phải điều kiện, chú trọng chất lượng, hiệu quả. Nhanh
nhưng không ạt, khai thác tài nguyên các nguồn lực một cách hợp lý, khai thác sử
dụng đi đôi với bồi dưỡng tạo thế phát triển lâu dài cho nền kinh tế. Phép biện chứng duy
vật Mác Xít chỉ ra rằng, bất kỳ bước nhảy vọt nào từ vật sang vật mới đều thông qua
"Khâu trung gian", Khâu trung gian là trạng thái tồn tại của sự vật trong quá trình chuyển
hoá về chất, trong đó chất chất mới đan xen, thâm nhập vào nhau, đấu tranh với
nhau, thông qua đó cái bị lọc bỏ, chuyển hoá thành cái mới. Đại hội IX của Đảng đã
khẳng định vấn đề có tính quy luật trong quá trình cách mạng ở nước ta là phải thừa nhận
nền kinh tế, hội nước ta mang tính chất "Trung gian" quá độ, cho nên cần thiết phải
nhận thức về nội dung đúng đắn các hình thức đó để phát triển hội. Văn kiện đại hội
Đảng IX khẳng định "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ CNTB, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị cuả quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triền nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Luận điểm trên thể hiện sự nhận thức sâu sắc
nhất, đầy đủ nhất về sự bỏ qua chế độ CNTB. Thực chất công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng XHCN quá trình thực hiện sự phủ định hội cũ. Một nước chưa phát
triển như nước ta đi lên CNXH, một mặt phải phủ định hội xuất phát, mặt khác phải
bỏ qua con đường phát triển TBCN.
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật ra đời kết quả sự kế thừa chọn lọc toàn bộ tưởng triết
học nhân loại, là đỉnh cao của trí tuệ loài người do Mác- Ăngghen, Lênin kế thừa và phát
tiển. Cấu trúc của phép biện chứng duy vật bao gồm các nguyên lý, các quy luật bản,
các cặp phạm trù. Trong nội dung của nó, tưởng phát triển tư tưởng chủ đạo xuyên
suốt. Bản chất của hàm chứa tính cách mạng, khoa học rất sâu sắc. Đây sở
luận cho các Đảng cộng sản nói chung Đảng ta nói riêng trong quá trình hoạch định
đường lối chiến lược sách lược từng giai đoạn cách mạng. Đối với mỗi công dân,
phép biện chứng duy vật trở thành công cụ quan trọng bậc nhất trong nhận thức hoạt
động để cải tạo hoàn cảnh và cải tạo bản thân
Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và
vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trò
quyết định đối với ý thức.
a.Vai trò của VC đối với ý thức:
- VC là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con người nên khi có
con ngưới mới có ý thức,mà con người là sản phẩm của thế giới VC.
- VC là nguồn gốc của ý thức, vì các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH của ý thức là bản
thân thế giới VC, hoặc là những dạng tồn tại của VC.
- Nội dung của ý thức được quyết định bởi VC, vì ý thức là cái phản ánh thế giới VC, là hình ảnh
về thế giới VC.
- VC quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì những yếu tố VC
( qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường sống) quyết định sự vận động, phát
triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.
- Ví dụ: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường dựa trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của
bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn.
b. Vai trò của ý thức đối với VC:
- Ý thức có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người: ý thức trang
bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục tiêu, đề ra phương hướng,
nhằm thực hiện mục tiêu của mình.
- Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:
Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật khách quan, cải
tạo được thế giới.
Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, hành động đi
ngược lại qui luật khách quan.
- Ý thức có thể quyết định hành động của con người.
Ví dụ: Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây
chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân
tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê
- Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong mọi hoạt động nhận thưc và thực tiễn, phải: Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
- Phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức chúng thành lực
lượng VC để hành động.
- Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người:
Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ và truyền bá tri thức khoa
học vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động; tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân
sinh quan CM, tình cảm, nghị lực CM để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính
nhân văn trong định hướng hành động.
- Để thực hiện nguyên tắc trên, phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chống
chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận, bảo thủ, trì trệ, thụ
động trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
d. Vận dụng đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắc bệnh chủ quan
duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải
tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế . Nguyên
nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý luận, do tâm lý của
người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan
điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự
vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự
nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan. Bài học mà Đảng ta đã nêu ra ,
trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách
quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã
hội có tính chất quá độ .
