TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG & TRUYỀN THÔNG
MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
BÀI KIỂM TRA GIỮA
NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN
Nhóm sinh viên thực hiên: Nhóm 3
Lớp: 222_71CULT20222_10
Giảng viên hướng dẫn: ThS Nguyễn Thị Lệ Hằng
TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2023
ĐIỂM VÀ NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
2
DANH SÁCH NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT HỌ TÊN MSSV CÔNG VIỆC ĐIỂM
(thang điểm
10)
KÝ TÊN (GH
RÕ HỌ TÊN
1 Đỗ Anh Thư (Nhóm
trưởng)
2273201081654 Lý do chọn đề tài, tổng hợp
nội dung, thuyết trình
Đỗ Anh Thư
2 Nguyễn Thanh Ngân 2273201080980 Tìm nội dung Nguyễn Than
Ngân
3 Đỗ Nguyễn Hồng
Ngân
2273201080948 Tìm nội dung Đỗ Nguyễn
Hồng Ngân
4 Dương Anh Khôi 2273201080689 Tìm nội dung Dương Anh
Khôi
5 Nguyễn Minh Tiến 2273201081772 Tìm nội dung, thuyết trình Nguyễn Minh
Tiến
6 Mai Trọng Nguyên 2273201081094 Tìm nội dung, thuyết trình Mai Trọng
Nguyên
7 Phùng Minh Tính 2273201081781 Tìm nội dung, powerpoint Phùng Minh
Tính
8 Nguyễn Thị Lâm
Triệu Trịnh
2273201081900 Tìm nội dung Nguyễn Thị
Lâm Triệu
Trịnh
9 Phạm Thị Thùy
Linh
2273201080789 Tìm nội dung Phạm Thị Thù
Linh
3
10 Nguyễn Lê Bảo Hân 2273201080468 Tìm nội dung Nguyễn Lê Bả
Hân
11 Ngô Bảo Trang 2273201081799 Tìm nội dung Ngô Bảo Tran
12 Phạm Thị Châu Anh 2273201080104 Tìm nội dung Phạm Thị Châ
Anh
13 Nguyễn Trần Thảo
Vy
2273201082145 Tìm nội dung Nguyễn Trần
Thảo Vy
14 Trần Ngọc Anh 2273201080116 Tìm nội dung Trần Ngọc An
15 Trần Tiến Phát 2273201081296 Tìm nội dung Trần Tiến Ph
16 Nguyễn Thị Phương
Thanh
2273201081512 Tìm nội dung Nguyễn Thị
Phương Than
17
Vạn Ân Đồng
2273201080354 Tìm nội dung Vạn Ân Đồng
18 Bùi Nguyễn Như
Ngọc
2273201081030 Tìm nội dung Bùi Nguyễn Nh
Ngọc
19 Trần Huy Hùng 2273201080568 Tìm nội dung Trần Huy Hùn
20 Phan Lê Khanh 2273201080663 Tìm nội dung Phan Lê Khan
21 Huỳnh Thế Huy 2273201080574 Tìm nội dung Huỳnh Thế Hu
22 Nguyễn Hoàng Đăng
Khoa
2273201080679 Tìm nội dung Nguyễn Hoàn
Đăng Khoa
23 Đoàn Thanh
Khuyên
2273201080698 Tìm nội dung Đoàn Thanh
Khuyên
24 Lâm Gia Linh 2273201080758 Lâm Gia LinTìm nội dung
4
25 Nguyễn Thị Thanh
Thuý
2273201081645 Tìm nội dung Nguyễn Thị
Thanh Thuý
26 Nguyễn Ngọc Thanh
Kiều
2273201080712 Tìm nội dung, thuyết trình Nguyễn Ngọc
Thanh Kiều
27 Châu Trần Thiên
Nhi
2273201081133 Tìm nội dung, powerpoint Châu Trần
Thiên Nhi
28 Đoàn Đức Minh 2273201080875 Đoàn Đức MinTìm nội dung
29 Nguyễn Ngọc Thanh
Giang
2273201080371 Tìm nội dung Nguyễn Ngọc
Thanh Giang
30 Trương Tuấn Kiệt 2273201080709 Trương TuấnTìm nội dung
Kiệt
, ngày 20 tháng 03 năm
2023
Trưởng nhóm
Ký và ghi rõ họ tên
Đỗ Anh Thư
5
MỤC LỤC
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................................
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................................................................................
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................................................................................
PHẦN B: NỘI DUNG.......................................................................................................................
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN...........................................
Chương 2: GIỚI THIỆU VỀ NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN...........................................................................................
Chương 3: NÉT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN.............................................................
Chương 4: TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA NHÀ MỒ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VÀ TINH THẦN CỦA
NGƯỜI TÂY NGUYÊN.............................................................................................................................................
PHẦN C: PHỤ LỤC.......................................................................................................................
1 Tài liệu tham khảo...............................................................................................................................................
2 Hình ảnh tham khảo............................................................................................................................................
6
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mộ (đồng nghĩa: mồ hay mả hay còn gọi chung là mồ mả, hay còn gọi là nơi chôn cất)
nơi người chết được chôn cất hay còn được gọi i người đã vĩnh viễn ra đi an
nghỉ theo hình thức mai táng và tục lệ xây nhà mồ an táng người qua đời đã trở thành
nét văn hoá đặc trưng của của nhiều dân tộc châu Á, đặc biệt phát triển trong văn hoá
Việt Nam, văn hoá Trung Hoa, văn hoá Triều Tiên và văn hoá Đông Nam Á. Đối với
Việt Nam Nhà mồ của người dân Tây Nguyên đã trở thành mảng đặc sắc của văn hóa
cổ truyền.
Đây một nét tín ngưỡng cao đẹp về sự tồn tại của s sống, người dân Tây Nguyên
không xem cái chết sự kết thúc của một vòng đời. Đối với người Tây Nguyên cái
chết là sự trở về núi rừng, nơi con người sinh ra và tượng nhà mồ chính một chế tác
đặc biệt sinh ra từ suy nghĩy. Trải qua hằng trăm năm lịch sử cho đến ngày nay nhà
mồ Tây Nguyên vẫn luôn giữ cho mình một sức hút bí ẩn, ma mị mãnh liệt. Sức hút ấy
không chỉ hấp dẫn sự đa dạng độc đáo về kĩ thuật xây dựng, điêu khắc tượng mồ
còn biểu dượng cho sự tổng hoà các giá trị n hoá đặc sắc của người dân xứ sở
Cao nguyên miền Thượng”, sự dung hoà giữa giá trị nghệ thuật giá trị tinh thần
của tộc người nơi đây nói riêng và cả đất nước Việt Nam nói chung.
Để thẩm thấu được cái chất, cái hồn văn hóa tuyệt vời ẩn chứa trong lòng Tây Nguyên
nhóm 6 chúng tôi quyết định chọn đề tài “Nhà mồ Tây Nguyên” để khai phá sâu hơn
về cách mà người dân Tây Nguyên có thể tạo nên nhà mồ tượng nhà mồ? Quy trình
thực hiện giá trị văn hoá cũng như giá trị tinh thần tập tục dựng nhà mồ của
người Tây Nguyên đã mang lại trong nền văn hoá Việt Nam? Nhiều nghiên cứu tìm
hiểu đã chỉ ra rằng việc xây dựng nhà mồ nhằm tạo ra sự đảm bảo về tinh thần của
người còn sống rằng người thân của họ sẽ được siêu thoátsống một cuộc sống mới
và quy trình thực hiện tượng vô cùng kì công, tốn nhiều thời gian và sức lực.
7
Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu, phân tích mang đến cho người đọc một cái
nhìn bao quát nhất về nhà mồ Tây Nguyên. Từ đó giúp cho bạn đọc hiểu hơn về văn
hoá nước nhà Việt Nam, định hướng ý thức cao hơn trong việc gìn giữ nét đẹp
của di sản này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp: Là nghiên cứu các tài liệu,
luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu
sắc về đối tượng. Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được
phân tích tạo ra một hệ thông thuyết mới đầy đủ sâu sắc về đối tượng.
phương pháp này nhóm 3 đã nghiên cứu các thông tin liên quan đến nhà mồ
Tây Nguyên thông qua sách Nhà mồ tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc dân
gian Tây Nguyên của tác giả Ngô Văn Doanh.
