lOMoARcPSD| 58707906
I. 5 NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ
1. Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
1.1. Khái niệm
Nguyên tắc kết hợp quản theo ngành theo lãnh thổ đòi hỏi phải sự
phối hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ trên tất cả mọi lĩnh
vực kinh tế. Cả hai chiều quản đều phải trách nhiệm chung trong việc thực hiện
mục tiêu của ngành cũng như của lãnh thổ. Sự kết hợp này sẽ tránh được tư tưởng bản
vị của bộ, ngành, trung ương ởng cục bộ địa phương ca chính quyền địa
phương. Theo đó, Bộ chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế do mình thành lập
và Ủy ban nhân dân địa phương chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế của địa
phương. Từ đó, dẫn đến tình trạng tranh chấp, không sự liên kết giữa các đơn vkinh
tế trên cùng một địa bàn lãnh thổ, do đó hiệu quả thấp.
1.2. Nội dung kết hợp
Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh th được thực hiện như sau:
-Thực hiện quản đồng thời cả hai chiều: Quản theo ngành quản theo lãnh
thổ. Có nghĩa là, các đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng thời nó cũng
phải chịu sự quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số nội dung
theo chế độ quy định.
-Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và theo lãnh
thổ, không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
-Các cơ quan quản lý nhà nước theo mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quản hiệp quản, tham quản với cơ quan nhà
nước thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của Nhà nước. Đồng quản là cùng có quyền
cùng nhau ra quyết định quản theo thể thức liên tịch. Hiệp quản là cùng nhau ra
quyết định quản theo thẩm quyền, theo vấn đề thuộc tuyến của mình nhưng sự
thương lượng, trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định của mỗi bên tương đắc với nhau.
Tham quản là việc quản lý, ra quyết định của mỗi bên phải trên sở được lấy ý kiến
của bên kia.
1.3. Sự cn thiết phải kết hợp quản lí theo ngành với lãnh thổ
Nhằm đảm bảo cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trong nền kinh tế quốc dân. Các đơn
vị thuộc các ngành kinh tế - kĩ thuật nằm trên các địa bàn lãnh thổ khác nhau cũng đều
chịu sự quản lí nhà nước theo ngành của các bộ (trung ương) và của các cơ sở chuyên
môn (ở địa phương). Trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của luật pháp, quản
lOMoARcPSD| 58707906
theo ngành bảo đảm cấu ngành phát triển hợp trong phạm vi cả nước hiệu
quả nhất. Các đơn vị kinh tế nằm trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ cũng chịu sự
quản nhà nước theo lãnh thổ của chính phủ Trung Ương trên tổng thể, của chính
quyền địa phương các cấp theo quy định phân cấp của luật pháp. Trong cấu quyn
lực phân công trách nhiệm quản hành chính - nhà nước, chính phủ quản thống
nhất các ngành các đơn vị nh thổ; chính quyền địa phương người chịu trách
nhiệm quản lí kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ, đại biểu cho quyền lợi nhân dân ở
địa phương; đồng thời một bộ phận của quyền lực nhà nước thống nhất địa phương,
người đại diện cho nhà nước (Trung ương) ở địa phương. những lí do đó nên nhất
thiết phải kết hợp hai mặt: quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ. Trên cơ sở phân
định rõ chức năng quản lí, các quy định về phân công, phân cấp và xây dựng nội dung
và mức đ thống nhất quản lí ngành cho từng ngành theo đặc điểm ngành; nội dung
mức độ quản lí theo lãnh thổ; nội dung, mức độ kết hợp quản lí theo ngành với quản lí
theo lãnh thổ, nhằm phát huy cao độ nhất hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả nước, của
từng vùng kinh tế, từng địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
thống nhất lợi ích quốc gia lợi ích từng địa phương trong sự phát triển một cách
lợi nhất những lợi thế của địa phương. Sự kết hợp và thống nhất hai mặt quản chủ
yếu được thể hiện:
1) Tổ chức điều hoà, phối hợp các hoạt động của tất cả các đơn vị thuộc các
ngành,các thành phần kinh tế, các cấp quản lí, cũng như các tổ chức văn hoá, hội,
an ninh, quốc phòng để phát triển nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp lí nhất, có
hiệu quả nhất về ngành cũng như về lãnh thổ.
2) Quản công việc chung của quốc gia trên phạm vi cả nước, cũng như trên
từngđơn vị hành chính - lãnh thổ kết hợp hài hoà lợi ích chung của cả nước, cũng như
lợi ích của địa phương.
3) Phục vụ tốt các hoạt động của tất cả các đơn vị nằm trên lãnh thổ, như về kết
cấuhạ tầng, bảo vệ môi trường và tài nguyên, bảo đảm pháp chế hội chủ nghĩa, an
ninh, trật tự công cộng, phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của dân cư sống và làm
việc trên lãnh thổ, bất kể là thuộc cơ quan, xí nghiệp trung ương hay địa phương.
1.4. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc
Việc kết hợp quản ngành với quản lãnh thổ có vai trò rất lớn đối với việc phát
triển đất nước về mọi lĩnh vực. Chính vì vậy Nhà nước ta đã có chủ trương, chính sách
áp dụng biện pháp kết hợp này trên phạm vi cả nước, với nhiều địa phương các doanh
nghiệp, các nhà máy, khu công nghiệp…
lOMoARcPSD| 58707906
Nhà nước ta đã có những quy định rất cụ thể đối với việc quản lý ngành gắn chặt
với quản lý lãnh thổ đến tất cả cơ quan địa phương, cơ quan quản lý ngành… Theo đó
quy định các cơ sở, doanh nghiệp nào thành lập ở địa phương nào phải chịu sự quản lý
về hành chính, về mặt pháp luật, xã hội, kinh tế, kỹ thuật… của cơ quan quản lý ngành
địa phương. Áp dụng quy định của Nhà nước thì hiện nay đã nhiều quan ngành
quan chính quyền địa phương thực hiện nghiêm chỉnh, nhằm đạt được hiệu quả
tốt nhất, có lợi cho cả 2 bên:
+, Quản lý ngành sẽ hoạch định sự phát triển cho doanh nghiệp, nhà máy, nghiệp đó.
+, Còn quản lý lãnh thổ tạo điều kiện pháp lý, được pháp luật bảo vệ, cung cấp nguồn
nhân lực, nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp kinh tế.
Từ đó ta có thể nhận thấy sự tác động qua lại, hỗ trợ nhau giữa quản lý ngành và quản
lãnh thổ. Cho thấy sự kết hợp này làm tăng tính hiệu quả, đạt mức phát triển tối đa
tránh những khó khăn, rủi ro.
Các doanh nghiệp kinh doanh cùng với cơ quan địa phương hiện nay ngày càng có sự
phổi hợp quản lý rất chặt chẽ, ví dụ như:
Khu công nghiệp Bình Dương thuộc tỉnh Bình Dương của vùng Đông Nam Bộ.
các ban quản do thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, quan trực thuộc
UBND tỉnh Bình Dương, chịu sự chỉ đạo, quản về tổ chức, biên chế, chương trình
kế hoạch công tác và kinh phí hoạt động của UBND tỉnh. Chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn
kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của các Bộ, Ngành, lĩnh vực liên quan,
trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh trong
công tác quản lý khu công nghiệp.
Khu công nghiệp Bình Dương đã thể hiện rất sự kết hợp giữa quản ngành với
quản lý lãnh thổ, thể hiện được sự hỗ trợ, phối hợp, đem lại sự phát triển không chỉ đối
với khu công nghiệp mà còn đưa tỉnh Bình Dương trở thành một trong những tỉnh phát
triển hàng đầu của Đông Nam Bộ.
Từ đó chúng ta có thể thấy việc tuân thủ và áp dụng nguyên tắc kết hợp giữa quản lý
ngành với quản lãnh thổ của các quan, đoàn thể, doanh nghiệp. sự phối hợp,
hỗ trợ lẫn nhau, cùng tuân thủ pháp luật và dưới sự bảo vệ của pháp luật.
Tuy nhiên việc thực hiện nguyên tắc vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế:
- Thứ nhất: đó việc rào” trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm củađịa
phương trái với quy định của quan quản ngành, chức năng. một số quan địa
phương vì lợi ích nhất thời mà bỏ qua văn bản thủ tục hành chính mà pháp luật đã quy
lOMoARcPSD| 58707906
định, để cấp giấy phép hoạt động đó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của đất
nước.
- Thứ hai: sự phối hợp không chặt chẽ trong việc tổ chức, thực hiện các quyđịnh
của ngành ở địa phương.
- Thứ ba: đó việc bất cập trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các
quyđịnh của ngành tại địa phương.
Điều đó đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các ban ngành phải không ngừng nâng cao việc
kết hợp chặt chẽ giữa quản ngành với quản lý lãnh thổ, để khắc phục những hạn chế,
nhằm phát triển kinh tế địa phương và của đất nước.
1.5. Kiến nghị để thực hiện tốt nguyên tắc
Để thực hiện nguyên tắc trên cần phải tăng cường công tác lập pháp và tư pháp.
- Về lập pháp, phải từng bước đưa mọi quan hệ kinh tế vào khuôn khổ pháp luật.
Cácđạo luật phải được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, có chế tàiràng, chính xác và đúng
mức.
- Về tư pháp, mọi việc phải được thực hiện nghiêm minh (từ khâu giám sát, phát
hiện,điều tra, công tố đến khâu xét xử, thi hành án…) không để xảy ra tình trạng có tội
không bbắt, bắt rồi không xét xử hoặc xét xử quá nhẹ, xrồi không thi hành án
hoặc thi hành
Đẩy mạnh hơn nữa chuyên môn hóa theo ngành và phân bố sản xuất theo chức
năng nhằm thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển
Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan chuyên môn ở địa phương quản lí tốt về
tổ chức, nhân sự, chuyên môn để đảm bảo đạt được các chỉ tiêu của ngành.
Tạo điều kiện thuận lợi về nhân lực, tài nguyên, điều kiện vật chất đảm bảo cho
các doanh nghiệp ở địa phương hoạt động có hiệu quả cao.
Có sự phân công rành mạch cho các quan quản theo ngành lãnh thổ,
không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm v, quyền hạn.
2. Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa các lợi ích trong đầu tư.
2.1. Khái niệm:
Đầu tạo ra lợi ích. nhiều loại lợi ích như lợi ích kinh tế và hội, lợi ích Nhà
nước, tập thể nhân, lợi ích trực tiếp gián tiếp, lợi ích trước mắt lâu dài…
Thực tiễn hoạt động kinh tế cho thấy, lợi ích kinh tế động lực quan trọng thúc đẩy
mọi hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của các đối tượng khác nhau, vừa
lOMoARcPSD| 58707906
tính thống nhất vừa mâu thuẫn. Do đó, kết hợp hài hòa lợi ích của mọi đối tượng
trong hoạt động kinh tế nói chung, đầu tư nói riêng sẽ tạo động lực và những điều kiện
làm cho nền kinh tế phát triển vững chắc, ổn định.
2.2. Biểu hiện:
Trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc này biểu hiện ở sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của
xã hội, cá nhân người lao động, tập thể người lao động, chủ đầu tư, chủ thầu xây dựng,
cấc quan thiết kế, vấn, cung cấp dịch vụ đầu tư. Sự kết hợp này được thể hiện
bằng các chính sách của nhà nước, bằng hợp đồng thỏa thuận giữa các đối tượng tham
gia quá trình đầu tư và còn được thực hiện thông qua luật đấu thầu.
2.3. Sự cần thiết phải tuân thủ nguyên tắc:
Nếu tuân thủ nguyên tắc này thì hoạt động đầu tư mới thực hiện được. Khi nguyên tắc
này được đảm bảo thì mới đảm bảo hiệu quả ca hoạt động đầu tư. Khi các lợi ích đều
được kết hợp hài hòa trong đầu tư sẽ tạo điều kiện và động lực để nền kinh tế phát triển
vững chắc và ổn định.
2.4. Liên hệ:
Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hòa các loại lợi ích thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích
của xã hội mà đại diện là Nhà nước với lợi ích của cá nhân và tập thể người lao động,
giữa lợi ích và chủ đầu tư, nhà thầu, các quan thiết kế, vấn, dịch vụ người
hưởng lợi. Sự kết hợp này được bảo đảm bằng các chính sách của Nhà nước, sự thỏa
thuận theo hợp đồng giữa các đối tượng tham gia quá trình đầu tư, sự cạnh tranh của
thị trường thông qua theo đấu thầu nhất định.
Trong gói kích cầu chống suy giảm kinh tế trong những năm vừa qua của chính phủ,
các chính sách của chính phủ đưa ra trong việc quản hoạt động đầu nói riêng
hoạt động kinh tế nói chung, đã quan tâm đến lợi ích của nhiều nhóm đối tượng, cụ thể
lợi ích của các doanh nghiệp vừa nhỏ nhiều nguy phá sản trong khủng hoảng
thông qua gói kích cầu hỗ trợ 4% lãi suất cho DN vừa nhỏ; chính sách xây nhà ở cho
người có thu nhập thấp… Các chính sách này cũng nhằm tới mục tiêu tạo việc làm cho
người lao động, tăng trưởng kinh tế để nâng cao mức phúc lợi xã hội cho người dân.