Trong bỗi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất,
đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng ta chủ trương “phát triển
kinh tế là trung tâm”, “làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
“Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, không ngừng bồi
dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, phát huy đầy
đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận thức, cải tạo và phát triển xã
hội.
Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi
Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng,
tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá
đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước ta trãi qua.
| 1/10

Preview text:

Cơ sở lý luận:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về
tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau:
khi nhận thức khách thể (đối tượng), sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực -chủ thể tư
duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy tiện.
Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý
thức, ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ chính bản thân sự vật với những
thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của nó, những quy luật khách quan, phải có thái độ
tôn trọng sự thật, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách mạng. Tuy nhiên, việc
thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính
năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo
của ý thức, của nhân tố chủ quan.
Vật chất là cái có trước tư Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đoạn phát triển nhất
định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên tron g
quá trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của
chúng ta về đối tượng mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó,
không được ”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng.
Không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút
ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát
triển của chính đối tượng đó.
 Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém
trong sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện
thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật, “nghệ thuật” chinh
phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với
chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào
để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách quan, là phù
hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu
cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng.
 Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày toàn bộ bản chất của mình ra
thành các hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái
gì bộc lộ ra trước chủ thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ
thể tư duy không thể không bổ sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả
thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học ….thiếu những điều này tư duy sẽ không
mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính sáng tạo thông qua trí tưởng
tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng độn g sáng tạo của chủ thể
đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tì m ra bản
chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện,
mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu.
 Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các
hiện tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và
cái tinh thần chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự
tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí, lợi
ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác nhau ) của con người. Ờ đây đối tượng,
khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy bằng hệ thống những mối liên
hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong xem xét
các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy tính năng
động, sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là
nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ
chính đối tượng, từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được
thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó còn phải biết phân biệt những quan hệ vật
chất với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ
quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã hội là nhân tố quyết
định, còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời sống vật
chất của con người và các quan hệ kinh tế của họ nhưng chúng có ảnh hưởng
ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát
triển không ngừng chứ không phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc.
Phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái
kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và
phát triển của hình thái xã hội đó.
 Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan
tâm và năng lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các
vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối
với việc đánh giá tình hình xã hội ….những đánh giá có giá trị hơn, những cách
giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về
các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, của những
lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các
hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên
tắc này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét,
dễ biến nó thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các
hiện tượng xã hội phức tạp.
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:
Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng đã “
”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của
CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”: “chưa nắm vững và vận
dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX”; việc
đầu tư cơ sở sai và tràn lan, không có cơ sở khoa học, không phù hợp với điều kiện thực
tế về tài nguyên, lao động của từng vùng nên việc khai thác nguồn vốn đầu tư không hiệu
quả, nhiều công trình đầu tư dở dang và thậm chí không đủ nguyên liệu để đưa vào hoạt
động (cụ thể như đầu tư nhà máy đường đều khắp các tỉnh nhưng có tỉnh không đủ
nguyên vật liệu để cung cấp cho nhà máy hoạt động); dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ
huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp” – một cơ chế “gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản
đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí”, “có nhiều chủ trương
sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “ cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế
trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính
đến điều kiện khả năng thực tế ” nên dẫn đến việc SX chậm phát triển, mâu thuẫn giữa
cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi
phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế SX hàng hóa (quy luật cung cầu quy
luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …).
Tóm lại, việc bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của
phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa… vào việc chế định các chủ trương
chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ khủng hoảng trầm trọng à nguyên
nhân: Đó là sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn. Đó là việc hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm
trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa
tư bản, của nhân loại, thậm chí còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những
thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực tiễn
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận và lý luật suông.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đại hội Đảng lần VI (1986) đã chỉ rõ bài học kinh
nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” (Văn kiện
Đại hội Đảng lần VI trang 30). Đây là sự vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan, thừa
nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc
đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước
ta từ sau ĐH Đảng lần VI
Đại hội Đảng lần VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một
công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm
trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: “Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh
cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất”. Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận,
hoàn toàn mới mẻ: “Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không
chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển
không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất”. Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: “Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ”.
Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh lại theo hướng
“không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế”, tập
trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương
thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những
chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều
kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa.