- Phương pháp nghiên cứu thuyết: phương pháp nghiên cứu chủ yếu thu
thập thông tin qua các tài liệu hay văn bản. Trong phương pháp này, chủ thể
nghiên cứu tham khảo, tìm kiếm thông tin bài viết được nhóm 3 tìm thu
thập chủ yếu ở hai đầu báo Giáo Dục Thời Đại và Người Đưa Tin.
- Phương pháp quan sát: Là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh
sử dụng các giác quan để quan sát đối với các đối tượng trong tự nhiên
hội. phương pháp này nhóm 3 đã quan sát thông qua hình ảnh được đăng tải
trên Google.
- Phương pháp lịch sử: Là phương pháp xem xét trình bày quá trình phát triển
của các sự kiện lịch sử, phong trào cách mạng theo một trình tự liên tục, trong
mối liên hệ tác động lẫn nhau của chúng. Trong phương pháp lịch sử nhóm 3 đã
8
tìm hiểu được quá trình hình thành của Tây Nguyên theo năm tháng và được thể
hiện ở chương 1.
- Phương pháp tham khảo: Trong quá trình nghiên cứu khoa học, viết luận án, bài
báo hay một quyển sách, các tác giả thường tham khảo sử dụng các tài liệu
để trích dẫn vào công trình nghiên cứu, các tài liệu được tác giả trích dẫn gọi là
tài liệu tham khảo.
PHẦN B: NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT
CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN
1. Địa lý, lịch sử, dân cư và bản sắc văn hoá các dân tộc Tây Nguyên
1.1. Địa : Tây Nguyên một khu vực địa nằmTrung Bộ Việt Nam, bao gồm 5
tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí từ Bắc xuống Nam gồm: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk
Nông Lâm Đồng với diện tích khoảng 54.7 nghìn km² chiếm 16,8% diện tích cả
nước. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai,
9
Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (Lào) Ratanakiri Mondulkiri
(Campuchia). Khu vực này có địa hình đồi núi cao với nhiều cao nguyên rộng lớn như
Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuộc Đà Lạt. Tuy nhiên Tây Nguyên không phải
một cao nguyên duy nhất bao gồm các cao nguyên liền kề: cao nguyên Kon Tum,
cao nguyên Măng Đen(Kon Plông), cao nguyên Kon Nừng, cao nguyên Playku,
cao nguyên M’Drăk, cao nguyên Mơ Nông, cao nguyên Lâm Viên
Địa hình: Nằm về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ
Đông sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia
cắt phức tạp có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:
- Địa hình cao nguyên địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo lên bề mặt của vùng.
Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với quy mô lớn.
- Địa hình vùng núi.
- Địa hình thung lũng chiếm diện tích không lớn chủ yếu phát triển cây lương thực,
thực phẩm và nuôi cá nước ngọt
Khí hậu: Tây Nguyên nằm trong vùng Nhiệt đới Xavan, khí hậu Tây Nguyên được
chia làm 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Mùa khô nóng hạn,
thiếu nước trầm trọng, mùa mưa nóng ẩm, tập trung 85-90% lượng mưa của cả năm.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 20 C điều hoà quanh năm biên độ nhiệt ngàyđêm
o
chênh lệch cao trên 5,5
o
C.
Tài nguyên nước: Tây Nguyên được ưu đãi khi nguồn tài nguyên nước dồi dào,
phong phú với 4 hệ thống sông chính: Sê San, Srêpốk, sông Ba và sông Đồng Nai. Chế
độ dòng chảy chịu tác động của khí hậu. Nguồn nước ngầm tương đối lớn nhưng nằm
sâu, giếng khoan trên 100 mét.
Tài nguyên đất:
- Đất đai được coi tài nguyên bản của vùng, thuận lợi cho phát triển nông lâm
nghiệp. Diện tích đất chủ yếu đất đỏ bazan, tầng phong hoá dày, địa hình lượn sóng
nhẹ tạo thành các cao nguyên đất đỏ như cao nguyên Buôn Ma Thuột, Pleiku, Đắk
Nông, Kon Tum chiếm diện tích khoảng 1 triệu ha, thích hợp với nhiều loại cây trồng
đặc biệt là cây cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, điều... và rừng. Đất đỏ vàng chiếm diện tích
10
khoảng 1,8 triệu ha, kém màu mỡ hơn đất đỏ bazan nhưng giữ ẩm tốt i xốp nên
thích hợp với nhiều loại cây trồng. Ngoài ra còn đất xám phân bố trên các sườn đồi
thoải phía Tây Namtrong các thung lũng, đất phù sa ven sông, thích hợp cho trồng
cây lương thực.
- Tuy nhiên diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 1,4 triệu ha và đang bị thoái hoá
nghiêm trọng (đất bazan thoái hoá tới 71,7%; diện tích đất bị thoái hoá nặng chiếm tới
20%).
Tài nguyên rừng:
- Tây Nguyên là một trong những vùng có tính đa dạng sinh học rất cao của Việt Nam.
Rừng Tây Nguyên giàu về trữ lượng, đa dạng về chủng loại trữ lượng rừng gỗ chiếm
tới 45% tổng trữ lượng rừng gỗ của cả nước. Diện tích rừng Tây Nguyên 3.015,5
nghìn ha chiếm 35,7% diện tích rừng cnước. Các cây dược liệu quý được tìm thấy
đây như sâm bổ chỉnh, sa nhân, địa liền, thiên niên kiện, thủ ô trắng,... các cây
thuốc quý có thể trồng được ở đây như atisô, bạch truật, tô mộc, xuyên khung...
- Hệ động vật hoang cũng rất phong phú ý nghĩa kinh tế khoa học. tới 32
loài động vật quí hiếm như voi, bò tót, trâu rừng, hổ, gấu, công, gà lôi...
Tài nguyên khoáng sản:
- Chủng loại khoáng sản ít. Đáng kể nhất quặng bôxit với trữ lượng dự báo khoảng
10 tỷ tấn, chiếm 90% trữ lượng bôxit cả nước, phân bố chủ yếu Đắc Nông, Gia Lai
Kon Tum. Việc khai thác quặng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông lâm
nghiệp.
- Vàng 21 điểm vàng trữ lượng khoảng 8,82 tấn phân bố Kon Tum, Gia Lai.
Ngoài ra còn các loại đá quý, các mỏ sét gạch ngói phân bố Chưsê - Gia Lai Bản
Đôn - Đắc Lắc, than bùn than nâu phân bố Biển Hồ, làng Bua, làng Vệ - Gia Lai,
Chư Đăng - Đắc Lắc.
1.2. Lịch sử: Vùng đất Tây Nguyên được hình thành từ khoảng 40-50 triệu năm khi
các núi lửa nổ ra tạo ra các đá bazan kiềm giải phóng nơi đây. Vùng đất Tây
Nguyên được coi vùng đất ẩn của Việt Nam do được bao phủ bởi các rừng nhiệt
đới, thác nước những dãy núi đá vôi. Người dân bản địa trên vùng đất này gồm các
dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Ba Na Đăng. theo quá trình hình thành Tây Nguyên
được chia làm 3 giai đoạn:
11
Giai đoạn 1: Thời nguyên thủy đến trước thế kỷ 19
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc
thiểu số săn đầu người, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh, chỉ những
quốc gia mang tính chất sơ khai của người Êđê, Giarai, Mạ,...
Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân
chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Đồ Bàn, bắt sống vua Champa là T
Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Champa thời đó vào Đại Việt. Hai phần Champa còn
lại, được Thánh Tông chia thành các tiểu quốc nhỏ thuần phục Đại Việt. Phần đất
Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm Bồ Trì trấn giữ, được
vua coi phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất nay
tỉnh Phú Yên, Thánh Tông phong cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa.
Vùng đất phía Tây núi Thạch Bi, tức miền bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành
nước Nam Bàn, vua nước này được phong là Nam Bàn vương.
Sau khi Chúa Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các Chúa Nguyễn ra
sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa cũng phái một số sứ đoàn để thiết
lập quyền lực khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số đây dễ dàng chuyển sang
chịu sự bảo hộ của người Việt. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún và mục
tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến các vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền
lực rất lỏng lẻo đây. Trong một số tài liệu vào thế kỷ 16, thế kỷ 17 đã những ghi
nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi
Đá Hàm (Djarai), Mọi B Nông (Mnong) Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai)
và Mọi Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh trúvùng Nam Tây Nguyên ngày
nay.
Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc
phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời Nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc
các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh
nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu
(1789) Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị lực
lượng cho quân Tây Sơn thuở ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây
Sơn là người vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc.
Giai đoạn 2: Thời Nhà Nguyễn
12
Sang đến triều Nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên
vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên
vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ – 1834). Người Việt vẫn chủ yếu
khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ ngày
nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên (như trường hợp
của bộ tộc Mạ).
Trong cuốn Đại Việt địa toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết: Thủy
Xá, Hoả Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng đạo
tỉnh Phú An núi Nam rất cao. Thủy phía Đông núi ấy,... Hỏa phía
Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân Lạp, phía Nam thì là
Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên sông Đại Giang, phía dưới sông Ba
Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy.....
Năm 1863 vua Tự Đức lập đơn vị sơn phòng để củng cố bình định vùng sơn cước
của ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Tuy mục đính chính quân sự
nhưng sở sơn phòng sau biến thành mạch giao thương giữa miền xuôi miền núi
qua trung gian các thuộc i trong khi quan lại kiểm soát việc thu thuế. Việc nhũng
nhiễu của lái buôn lạm thu của giới quan liêu khiến người Thượng bị bức bách,
đã tràn xuống miền xuôi cướp phá nhiều đợt. Quan quân phải truy đuổi đánh dẹp. Hệ
thống sơn phòng tồn tại sang thời Pháp thuộc đến năm 1905 thì Chính quyền Bảo hộ ra
lệnh bãi bỏ và người Pháp trực tiếp cai trị vùng Cao nguyên.
Giai đoạn 3: Thời Pháp thuộc
Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt
các cuộc thám hiểm chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền
giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.
Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên Mayréna sang Đông Dương,
chọn Dakto làm vùng đất cát cứ lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông
thành lập Vương quốc Sedang có Quốc kỳphát hành giấy bạc, có cấp chức riêng
tự mình lập làm vua xưng là Marie đệ Nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng
đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu vận động xin viện trợ từ các cường
quốc Tây phương, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn F. Guiomar (1889 -
1890) lên tiếp thu. Mayréna trên đường trở lại Đông Dương khi quá cảnh Singapore thì
13
bị nhà chức trách giữ lại. Chính phủ Pháp cũng ra lệnh cấm Mayréna nhập cảnh.
Mayréna mất không lâu sau đó Mã Lai. Vùng Tây Nguyên kể từ năm 1889 được đặt
dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn và vương quốc Sedang cũng bị giải tán.
Năm 1891, bác Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm phát hiện ra Cao nguyên
Lang Biang. Ông đã đề nghị với Chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ
mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất
này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát
của Triều đình Huế. vậy, ngày 16 tháng 10 năm 1898, Khâm sứ Trung Kỳ Léon
Jules Pol Boulloche (1898 - 1900) đề nghị mật Viện triều Nguyễn giao cho Pháp
trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung Kỳ.m 1898, khi vương quốc
Sedang bị giải tán thì ngay năm sau (tức 1899), thực dân Pháp buộc vua Đồng
Khánh ban dụ ngày 16 Tháng 10 trao cho họ Tây Nguyên để họ có toàn quyền tổ chức
hành chính trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số đây. Triều đình Huế chỉ giữ việc
bổ nhiệm một viên quan Quản đạo tính cách tượng trưng. Năm 1900, Toàn
quyền Paul Doumer đích thân thị sáp Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố
nghỉ mát, bắt đầu sự can thiệp trực tiếp trên cao nguyên. Trong quá khứ, Tây Nguyên
khu vực không được khai thác nhiều đến khi Pháp thực hiện chiến dịch khai thác
khoáng sản. Với hợp đồng khai thác cao su, các nhà khai thác đã tiến hành xây dựng
hệ thống đường sắt các sở hạ tầng. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam thống nhất,
Tây Nguyên đã phát triển mạnh mẽ hơn với ngành công nghiệp kinh doanh cà phê, cao
su và chăn nuôi gia súc.(. Theo Wikipedia )
1.3. Dân cư: Tây Nguyên có 4,4 triệu dân ( 2002 ), trong đó đồng bào dân tộc ít người
chiếm khoảng 30% ( Gia Rai, Ê Đê, Ba Na ). vùng thưa dân nhất nước ta (81
người/km
2
năm 2002). Dân tộc Kinh phân bố chủ yếu các đô thị, ven đường giao
thông các nông trường, lâm trường. Đời sống dân cư còn nhiều khó khăn và đang được
cải thiện đáng kể.
Chương 2: GIỚI THIỆU VỀ NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN
14
2.1. Hiện tượng nhà mồ
Hiện tượng nhà mồ Tây Nguyên cũng giống như các khu vực khác trong văn hóa dân
gian Việt Nam, có những truyền thuyết và nghi lễ riêng. Nhà mồ là một kiểu kiến trúc
đặc trưng của người Tây Nguyên được xây dựng bằng những thanh gỗ vuông nhọn
được đóng cọc sâu vào đất, sau đó được nối với nhau bằng những sợi dây tơi hoặc dây
nứa được sử dụng để chôn cất các thành viên trong gia đình đã mất cùng với đồ vật
nhân. Theo sử sách, nhà mồ của người Tây Nguyên một loại kiến trúc cổ đại của
nền văn minh Sa Huỳnh đầu đồng hóa của người Ê Đê thường được xây nơi cao
rộng, được trang trí mỹ nghệ chứa đựng nhiều dụng cụ hỗ trợ cho việc tế tự
thờ cúng. Đây một phần của văn hoá vật thể của người dân tộc thiểu số địa phương
tại khu vực Tây Nguyên của Việt Nam.
2.2. Nguồn gốc của nhà mồ
Tục chôn cất người chết được hình thành trong sự phát triển của loài người. Thuở
khai con người chưa có hành vi chôn cất người chết. Dần dần về sau, con người dần có
những hành vi để chôn cất người chết từ đơn giản đến phức tạp. Những ngôi mộ
khai nhất được tìm thấy vào thời hội nguyên thuỷ, sau đó những ngôi mộ được tìm
thấy ở thời đồ đá. Từ đó tục lệ chôn cất người chết ra đời và nhà mồ Tây Nguyên cũng
không ngoại lệ.
Nhà mồ Tây Nguyên một loại kiến trúc truyền thống của người đồng bào Tây
Nguyên tại Việt Nam. Về nguồn gốc, theo các nhà nghiên cứu, nhà mồ Tây Nguyên có
xuất xứ từ vùng Đài Loan (Đài Loan được gọi Formosa, nghĩa "đảo đẹp" trong
15
tiếng Bồ Đào Nha). Đến thế kỷ 16-17, người đồng bào nhà mồ đã di chuyển từ Đài
Loan sang các vùng đất khác nhau trên Tây Nguyên xây dựng các nhà mồ theo
phong cách kiến trúc tương tự như nhà mồ Formosa nhưng sự biến tấu thay đổi
phù hợp với nền văn hoá phương Đông Việt Nam.
Tại Việt Nam, nhà mồ được tìm thấy hầu hết các khu vực Kon Tum, Gia Lai, Đắk
Lắk…trong đó nổi bật nhất là nhà mồ của người Gia Rai và Ba Na.
2.3. Quan niệm của người dân Tây Nguyên về nhà mồ
Người Tây Nguyên quan niệm, họ sinh ra từ rừng nên khi chết đi sẽ về với rừng, rừng
sẽ bao bọc lấy linh hồn, thân thể của người đã khuất. Chính vì vậy quan tài được khoét
rỗng từ một thân cây, sau đó cho thi hài vào bên trong với ngụ ý thần rừng đang che
chở bao bọc lấy thân thể người đã khuất. Chính thế khi trong gia đình người
thân mất đi thì việc chuẩn bị mồ mả rất quan trọng. Tuỳ theo tình trạng qua đời
người dân thiểu số nơi đây sẽ có cách chuẩn bị ma chay khác nhau, hình thức cũng
phần thay đổi.
Người Tây Nguyên có hai quan niệm về cái chết. Theo đó, đối với người chết trẻ, chết
ngoài đường, chợ, ngã cây... gọi cái chết bất đắc kỳ tử. Với những trường hợp
này, thi hài người chết không được đưa vào nhà để bên ngoài, sau đó đưa ra nghĩa
địa để chôn.