2.5. Hạn chế:
Tuy nhiên, đối với một số hoạt động đầu tư và trong những môi trường nhất định, giữa
lợi ích của Nhà nước các thành viên tham gia xảy ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn lợi
ích xuất hiện thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày và nếu xử lý không khéo có thể
lOMoARcPSD| 58707906
gây ra những vấn đề đạo đức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hoạt động lành mạnh của
các tổ chức và của toàn bộ xã hội.
2.6. Giải pháp:
Xem xét tình hình ở nước ta thì thấy nhiều người đưa ra chính sách chưa học được các
bài học trên. Bất luận do thiếu hiểu biết, vô tình hay hữu ý nếu tổ chức có quyền càng
lớn lại đưa ra các quy định khuyến khích mâu thuẫn lợi ích thì tai họa càng lớn. Phải rà
soát lại tất cả các chính sách nvậy và sửa đổi bãi bỏ. Chúng ta chưa có các quy định
rõ ràng, các thủ tục minh bạch về tránh mâu thuẫn lợi ích. Các tổ chức cũng chưa chú
ý đến vấn đề này nên cũng không các quy định ràng. Thậm chí việc lợi dụng chức,
quyền, thông tin để mưu lợi riêng rất phổ biến đốt với các quan chức mọi cấp ở nước
ta nhuận nhiều vụ việc đã được báo chí nêu ra và vô vàn vụ không được nhắc tới, gây
bất bình trong nhân dân, ảnh hường xấu đến sự phát triển của đất nước. Để mọi người,
mọi tổ chức hiểu kỹ hơn về mâu thuẫn lợi ích, để các tổ chức quy chế tránh mâu
thuẫn lợi ích của mình, để Nhà nước luật, chính sách, các quy chế, thủ tục ràng
nhằm tránh mâu thuẫn lợi ích những việc làm thiết thực trong công cuộc chống tham
nhũng, tăng niềm tin, phát triển kinh tế và xã hội.
3. Tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt Nam
Quản nhà nước về kinh tế sự tác động tổ chức và bằng pháp quyền của nhà
nước lên nền kinh tế quôc dân nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế trong
ngoài nước, các hội thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất
nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
3.1. Khái niệm
a. Tiết kiệm
-Là việc giảm bớt hao phí trong sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động
tài nguyên nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định.
-Đối với việc quản lý, sủ dụng tài sản nhà nước: Tiết kiệm là việc sử dụng ở mức thấp
hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng đạt cao hơn mục tiêu đã định.
b. Hiệu quả
-Hiệu quả kinh tế diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá
không cắt giảm loại hàng hoá khác
-Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó
lOMoARcPSD| 58707906
-Thực hành tiết kiệm chống lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên chủ trương, đường lối,
cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện gắn với kiểm tra, giám sát.
-Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải căn cứ vào định mức, tiêu chuẩn, chế độ và
quy định khác của pháp luật.
3.2. Thực trạng thực hành nguyên tắc tiết kiệm và hiệu qutrong quản nhà
nước về kinh tế ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, các tổ chức doanh nghiệp kinh tế và công ty trong nước đã
gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh đầu tư. Rất nhiều doanh nghiệp đã
chính thức tuyên bố phá sản hay hoạt động cầm chừng, một số doanh nghiệp ra đi không
hẹn ngày trờ lại.
Tuy vậy, hầu hết các doanh nghiệp vẫn còn thói quan chi tiêu phung phí bừa bãi.
Ngoài ra họ cũng đang lãng phí rất lớn các nguồn lực quý báu ca mình như nguồn lực
nhân sự, sở vật chất, máy móc thiết bị, lãng phí nguồn vốn chủ sở hữu vốn vay
phải trả lãi từ bên ngoài, lãng phí thương hiệu doanh nghiệp, các cơ hội đầu tư và hợp
tác kinh doanh sinh lợi, lãng phí trí tuệ chất xám của nhân viên, lãng phí các mỗi
quan hệ liên doanh liên kết từ bên ngoài….
Nguyên tắc thực hành tiết kiệm:
-Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải gắn với cải cách hành chính và bảo đảm hoàn
thành nhiệm vị được giao, không để bảnh hưởng đến hoạt động bình thường của
quan, tổ chức.
-Thực hiện phân cấp quản lý, phối hợp chặt chẽ giữa cấp, các ngành, cơ quan, tổ chức
trong thực hiện nhiệm vụ được giao gắn với trách nhiệm của người đứng đầu, trách
nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức để thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí.
-Bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm vai trò giám sát của quốc hội, hội
đồng nhân dân các cấp, mặt trận tổ quốc việt nam, các tổ chức thành viên của mặt trận
tổ quốc việt nam và nhân dân trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Các lĩnh vực quan trọng trong quá trình thực hành tiết kiệm chống lãng phí ở VN:
-Quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước (mua sản phẩm thiết bị, chi đầu tư,
nghiên cứu, xây dựng, lương, chi khác…).
-Quản lý và sử dụng trụ sở làm việc, nhà công và các công trình phúc lợi công cộng.
-Quản khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ( giấy phéo khai thác khoáng sản)
lOMoARcPSD| 58707906
-Đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động trong khu vực nhà nước.
-Quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp.
-Sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
dụ: Bột ngọt Vedan sản xuất bột ngọt tiết kiệm chi phí đầu tư cho hệ thống nước thải
đã gây ra hậu quả nặng nề ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và cuộc sống của
người dân. Để giải quyết vụ việc, Vedan phải bỏ ra một khoản tiền lớn hơn cho việc xử
ô nhiễm môi trường và đền tổn thất cho người dân xung quanh do ô nhiễm nguồn
nước.
Quan điểm sử dụng và quản lý có hiệu quả các nguồn lực kinh tế VN:
-Huy động và kết hợp tất cả các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển.
-Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đảm bảo tăng trường kinh tế, hiệu quả
bền vững.
-Kết hợp giữa nhà nước và thị trường trong phân bổ, sử dụng nguồn lực.
-Thu hút và sử dụng nguồn lực, kết hợp với công bằng hội, an ninh quốc phòng
bảo vệ môi trường.
3.3. Giải pháp thực hiện nguyên tắc tiết kiệm và hiệu qu
-Đầu tư có trọng điểm, quản lý, sủ dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
-Cải cách tổ chức bộ máy quản lý kinh tế theo hướng gọn nhẹ, linh hoạt.
-Giảm thiểu các chi phí vật tư, thiết bị cho sản xuất dựa trên cơ sở quản lý sử dụng
có hiệu quả.
-Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan.
Kết luận:
Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong quản nhà nước vkinh tế là cần thiết với mi
quốc gia, đặc trưng cho thể chế chính trị của đất nước. Việc thực hiện nguyên tắc
tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế nhằm mục đích điều hoà mâu
thuẫn các mặt lợi ích, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế hội. Việt Nam cần nhiều
những doanh nghiệp cố gắng tiết kiệm “thực hành tiết kiệm” một cách nghiêm túc
tích cực để trở thành mạnh, ăn hiệu quả, đsức cạnh tranh trong nước và thể
vươn đến tầm cỡ thế giới.
4. Nguyên tắc thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hp hài hòa giữa kinh tế và
xã hội
lOMoARcPSD| 58707906
4.1.Lý thuyết: Slide + giáo trình 117
4.2.Thực tế ở Việt Nam
Việt Nam , chính trị kinh tế không thể tách rời chính sách của Đảng sở
của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển không ngừng của nền kinh
tế. Trong cương lĩnh quản lí của Đảng cũng nói rõ: phát triển kinh tế nhưng việc quan
tâm đến đời sống nhân dân phải được coi trọng hành đầu.. Phát triển kinh tế nhưng
không được làm gia tăng sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền.
Để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chũ
nghĩa thì chính trị và kinh tế luôn đi cùng nhau được thể hiện qua tất cả chủ trương
chính sách của Đảng và Chính Phủ. Cơ chế đó thể hiện ở việc: Đảng vạch ra đường lối
chủ trương phát triển kinh tế- xã hội, Đảng chỉ rõ con đường biện pháp và phương tiện
để thực hiện đường lối đãđề ra và Chính Phủ người đôn đốc, kiểm tra viêc thực hiện,
Nhiệm vụ phát triển kinh tế hội hàng năm được Quốc hội thông qua thì nhiệm vụ
kinh tế luôn song hành với nhiệm vụ hội. Tức là, ngoài những chỉ tiêu về kinh tế
như: tổng sản phẩm trong nước, giá trị tăng thêm của mỗi ngành, tổng kim ngạch XNK,
chỉ số CPI,… thì còn có các chỉ tiêu về xã hội như: tạo việc làm, tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ
trẻ em bsuy dinh dưỡng,… và các chỉ tiêu vmôi trường như: tỷ lệ che phủ rừng, tỷ
lệ KCN- khu chế xuất hệ thống xử nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường đạt 60%,…
Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế:
Hạn chế trong việc phát triển kinh tế - xã hội
Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong 10
năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động năng lực cạnh tranh quốc gia
của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm
được hoàn thiện, hệ thng thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng
nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản
trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội bảo vệ môi trường,
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.Nhiều vấn đề bức xúc nảy
sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải
quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa phẩm độc hại, lai
căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên bị khai thác bừa
lOMoARcPSD| 58707906
bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến
Việt Nam gây hậu qunặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được
thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ
với đổi mới kinh tế, nhất đổi mới về tổ chức, thể chế, chế, chính sách. Hệ thống
chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với
nhiệm vụ.Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất lượng công
vụ thấp.
Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều tiến b
song cũng còn nhiều hạn chế.Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều bất
cập.Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy
dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật.Hiệu lực, hiệu quả quản
của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp
còn lúng túng. Hạn chế trong chính sách
Ở Việt nam, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì chính sách của Đảng
sở của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế. Vai trò của Nhà nước quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư rất quan
trọng, nếu không được đặt đúng chỗ và không sử dụng đúng công cụ mà Nhà nước có
trong tay thì Nhà nước sẽ trở thành vật cản của đầu phát triển và skhông thể có một
xã hội mà trong đó mọi tổ chức, cá nhân đều hăng hái bỏvốn đầu tư cho phát triển.Nhà
ớc đóng vai trò người tạo ra giải quyết sự hài a các loại lợi ích đkhuyến
khích, động viên mọi nguồn lực cho phát triển.Giải quyết mt cách hài hòa giữa lợi ích
của nhà đầu tư và lợi ích của xã hội bằng công cụ quản lý gián tiếp (thuế và ưu đãi đầu
tư).Tuy nhiên , một thực tế diễn ra trong những năm qua đósự can thiệp quá sâu của
đội ngũ cán bĐảng vào trong quản kinh tế, gây ra tình trạng giáo điều, khó khăn
cho quản kinh tế, quyền lực bị phân tán. chế hiện tại chưa thực sự đáp ứng đầy
đủ yêu cầu về quản lý đầu tư, nhất chưa phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước về
đầu tư với quản lý hoạt động đầu tư cụ thể, quản lý vĩ mô với quản lý vi mô trong đầu
tư. Việc ban hành các chính sách còn chưa đồng bộ tạo ra sự bất đồng trong việc triển
khai thực hiện, các qui hoạch còn chưa sát với tình hình thực tiễn, khiến cho việc thực
hiện không đạt yêu cầu đề ra. Văn bản Pháp luật còn nhiều bất cập, tạo ra những kẽ hở
gây ra tình trạng lách luật…..
4.3. Một số giải pháp khắc phục để thực hiện nguyên tắc tốt hơn
Cải cách theo hướng tích cực phân định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan
Đảng và chính quyền. Với mục tiêu:
lOMoARcPSD| 58707906
-Hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các quyết định của nhà đầu tư
-Tôn trọng tối đa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp
-Đổi mới chức năng của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh theo hướng
khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn nhà đầu tư, doanh nghiệp là chính.
-Đồng thời, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng được hoàn thiện hơn, bổ sung sửa
đổi cho phù hợp với tình hình thực tế, quan điểm chiến lược trong từng giai đoạn.
Xây dựng hệ thống chính trị chất lượng, hiệu quả, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, xd các biện pháp chiến lược để ngăn chạn, đầy đủ tình trạng suy thoái , giải quyết
hài hòa các loại lợi ích nhà đầu tư và lợi ích của xã hội để khuyến khích đầu tư
5. Nguyên tắc tập trung dân chủ
5.1. Lý thuyết: Slide+ giáo trình 118
5.2. Hiện nay Việt Nam đã đang thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ:
Trong nền kinh tế thị trường XHCN nước ta, sự can thiệp của nhà ớc nhằm điều
chỉnh nh tự phát của thị trường, đảm bảo tính định hướng XHCN. Nnước đang phát
huy vai trò quản khi tập trung thống nhất quản 1 số lĩnh vực kinh tế then chốt
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế- xã hội, đồng thời quan tâm đến lợi ích của
người lao động những động lực quan trọng đảm bảo sự thành công của các hoạt động
kinh tế xã hội.
Trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng hầu hết các
khâu công việc, từ lập kế hoạch đến thực hiện kế hoạch, việc phân cấp quản
phân công trách nhiệm, ở cơ cấu bộ máy tổ chức với chế độ một thủ trưởng chịu trách
nhiệm và sự lãnh đạo tập thể, ở quá trình ra quyết định đầu tư…
Nguyên tắc tập trung dân chủ được nước ta thực hiện rất nó được quy định thành các
văn bản luật. Ví dụ: Nghị định 12 số 12/2009/ND/CP của Chính Phủ về quản lý dự án
đầu tư xd công trình, thông tư 03/2009/TT/BXD quy định chi tiết một số nội dung của
nghị định 12/2009/ND/CP. Hay gần đây nhất là Nghị định 59/2015/ND-CP của Chính
Phủ về quản lý dự án đầu tư có hiệu lực 5/8/2015 quy định chi tiết một số nội dung thi
hành Luật Xây dựng năm 2014 về quản dự án đầu xây dựng, gồm: Lập, thẩm định,
phê duyệt dự án; thực hiện dự án; kết thúc xây dựng đưa công trình của dự án vào khai
thác sử dụng; hình thức và nội dung quản lý dự án đầu tư xây dựng và đối với dự án sử
dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài
được thực hiện theo quy định của Nghị định này pháp luật vquản lý sử dụng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài
lOMoARcPSD| 58707906
5.3. Những hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ khi vẫn còn mang tính hình thức và
những hạn chế trong quá trình thực hiện nguyên tắc này không chỉ riêng ở địa phương,
doanh nghiệp mà còn là tình hình chung của cả nước.
Việc hình thành thông qua các quyết định, chủ trương, chính sách, phương hướng,
nghị quyết của nhà nước, của tỉnh - huyện, của đơn vị về nguyên tắc phải thu hút
được sự đóng góp trí tuệ rộng rãi của các nhà lãnh đạo, đảng viên; phải được thảo luận
thẳng thắn, triệt để. Trên thực tế tình hình: không ít cán bộ, doanh nghiệp, tổ chức,
nhân, không thật sự tích cực tham gia ý kiến vào việc xây dựng các văn bản trên,
đồng thời cũng không phải mọi ý kiến của người lao động đều được phản ánh tới các
chủ đầu tư, nhà quản trị, tình trạng dân trí, trình độ còn thấp cũng chính nguyên nhân
làm hạn chế mức đdân chủ của công nhân, người lao động. Tuy nhiên, cũng trường
hợp ý thức tự giác về dân chủ của người dân, kể cả cán bộ công nhân viên chưa cao,
đôi khi vì quá bận những công việc khác nhưng cũng có khi xem nhẹ nên không tham
gia đóng góp ý kiến. Thực tế một số trường hợp ý kiến của người lãnh đạo vẫn dường
như có sức thuyết phục quyết định cuối cùng; ý kiến thuộc thiểu số rất ít khi được đặt
lại để xem xét.
Lãnh đạo của Ðảng, nhà nước lãnh đạo tập thể, tập thể giao cho nhân phụ trách
một số công tác.Khi công việc thành công thì thành tích thường được quy về nhân
một số người lãnh đạo, còn khi thất bại trách nhiệm đổ cho tập thể. Chế độ lãnh đạo tập
thể trên thực tế chưa thật sự thúc ép người lãnh đạo phải năng động, sáng tạo, thật sự
dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
tưởng tập trung bao cấp trong cán bộ, công chức còn khá nặng nề, nhất các cấp
chính quyền địa phg. Cán bộ, công chức, kể cả thủ trưởng quan đv còn phổ biến tình
trạng thụ động, ngồi chờ sự chỉ đạo của cấp tên trong triển khai công việc quản lí, thiếu
tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm về những gì đã làm.
Trình độ năng lực của chủ đầu tư, cán bộ thực hiện các dự án còn nhiều hạn chế.Việc
chọn lựa người lãnh đạo đứng đầu rất quan trọng và quyết định rất lớn đến sự vận hành
của cả hệ thống tổ chức, cơ quan đó. Nguyên tắc dân chủ, tập thể đòi hỏi phải lấy phiếu
tín nhiệm của cán bộ, đảng viên vcán bộ dự kiến bổ nhiệm chỉ xem xét người được
đa số phiếu tín nhiệm. Đa số trường hợp thì việc này diễn ra thuận lợi nhưng ở nơi
phái, cục bộ thì kết quả bỏ phiếu tín nhiệm không phản ánh đúng đánh giá và tín nhiệm
đối với cán bộ, người được đa số phiếu chưa hẳn đã xứng đáng.
lOMoARcPSD| 58707906
Dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam được xem một trong những ví dụ thất bại của
trào lưu tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước đầu tràn lan, đầu ngoài ngành thiếu
chiến lược, lý do một phần chính là do năng lực của các nhà quản lý chưa có tầm nhìn,
không đảm bảo được lợi ích giữa người trồng đay nhà máy, chưa một nhà máy
giấy nào sản xuất lại sử dụng cây đay, hoạt động đầu tư có độ rủi ra cao, không khả thi,
khi hoạt động lỗ rất lớn nhưng không thể dừng hoạt động, phải chuyển giao với nhiều
nhà đầu khác như Tổng Công Ty Giấy Việt Nam, Vinapaco nhưng vẫn không cải
thiện được. Hiện nay, tổng vốn đầu đội lên tới 3.000 tỷ đồng Nmáy vẫn chưa
được thanh toàn bộ vùng nguyên liệu đay đã bị xóa xổ hơn 10 năm nay, n
máy này không hề hoạt động.
Mặt khác, một số người lợi dụng “dân chủ” để thực hiện những yêu sách vượt quá
khuôn khổ luật pháp, coi thường kỷ cương phép nước.Đặc biệt trong vấn đề thực hiện
giải phóng mặt bằng, một số người dân đã được đền đúng quy định nhưng vẫn cố
tình không bàn giao mặt bằng kích động nhiều người khác tham gia đòi tăng tiền
đền bù.Một số người dân đã được giải quyết khiếu nại tố cáo đúng pháp luật, chính sách
nhưng vẫn không chịu thực hiện quyết định và đến cơ quan nhà nước nhiều lần gây rối
mất trật tự, thậm chí thách thức cả công an, cả chính quyền.
Trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng các vành đai trong công tác quản lý các dự
án đầu tư, thực hiện còn chậm tiến độ, chưa đảm bảo quyền lợi, đền bù xứng đáng cho
các hộ dân, điển hình như trong việc giải phóng mặt bằng cho các hộ gia đình ở đoạn
đường Trường Chinh, còn 335 hộ chưa thu hồi đất, việc khiếu kiện kéo dài của 29 hộ
dân điển hiền tại Đống Đa trong việc giá đất đền bù và nhà định cư, ban quản lý dự án
phát triển đô thị Nội cùng UBND quận, các sở, ngành liên quan họp đối thoại với
các hộ dân để giải thích; tuy nhiên, các hộ dân chưa đồng thuận.
5.4. Giải pháp khắc phục hạn chế
Để khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, một số
giải pháp như sau:
Nâng cao nhận thức trách nhiệm cho các địa phương, các ngành, các cơ sở, các doanh
nghiệp, người dân trong hoạt động đầu về nội dung, bản chất , thực hiện nguyên tắc.
Tập trung dân chủ hai thành tố cấu thành một chỉnh thể thống nhất của nguyên
tắc. Hai thành tố này ràng buộc, chế ước lẫn nhau, tập trung phải dựa trên cái nền dân
chủ và dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ
cương. Dân chủ càng được tăng cường thì càng sự thống nhất tập trung cao. Tuyệt
đối hóa, nhấn mạnh một yếu tố nào đều không đúng, trái với bản chất của nguyên tắc.
lOMoARcPSD| 58707906
Đảm bảo vai trò của nhà nước ,tiếp tục hướng vào luận giải con đường đi lên CNXH;
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tư nhân là động lực, vấn đề đảng viên làm kinh tế
tư bản tư nhân, những biến dạng trong việc thực hiện nguyên tắc trên diện rộng. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật nghiêm minh những tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thông qua kiểm tra,
kịp thời phát hiện những hở của các chủ trương, nghị quyết để bổ sung hoàn thiện
phù hợp với quy luật khách quan; đồng thời giáo dục ngăn chặn kịp thời các khuyết
điểm, sai phạm của đảng viên.
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc thành quy chế, quy định pháp luật của N
nước để tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động đầu tư. Cần rà soát lại những điểm bất
hợp lý, lạc hậu trong các quy chế, quy định đã ban hành để bổ sung hoàn thiện, gp
cho việc thực hiện được thống nhất. Mỗi loại quy chế, quy định, luật pháp cần lượng
hóa trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu.
Đối với từng doanh nghiệp, sở cần xây dựng thiết kế cấu tổ chức phù hợp ví dụ
như hiện nay nhiều tổ chức xu hướng theo phạm vi kiểm soát rộng hơn ít cấp
quản hơn, thay đổi nguyên thống nhất một thủ trưởng…; quy định, quy tắc làm
việc của mình, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp, từ bộ phận, từng
nhân trong doanh nghiệp. Tổ chức, chuẩn bị kỹ nội dung, thu hút tập thể tham gia
thảo luận để ra các vấn đề của đơn vị. Không những thế cần hướng vào kiểm tra bộ
phận, cá nhân có tư tưởng lợi ích cá nhân, cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết,
tham nhũng, gây chia rẽ, phái làm suy yếu khối đoàn kết nội bộ, vi phạm nghiêm
trọng nguyên tắc TTDC để giáo dục, ngăn chặn, không chờ vụ việc vỡ lở mới kiểm tra,
xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời. Lựa chọn nhà Lãnh đạo, người đứng đầu có trình
độ, năng lực, phẩm chất,… phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp,cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước.
lOMoARcPSD| 58707906
II. Tình trạng thất thoát và lãng phí vốn đầu tư XDCB của nhà nước
1.Khái niệm và đặc điểm:
1. 1.Đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1.Khái niệm
Đầu xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình
xây dựng theo mục đích của người đầu tư, lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các tài
sản c định (TSCĐ) và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. ĐTXDCB là một hoạt
động kinh tế
1.1.2.Nguồn vốn
Vốn của dự án ĐTXDCB nói chung được cấu thành bởi các nguồn sau:
Thứ nhấtnguồn vốn của nhà nước. Nguồn vốn này bao gồm:
+ Ngân sách nhà nước cấp phát.
+ Vốn của các doanh nghiệp nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bao
gồm vốn từ khấu hao bản để lại, từ lợi nhuận sau thuế, từ đất đai, nhà xưởng còn
chưa sử dụng đến,... được huy động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; vốn góp của
nhà nước trong liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế trong nước và nước
ngoài.
+ Vốn tín dụng đầu phát triển của nhà nước Chính phủ cho vay theo lãi
suất ưu đãi bằng nguồn vốn tự hoặc nhà nước đi vay để cho vay lại đầu vào các
dự án thuộc lĩnh vực được ưu tiên trong kế hoạch nhà nước đối với một số doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế.
+ Vốn vay nợ, viện trợ từ bên ngoài của Chính phủ thông qua kênh hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA). Trên thực tế, một phần vốn này sẽ đưa vào ngân sách đầu tư,
còn phần ODA cho các doanh nghiệp vay lại thì đưa vào nguồn tín dụng đầu phát
triển của nhà nước.
Thứ hai nguồn vốn đầu của khu vực nhân nguồn vốn đóng góp tự nguyện
của dân cư vì lợi ích cộng đồng, kể cả đóng góp công lao động, của cải vật chất để xây
dựng các công trình phúc lợi.
Thứ ba nguồn vốn đầu nước ngoài. Nguồn vốn này bao gồm đầu gián tiếp
đầu trực tiếp. Đầu gián tiếp của nước ngoài tại Việt Nam nguồn vốn do nước
ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của Việt Nam, nhưng không
tham gia công việc quản trực tiếp. Vốn đầu trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct
lOMoARcPSD| 58707906
Inverstment – FDI) Việt Nam là nguồn vốn nước ngoài trực tiếp đầu vào Việt Nam
dưới hình thức tự đầu tư 100% vốn hoặc liên doanh. Ngoài ra còn nguồn vốn viện
trợ không hoàn lại của các tổ chức phi chính phủ (Non- Government Organization
NGO).