Về cơ chế quản lý kinh tế, lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị trường được đưa vào
Nghị quyết một cách rõ ràng “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: ). Cơ chế quản
lý kinh tế được Đại hội VI xác định : “Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản
lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền
tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý kinh tế”. Vì vậy, chúng ta phấn đấu thi hành
chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng
chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế.
Vấn đề phân phối đã được chú trọng hơn trong quan hệ SX bằng việc thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và
phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất. Văn kiện Đại hội chỉ rõ:
“Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận
trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải
luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp,
chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo”.
Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đầu từ việc Đảng phải
đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của Đảng để nhận thức đúng
và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật khách quan. Đồng thời với việc đổi
mới tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT,
đội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không
ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và
kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị … là những biện pháp
nhằm từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ quan duy ý chí.
Phép biện chứng duy vật là một môn khoa học về những quy luật phổ biến sự vận động,
phát triển của tự nhiên. xã hội và tư duy. Trong phép biện chứng duy vật, theo quan niệm
của Mác- Ăng ghen: những quy luật tự nhiên về xã hội là những quy luật khách quan;
những quy luật về ý thức, tư tưởng, tư duy là quy luật chủ quan. Quy luật khách quan
quan hệ biện chứng với quy luật chủ quan, trong đó quy luật khách quan quyết định chi
phối quy luật chủ quan, quy luật chủ quan có vai trò to lớn tác động tích cực trở lại với quy luật khách quan.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý cơ bản, những phạm trù và những quy
luật cơ bản. Tư tưởng xuyên suốt của toàn bộ phép biện chứng duy vật là mối liên hệ phổ
biến và phát triển của sự vật hiện tượng, làm rõ hai nguyên lý này và những quy luật về
sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là một khoa học về những quy luật phổ biến sự vận động, phát
triển của tự nhiên. xã hội và tư duy. Trong phép biện chứng duy vật, theo quan niệm của
Mác- Ăng ghen: những quy luật tự nhiên về xã hội là những quy luật khách quan; những
quy luật về ý thức, tư tưởng, tư duy là quy luật chủ quan. Quy luật khách quan quan hệ
biện chứng với quy luật chủ quan, trong đó quy luật khách quan quyết định chi phối quy
luật chủ quan, quy luật chủ quan có vai trò to lớn tác động tích cực trở lại với quy luật khách quan.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý cơ bản, những phạm trù và những quy
luật cơ bản. Tư tưởng xuyên suốt của toàn bộ phép biện chứng duy vật là mối liên hệ phổ
biến và phát triển của sự vật hiện tượng, làm rõ hai nguyên lý này và những quy luật về
sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật.
Đảng ta nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những nhiệm vụ đặt ra trong quá
trình phát triển của đất nước. Do đó mọi vấn đề lý luận trong văn kiện đại hội IX đều liên
quan đến những nguyên lý, những quy luật của phép biện chứng duy vật. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng cho rằng, mâu thuẫn: là nguồn gốc và đấu tranh của các mặt đối lập; là
động lực của sự vận động và phát triển đi lên CNXH. Trước thời kỳ đổi mới, mâu thuẫn
cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta được Đảng xác định là mâu thuẫn giữa
hai con đường: XHCN và TBCN. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH đến đại hội Đảng
IX là sự tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về mâu thuẫn cơ bản, đồng thời nhận thức
và giải quyết những mặt khác nhau của mâu thuẫn đó trong những chặng đường trước
mắt của thời kỳ quá độ. Qua việc đánh giá những thành tựu và những hạn chế, nguyên
nhân và những bài học kinh nghiệm , đặc biệt là việc chỉ ra những nguy cơ, thách thức
lớn, cho thấy Đảng ta đã nhận thức sâu sắc những mâu thuẫn trong xã hội, đề ra nhiệm vụ
giải quyết, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới. Việc giải quyết mâu thuẫn
xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, song phương diện
khách quan của mâu thuẫn quy định nội dung, phương thức giải quyết chúng. Do đó phải
căn cứ vào bản chất mâu thuẫn, điều kiện khách quan và chủ quan, trong và ngoài nước,
ngoài ra còn liên quan đến thời điểm giải quyết mâu thuẫn để tìm ra phương thức giải quyết thích hợp.