Đối với những người do già chết đi, người Tây Nguyên gọi đó là cái chết bình thường,
thi hài được để trong nhà, sau đó đưa ra nghĩa địa để chôn cất. Bên trên những ngôi
nhà mộ này được trang trí những tượng gỗ điêu khắc vô cùng nghệ thuật.
Nhà mồ Đài Loan
Nhà mồ dân tộc Cơ Tu
16
Chương 3: NÉT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ MỒ
TÂY NGUYÊN
3.1. Nhà mồ của người dân Tây Nguyên
Nhà mồ nhìn chung là có cùng kết cấu và hình dáng kiến trúc với nhà ở, đây là một
dạng kiến trúc nhà mồ độc nhất vô nhị mà ta khó có thể kiếm được ở nơi đâu khác ở
vùng cao nguyên Nam Trung Bộ này. Nhà mồ ở Tây nguyên thường được xây tập thể
và đặt tại phía Tây của những cánh rừng bạt ngàn, nơi vắng vẻ, yên lặng hoà mình sâu
vào lòng thiên nhiên vì người dân Tây Nguyên cho rằng phía Tây là nơi tập trung của
ma quỷ và những điều kì bí khó lý giải chính vì thế mà hầu hết các ngôi mộ hay các
nghĩa trang ở đây đều được đặt ở hướng Tây những khu rừng cách xa nơi sinh sống
của dân làng.
3.2. Cấu trúc nhà mồ
Như bất mọi tác phẩm nghệ thuật kiến trúc khác, nhà mồ Tây Nguyên để tạo nên
giá trị nghệ thuật giá trị tín ngưỡng tâm linh thì kiến trúc của nhà mồ đã góp phần
không nhỏ. Xét về mặt cấu trúc, nhà mồ Tây Nguyên bao giờ cũng gồm ba bộ phận
chính: lối hàng rào gồm các cột tượng và cột trang trí bao quanh bên ngoài, ngôi nhà
trong phần trang trí phía trên nóc nhà (hoặc hàng chạm khắc hoặc cột trang
trí). Bố cục của 3 bộ phận đó bố cục hướng tâm tỷ lệ chiều cao của các bộ phận
17
nhịp điệu nâng cao dần. Ngôi nhà trong vừa làm nền cho các tượng gỗ bên ngoài
vừa làm bệ cho các hình trang trí phía trên. Các tượng phía ngoài, nhờ phần cột
phía dưới, cao hơn tầm vóc người thực, nhưng lại không được át chiều cao của
ngôi nhà. Lối rào bao quanh che kín toàn bộ phần nền các chân cột lại tác dụng
khiến cho người xem cảm thấy ngôi nhà bên trong như cao lên, như đang lơ lửng trong
không gian. Đến lượt mình, ngôi nhà lại đội các hình trang trí nóc cao hơn các cột
tượng bên ngoài. Cho nên, tuy các cột trang trí bên trong khá cao (có cột cao tới gần
10 m), nhưng các hình trang trí lại không bị chiều cao nuốt chửng bộ mái m
nền. Tách riêng ra thì đó là 3 bộ phân riêng lẽ, độc lập nhưng khi dung hoà lại thì 3 bộ
phận này luôn hỗ trợ đan xen với nhau, làm bệ đỡ cho nhau nhằm tôn lên trọn vẹn ý
nghĩa hình tượng vốn có mà nhà mồ mang lại.
Tây Nguyên nhà mồ được xây dựng tập thể, người già nhiều kinh nghiệm thì chịu
trách nhiệm trang trí mỹ thuật, còn thanh niên trai tráng thì dựng cột làm những
việc nặng nhọc, ngôi nhà trong vừa làm nền cho các tượng gỗ bên ngoài vừa làm bệ
cho các hình trang trí phía trên. Các tượng phía ngoài, nhờ phần cột phía dưới,
cao hơn tầm vóc người thực, nhưng lại không được át chiều cao của ngôi nhà. Khi đó
đạc làm nhà mồ, người ta không dùng thước dùng những đơn vị thể người,
dụ: 1 hapa (một sải tay), 1 hlok (1 cánh tay), 1 hagan (1 bàn tay)…Đây cũng là một nét
độc đáo trong kiến trúc dân gian Tây Nguyên. Kỹ thuật dựng nhà mồ hoàn toàn thô sơ,
chỉ hệ thống kết nối bằng gá, buộc chứ không hệ thống kèo, mộng. Vật liệu thì
chỉ có gỗ, nứa, lákhông dùng gạch; công cụ xây dựng thì chỉ có dao, rìu mà không
dùng cưa. Chính điều đó đã tạo cho nhà mồ một dáng vẻ nguyên sơ, mộc mạc.
Xung quanh nhà mồ là một hàng rào có trang trí những bức tượng gỗ. Xưa kia, loại gỗ
đẽo các bức tượng nhà mồ thườngcác loại gỗ quý như gỗ hương, chit…Sau này,
cây gạo được nhiều gia đình lựa chọn để thay thế. Sau khi chọn được gỗ, chủ hộ
những nghệ nhân tạc tượng sẽ di chuyển chúng lên gần nhà mồ để thổi hồn cho những
khúc gỗ vô tri vô giác thành những bức tượng gỗ sống động đầy cảm xúc.
ượng mồ được các nghệ nhân của đại ngàn làm ra để dùng cho lễ bỏ mả và được
trang trí xung quanh ngôi nhà mồ. Mỗi tượng mồ mang mỗi hình ảnh, ý nghĩa riêng
khác nhau, chúng thường gắn liền với hình ảnh, sở thích của người sống lúc sinh thời.
Những tượng gỗ qua bàn tay và khối óc của các nghệ nhân trở nên sống động như có
18
hồn, nó mang ý nghĩa tâm linh gởi đến thế giới bên kia. Khác với tượng của người
Việt hay Khơ-me, thường là tượng mang tính thiêng liêng và tôn thờ được đặt ở các vị
trí trang trọng nơi thờ cúng, còn tượng nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên ra đời từ
thiên nhiên để rồi hoà quyện vào đất trời, nắng - mưa - sương - gió. Tượng nhà mồ
muôn hình, muôn dạng, từ tượng người ôm con vào lòng, tượng người đàn bà đi lấy
nước đến người ngồi khóc, người đánh trống, đánh chiêng, người chia phần cơm lam...
bao quanh lấy khu nhà mồ ở nghĩa địa. Tượng nhà mồ có nhiều loại hình với nội dung
thể hiện khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu tượng nhà mồ được chia làm 4 nhóm
chính:
- Nhóm sinh hoạt: gồm con trai, con gái, người địu con, múa trống, giã gạo… thể hiện
sinh hoạt hằng ngày mà họ vẫn làm.
- Nhóm nhớ thương: là tượng người ôm mặt khóc thường được đặt bốn góc của nhà
mồ, thể hiện nỗi đau thương của người sống đối với người chết
- Nhóm tượng thú vật: là nhóm tượng thú vật, như khỉ, trâu, bò, rắn, hổ… được tạc ra
và đặt xen kẽ vào nhóm tượng khác cũng cùng chung mục đích phục vụ người chết.
- Nhóm tượng gỗ sinh tồn biểu hiện cặp nam nữ giao phối, tượng đàn bà chửa, nam nữ
khoe bộ phận sinh dục…được thể hiện cách chân thực, tự nhiên của con người.
Những tượng này không mang lại cảm giác sợ hãi, cách biệt mà tạo cho người nhìn
một cảm giác thân thuộc, gần gũi không những thế nó còn mang ý nghĩa giúp cho
người chết như đang được sống lại cuộc đời của chính mình chốn dương thế với những
sinh hoạt rất đỗi bình dị hằng ngày.
3.3. Dịp sử dụng
Nhà mồ được dựng vào ngày lễ bỏ mả sử dụng ngay sau khi kết thúc lễ bỏ mả (lễ
Pơ Thi). Theo tục lệ thì trong gia đình người mất, sau khi hoàn tất thủ tục tẩm liệm
thì thi hài của họ được chôn cất với ngôi mộ rất sơ sài. Đến ngày bỏ mả họ mới bắt đầu
19
dựng lên nhà mồ kiên cố, chỉn chu với lối trang trí bắt mắt, đẹp đẽ. thông thường
sau khi chôn cất từ 1-7 năm, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình, người Tây
Nguyên sẽ làm lễ bỏ mả tứcbỏ đứt. Nghi lễ bỏ mã được tổ chức rất lớn từ 3-5 ngày.