ĐTXDCB của nhà nước là hoạt động đầu tư của nhà nước, bao gồm các dự án
ĐTXDCB được hoạch định trong kế hoạch nhà nước được cấp phát bằng nguồn vốn
ngân sách của nhà nước, đầu bằng nguồn vốn tín dụng đầu phát triển của nhà
nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
1. 2.Thất thoát, lãng phí
1.2.1.Thất thoát
Thất thoát trong đầu tư là hiện tượng mất mát, thiệt hại không đáng có về vốn đầu
trong suốt quá trình đầu tư, từ khi quyết định chủ trương đầu cho đến khi dán hoàn
thành và đưa vào sử dụng.
Phần vốn đầu bị thất thoát phần vốn tuy đưa vào dự án nhưng bị lãng p
hoặc biến mất trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Nguyên nhân ở đây có thể do
tiêu cực và tham nhũng gây nên lãng phí hoặc do thiên tai, dịch họado tác động của
nền kinh tế. 1.2.2. Lãng phí
Theo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: “Lãng phí là việc quản lý, sử dụng
tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động tài nguyên thiên nhiên không hiệu quả. Ðối
với lĩnh vực đã định mức, tiêu chuẩn, chế độ do quan nhà nước thẩm quyền
ban hành thì lãng phí việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản nhà
nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước tài nguyên thiên nhiên
vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định”.
Lãng phí trong đầu tư là gì? Theo ý kiến của các chuyên gia lãng phí trong đầu tư
thể hiểu việc quản lý, sử dụng vốn đầu không mang lại hiệu quả như mong
muốn, mà nguyên nhân của sự lãng phí này là xuất phát từ sự thiếu trách nhiệm, thiếu
năng lực của các cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư và các cơ quan tư vấn, thiết kế,
quan thẩm định, quan trực tiếp quản vốn trong quá trình thực hiện đầu tư. Theo
ý kiến các chuyên gia trong công tác quản dự án và quan niệm của các nhà tài trợ thì
đó các khoản chi không đem lại hiệu quả cho dự án hoặc phần chi cao hơn các quy
định hợp pháp, chi không đúng quy định của dự án... căn cứ theo mục đích và động cơ
của các hành động trên mà có thể coi đó là lãng phí hay tham ô. 2. Nguyên nhân tình
trạng thất thoát, lãng phí trong ĐTXDCB của nhà nước
2.1. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư
lOMoARcPSD| 58707906
Thất thoát, lãng phí trước hết từ công tác lập quy hoạch, kế hoạch. Đây khâu quan
trọng để đảm bảo đầu tư hiệu quả phát triển lâu dài. Hiện nay, công tác quy hoạch
vẫn tồn tại nhiều bất cập, thiếu tính chiến lược tổng thể giữa các cấp, ngành; thiếu tầm
nhìn dài hạn, khôngt thực; thiếu sự kết hợp giữa các loại quy hoạch, giữa quy hoạch
xây dựng vùng và quy hoạch xây dựng đô thị,...nên nhiều dán phải điều chỉnh hoặc
di chuyển, kéo dài thời gian xây dựng công trình.
Việc lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi chưa chú trọng
đúng mức khâu điều tra thực tế những ảnh hưởng của công trình đối với môi trường và
xã hội; lựa chọn địa điểm xây dựng và phân tích dự án đầu không chính xác dẫn đến
việc dự án sau khi thực hiện xong nhưng hoạt động kém hiệu quả.
Thất thoát trong khâu quyết định đầu thường do chủ đầu không tính toán,
phân tích kỹ dự án trước khi quyết định đầu tư, dẫn đến việc lựa chọn địa điểm xây
dựng công trình không hợp lý; xác định quy mô xây dựng quá lớn so với nhu cầu thực
tế; lựa chọn phương án kỹ thuật, công nghệ không phù hợp; chưa quan tâm đúng mức
đến hiệu quả sử dụng vận hành công trình khi hoàn thành. Việc phân tích hiệu quả
đầu một yêu cầu rất quan trọng, nếu không chú trọng khâu này sẽ dẫn đến khi công
trình hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng mới bộc lộ những bất cập, như không sử
dụng hết công suất thiết kế hoặc không phát huy hiệu quả.
Ngoài ra, thất thoát lãng phí còn do đầu tư xây dựng công trình không đảm bảo cảnh
quan, môi trường, làm tăng chi phí nhân công, vật tư, thiết bị, xử lý môi trường…
2.2. Giai đoạn thực hiện đầu
Giai đoạn thực hiện dự án đầu tư, thất thoát, lãng phí thường xảy ra những công
việc sau:
Khâu đền bù giải phóng mặt bằng
Việc xác định giá trị đền không phải chuyện đơn giản rất dễ dẫn đến thất
thoát vốn. Biểu hiện của thất thoát trong công tác đền bù thường việc bớt xén tiền
đền của dân do người dân không nắm khung giá đền do Nnước quy định,
hoặc tiền đền không thoả đáng, không đúng đối tượng; chi trả tiền đền không
theo định mức, khung giá Nhà nước và địa phương ban hành; móc ngoặc, câu kết với
người được đền để nâng giá trị đền bù, khai khống diện tích, khối lượng tài sản được
đền bù; làm giả hồ sơ, khai khống số hộ được đền bù và chi phí đền bù để rút tiền của
Nhà nước, từ đó làm tăng thêm vốn đầu tư xây dựng công trình.
Việc đền không thoả đáng, không thực hiện đúng quy định, dẫn đến việc bàn giao
mặt bằng xây dựng không đúng thời hạn quy định, làm chậm tiến độ thi công công
lOMoARcPSD| 58707906
trình, gây lãng phí, thất thoát vốn. Trong thực tế, việc chậm tiến độ thi công do không
giải phóng được mặt bằng xảy ra rất nhiều dự án. Tiến độ thi công chậm trong khi
công trình xây dựng bằng nguồn vốn đi vay sẽ làm tăng lãi vay, từ đó làm tăng chi phí
dự án.
Khâu khảo sát, thiết kế xây dựng
Thất thoát trong khâu khảo sát xảy ra do công tác khảo sát không đảm bảo chất
lượng, chưa sát với thực tế hoặc không đúng với những tiêu chuẩn, quy chuẩn của Nhà
nước dẫn đến phải khảo sát lại, việc thi công phải thay đổi, bổ sung, điều chỉnh nhiều
lần...gây lãng phí thời gian, kinh phí. Bên cạnh đó, việc thiết kế không phù hợp với quy
hoạch xây dựng, với thiết kế công nghệ, không tuân thủ các quy trình kỹ thuật, tiêu
chuẩn xây dựng sẽ phải thiết kế lại, cũng gây lãng phí không nhỏ. Chất lượng thiết kế
không đảm bảo, không đồng bộ gây lún, nứt; phương án thiết kế không hợp lý, sử dụng
vật tư, vật liệu không phù hợp với loại công trình; việc chọn hệ số an toàn quá cao…dẫn
đến lãng phí.
Khâu lựa chọn nhà thầu
Việc lựa chọn nhà thầu xây dựng ở nước ta hiện nay còn nhiều biểu hiện tiêu cực,
như: Thông đồng, dàn xếp trong đấu thầu; Có sự thống nhất trước giữa các đơn vị tham
gia đấu thầu để một đơn vị trúng thầu; Mua bán thầu; Bỏ giá thầu thấp dưới giá thành
xây dựng công trình
Từ thực tế cho thấy, việc lựa chọn nhà thầu xây dựng, xác định giá gói thầu, giá
trúng thầu, thẩm định kết quả đấu thầu ở nhiều dự án thiếu sự minh bạch; phương thức
liên danh, liên kết giữa các nhà thầu còn nhiều bất cập, đây chính những nguyên nhân
dẫn đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng.
Khâu thi công xây lắp công trình
Thất thoát trong khâu thi công xảy ra do nhà thầu thi công không đảm bảo khối
lượng xây lắp theo thiết kế được phê duyệt hoặc thi công không đúng thiết kế dẫn đến
phải phá đi làm lại. Thất thoát từ vật liệu xây dựng cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Vật liệu xây dựng đi qua nhiều khâu trung gian, nâng giá, gửi giá, tăng khối lượng,
dùng vật liệu giá thấp (chất lượng thấp); ăn bớt vật liệu, nên chất lượng công trình
không đảm bảo. Việc giám sát thi công không chặt chẽ, cán bộ vấn, giám sát làm
ngơ trước những vi phạm của nhà thầu thi công.
Trong việc bố trí và sử dụng vốn
lOMoARcPSD| 58707906
Nhiều dự án vi phạm thủ tục đầu tư nhưng vẫn được phê duyệt kế hoạch đầu tư khi
chưa có kế hoạch vốn.
Bố trí kế hoạch đầu phân tán, dàn trải, thiếu tập trung khiến nhiều dự án phải chờ
vốn, kéo dài tiến độ qua nhiều năm. Việc đầu tư dàn trải dẫn đến tình trạng kéo dài thời
gian thi công các công trình, dự án; nguồn vốn ngân sách đã eo hẹp lại phải rải cho
nhiều dự án cùng dở dang, chậm đưa vào sử dụng nên không phát huy hiệu quả đầu tư.
Bên cạnh đó là việc sử dụng vốn sai mục đích, không đúng chế độ...
Do tiến độ giải ngân vốn chậm nên bên B phải vay vốn, chạy vốn dẫn đến tiêu cực
trong cấp phát vốn, làm chậm tiến độ của dự án, kéo dài thời gian xây dựng công trình,
tăng chi phí lãi vay và các khoản chi phí không cần thiết khác gây nên thất thoát, lãng
phí vốn. Mặt khác, cũng do giải ngân vốn không đúng kế hoạch, nthầu phải đi vay
vốn chịu lãi suất để xây dựng công trình nhưng khoản lãi vay này lại không được bên
chủ đầu thanh toán, dẫn đến tình trạng nđọng trong đầu xây dựng, đẩy các doanh
nghiệp xây dựng vào tình trạng khó khăn, phá sản.
Trong nghiệm thu, thanh toán khối lượng hoàn thành
Thất thoát giai đoạn nghiệm thu, thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành do
việc áp dụng sai đơn giá, sai các định mức kinh tế kỹ thuật, tính toán không chính xác
khối lượng xây lắp hoàn thành, nhà thầu thông đồng với cán bộ vấn nghiệm thu
khống.
2.3. Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
giai đoạn này, thất thoát, lãng phí vốn đầu vẫn xảy ra do công trình đã hoàn
thành xây dựng, đã bàn giao nhưng vẫn chưa được nghiệm thu, quyết toán. Khi lập
quyết toán, các bên có liên quan thông đồng với nhau để quyết toán khống khối lượng
công; quyết toán sai hoặc khống khối lượng, chủng loại vật tư, thiết bị; áp dụng sai các
định mức, đơn giá của Nhà nước, địa phương.
KL: Nguyên nhân của tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB:
Do chế quyết định đầu còn nhiều bất cập. Cơ chế quyết định đầu trao quá nhiều
quyền cho người thẩm quyền quyết định đầu tư, chủ đầu tư.Việc quyết định đầu
do cá nhân quyết định nên rất dễ dẫn đến tiêu cực,lợi ích nhóm chi phối. Nguy hại hơn
là không có ngườichịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Thực tế đã có nhiều công trình
đầu không hiệu quả, gây lãng phí, làmthất thoát lớn vốn nhà nước nhưng không
cá nhân nào chịu trách nhiệm.
lOMoARcPSD| 58707906
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực đầu tư xây dựng
bản vốn ngân sách nhà nước chưa chế tài quy định xử trách nhiệm của người
thẩm quyền quyết định đầu tư, chủ đầu tư. Năm 2014, Nhà nước đã ban hành Luật
Đầu tư công, quy định việc quản sử dụng vốn đầu công; quản nhà nước về
đầu tư công, quyền, nghĩa vvà trách nhiệm của cơ quan đơn vị, tổ chức, cá nhân liên
quan đến hoạt động đầu công. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa được nghị định của
Chính phủ hướng dẫn thi hành luật, do vậy để Luật Đầu công thực sự phát huy tác
dụng trong thực tiễn.
Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí tài sản nhà
nước nói chung và tham nhũng, thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng nói riêng chỉ
thực sự có hiệu quả khi chúng ta chỉ ra được nguyên nhân căn bản ca tình trạng tham
nhũng và trong tay những công cụ pháp lý đủ mạnh. Cần khẩn trương xây dựng và
ban hành Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công, trong đó nêu
trách nhiệm xử trách nhiệm đối với người thẩm quyền quyết định đầu tư,
chủ đầu tư dự án, công trình xảy ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả, trong đó:
- Xác định rõ các hành vi của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, chủ đầu tư bịcoi
là vi phạm.
- Các hình thức xử lý trách nhiệm: Bồi thường vật chất, xử lý hành chính, xử lý hìnhsự
đối với các hành vi vi phạm.
- Quy định rõ thời hiệu xử lý vi phạm.
- Quy trình, thủ tục xử lý trách nhiệm của người vi phạm.