Đại hội Đảng IX không những đã vạch ra những nhiệm vụ cụ thể giải quyết những mâu
thuẫn, mà còn thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức và
phương thức giải quyết mâu thuẫn, chú trọng đến các phương pháp cải tạo hoà bình. Một
trong các phương pháp giải quyết mâu thuẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng mà Lê Nin đã
chỉ ra trong "Chính sách kinh tế mới" là " Kết hợp các mặt đối lập một cách có nguyên
tắc", để giải quyết mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ. Đó là việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta, về bản chất là "sự kết hợp giữa cơ chế thị trường
với sự quản lý có kế hoạch kinh tế, xã hội của nhà nước XHCN, kết hợp nhiều thành
phần kinh tế trong một cơ cấu hỗn hợp nhưng thống nhất, vừa đấu tranh, vừa hợp tác,
phát huy mọi tiềm năng, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân và từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới", đó là việc
sử dụng các hình thức kinh tế quá độ: Kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, kinh tế tập thể, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chuyển sang các loại
hình kinh tế hỗn hợp. Bản chất của các loại mâu thuẫn xã hội là quan hệ về lợi ích giữa
các giai cấp, các tầng lớp và cộng đồng người khác nhau. Vì vậy quan điểm xuyên suốt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng trong mọi thời kỳ của cách mạng là
quan tâm đến lợi ích chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, có cơ chế, chính
sách giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích giữa cá nhân với tập thể và xã hội, giữa các giai
cấp, các tầng lớp, giữa các vùng, miền trong cả nước. Giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích
của các lực lượng xã hội là cơ sở để đoàn kết toàn dân, mà nòng cốt là khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phát huy mọi nguồn
lực, sức mạnh của toàn xã hội. Đó chính là động lực to lớn nhất, quyết định nhất đối với
cách mạng nước ta. Vì thế đại hội Đảng IX đã xác định động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là: "Đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội".
Đại hội IX của Đảng khẳng định "Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng
và phát huy mọi nguồn lực". Như vậy động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế nước ta
hiện nay được xác định là sự giải phóng và phát huy mọi nguồn lực. Trước hết là "Đổi
mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước hướng vào hình thành và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tính thần của toàn
dân, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh, bền vững". Nhà nước là đại diện cho ý
chí và quyền lực của dân, nhà nước của dân, do dân và vì dân, phát huy sức mạnh của
toàn dân tộc, đó là động lực trực tiếp có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc đổi mới.
Cùng với động lực kinh tế và chính trị; văn hoá, khoa học, giáo dục cũng là động lực
quan trọng. Ngoài các nguồn lực bên trong có vai trò quyết định trực tiếp và là các nguồn
lực chủ yếu cho sự phát triển của đất nước, cần có động lực bên ngoài: là sức mạnh của
thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế là các nguồn lực rất căn bản. Tất cả động lực trên tạo
thành một tổng hợp lực to lớn để đưa đất nước tiến lên khi thực hiện được điểm mấu chốt
là "Hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm giải
phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần
của toàn dân, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trong, gắn kết với
nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước".