Đây một trong những nghi thức cùng quan trọng khi an táng người đã khuất
người Tây Nguyên quan niệm rằng ngoài việc tổ chức lễ bỏ mả nhằm tưởng nhớ người
đã mất, cầu nguyện cho họ, giúp họ tiếp tục hành trình trong cuộc sống sau khi qua
đời. Lễ bỏ mả còn mang ý nghĩa xua đuổi ma, mang lại sự bình yên cho người đã
qua đời và cho gia đình của họ
Lễ bỏ mả có 2 phần: Tại nhà và ngoài mả, kéo dài 2 đến 3 ngày. Các gia đình có người
chết phải chuẩn bị đồ cúng lễ rồi báo tin cho họ hàng, toàn thể buôn làng tới dự. Trước
lễ bỏ mả cả tháng đã hàng chục người chặt gỗ, đẽo tượng, làm nhà mồ. Mâm cúng
làm lễ không bắt buộc, tùy từng nhà. Nếu giàu thì trâu, bò, heo, gà, rượu cần, cây
nêu. Nếu gia đình khó khăn thì sắm heo, gà, rượu cần. Đồng thời còn có tượng gỗ phản
ánh các lứa tuổi, sinh hoạt khác nhau. Lễ bỏ mả thường diễn ra vào buổi chiều, đó
một cuộc trình diễn lớn quanh nhà mồ. Sau khi già làng làm lễ cúng xong, thân nhân
của người quá cố vào nhà mồ khóc than lần cuối với người đã chết. Tiếng cồng chiêng,
tiếng trống nổi lên tiễn đưa người chết đi về thế giới bên kia, đoàn đưa tiễn gồm những
người đánh khiêng đánh trống, người đánh cồng chiêng, người đeo mặt nạ, người
trình diễn những con rối, phụ nữ thì múa, họ đi vòng quanh nhà mồ biểu diễn những
Lễ bỏ mả của người dân Tây Nguyên
20

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG & TRUYỀN THÔNG
MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN
Nhóm sinh viên thực hiên: Nhóm 3 Lớp: 222_71CULT20222_10
Giảng viên hướng dẫn: ThS Nguyễn Thị Lệ Hằng
TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2023
ĐIỂM VÀ NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ 2
DANH SÁCH NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN STT HỌ TÊN MSSV CÔNG VIỆC ĐIỂM KÝ TÊN (GH (thang điểm RÕ HỌ TÊN 10) 1 Đỗ Anh Thư (Nhóm
2273201081654 Lý do chọn đề tài, tổng hợp Đỗ Anh Thư trưởng) nội dung, thuyết trình 2
Nguyễn Thanh Ngân 2273201080980 Tìm nội dung Nguyễn Than Ngân 3 Đỗ Nguyễn Hồng 2273201080948 Tìm nội dung Đỗ Nguyễn Ngân Hồng Ngân 4 Dương Anh Khôi 2273201080689 Tìm nội dung Dương Anh Khôi 5 Nguyễn Minh Tiến 2273201081772
Tìm nội dung, thuyết trình Nguyễn Minh Tiến 6 Mai Trọng Nguyên 2273201081094
Tìm nội dung, thuyết trình Mai Trọng Nguyên 7 Phùng Minh Tính 2273201081781 Tìm nội dung, powerpoint Phùng Minh Tính 8 Nguyễn Thị Lâm 2273201081900 Tìm nội dung Nguyễn Thị Triệu Trịnh Lâm Triệu Trịnh 9 Phạm Thị Thùy 2273201080789 Tìm nội dung Phạm Thị Thù Linh Linh 3 10
Nguyễn Lê Bảo Hân 2273201080468 Tìm nội dung Nguyễn Lê Bả Hân 11 Ngô Bảo Trang 2273201081799 Tìm nội dung Ngô Bảo Tran 12
Phạm Thị Châu Anh 2273201080104 Tìm nội dung Phạm Thị Châ Anh 13 Nguyễn Trần Thảo 2273201082145 Tìm nội dung Nguyễn Trần Vy Thảo Vy 14 Trần Ngọc Anh 2273201080116 Tìm nội dung Trần Ngọc An 15 Trần Tiến Phát 2273201081296 Tìm nội dung Trần Tiến Ph 16 Nguyễn Thị Phương 2273201081512 Tìm nội dung Nguyễn Thị Thanh Phương Than 17 Vạn Ân Đồng 2273201080354 Tìm nội dung Vạn Ân Đồng 18 Bùi Nguyễn Như 2273201081030 Tìm nội dung Bùi Nguyễn Nh Ngọc Ngọc 19 Trần Huy Hùng 2273201080568 Tìm nội dung Trần Huy Hùn 20 Phan Lê Khanh 2273201080663 Tìm nội dung Phan Lê Khan 21 Huỳnh Thế Huy 2273201080574 Tìm nội dung Huỳnh Thế Hu 22 Nguyễn Hoàng Đăng 2273201080679 Tìm nội dung Nguyễn Hoàn Khoa Đăng Khoa 23 Đoàn Thanh 2273201080698 Tìm nội dung Đoàn Thanh Khuyên Khuyên 24 Lâm Gia Linh 2273201080758 Tìm nội dung Lâm Gia Lin 4 25 Nguyễn Thị Thanh 2273201081645 Tìm nội dung Nguyễn Thị Thuý Thanh Thuý 26 Nguyễn Ngọc Thanh
2273201080712 Tìm nội dung, thuyết trình Nguyễn Ngọc Kiều Thanh Kiều 27 Châu Trần Thiên 2273201081133 Tìm nội dung, powerpoint Châu Trần Nhi Thiên Nhi 28 Đoàn Đức Minh 2273201080875 Tìm nội dung Đoàn Đức Min 29 Nguyễn Ngọc Thanh 2273201080371 Tìm nội dung Nguyễn Ngọc Giang Thanh Giang 30 Trương Tuấn Kiệt 2273201080709 Tìm nội dung Trương Tuấn Kiệt , ngày 20 tháng 03 năm 2023 Trưởng nhóm Ký và ghi rõ họ tên Đỗ Anh Thư 5 MỤC LỤC
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................................
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................................................................................
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................................................................................
PHẦN B: NỘI DUNG.......................................................................................................................
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN...........................................
Chương 2: GIỚI THIỆU VỀ NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN...........................................................................................
Chương 3: NÉT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN.............................................................
Chương 4: TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA NHÀ MỒ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VÀ TINH THẦN CỦA
NGƯỜI TÂY NGUYÊN.............................................................................................................................................
PHẦN C: PHỤ LỤC....................................................................................................................... 1
Tài liệu tham khảo............................................................................................................................................... 2
Hình ảnh tham khảo............................................................................................................................................ 6 PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mộ (đồng nghĩa: mồ hay mả hay còn gọi chung là mồ mả, hay còn gọi là nơi chôn cất)
là nơi người chết được chôn cất hay còn được gọi là nơi người đã vĩnh viễn ra đi an
nghỉ theo hình thức mai táng và tục lệ xây nhà mồ an táng người qua đời đã trở thành
nét văn hoá đặc trưng của của nhiều dân tộc châu Á, đặc biệt phát triển trong văn hoá
Việt Nam, văn hoá Trung Hoa, văn hoá Triều Tiên và văn hoá Đông Nam Á. Đối với
Việt Nam Nhà mồ của người dân Tây Nguyên đã trở thành mảng đặc sắc của văn hóa cổ truyền.
Đây là một nét tín ngưỡng cao đẹp về sự tồn tại của sự sống, người dân Tây Nguyên
không xem cái chết là sự kết thúc của một vòng đời. Đối với người Tây Nguyên cái
chết là sự trở về núi rừng, nơi con người sinh ra và tượng nhà mồ chính là một chế tác
đặc biệt sinh ra từ suy nghĩ ấy. Trải qua hằng trăm năm lịch sử cho đến ngày nay nhà
mồ Tây Nguyên vẫn luôn giữ cho mình một sức hút bí ẩn, ma mị mãnh liệt. Sức hút ấy
không chỉ hấp dẫn ở sự đa dạng độc đáo về kĩ thuật xây dựng, điêu khắc tượng mồ mà
còn là biểu dượng cho sự tổng hoà các giá trị văn hoá đặc sắc của người dân xứ sở “
Cao nguyên miền Thượng”, là sự dung hoà giữa giá trị nghệ thuật và giá trị tinh thần
của tộc người nơi đây nói riêng và cả đất nước Việt Nam nói chung.