- Các điều kiện, biện pháp bảo đảm hiệu quả các hình thức xử vi phạm của các cơquan
thẩm quyền, đặc biệt hình thức bồi thường vật chất- Các hình thức công khai
việc xử lý vi phạm đối với người vi phạm 3.Thực trạng thất thoát, lãng phí trong
đầu tư
3.1.Thực trạng, thất thoát lãng phí trong những năm qua
Theo thống của bộ Kế hoạch đầu tư nhận thấy số dự án gây thất thoát, lãng
phí xu hướng ngày càng tăng cao nhiều trong giai đoạn 2010-2015 gây tổn thất
một nguồn vốn lớn của nhà nước

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58707906 I.
5 NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ
1. Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. 1.1. Khái niệm
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đòi hỏi phải có sự
phối hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ trên tất cả mọi lĩnh
vực kinh tế. Cả hai chiều quản lý đều phải có trách nhiệm chung trong việc thực hiện
mục tiêu của ngành cũng như của lãnh thổ. Sự kết hợp này sẽ tránh được tư tưởng bản
vị của bộ, ngành, trung ương và tư tưởng cục bộ địa phương của chính quyền địa
phương. Theo đó, Bộ chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế do mình thành lập
và Ủy ban nhân dân địa phương chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế của địa
phương. Từ đó, dẫn đến tình trạng tranh chấp, không có sự liên kết giữa các đơn vị kinh
tế trên cùng một địa bàn lãnh thổ, do đó hiệu quả thấp.
1.2. Nội dung kết hợp
Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện như sau:
-Thực hiện quản lý đồng thời cả hai chiều: Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh
thổ. Có nghĩa là, các đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng thời nó cũng
phải chịu sự quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số nội dung theo chế độ quy định.
-Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và theo lãnh
thổ, không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
-Các cơ quan quản lý nhà nước theo mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quản hiệp quản, tham quản với cơ quan nhà
nước thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của Nhà nước. Đồng quản là cùng có quyền
và cùng nhau ra quyết định quản lý theo thể thức liên tịch. Hiệp quản là cùng nhau ra
quyết định quản lý theo thẩm quyền, theo vấn đề thuộc tuyến của mình nhưng có sự
thương lượng, trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định của mỗi bên tương đắc với nhau.
Tham quản là việc quản lý, ra quyết định của mỗi bên phải trên cơ sở được lấy ý kiến của bên kia.
1.3. Sự cần thiết phải kết hợp quản lí theo ngành với lãnh thổ
Nhằm đảm bảo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trong nền kinh tế quốc dân. Các đơn
vị thuộc các ngành kinh tế - kĩ thuật nằm trên các địa bàn lãnh thổ khác nhau cũng đều
chịu sự quản lí nhà nước theo ngành của các bộ (trung ương) và của các cơ sở chuyên
môn (ở địa phương). Trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của luật pháp, quản lí lOMoAR cPSD| 58707906
theo ngành bảo đảm cơ cấu ngành phát triển hợp lí trong phạm vi cả nước và có hiệu
quả nhất. Các đơn vị kinh tế nằm trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ cũng chịu sự
quản lí nhà nước theo lãnh thổ của chính phủ Trung Ương trên tổng thể, và của chính
quyền địa phương các cấp theo quy định phân cấp của luật pháp. Trong cơ cấu quyền
lực và phân công trách nhiệm quản lí hành chính - nhà nước, chính phủ quản lí thống
nhất các ngành và các đơn vị lãnh thổ; chính quyền địa phương là người chịu trách
nhiệm quản lí kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ, đại biểu cho quyền lợi nhân dân ở
địa phương; đồng thời là một bộ phận của quyền lực nhà nước thống nhất ở địa phương,
là người đại diện cho nhà nước (Trung ương) ở địa phương. Vì những lí do đó nên nhất
thiết phải kết hợp hai mặt: quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ. Trên cơ sở phân
định rõ chức năng quản lí, các quy định về phân công, phân cấp và xây dựng nội dung
và mức độ thống nhất quản lí ngành cho từng ngành theo đặc điểm ngành; nội dung và
mức độ quản lí theo lãnh thổ; nội dung, mức độ kết hợp quản lí theo ngành với quản lí
theo lãnh thổ, nhằm phát huy cao độ nhất hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả nước, của
từng vùng kinh tế, từng địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
thống nhất lợi ích quốc gia và lợi ích từng địa phương trong sự phát triển một cách có
lợi nhất những lợi thế của địa phương. Sự kết hợp và thống nhất hai mặt quản lí chủ yếu được thể hiện: 1)
Tổ chức điều hoà, phối hợp các hoạt động của tất cả các đơn vị thuộc các
ngành,các thành phần kinh tế, các cấp quản lí, cũng như các tổ chức văn hoá, xã hội,
an ninh, quốc phòng để phát triển nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp lí nhất, có
hiệu quả nhất về ngành cũng như về lãnh thổ. 2)
Quản lí công việc chung của quốc gia trên phạm vi cả nước, cũng như trên
từngđơn vị hành chính - lãnh thổ kết hợp hài hoà lợi ích chung của cả nước, cũng như
lợi ích của địa phương. 3)
Phục vụ tốt các hoạt động của tất cả các đơn vị nằm trên lãnh thổ, như về kết
cấuhạ tầng, bảo vệ môi trường và tài nguyên, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, an
ninh, trật tự công cộng, phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của dân cư sống và làm
việc trên lãnh thổ, bất kể là thuộc cơ quan, xí nghiệp trung ương hay địa phương.
1.4. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc
Việc kết hợp quản lý ngành với quản lý lãnh thổ có vai trò rất lớn đối với việc phát
triển đất nước về mọi lĩnh vực. Chính vì vậy Nhà nước ta đã có chủ trương, chính sách
áp dụng biện pháp kết hợp này trên phạm vi cả nước, với nhiều địa phương và các doanh
nghiệp, các nhà máy, khu công nghiệp… lOMoAR cPSD| 58707906
Nhà nước ta đã có những quy định rất cụ thể đối với việc quản lý ngành gắn chặt
với quản lý lãnh thổ đến tất cả cơ quan địa phương, cơ quan quản lý ngành… Theo đó
quy định các cơ sở, doanh nghiệp nào thành lập ở địa phương nào phải chịu sự quản lý
về hành chính, về mặt pháp luật, xã hội, kinh tế, kỹ thuật… của cơ quan quản lý ngành
và địa phương. Áp dụng quy định của Nhà nước thì hiện nay đã có nhiều cơ quan ngành
và cơ quan chính quyền địa phương thực hiện nghiêm chỉnh, nhằm đạt được hiệu quả
tốt nhất, có lợi cho cả 2 bên:
+, Quản lý ngành sẽ hoạch định sự phát triển cho doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp đó.
+, Còn quản lý lãnh thổ tạo điều kiện pháp lý, được pháp luật bảo vệ, cung cấp nguồn
nhân lực, nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp kinh tế.
Từ đó ta có thể nhận thấy sự tác động qua lại, hỗ trợ nhau giữa quản lý ngành và quản
lý lãnh thổ. Cho thấy sự kết hợp này làm tăng tính hiệu quả, đạt mức phát triển tối đa
tránh những khó khăn, rủi ro.
Các doanh nghiệp kinh doanh cùng với cơ quan địa phương hiện nay ngày càng có sự
phổi hợp quản lý rất chặt chẽ, ví dụ như:
Khu công nghiệp Bình Dương thuộc tỉnh Bình Dương của vùng Đông Nam Bộ. Có
các ban quản lý do thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, là cơ quan trực thuộc
UBND tỉnh Bình Dương, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế, chương trình
kế hoạch công tác và kinh phí hoạt động của UBND tỉnh. Chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn
và kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của các Bộ, Ngành, lĩnh vực có liên quan, có
trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh trong
công tác quản lý khu công nghiệp.
Khu công nghiệp Bình Dương đã thể hiện rất rõ sự kết hợp giữa quản lý ngành với
quản lý lãnh thổ, thể hiện được sự hỗ trợ, phối hợp, đem lại sự phát triển không chỉ đối
với khu công nghiệp mà còn đưa tỉnh Bình Dương trở thành một trong những tỉnh phát
triển hàng đầu của Đông Nam Bộ.
Từ đó chúng ta có thể thấy việc tuân thủ và áp dụng nguyên tắc kết hợp giữa quản lý
ngành với quản lý lãnh thổ của các cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp. Có sự phối hợp,
hỗ trợ lẫn nhau, cùng tuân thủ pháp luật và dưới sự bảo vệ của pháp luật.
Tuy nhiên việc thực hiện nguyên tắc vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế: -
Thứ nhất: đó là việc ” xé rào” trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm củađịa
phương trái với quy định của cơ quan quản lý ngành, chức năng. Có một số cơ quan địa
phương vì lợi ích nhất thời mà bỏ qua văn bản thủ tục hành chính mà pháp luật đã quy lOMoAR cPSD| 58707906
định, để cấp giấy phép hoạt động đó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của đất nước. -
Thứ hai: là sự phối hợp không chặt chẽ trong việc tổ chức, thực hiện các quyđịnh
của ngành ở địa phương. -
Thứ ba: đó là việc bất cập trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các
quyđịnh của ngành tại địa phương.
Điều đó đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các ban ngành phải không ngừng nâng cao việc
kết hợp chặt chẽ giữa quản lý ngành với quản lý lãnh thổ, để khắc phục những hạn chế,
nhằm phát triển kinh tế địa phương và của đất nước.
1.5. Kiến nghị để thực hiện tốt nguyên tắc
 Để thực hiện nguyên tắc trên cần phải tăng cường công tác lập pháp và tư pháp. -
Về lập pháp, phải từng bước đưa mọi quan hệ kinh tế vào khuôn khổ pháp luật.
Cácđạo luật phải được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, có chế tài rõ ràng, chính xác và đúng mức. -
Về tư pháp, mọi việc phải được thực hiện nghiêm minh (từ khâu giám sát, phát
hiện,điều tra, công tố đến khâu xét xử, thi hành án…) không để xảy ra tình trạng có tội
không bị bắt, bắt rồi không xét xử hoặc xét xử quá nhẹ, xử rồi mà không thi hành án hoặc thi hành •
Đẩy mạnh hơn nữa chuyên môn hóa theo ngành và phân bố sản xuất theo chức
năng nhằm thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển •
Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan chuyên môn ở địa phương quản lí tốt về
tổ chức, nhân sự, chuyên môn để đảm bảo đạt được các chỉ tiêu của ngành. •
Tạo điều kiện thuận lợi về nhân lực, tài nguyên, điều kiện vật chất đảm bảo cho
các doanh nghiệp ở địa phương hoạt động có hiệu quả cao. •
Có sự phân công rành mạch cho các cơ quan quản lí theo ngành và lãnh thổ,
không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
2. Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa các lợi ích trong đầu tư. 2.1. Khái niệm:
Đầu tư tạo ra lợi ích. Có nhiều loại lợi ích như lợi ích kinh tế và xã hội, lợi ích Nhà
nước, tập thể và cá nhân, lợi ích trực tiếp và gián tiếp, lợi ích trước mắt và lâu dài…
Thực tiễn hoạt động kinh tế cho thấy, lợi ích kinh tế là động lực quan trọng thúc đẩy
mọi hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của các đối tượng khác nhau, vừa có lOMoAR cPSD| 58707906
tính thống nhất vừa có mâu thuẫn. Do đó, kết hợp hài hòa lợi ích của mọi đối tượng
trong hoạt động kinh tế nói chung, đầu tư nói riêng sẽ tạo động lực và những điều kiện
làm cho nền kinh tế phát triển vững chắc, ổn định. 2.2. Biểu hiện:
Trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc này biểu hiện ở sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của
xã hội, cá nhân người lao động, tập thể người lao động, chủ đầu tư, chủ thầu xây dựng,
cấc cơ quan thiết kế, tư vấn, cung cấp dịch vụ đầu tư. Sự kết hợp này được thể hiện
bằng các chính sách của nhà nước, bằng hợp đồng thỏa thuận giữa các đối tượng tham
gia quá trình đầu tư và còn được thực hiện thông qua luật đấu thầu. 2.3.
Sự cần thiết phải tuân thủ nguyên tắc:
Nếu tuân thủ nguyên tắc này thì hoạt động đầu tư mới thực hiện được. Khi nguyên tắc
này được đảm bảo thì mới đảm bảo hiệu quả của hoạt động đầu tư. Khi các lợi ích đều
được kết hợp hài hòa trong đầu tư sẽ tạo điều kiện và động lực để nền kinh tế phát triển
vững chắc và ổn định. 2.4. Liên hệ:
Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hòa các loại lợi ích thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích
của xã hội mà đại diện là Nhà nước với lợi ích của cá nhân và tập thể người lao động,
giữa lợi ích và chủ đầu tư, nhà thầu, các cơ quan thiết kế, tư vấn, dịch vụ và người
hưởng lợi. Sự kết hợp này được bảo đảm bằng các chính sách của Nhà nước, sự thỏa
thuận theo hợp đồng giữa các đối tượng tham gia quá trình đầu tư, sự cạnh tranh của
thị trường thông qua theo đấu thầu nhất định.