Văn kiện đại hội IX của Đảng nhận mạnh "Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ CNTB là tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức
tạp, cho nên phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội có tính qúa độ". Vậy cơ sở triết học của luận điểm trên là mối
quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và biến đổi về chất trong qúa trình đổi mới
ở nước ta. Việc thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài, với nhiều chặng đượng cụ thể, như một quá trình tích luỹ về lượng, tạo ra
những biến đổi về chất, tạo tiền đề cho bước nhảy vọt về chất. Đại hội Đảng IX tiếp tục
đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 đến 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo tiền để
nước ta cơ bản trở thành là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Đại hội Đảng IX
của Đảng coi việc phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững là quan điểm có tính nguyên
tắc. Phát triển nhanh nhưng phải có điều kiện, chú trọng chất lượng, hiệu quả. Nhanh
nhưng không ồ ạt, khai thác tài nguyên và các nguồn lực một cách hợp lý, khai thác sử
dụng đi đôi với bồi dưỡng tạo thế phát triển lâu dài cho nền kinh tế. Phép biện chứng duy
vật Mác Xít chỉ ra rằng, bất kỳ bước nhảy vọt nào từ vật cũ sang vật mới đều thông qua
"Khâu trung gian", Khâu trung gian là trạng thái tồn tại của sự vật trong quá trình chuyển
hoá về chất, trong đó chất cũ và chất mới đan xen, thâm nhập vào nhau, đấu tranh với
nhau, thông qua đó cái cũ bị lọc bỏ, chuyển hoá thành cái mới. Đại hội IX của Đảng đã
khẳng định vấn đề có tính quy luật trong quá trình cách mạng ở nước ta là phải thừa nhận
nền kinh tế, xã hội nước ta mang tính chất "Trung gian" quá độ, cho nên cần thiết phải
nhận thức về nội dung đúng đắn các hình thức đó để phát triển xã hội. Văn kiện đại hội
Đảng IX khẳng định "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ CNTB, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị cuả quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triền nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Luận điểm trên thể hiện sự nhận thức sâu sắc
nhất, đầy đủ nhất về sự bỏ qua chế độ CNTB. Thực chất công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng XHCN là quá trình thực hiện sự phủ định xã hội cũ. Một nước chưa phát
triển như nước ta đi lên CNXH, một mặt phải phủ định xã hội xuất phát, mặt khác phải
bỏ qua con đường phát triển TBCN. KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật ra đời là kết quả sự kế thừa có chọn lọc toàn bộ tư tưởng triết
học nhân loại, là đỉnh cao của trí tuệ loài người do Mác- Ăngghen, Lênin kế thừa và phát
tiển. Cấu trúc của phép biện chứng duy vật bao gồm các nguyên lý, các quy luật cơ bản,
các cặp phạm trù. Trong nội dung của nó, tư tưởng phát triển là tư tưởng chủ đạo xuyên
suốt. Bản chất của nó hàm chứa tính cách mạng, khoa học rất sâu sắc. Đây là cơ sở lý
luận cho các Đảng cộng sản nói chung và Đảng ta nói riêng trong quá trình hoạch định
đường lối chiến lược và sách lược ở từng giai đoạn cách mạng. Đối với mỗi công dân,
phép biện chứng duy vật trở thành công cụ quan trọng bậc nhất trong nhận thức và hoạt
động để cải tạo hoàn cảnh và cải tạo bản thân
Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và
vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trò
quyết định đối với ý thức.
a.Vai trò của VC đối với ý thức:
- VC là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con người nên khi có
con ngưới mới có ý thức,mà con người là sản phẩm của thế giới VC.
- VC là nguồn gốc của ý thức, vì các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH của ý thức là bản
thân thế giới VC, hoặc là những dạng tồn tại của VC.
- Nội dung của ý thức được quyết định bởi VC, vì ý thức là cái phản ánh thế giới VC, là hình ảnh về thế giới VC.
- VC quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì những yếu tố VC
( qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường sống) quyết định sự vận động, phát
triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.
- Ví dụ: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường dựa trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của
bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn.
b. Vai trò của ý thức đối với VC:
- Ý thức có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người: ý thức trang
bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục tiêu, đề ra phương hướng,
nhằm thực hiện mục tiêu của mình.
- Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:
Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật khách quan, cải tạo được thế giới.
Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, hành động đi
ngược lại qui luật khách quan.
- Ý thức có thể quyết định hành động của con người.
Ví dụ: Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây
chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân
tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê
- Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong mọi hoạt động nhận thưc và thực tiễn, phải: Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
- Phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức chúng thành lực
lượng VC để hành động.
- Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người:
Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ và truyền bá tri thức khoa
học vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động; tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân
sinh quan CM, tình cảm, nghị lực CM để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính
nhân văn trong định hướng hành động.
- Để thực hiện nguyên tắc trên, phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chống
chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận, bảo thủ, trì trệ, thụ
động trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
d. Vận dụng đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắc bệnh chủ quan
duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải
tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế . Nguyên
nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý luận, do tâm lý của
người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan
điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự
vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự
nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan. Bài học mà Đảng ta đã nêu ra ,
trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách
quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã
hội có tính chất quá độ .
Trong bỗi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất,
đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng ta chủ trương “phát triển
kinh tế là trung tâm”, “làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
“Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, không ngừng bồi
dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, phát huy đầy
đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận thức, cải tạo và phát triển xã hội.
Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi
Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng,
tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá
đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước ta trãi qua.