Để thẩm thấu được cái chất, cái hồn văn hóa tuyệt vời ẩn chứa trong lòng Tây Nguyên
nhóm 6 chúng tôi quyết định chọn đề tài “Nhà mồ Tây Nguyên” để khai phá sâu hơn
về cách mà người dân Tây Nguyên có thể tạo nên nhà mồ và tượng nhà mồ? Quy trình
thực hiện và giá trị văn hoá cũng như giá trị tinh thần mà tập tục dựng nhà mồ của
người Tây Nguyên đã mang lại trong nền văn hoá Việt Nam? Nhiều nghiên cứu tìm
hiểu đã chỉ ra rằng việc xây dựng nhà mồ nhằm tạo ra sự đảm bảo về tinh thần của
người còn sống rằng người thân của họ sẽ được siêu thoát và sống một cuộc sống mới
và quy trình thực hiện tượng vô cùng kì công, tốn nhiều thời gian và sức lực. 7
Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu, phân tích và mang đến cho người đọc một cái
nhìn bao quát nhất về nhà mồ Tây Nguyên. Từ đó giúp cho bạn đọc hiểu hơn về văn
hoá nước nhà Việt Nam, có định hướng và ý thức cao hơn trong việc gìn giữ nét đẹp của di sản này. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp: Là nghiên cứu các tài liệu, lý
luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu
sắc về đối tượng. Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được
phân tích tạo ra một hệ thông lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng. Ở
phương pháp này nhóm 3 đã nghiên cứu các thông tin liên quan đến nhà mồ
Tây Nguyên thông qua sách Nhà mồ – tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc dân
gian Tây Nguyên của tác giả Ngô Văn Doanh.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Là phương pháp nghiên cứu chủ yếu thu
thập thông tin qua các tài liệu hay văn bản. Trong phương pháp này, chủ thể
nghiên cứu tham khảo, tìm kiếm thông tin ở bài viết được nhóm 3 tìm và thu
thập chủ yếu ở hai đầu báo Giáo Dục Thời Đại và Người Đưa Tin.
- Phương pháp quan sát: Là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh
sử dụng các giác quan để quan sát đối với các đối tượng trong tự nhiên và xã
hội. Ở phương pháp này nhóm 3 đã quan sát thông qua hình ảnh được đăng tải trên Google.
- Phương pháp lịch sử: Là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển
của các sự kiện lịch sử, phong trào cách mạng theo một trình tự liên tục, trong
mối liên hệ tác động lẫn nhau của chúng. Trong phương pháp lịch sử nhóm 3 đã 8
tìm hiểu được quá trình hình thành của Tây Nguyên theo năm tháng và được thể hiện ở chương 1.
- Phương pháp tham khảo: Trong quá trình nghiên cứu khoa học, viết luận án, bài
báo hay một quyển sách, các tác giả thường tham khảo và sử dụng các tài liệu
để trích dẫn vào công trình nghiên cứu, các tài liệu được tác giả trích dẫn gọi là tài liệu tham khảo. PHẦN B: NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN
1. Địa lý, lịch sử, dân cư và bản sắc văn hoá các dân tộc Tây Nguyên
1.1. Địa lý: Tây Nguyên là một khu vực địa lý nằm ở Trung Bộ Việt Nam, bao gồm 5
tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí từ Bắc xuống Nam gồm: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk
Nông và Lâm Đồng với diện tích khoảng 54.7 nghìn km² chiếm 16,8% diện tích cả
nước. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, 9
Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri
(Campuchia). Khu vực này có địa hình đồi núi cao với nhiều cao nguyên rộng lớn như
Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuộc và Đà Lạt. Tuy nhiên Tây Nguyên không phải là
một cao nguyên duy nhất mà bao gồm các cao nguyên liền kề: cao nguyên Kon Tum,
cao nguyên Măng Đen(Kon Plông), cao nguyên Kon Hà Nừng, cao nguyên Playku,
cao nguyên M’Drăk, cao nguyên Mơ Nông, cao nguyên Lâm Viên
Địa hình: Nằm về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ
Đông sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia
cắt phức tạp có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:
- Địa hình cao nguyên là địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo lên bề mặt của vùng.
Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với quy mô lớn. - Địa hình vùng núi.
- Địa hình thung lũng chiếm diện tích không lớn chủ yếu phát triển cây lương thực,
thực phẩm và nuôi cá nước ngọt
Khí hậu: Tây Nguyên nằm trong vùng Nhiệt đới Xavan, khí hậu Tây Nguyên được
chia làm 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Mùa khô nóng hạn,
thiếu nước trầm trọng, mùa mưa nóng ẩm, tập trung 85-90% lượng mưa của cả năm.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 20 C o
điều hoà quanh năm biên độ nhiệt ngày và đêm chênh lệch cao trên 5,5oC.
Tài nguyên nước: Tây Nguyên được ưu đãi khi có nguồn tài nguyên nước dồi dào,
phong phú với 4 hệ thống sông chính: Sê San, Srêpốk, sông Ba và sông Đồng Nai. Chế
độ dòng chảy chịu tác động của khí hậu. Nguồn nước ngầm tương đối lớn nhưng nằm
sâu, giếng khoan trên 100 mét. Tài nguyên đất:
- Đất đai được coi là tài nguyên cơ bản của vùng, thuận lợi cho phát triển nông lâm
nghiệp. Diện tích đất chủ yếu là đất đỏ bazan, tầng phong hoá dày, địa hình lượn sóng
nhẹ tạo thành các cao nguyên đất đỏ như cao nguyên Buôn Ma Thuột, Pleiku, Đắk
Nông, Kon Tum chiếm diện tích khoảng 1 triệu ha, thích hợp với nhiều loại cây trồng
đặc biệt là cây cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, điều... và rừng. Đất đỏ vàng chiếm diện tích 10
khoảng 1,8 triệu ha, kém màu mỡ hơn đất đỏ bazan nhưng giữ ẩm tốt và tơi xốp nên
thích hợp với nhiều loại cây trồng. Ngoài ra còn có đất xám phân bố trên các sườn đồi
thoải phía Tây Nam và trong các thung lũng, đất phù sa ven sông, thích hợp cho trồng cây lương thực.
- Tuy nhiên diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 1,4 triệu ha và đang bị thoái hoá
nghiêm trọng (đất bazan thoái hoá tới 71,7%; diện tích đất bị thoái hoá nặng chiếm tới 20%). Tài nguyên rừng:
- Tây Nguyên là một trong những vùng có tính đa dạng sinh học rất cao của Việt Nam.
Rừng Tây Nguyên giàu về trữ lượng, đa dạng về chủng loại trữ lượng rừng gỗ chiếm
tới 45% tổng trữ lượng rừng gỗ của cả nước. Diện tích rừng Tây Nguyên là 3.015,5
nghìn ha chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước. Các cây dược liệu quý được tìm thấy ở
đây như sâm bổ chỉnh, sa nhân, địa liền, thiên niên kiện, hà thủ ô trắng,... và các cây
thuốc quý có thể trồng được ở đây như atisô, bạch truật, tô mộc, xuyên khung...
- Hệ động vật hoang dã cũng rất phong phú có ý nghĩa kinh tế và khoa học. Có tới 32
loài động vật quí hiếm như voi, bò tót, trâu rừng, hổ, gấu, công, gà lôi... Tài nguyên khoáng sản:
- Chủng loại khoáng sản ít. Đáng kể nhất là quặng bôxit với trữ lượng dự báo khoảng
10 tỷ tấn, chiếm 90% trữ lượng bôxit cả nước, phân bố chủ yếu ở Đắc Nông, Gia Lai
Kon Tum. Việc khai thác quặng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông và lâm nghiệp.
- Vàng có 21 điểm vàng trữ lượng khoảng 8,82 tấn phân bố ở Kon Tum, Gia Lai.
Ngoài ra còn các loại đá quý, các mỏ sét gạch ngói phân bố ở Chưsê - Gia Lai và Bản
Đôn - Đắc Lắc, than bùn và than nâu phân bố ở Biển Hồ, làng Bua, làng Vệ - Gia Lai, Chư Đăng - Đắc Lắc.