Trong gói kích cầu chống suy giảm kinh tế trong những năm vừa qua của chính phủ,
các chính sách của chính phủ đưa ra trong việc quản lí hoạt động đầu tư nói riêng và
hoạt động kinh tế nói chung, đã quan tâm đến lợi ích của nhiều nhóm đối tượng, cụ thể
là lợi ích của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều nguy cơ phá sản trong khủng hoảng
thông qua gói kích cầu hỗ trợ 4% lãi suất cho DN vừa và nhỏ; chính sách xây nhà ở cho
người có thu nhập thấp… Các chính sách này cũng nhằm tới mục tiêu tạo việc làm cho
người lao động, tăng trưởng kinh tế để nâng cao mức phúc lợi xã hội cho người dân. 2.5. Hạn chế:
Tuy nhiên, đối với một số hoạt động đầu tư và trong những môi trường nhất định, giữa
lợi ích của Nhà nước và các thành viên tham gia có xảy ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn lợi
ích xuất hiện thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày và nếu xử lý không khéo có thể lOMoAR cPSD| 58707906
gây ra những vấn đề đạo đức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hoạt động lành mạnh của
các tổ chức và của toàn bộ xã hội. 2.6. Giải pháp:
Xem xét tình hình ở nước ta thì thấy nhiều người đưa ra chính sách chưa học được các
bài học trên. Bất luận do thiếu hiểu biết, vô tình hay hữu ý nếu tổ chức có quyền càng
lớn lại đưa ra các quy định khuyến khích mâu thuẫn lợi ích thì tai họa càng lớn. Phải rà
soát lại tất cả các chính sách như vậy và sửa đổi bãi bỏ. Chúng ta chưa có các quy định
rõ ràng, các thủ tục minh bạch về tránh mâu thuẫn lợi ích. Các tổ chức cũng chưa chú
ý đến vấn đề này nên cũng không có các quy định rõ ràng. Thậm chí việc lợi dụng chức,
quyền, thông tin để mưu lợi riêng là rất phổ biến đốt với các quan chức mọi cấp ở nước
ta nhuận nhiều vụ việc đã được báo chí nêu ra và vô vàn vụ không được nhắc tới, gây
bất bình trong nhân dân, ảnh hường xấu đến sự phát triển của đất nước. Để mọi người,
mọi tổ chức hiểu kỹ hơn về mâu thuẫn lợi ích, để các tổ chức có quy chế tránh mâu
thuẫn lợi ích của mình, để Nhà nước có luật, chính sách, các quy chế, thủ tục rõ ràng
nhằm tránh mâu thuẫn lợi ích là những việc làm thiết thực trong công cuộc chống tham
nhũng, tăng niềm tin, phát triển kinh tế và xã hội.
3. Tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt Nam
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của nhà
nước lên nền kinh tế quôc dân nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế trong
và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất
nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. 3.1. Khái niệm a. Tiết kiệm
-Là việc giảm bớt hao phí trong sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và
tài nguyên nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định.
-Đối với việc quản lý, sủ dụng tài sản nhà nước: Tiết kiệm là việc sử dụng ở mức thấp
hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng đạt cao hơn mục tiêu đã định. b. Hiệu quả
-Hiệu quả kinh tế diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà
không cắt giảm loại hàng hoá khác
-Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó lOMoAR cPSD| 58707906
-Thực hành tiết kiệm chống lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên chủ trương, đường lối,
cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện gắn với kiểm tra, giám sát.
-Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải căn cứ vào định mức, tiêu chuẩn, chế độ và
quy định khác của pháp luật.
3.2. Thực trạng thực hành nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý nhà
nước về kinh tế ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, các tổ chức doanh nghiệp kinh tế và công ty trong nước đã
gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh và đầu tư. Rất nhiều doanh nghiệp đã
chính thức tuyên bố phá sản hay hoạt động cầm chừng, một số doanh nghiệp ra đi không hẹn ngày trờ lại.
Tuy vậy, hầu hết các doanh nghiệp vẫn còn thói quan chi tiêu phung phí và bừa bãi.
Ngoài ra họ cũng đang lãng phí rất lớn các nguồn lực quý báu của mình như nguồn lực
nhân sự, cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, lãng phí nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay
phải trả lãi từ bên ngoài, lãng phí thương hiệu doanh nghiệp, các cơ hội đầu tư và hợp
tác kinh doanh sinh lợi, lãng phí trí tuệ và chất xám của nhân viên, lãng phí các mỗi
quan hệ liên doanh liên kết từ bên ngoài….
Nguyên tắc thực hành tiết kiệm:
-Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải gắn với cải cách hành chính và bảo đảm hoàn
thành nhiệm vị được giao, không để bị ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức.
-Thực hiện phân cấp quản lý, phối hợp chặt chẽ giữa cấp, các ngành, cơ quan, tổ chức
trong thực hiện nhiệm vụ được giao gắn với trách nhiệm của người đứng đầu, trách
nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
-Bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm vai trò giám sát của quốc hội, hội
đồng nhân dân các cấp, mặt trận tổ quốc việt nam, các tổ chức thành viên của mặt trận
tổ quốc việt nam và nhân dân trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Các lĩnh vực quan trọng trong quá trình thực hành tiết kiệm chống lãng phí ở VN:
-Quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước (mua sản phẩm thiết bị, chi đầu tư,
nghiên cứu, xây dựng, lương, chi khác…).
-Quản lý và sử dụng trụ sở làm việc, nhà công và các công trình phúc lợi công cộng.
-Quản lý và khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ( giấy phéo khai thác khoáng sản) lOMoAR cPSD| 58707906
-Đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động trong khu vực nhà nước.
-Quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp.
-Sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Ví dụ: Bột ngọt Vedan sản xuất bột ngọt tiết kiệm chi phí đầu tư cho hệ thống nước thải
đã gây ra hậu quả nặng nề ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và cuộc sống của
người dân. Để giải quyết vụ việc, Vedan phải bỏ ra một khoản tiền lớn hơn cho việc xử
lý ô nhiễm môi trường và đền bù tổn thất cho người dân xung quanh do ô nhiễm nguồn nước.
Quan điểm sử dụng và quản lý có hiệu quả các nguồn lực kinh tế VN:
-Huy động và kết hợp tất cả các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển.
-Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đảm bảo tăng trường kinh tế, hiệu quả và bền vững.
-Kết hợp giữa nhà nước và thị trường trong phân bổ, sử dụng nguồn lực.
-Thu hút và sử dụng nguồn lực, kết hợp với công bằng xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường.
3.3. Giải pháp thực hiện nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
-Đầu tư có trọng điểm, quản lý, sủ dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
-Cải cách tổ chức bộ máy quản lý kinh tế theo hướng gọn nhẹ, linh hoạt.
-Giảm thiểu các chi phí vật tư, thiết bị cho sản xuất dựa trên cơ sở quản lý và sử dụng có hiệu quả.
-Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Kết luận:
Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế là cần thiết với mọi
quốc gia, nó đặc trưng cho thể chế chính trị của đất nước. Việc thực hiện nguyên tắc
tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế nhằm mục đích điều hoà mâu
thuẫn các mặt lợi ích, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam cần có nhiều
những doanh nghiệp cố gắng tiết kiệm và “thực hành tiết kiệm” một cách nghiêm túc
và tích cực để trở thành mạnh, là ăn hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong nước và có thể
vươn đến tầm cỡ thế giới.
4. Nguyên tắc thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp hài hòa giữa kinh tế và xã hội lOMoAR cPSD| 58707906
4.1.Lý thuyết: Slide + giáo trình 117
4.2.Thực tế ở Việt Nam
Ở Việt Nam , chính trị và kinh tế không thể tách rời vì chính sách của Đảng là cơ sở
của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển không ngừng của nền kinh
tế. Trong cương lĩnh quản lí của Đảng cũng nói rõ: phát triển kinh tế nhưng việc quan
tâm đến đời sống nhân dân phải được coi trọng hành đầu.. Phát triển kinh tế nhưng
không được làm gia tăng sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền.
Để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chũ
nghĩa thì chính trị và kinh tế luôn đi cùng nhau được thể hiện qua tất cả chủ trương
chính sách của Đảng và Chính Phủ. Cơ chế đó thể hiện ở việc: Đảng vạch ra đường lối
chủ trương phát triển kinh tế- xã hội, Đảng chỉ rõ con đường biện pháp và phương tiện
để thực hiện đường lối đãđề ra và Chính Phủ là người đôn đốc, kiểm tra viêc thực hiện,
Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hàng năm được Quốc hội thông qua thì nhiệm vụ
kinh tế luôn song hành với nhiệm vụ xã hội. Tức là, ngoài những chỉ tiêu về kinh tế
như: tổng sản phẩm trong nước, giá trị tăng thêm của mỗi ngành, tổng kim ngạch XNK,
chỉ số CPI,… thì còn có các chỉ tiêu về xã hội như: tạo việc làm, tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ
trẻ em bị suy dinh dưỡng,… và các chỉ tiêu về môi trường như: tỷ lệ che phủ rừng, tỷ
lệ KCN- khu chế xuất có có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 60%,…
Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế:
Hạn chế trong việc phát triển kinh tế - xã hội
Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong 10
năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia
của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm
được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng
nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản
trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường,
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.Nhiều vấn đề bức xúc nảy
sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải
quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa phẩm độc hại, lai
căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên bị khai thác bừa lOMoAR cPSD| 58707906
bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến
Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được
thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ
với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống
chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với
nhiệm vụ.Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất lượng công vụ thấp.
Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều tiến bộ
song cũng còn nhiều hạn chế.Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều bất
cập.Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy
dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật.Hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp
còn lúng túng. Hạn chế trong chính sách
Ở Việt nam, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì chính sách của Đảng là cơ
sở của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế. Vai trò của Nhà nước và quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư là rất quan
trọng, nếu không được đặt đúng chỗ và không sử dụng đúng công cụ mà Nhà nước có
trong tay thì Nhà nước sẽ trở thành vật cản của đầu tư phát triển và sẽ không thể có một
xã hội mà trong đó mọi tổ chức, cá nhân đều hăng hái bỏvốn đầu tư cho phát triển.Nhà
nước đóng vai trò là người tạo ra và giải quyết sự hài hòa các loại lợi ích để khuyến
khích, động viên mọi nguồn lực cho phát triển.Giải quyết một cách hài hòa giữa lợi ích
của nhà đầu tư và lợi ích của xã hội bằng công cụ quản lý gián tiếp (thuế và ưu đãi đầu
tư).Tuy nhiên , một thực tế diễn ra trong những năm qua đó là sự can thiệp quá sâu của
đội ngũ cán bộ Đảng vào trong quản lý kinh tế, gây ra tình trạng giáo điều, khó khăn
cho quản lý kinh tế, quyền lực bị phân tán. Cơ chế hiện tại chưa thực sự đáp ứng đầy
đủ yêu cầu về quản lý đầu tư, nhất là chưa phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước về
đầu tư với quản lý hoạt động đầu tư cụ thể, quản lý vĩ mô với quản lý vi mô trong đầu
tư. Việc ban hành các chính sách còn chưa đồng bộ tạo ra sự bất đồng trong việc triển
khai thực hiện, các qui hoạch còn chưa sát với tình hình thực tiễn, khiến cho việc thực
hiện không đạt yêu cầu đề ra. Văn bản Pháp luật còn nhiều bất cập, tạo ra những kẽ hở
gây ra tình trạng lách luật…..
4.3. Một số giải pháp khắc phục để thực hiện nguyên tắc tốt hơn
Cải cách theo hướng tích cực phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan
Đảng và chính quyền. Với mục tiêu: lOMoAR cPSD| 58707906
-Hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các quyết định của nhà đầu tư
-Tôn trọng tối đa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp
-Đổi mới chức năng của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh theo hướng
khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn nhà đầu tư, doanh nghiệp là chính.
-Đồng thời, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng được hoàn thiện hơn, bổ sung sửa
đổi cho phù hợp với tình hình thực tế, quan điểm chiến lược trong từng giai đoạn.
Xây dựng hệ thống chính trị chất lượng, hiệu quả, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, xd các biện pháp chiến lược để ngăn chạn, đầy đủ tình trạng suy thoái , giải quyết
hài hòa các loại lợi ích nhà đầu tư và lợi ích của xã hội để khuyến khích đầu tư
5. Nguyên tắc tập trung dân chủ
5.1. Lý thuyết: Slide+ giáo trình 118
5.2. Hiện nay Việt Nam đã và đang thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ:
Trong nền kinh tế thị trường XHCN nước ta, sự can thiệp của nhà nước nhằm điều
chỉnh tính tự phát của thị trường, đảm bảo tính định hướng XHCN. Nhà nước đang phát
huy vai trò quản lý khi tập trung thống nhất quản lý 1 số lĩnh vực kinh tế then chốt
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế- xã hội, đồng thời quan tâm đến lợi ích của
người lao động là những động lực quan trọng đảm bảo sự thành công của các hoạt động kinh tế xã hội.
Trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng ở hầu hết các
khâu công việc, từ lập kế hoạch đến thực hiện kế hoạch, ở việc phân cấp quản lý và
phân công trách nhiệm, ở cơ cấu bộ máy tổ chức với chế độ một thủ trưởng chịu trách
nhiệm và sự lãnh đạo tập thể, ở quá trình ra quyết định đầu tư…
Nguyên tắc tập trung dân chủ được nước ta thực hiện rất rõ nó được quy định thành các
văn bản luật. Ví dụ: Nghị định 12 số 12/2009/ND/CP của Chính Phủ về quản lý dự án
đầu tư xd công trình, thông tư 03/2009/TT/BXD quy định chi tiết một số nội dung của
nghị định 12/2009/ND/CP. Hay gần đây nhất là Nghị định 59/2015/ND-CP của Chính
Phủ về quản lý dự án đầu tư có hiệu lực 5/8/2015 quy định chi tiết một số nội dung thi
hành Luật Xây dựng năm 2014 về quản lý dự án đầu tư xây dựng, gồm: Lập, thẩm định,
phê duyệt dự án; thực hiện dự án; kết thúc xây dựng đưa công trình của dự án vào khai
thác sử dụng; hình thức và nội dung quản lý dự án đầu tư xây dựng và đối với dự án sử
dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài
được thực hiện theo quy định của Nghị định này và pháp luật về quản lý sử dụng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài lOMoAR cPSD| 58707906
5.3. Những hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có khi vẫn còn mang tính hình thức và
những hạn chế trong quá trình thực hiện nguyên tắc này không chỉ riêng ở địa phương,
doanh nghiệp mà còn là tình hình chung của cả nước.
Việc hình thành và thông qua các quyết định, chủ trương, chính sách, phương hướng,
nghị quyết của nhà nước, của tỉnh - huyện, của đơn vị … về nguyên tắc phải thu hút
được sự đóng góp trí tuệ rộng rãi của các nhà lãnh đạo, đảng viên; phải được thảo luận
thẳng thắn, triệt để. Trên thực tế có tình hình: không ít cán bộ, doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân, không thật sự tích cực tham gia ý kiến vào việc xây dựng các văn bản trên,
đồng thời cũng không phải mọi ý kiến của người lao động đều được phản ánh tới các
chủ đầu tư, nhà quản trị, tình trạng dân trí, trình độ còn thấp cũng chính là nguyên nhân
làm hạn chế mức độ dân chủ của công nhân, người lao động. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp ý thức tự giác về dân chủ của người dân, kể cả cán bộ công nhân viên chưa cao,
đôi khi vì quá bận những công việc khác nhưng cũng có khi xem nhẹ nên không tham
gia đóng góp ý kiến. Thực tế một số trường hợp ý kiến của người lãnh đạo vẫn dường
như có sức thuyết phục quyết định cuối cùng; ý kiến thuộc thiểu số rất ít khi được đặt lại để xem xét.
Lãnh đạo của Ðảng, nhà nước là lãnh đạo tập thể, tập thể giao cho cá nhân phụ trách
một số công tác.Khi công việc thành công thì thành tích thường được quy về cá nhân
một số người lãnh đạo, còn khi thất bại trách nhiệm đổ cho tập thể. Chế độ lãnh đạo tập
thể trên thực tế chưa thật sự thúc ép người lãnh đạo phải năng động, sáng tạo, thật sự
dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Tư tưởng tập trung bao cấp trong cán bộ, công chức còn khá nặng nề, nhất là các cấp
chính quyền địa phg. Cán bộ, công chức, kể cả thủ trưởng cơ quan đv còn phổ biến tình
trạng thụ động, ngồi chờ sự chỉ đạo của cấp tên trong triển khai công việc quản lí, thiếu
tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm về những gì đã làm.
Trình độ năng lực của chủ đầu tư, cán bộ thực hiện các dự án còn nhiều hạn chế.Việc
chọn lựa người lãnh đạo đứng đầu rất quan trọng và quyết định rất lớn đến sự vận hành
của cả hệ thống tổ chức, cơ quan đó. Nguyên tắc dân chủ, tập thể đòi hỏi phải lấy phiếu
tín nhiệm của cán bộ, đảng viên về cán bộ dự kiến bổ nhiệm và chỉ xem xét người được
đa số phiếu tín nhiệm. Đa số trường hợp thì việc này diễn ra thuận lợi nhưng ở nơi bè
phái, cục bộ thì kết quả bỏ phiếu tín nhiệm không phản ánh đúng đánh giá và tín nhiệm
đối với cán bộ, người được đa số phiếu chưa hẳn đã xứng đáng. lOMoAR cPSD| 58707906
Dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam được xem là một trong những ví dụ thất bại của
trào lưu tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước đầu tư tràn lan, đầu tư ngoài ngành thiếu
chiến lược, lý do một phần chính là do năng lực của các nhà quản lý chưa có tầm nhìn,
không đảm bảo được lợi ích giữa người trồng đay và nhà máy, chưa có một nhà máy
giấy nào sản xuất lại sử dụng cây đay, hoạt động đầu tư có độ rủi ra cao, không khả thi,
khi hoạt động lỗ rất lớn nhưng không thể dừng hoạt động, phải chuyển giao với nhiều
nhà đầu tư khác như Tổng Công Ty Giấy Việt Nam, Vinapaco nhưng vẫn không cải
thiện được. Hiện nay, tổng vốn đầu tư đội lên tới 3.000 tỷ đồng mà Nhà máy vẫn chưa
được thanh lý và toàn bộ vùng nguyên liệu đay đã bị xóa xổ vì hơn 10 năm nay, nhà
máy này không hề hoạt động.
Mặt khác, một số người lợi dụng “dân chủ” để thực hiện những yêu sách vượt quá
khuôn khổ luật pháp, coi thường kỷ cương phép nước.Đặc biệt trong vấn đề thực hiện
giải phóng mặt bằng, một số người dân đã được đền bù đúng quy định nhưng vẫn cố
tình không bàn giao mặt bằng và kích động nhiều người khác tham gia đòi tăng tiền
đền bù.Một số người dân đã được giải quyết khiếu nại tố cáo đúng pháp luật, chính sách
nhưng vẫn không chịu thực hiện quyết định và đến cơ quan nhà nước nhiều lần gây rối
mất trật tự, thậm chí thách thức cả công an, cả chính quyền.
Trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng các vành đai trong công tác quản lý các dự
án đầu tư, thực hiện còn chậm tiến độ, chưa đảm bảo quyền lợi, đền bù xứng đáng cho
các hộ dân, điển hình như trong việc giải phóng mặt bằng cho các hộ gia đình ở đoạn
đường Trường Chinh, còn 335 hộ chưa thu hồi đất, việc khiếu kiện kéo dài của 29 hộ
dân điển hiền tại Đống Đa trong việc giá đất đền bù và nhà định cư, ban quản lý dự án
phát triển đô thị Hà Nội cùng UBND quận, các sở, ngành liên quan họp đối thoại với
các hộ dân để giải thích; tuy nhiên, các hộ dân chưa đồng thuận.
5.4. Giải pháp khắc phục hạn chế
Để khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, một số giải pháp như sau:
Nâng cao nhận thức trách nhiệm cho các địa phương, các ngành, các cơ sở, các doanh
nghiệp, người dân trong hoạt động đầu tư về nội dung, bản chất , thực hiện nguyên tắc.
Tập trung và dân chủ là hai thành tố cấu thành một chỉnh thể thống nhất của nguyên
tắc. Hai thành tố này ràng buộc, chế ước lẫn nhau, tập trung phải dựa trên cái nền dân
chủ và dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ
cương. Dân chủ càng được tăng cường thì càng có sự thống nhất tập trung cao. Tuyệt
đối hóa, nhấn mạnh một yếu tố nào đều không đúng, trái với bản chất của nguyên tắc. lOMoAR cPSD| 58707906
Đảm bảo vai trò của nhà nước ,tiếp tục hướng vào luận giải con đường đi lên CNXH;
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tư nhân là động lực, vấn đề đảng viên làm kinh tế
tư bản tư nhân, những biến dạng trong việc thực hiện nguyên tắc trên diện rộng. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật nghiêm minh những tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thông qua kiểm tra,
kịp thời phát hiện những sơ hở của các chủ trương, nghị quyết để bổ sung hoàn thiện
phù hợp với quy luật khách quan; đồng thời giáo dục ngăn chặn kịp thời các khuyết
điểm, sai phạm của đảng viên.
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc thành quy chế, quy định pháp luật của Nhà
nước để tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động đầu tư. Cần rà soát lại những điểm bất
hợp lý, lạc hậu trong các quy chế, quy định đã ban hành để bổ sung hoàn thiện, giúp
cho việc thực hiện được thống nhất. Mỗi loại quy chế, quy định, luật pháp cần lượng
hóa trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu.
Đối với từng doanh nghiệp, cơ sở cần xây dựng thiết kế cơ cấu tổ chức phù hợp ví dụ
như hiện nay nhiều tổ chức có xu hướng theo phạm vi kiểm soát rộng hơn và ít cấp
quản lý hơn, thay đổi nguyên lý thống nhất một thủ trưởng…; quy định, quy tắc làm
việc của mình, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp, từ bộ phận, từng
cá nhân trong doanh nghiệp. Tổ chức, chuẩn bị kỹ nội dung, thu hút tập thể tham gia
thảo luận để ra các vấn đề của đơn vị. Không những thế cần hướng vào kiểm tra bộ
phận, cá nhân có tư tưởng lợi ích cá nhân, cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết,
tham nhũng, gây chia rẽ, bè phái làm suy yếu khối đoàn kết nội bộ, vi phạm nghiêm
trọng nguyên tắc TTDC để giáo dục, ngăn chặn, không chờ vụ việc vỡ lở mới kiểm tra,
xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời. Lựa chọn nhà Lãnh đạo, người đứng đầu có trình
độ, năng lực, phẩm chất,… phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp,cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước. lOMoAR cPSD| 58707906 II.
Tình trạng thất thoát và lãng phí vốn đầu tư XDCB của nhà nước
1.Khái niệm và đặc điểm: 1.
1.Đầu tư xây dựng cơ bản 1.1.1.Khái niệm
Đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình
xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các tài
sản cố định (TSCĐ) và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. ĐTXDCB là một hoạt động kinh tế
1.1.2.Nguồn vốn
Vốn của dự án ĐTXDCB nói chung được cấu thành bởi các nguồn sau:
Thứ nhất là nguồn vốn của nhà nước. Nguồn vốn này bao gồm:
+ Ngân sách nhà nước cấp phát.
+ Vốn của các doanh nghiệp nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bao
gồm vốn từ khấu hao cơ bản để lại, từ lợi nhuận sau thuế, từ đất đai, nhà xưởng còn
chưa sử dụng đến,... được huy động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; vốn góp của
nhà nước trong liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài.
+ Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước mà Chính phủ cho vay theo lãi
suất ưu đãi bằng nguồn vốn tự có hoặc nhà nước đi vay để cho vay lại đầu tư vào các
dự án thuộc lĩnh vực được ưu tiên trong kế hoạch nhà nước đối với một số doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế.
+ Vốn vay nợ, viện trợ từ bên ngoài của Chính phủ thông qua kênh hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA). Trên thực tế, một phần vốn này sẽ đưa vào ngân sách đầu tư,
còn phần ODA cho các doanh nghiệp vay lại thì đưa vào nguồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Thứ hai là nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân và nguồn vốn đóng góp tự nguyện
của dân cư vì lợi ích cộng đồng, kể cả đóng góp công lao động, của cải vật chất để xây
dựng các công trình phúc lợi.
Thứ ba là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư gián tiếp và
đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp của nước ngoài tại Việt Nam là nguồn vốn do nước
ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của Việt Nam, nhưng không
tham gia công việc quản lý trực tiếp. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct lOMoAR cPSD| 58707906
Inverstment – FDI) ở Việt Nam là nguồn vốn nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt Nam
dưới hình thức tự đầu tư 100% vốn hoặc liên doanh. Ngoài ra còn có nguồn vốn viện
trợ không hoàn lại của các tổ chức phi chính phủ (Non- Government Organization – NGO).
ĐTXDCB của nhà nước là hoạt động đầu tư của nhà nước, bao gồm các dự án
ĐTXDCB được hoạch định trong kế hoạch nhà nước và được cấp phát bằng nguồn vốn
ngân sách của nhà nước, đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. 1.
2.Thất thoát, lãng phí 1.2.1.Thất thoát
Thất thoát trong đầu tư là hiện tượng mất mát, thiệt hại không đáng có về vốn đầu
trong suốt quá trình đầu tư, từ khi quyết định chủ trương đầu tư cho đến khi dự án hoàn
thành và đưa vào sử dụng.
Phần vốn đầu tư bị thất thoát là phần vốn tuy đưa vào dự án nhưng bị lãng phí
hoặc biến mất trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Nguyên nhân ở đây có thể do
tiêu cực và tham nhũng gây nên lãng phí hoặc do thiên tai, dịch họa và do tác động của
nền kinh tế. 1.2.2. Lãng phí
Theo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: “Lãng phí là việc quản lý, sử dụng
tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên không hiệu quả. Ðối
với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản nhà
nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên
vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định”.
Lãng phí trong đầu tư là gì? Theo ý kiến của các chuyên gia lãng phí trong đầu tư
có thể hiểu là việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư không mang lại hiệu quả như mong
muốn, mà nguyên nhân của sự lãng phí này là xuất phát từ sự thiếu trách nhiệm, thiếu
năng lực của các cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư và các cơ quan tư vấn, thiết kế,
cơ quan thẩm định, cơ quan trực tiếp quản lý vốn trong quá trình thực hiện đầu tư. Theo
ý kiến các chuyên gia trong công tác quản lý dự án và quan niệm của các nhà tài trợ thì
đó là các khoản chi không đem lại hiệu quả gì cho dự án hoặc phần chi cao hơn các quy
định hợp pháp, chi không đúng quy định của dự án... căn cứ theo mục đích và động cơ
của các hành động trên mà có thể coi đó là lãng phí hay tham ô. 2. Nguyên nhân tình
trạng thất thoát, lãng phí trong ĐTXDCB của nhà nước

2.1. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư lOMoAR cPSD| 58707906
Thất thoát, lãng phí trước hết từ công tác lập quy hoạch, kế hoạch. Đây là khâu quan
trọng để đảm bảo đầu tư có hiệu quả và phát triển lâu dài. Hiện nay, công tác quy hoạch
vẫn tồn tại nhiều bất cập, thiếu tính chiến lược tổng thể giữa các cấp, ngành; thiếu tầm
nhìn dài hạn, không sát thực; thiếu sự kết hợp giữa các loại quy hoạch, giữa quy hoạch
xây dựng vùng và quy hoạch xây dựng đô thị,...nên nhiều dự án phải điều chỉnh hoặc
di chuyển, kéo dài thời gian xây dựng công trình.
Việc lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi chưa chú trọng
đúng mức khâu điều tra thực tế những ảnh hưởng của công trình đối với môi trường và
xã hội; lựa chọn địa điểm xây dựng và phân tích dự án đầu tư không chính xác dẫn đến
việc dự án sau khi thực hiện xong nhưng hoạt động kém hiệu quả.
Thất thoát trong khâu quyết định đầu tư thường là do chủ đầu tư không tính toán,
phân tích kỹ dự án trước khi quyết định đầu tư, dẫn đến việc lựa chọn địa điểm xây
dựng công trình không hợp lý; xác định quy mô xây dựng quá lớn so với nhu cầu thực
tế; lựa chọn phương án kỹ thuật, công nghệ không phù hợp; chưa quan tâm đúng mức
đến hiệu quả sử dụng và vận hành công trình khi hoàn thành. Việc phân tích hiệu quả
đầu tư là một yêu cầu rất quan trọng, nếu không chú trọng khâu này sẽ dẫn đến khi công
trình hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng mới bộc lộ những bất cập, như không sử
dụng hết công suất thiết kế hoặc không phát huy hiệu quả.
Ngoài ra, thất thoát lãng phí còn do đầu tư xây dựng công trình không đảm bảo cảnh
quan, môi trường, làm tăng chi phí nhân công, vật tư, thiết bị, xử lý môi trường…
2.2. Giai đoạn thực hiện đầu tư
Giai đoạn thực hiện dự án đầu tư, thất thoát, lãng phí thường xảy ra ở những công việc sau: 
Khâu đền bù giải phóng mặt bằng
Việc xác định giá trị đền bù không phải là chuyện đơn giản và rất dễ dẫn đến thất
thoát vốn. Biểu hiện của thất thoát trong công tác đền bù thường là việc bớt xén tiền
đền bù của dân do người dân không nắm rõ khung giá đền bù do Nhà nước quy định,
hoặc tiền đền bù không thoả đáng, không đúng đối tượng; chi trả tiền đền bù không
theo định mức, khung giá Nhà nước và địa phương ban hành; móc ngoặc, câu kết với
người được đền bù để nâng giá trị đền bù, khai khống diện tích, khối lượng tài sản được
đền bù; làm giả hồ sơ, khai khống số hộ được đền bù và chi phí đền bù để rút tiền của
Nhà nước, từ đó làm tăng thêm vốn đầu tư xây dựng công trình.
Việc đền bù không thoả đáng, không thực hiện đúng quy định, dẫn đến việc bàn giao
mặt bằng xây dựng không đúng thời hạn quy định, làm chậm tiến độ thi công công lOMoAR cPSD| 58707906
trình, gây lãng phí, thất thoát vốn. Trong thực tế, việc chậm tiến độ thi công do không
giải phóng được mặt bằng xảy ra ở rất nhiều dự án. Tiến độ thi công chậm trong khi
công trình xây dựng bằng nguồn vốn đi vay sẽ làm tăng lãi vay, từ đó làm tăng chi phí dự án. 
Khâu khảo sát, thiết kế xây dựng
Thất thoát trong khâu khảo sát xảy ra do công tác khảo sát không đảm bảo chất
lượng, chưa sát với thực tế hoặc không đúng với những tiêu chuẩn, quy chuẩn của Nhà
nước dẫn đến phải khảo sát lại, việc thi công phải thay đổi, bổ sung, điều chỉnh nhiều
lần...gây lãng phí thời gian, kinh phí. Bên cạnh đó, việc thiết kế không phù hợp với quy
hoạch xây dựng, với thiết kế công nghệ, không tuân thủ các quy trình kỹ thuật, tiêu
chuẩn xây dựng sẽ phải thiết kế lại, cũng gây lãng phí không nhỏ. Chất lượng thiết kế
không đảm bảo, không đồng bộ gây lún, nứt; phương án thiết kế không hợp lý, sử dụng
vật tư, vật liệu không phù hợp với loại công trình; việc chọn hệ số an toàn quá cao…dẫn đến lãng phí. 
Khâu lựa chọn nhà thầu
Việc lựa chọn nhà thầu xây dựng ở nước ta hiện nay còn nhiều biểu hiện tiêu cực,
như: Thông đồng, dàn xếp trong đấu thầu; Có sự thống nhất trước giữa các đơn vị tham
gia đấu thầu để một đơn vị trúng thầu; Mua bán thầu; Bỏ giá thầu thấp dưới giá thành xây dựng công trình
Từ thực tế cho thấy, việc lựa chọn nhà thầu xây dựng, xác định giá gói thầu, giá
trúng thầu, thẩm định kết quả đấu thầu ở nhiều dự án thiếu sự minh bạch; phương thức
liên danh, liên kết giữa các nhà thầu còn nhiều bất cập, đây chính là những nguyên nhân
dẫn đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng. 
Khâu thi công xây lắp công trình
Thất thoát trong khâu thi công xảy ra do nhà thầu thi công không đảm bảo khối
lượng xây lắp theo thiết kế được phê duyệt hoặc thi công không đúng thiết kế dẫn đến
phải phá đi làm lại. Thất thoát từ vật liệu xây dựng cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Vật liệu xây dựng đi qua nhiều khâu trung gian, nâng giá, gửi giá, tăng khối lượng,
dùng vật liệu có giá thấp (chất lượng thấp); ăn bớt vật liệu, nên chất lượng công trình
không đảm bảo. Việc giám sát thi công không chặt chẽ, cán bộ tư vấn, giám sát làm
ngơ trước những vi phạm của nhà thầu thi công. 
Trong việc bố trí và sử dụng vốn lOMoAR cPSD| 58707906
Nhiều dự án vi phạm thủ tục đầu tư nhưng vẫn được phê duyệt kế hoạch đầu tư khi chưa có kế hoạch vốn.
Bố trí kế hoạch đầu tư phân tán, dàn trải, thiếu tập trung khiến nhiều dự án phải chờ
vốn, kéo dài tiến độ qua nhiều năm. Việc đầu tư dàn trải dẫn đến tình trạng kéo dài thời
gian thi công các công trình, dự án; nguồn vốn ngân sách đã eo hẹp lại phải rải cho
nhiều dự án cùng dở dang, chậm đưa vào sử dụng nên không phát huy hiệu quả đầu tư.
Bên cạnh đó là việc sử dụng vốn sai mục đích, không đúng chế độ...
Do tiến độ giải ngân vốn chậm nên bên B phải vay vốn, chạy vốn dẫn đến tiêu cực
trong cấp phát vốn, làm chậm tiến độ của dự án, kéo dài thời gian xây dựng công trình,
tăng chi phí lãi vay và các khoản chi phí không cần thiết khác gây nên thất thoát, lãng
phí vốn. Mặt khác, cũng do giải ngân vốn không đúng kế hoạch, nhà thầu phải đi vay
vốn chịu lãi suất để xây dựng công trình nhưng khoản lãi vay này lại không được bên
chủ đầu tư thanh toán, dẫn đến tình trạng nợ đọng trong đầu tư xây dựng, đẩy các doanh
nghiệp xây dựng vào tình trạng khó khăn, phá sản. 
Trong nghiệm thu, thanh toán khối lượng hoàn thành
Thất thoát ở giai đoạn nghiệm thu, thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành do
việc áp dụng sai đơn giá, sai các định mức kinh tế kỹ thuật, tính toán không chính xác
khối lượng xây lắp hoàn thành, nhà thầu thông đồng với cán bộ tư vấn nghiệm thu khống.
2.3. Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
Ở giai đoạn này, thất thoát, lãng phí vốn đầu tư vẫn xảy ra do công trình đã hoàn
thành xây dựng, đã bàn giao nhưng vẫn chưa được nghiệm thu, quyết toán. Khi lập
quyết toán, các bên có liên quan thông đồng với nhau để quyết toán khống khối lượng
công; quyết toán sai hoặc khống khối lượng, chủng loại vật tư, thiết bị; áp dụng sai các
định mức, đơn giá của Nhà nước, địa phương. 
KL: Nguyên nhân của tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB:
Do cơ chế quyết định đầu tư còn nhiều bất cập. Cơ chế quyết định đầu tư trao quá nhiều
quyền cho người có thẩm quyền quyết định đầu tư, chủ đầu tư.Việc quyết định đầu tư
do cá nhân quyết định nên rất dễ dẫn đến tiêu cực,lợi ích nhóm chi phối. Nguy hại hơn
là không có ngườichịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Thực tế đã có nhiều công trình
đầu tư không hiệu quả, gây lãng phí, làmthất thoát lớn vốn nhà nước nhưng không có
cá nhân nào chịu trách nhiệm. lOMoAR cPSD| 58707906
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực đầu tư xây dựng
cơ bản có vốn ngân sách nhà nước chưa có chế tài quy định xử lý trách nhiệm của người
có thẩm quyền quyết định đầu tư, chủ đầu tư. Năm 2014, Nhà nước đã ban hành Luật
Đầu tư công, quy định việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; quản lý nhà nước về
đầu tư công, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan đơn vị, tổ chức, cá nhân liên
quan đến hoạt động đầu tư công. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có được nghị định của
Chính phủ hướng dẫn thi hành luật, do vậy để Luật Đầu tư công thực sự phát huy tác dụng trong thực tiễn.
Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí tài sản nhà
nước nói chung và tham nhũng, thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng nói riêng chỉ
thực sự có hiệu quả khi chúng ta chỉ ra được nguyên nhân căn bản của tình trạng tham
nhũng và có trong tay những công cụ pháp lý đủ mạnh. Cần khẩn trương xây dựng và
ban hành Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công, trong đó nêu
rõ trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người có thẩm quyền quyết định đầu tư,
chủ đầu tư dự án, công trình xảy ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả, trong đó:
- Xác định rõ các hành vi của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, chủ đầu tư bịcoi là vi phạm.
- Các hình thức xử lý trách nhiệm: Bồi thường vật chất, xử lý hành chính, xử lý hìnhsự
đối với các hành vi vi phạm.
- Quy định rõ thời hiệu xử lý vi phạm.
- Quy trình, thủ tục xử lý trách nhiệm của người vi phạm.
- Các điều kiện, biện pháp bảo đảm hiệu quả các hình thức xử lý vi phạm của các cơquan
có thẩm quyền, đặc biệt là hình thức bồi thường vật chất- Các hình thức công khai
việc xử lý vi phạm đối với người vi phạm 3.Thực trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư
3.1.Thực trạng, thất thoát lãng phí trong những năm qua
Theo thống kê của bộ Kế hoạch và đầu tư nhận thấy số dự án gây thất thoát, lãng
phí có xu hướng ngày càng tăng cao và nhiều trong giai đoạn 2010-2015 gây tổn thất
một nguồn vốn lớn của nhà nước