1.2. Lịch sử: Vùng đất Tây Nguyên được hình thành từ khoảng 40-50 triệu năm khi
các núi lửa nổ ra và tạo ra các đá bazan kiềm giải phóng nơi đây. Vùng đất Tây
Nguyên được coi là vùng đất bí ẩn của Việt Nam do được bao phủ bởi các rừng nhiệt
đới, thác nước và những dãy núi đá vôi. Người dân bản địa trên vùng đất này gồm các
dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Ba Na và Xơ Đăng. Và theo quá trình hình thành Tây Nguyên
được chia làm 3 giai đoạn: 11
Giai đoạn 1: Thời nguyên thủy đến trước thế kỷ 19
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc
thiểu số săn đầu người, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh, chỉ có những
quốc gia mang tính chất sơ khai của người Êđê, Giarai, Mạ,...
Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân
chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Đồ Bàn, bắt sống vua Champa là Trà
Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Champa thời đó vào Đại Việt. Hai phần Champa còn
lại, được Lê Thánh Tông chia thành các tiểu quốc nhỏ thuần phục Đại Việt. Phần đất
Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm là Bồ Trì trấn giữ, được
vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất nay là
tỉnh Phú Yên, Lê Thánh Tông phong cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa.
Vùng đất phía Tây núi Thạch Bi, tức miền bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành
nước Nam Bàn, vua nước này được phong là Nam Bàn vương.
Sau khi Chúa Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các Chúa Nguyễn ra
sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết
lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang
chịu sự bảo hộ của người Việt. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún và mục
tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến các vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền
lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong một số tài liệu vào thế kỷ 16, thế kỷ 17 đã có những ghi
nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi
Đá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai)
và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh trú ở vùng Nam Tây Nguyên ngày nay.
Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc
phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời Nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc
các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh
nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu
(1789) Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị lực
lượng cho quân Tây Sơn thuở ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây
Sơn là người vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc.
Giai đoạn 2: Thời Nhà Nguyễn 12
Sang đến triều Nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên
vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên
vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ – 1834). Người Việt vẫn chủ yếu
khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ ngày
nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ).
Trong cuốn Đại Việt địa dư toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết: Thủy
Xá, Hoả Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng đạo
tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông núi ấy,... Hỏa Xá ở phía
Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân Lạp, phía Nam thì là
Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sông Đại Giang, phía dưới là sông Ba
Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy.....
Năm 1863 vua Tự Đức lập đơn vị sơn phòng để củng cố và bình định vùng sơn cước
của ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Tuy mục đính chính là quân sự
nhưng cơ sở sơn phòng sau biến thành mạch giao thương giữa miền xuôi và miền núi
qua trung gian các thuộc lái trong khi quan lại kiểm soát việc thu thuế. Việc nhũng
nhiễu của lái buôn và lạm thu của giới quan liêu khiến người Thượng vì bị bức bách,
đã tràn xuống miền xuôi cướp phá nhiều đợt. Quan quân phải truy đuổi đánh dẹp. Hệ
thống sơn phòng tồn tại sang thời Pháp thuộc đến năm 1905 thì Chính quyền Bảo hộ ra
lệnh bãi bỏ và người Pháp trực tiếp cai trị vùng Cao nguyên.
Giai đoạn 3: Thời Pháp thuộc
Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt
các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền
giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.
Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương,
chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông
thành lập Vương quốc Sedang có Quốc kỳ và phát hành giấy bạc, có cấp chức riêng và
tự mình lập làm vua xưng là Marie đệ Nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng
đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu vận động xin viện trợ từ các cường
quốc Tây phương, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn F. Guiomar (1889 -
1890) lên tiếp thu. Mayréna trên đường trở lại Đông Dương khi quá cảnh Singapore thì 13
bị nhà chức trách giữ lại. Chính phủ Pháp cũng ra lệnh cấm Mayréna nhập cảnh.
Mayréna mất không lâu sau đó ở Mã Lai. Vùng Tây Nguyên kể từ năm 1889 được đặt
dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn và vương quốc Sedang cũng bị giải tán.
Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra Cao nguyên
Lang Biang. Ông đã đề nghị với Chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ
mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất
này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát
của Triều đình Huế. Vì vậy, ngày 16 tháng 10 năm 1898, Khâm sứ Trung Kỳ là Léon
Jules Pol Boulloche (1898 - 1900) đề nghị Cơ mật Viện triều Nguyễn giao cho Pháp
trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung Kỳ. Năm 1898, khi vương quốc
Sedang bị giải tán thì ngay năm sau (tức 1899), thực dân Pháp buộc vua Đồng
Khánh ban dụ ngày 16 Tháng 10 trao cho họ Tây Nguyên để họ có toàn quyền tổ chức
hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây. Triều đình Huế chỉ giữ việc
bổ nhiệm một viên quan Quản đạo có tính cách tượng trưng. Năm 1900, Toàn
quyền Paul Doumer đích thân thị sáp Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố
nghỉ mát, bắt đầu sự can thiệp trực tiếp trên cao nguyên. Trong quá khứ, Tây Nguyên
là khu vực không được khai thác nhiều đến khi Pháp thực hiện chiến dịch khai thác
khoáng sản. Với hợp đồng khai thác cao su, các nhà khai thác đã tiến hành xây dựng
hệ thống đường sắt và các cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam thống nhất,
Tây Nguyên đã phát triển mạnh mẽ hơn với ngành công nghiệp kinh doanh cà phê, cao
su và chăn nuôi gia súc.(. Theo Wikipedia )
1.3. Dân cư: Tây Nguyên có 4,4 triệu dân ( 2002 ), trong đó đồng bào dân tộc ít người
chiếm khoảng 30% ( Gia Rai, Ê Đê, Ba Na ). Là vùng thưa dân nhất nước ta (81
người/km2 năm 2002). Dân tộc Kinh phân bố chủ yếu ở các đô thị, ven đường giao
thông các nông trường, lâm trường. Đời sống dân cư còn nhiều khó khăn và đang được cải thiện đáng kể.
Chương 2: GIỚI THIỆU VỀ NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN 14 2.1. Hiện tượng nhà mồ
Hiện tượng nhà mồ Tây Nguyên cũng giống như các khu vực khác trong văn hóa dân
gian Việt Nam, có những truyền thuyết và nghi lễ riêng. Nhà mồ là một kiểu kiến trúc
đặc trưng của người Tây Nguyên được xây dựng bằng những thanh gỗ vuông nhọn
được đóng cọc sâu vào đất, sau đó được nối với nhau bằng những sợi dây tơi hoặc dây
nứa được sử dụng để chôn cất các thành viên trong gia đình đã mất cùng với đồ vật cá
nhân. Theo sử sách, nhà mồ của người Tây Nguyên là một loại kiến trúc cổ đại của
nền văn minh Sa Huỳnh và đầu đồng hóa của người Ê Đê thường được xây ở nơi cao
và rộng, được trang trí mỹ nghệ và chứa đựng nhiều dụng cụ hỗ trợ cho việc tế tự và
thờ cúng. Đây là một phần của văn hoá vật thể của người dân tộc thiểu số địa phương
tại khu vực Tây Nguyên của Việt Nam.
2.2. Nguồn gốc của nhà mồ
Tục chôn cất người chết được hình thành trong sự phát triển của loài người. Thuở sơ
khai con người chưa có hành vi chôn cất người chết. Dần dần về sau, con người dần có
những hành vi để chôn cất người chết từ đơn giản đến phức tạp. Những ngôi mộ sơ
khai nhất được tìm thấy vào thời xã hội nguyên thuỷ, sau đó những ngôi mộ được tìm
thấy ở thời đồ đá. Từ đó tục lệ chôn cất người chết ra đời và nhà mồ Tây Nguyên cũng không ngoại lệ.
Nhà mồ Tây Nguyên là một loại kiến trúc truyền thống của người đồng bào Tây
Nguyên tại Việt Nam. Về nguồn gốc, theo các nhà nghiên cứu, nhà mồ Tây Nguyên có
xuất xứ từ vùng Đài Loan (Đài Loan được gọi là Formosa, nghĩa là "đảo đẹp" trong 15
tiếng Bồ Đào Nha). Đến thế kỷ 16-17, người đồng bào nhà mồ đã di chuyển từ Đài
Loan sang các vùng đất khác nhau trên Tây Nguyên và xây dựng các nhà mồ theo
phong cách và kiến trúc tương tự như nhà mồ Formosa nhưng có sự biến tấu thay đổi
phù hợp với nền văn hoá phương Đông Việt Nam.
Tại Việt Nam, nhà mồ được tìm thấy ở hầu hết các khu vực Kon Tum, Gia Lai, Đắk
Lắk…trong đó nổi bật nhất là nhà mồ của người Gia Rai và Ba Na. Nhà mồ Đài Loan Nhà mồ dân tộc Cơ Tu
2.3. Quan niệm của người dân Tây Nguyên về nhà mồ
Người Tây Nguyên quan niệm, họ sinh ra từ rừng nên khi chết đi sẽ về với rừng, rừng
sẽ bao bọc lấy linh hồn, thân thể của người đã khuất. Chính vì vậy quan tài được khoét
rỗng từ một thân cây, sau đó cho thi hài vào bên trong với ngụ ý thần rừng đang che
chở và bao bọc lấy thân thể người đã khuất. Chính vì thế khi trong gia đình có người
thân mất đi thì việc chuẩn bị mồ mả là rất quan trọng. Tuỳ theo tình trạng qua đời mà
người dân thiểu số nơi đây sẽ có cách chuẩn bị ma chay khác nhau, hình thức cũng có phần thay đổi.
Người Tây Nguyên có hai quan niệm về cái chết. Theo đó, đối với người chết trẻ, chết
ngoài đường, xó chợ, ngã cây... gọi là cái chết bất đắc kỳ tử. Với những trường hợp
này, thi hài người chết không được đưa vào nhà mà để bên ngoài, sau đó đưa ra nghĩa địa để chôn.
Đối với những người do già chết đi, người Tây Nguyên gọi đó là cái chết bình thường,
thi hài được để trong nhà, sau đó đưa ra nghĩa địa để chôn cất. Bên trên những ngôi
nhà mộ này được trang trí những tượng gỗ điêu khắc vô cùng nghệ thuật. 16
Chương 3: NÉT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN
3.1. Nhà mồ của người dân Tây Nguyên
Nhà mồ nhìn chung là có cùng kết cấu và hình dáng kiến trúc với nhà ở, đây là một
dạng kiến trúc nhà mồ độc nhất vô nhị mà ta khó có thể kiếm được ở nơi đâu khác ở
vùng cao nguyên Nam Trung Bộ này. Nhà mồ ở Tây nguyên thường được xây tập thể
và đặt tại phía Tây của những cánh rừng bạt ngàn, nơi vắng vẻ, yên lặng hoà mình sâu
vào lòng thiên nhiên vì người dân Tây Nguyên cho rằng phía Tây là nơi tập trung của
ma quỷ và những điều kì bí khó lý giải chính vì thế mà hầu hết các ngôi mộ hay các
nghĩa trang ở đây đều được đặt ở hướng Tây những khu rừng cách xa nơi sinh sống của dân làng. 3.2. Cấu trúc nhà mồ
Như bất kì mọi tác phẩm nghệ thuật kiến trúc khác, ở nhà mồ Tây Nguyên để tạo nên
giá trị nghệ thuật và giá trị tín ngưỡng tâm linh thì kiến trúc của nhà mồ đã góp phần
không nhỏ. Xét về mặt cấu trúc, nhà mồ Tây Nguyên bao giờ cũng gồm ba bộ phận
chính: lối hàng rào gồm các cột tượng và cột trang trí bao quanh bên ngoài, ngôi nhà ở
trong và phần trang trí phía trên nóc nhà (hoặc là hàng chạm khắc hoặc là cột trang
trí). Bố cục của 3 bộ phận đó là bố cục hướng tâm và tỷ lệ chiều cao của các bộ phận 17
là nhịp điệu nâng cao dần. Ngôi nhà ở trong vừa làm nền cho các tượng gỗ bên ngoài
vừa làm bệ cho các hình trang trí phía trên. Các tượng phía ngoài, nhờ có phần cột
phía dưới, mà cao hơn tầm vóc người thực, nhưng lại không được át chiều cao của
ngôi nhà. Lối rào bao quanh che kín toàn bộ phần nền và các chân cột lại có tác dụng
khiến cho người xem cảm thấy ngôi nhà bên trong như cao lên, như đang lơ lửng trong
không gian. Đến lượt mình, ngôi nhà lại đội các hình trang trí ở nóc cao hơn các cột
tượng bên ngoài. Cho nên, tuy các cột trang trí bên trong khá cao (có cột cao tới gần
10 m), nhưng các hình trang trí lại không bị chiều cao nuốt chửng vì có bộ mái làm
nền. Tách riêng ra thì đó là 3 bộ phân riêng lẽ, độc lập nhưng khi dung hoà lại thì 3 bộ
phận này luôn hỗ trợ đan xen với nhau, làm bệ đỡ cho nhau nhằm tôn lên trọn vẹn ý
nghĩa hình tượng vốn có mà nhà mồ mang lại.
Ở Tây Nguyên nhà mồ được xây dựng tập thể, người già nhiều kinh nghiệm thì chịu
trách nhiệm trang trí mỹ thuật, còn thanh niên trai tráng thì dựng cột và làm những
việc nặng nhọc, ngôi nhà ở trong vừa làm nền cho các tượng gỗ bên ngoài vừa làm bệ
cho các hình trang trí phía trên. Các tượng phía ngoài, nhờ có phần cột phía dưới, mà
cao hơn tầm vóc người thực, nhưng lại không được át chiều cao của ngôi nhà. Khi đó
đạc làm nhà mồ, người ta không dùng thước mà dùng những đơn vị cơ thể người, ví
dụ: 1 hapa (một sải tay), 1 hlok (1 cánh tay), 1 hagan (1 bàn tay)…Đây cũng là một nét
độc đáo trong kiến trúc dân gian Tây Nguyên. Kỹ thuật dựng nhà mồ hoàn toàn thô sơ,
chỉ có hệ thống kết nối bằng gá, buộc chứ không có hệ thống kèo, mộng. Vật liệu thì
chỉ có gỗ, nứa, lá mà không dùng gạch; công cụ xây dựng thì chỉ có dao, rìu mà không
dùng cưa. Chính điều đó đã tạo cho nhà mồ một dáng vẻ nguyên sơ, mộc mạc.
Xung quanh nhà mồ là một hàng rào có trang trí những bức tượng gỗ. Xưa kia, loại gỗ
đẽo các bức tượng nhà mồ thường là các loại gỗ quý như gỗ hương, cà chit…Sau này,
cây gạo được nhiều gia đình lựa chọn để thay thế. Sau khi chọn được gỗ, chủ hộ và
những nghệ nhân tạc tượng sẽ di chuyển chúng lên gần nhà mồ để thổi hồn cho những
khúc gỗ vô tri vô giác thành những bức tượng gỗ sống động đầy cảm xúc.
ượng mồ được các nghệ nhân của đại ngàn làm ra để dùng cho lễ bỏ mả và được
trang trí xung quanh ngôi nhà mồ. Mỗi tượng mồ mang mỗi hình ảnh, ý nghĩa riêng
khác nhau, chúng thường gắn liền với hình ảnh, sở thích của người sống lúc sinh thời.
Những tượng gỗ qua bàn tay và khối óc của các nghệ nhân trở nên sống động như có 18
hồn, nó mang ý nghĩa tâm linh gởi đến thế giới bên kia. Khác với tượng của người
Việt hay Khơ-me, thường là tượng mang tính thiêng liêng và tôn thờ được đặt ở các vị
trí trang trọng nơi thờ cúng, còn tượng nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên ra đời từ
thiên nhiên để rồi hoà quyện vào đất trời, nắng - mưa - sương - gió. Tượng nhà mồ
muôn hình, muôn dạng, từ tượng người ôm con vào lòng, tượng người đàn bà đi lấy
nước đến người ngồi khóc, người đánh trống, đánh chiêng, người chia phần cơm lam...
bao quanh lấy khu nhà mồ ở nghĩa địa. Tượng nhà mồ có nhiều loại hình với nội dung
thể hiện khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu tượng nhà mồ được chia làm 4 nhóm chính:
- Nhóm sinh hoạt: gồm con trai, con gái, người địu con, múa trống, giã gạo… thể hiện
sinh hoạt hằng ngày mà họ vẫn làm.
- Nhóm nhớ thương: là tượng người ôm mặt khóc thường được đặt bốn góc của nhà
mồ, thể hiện nỗi đau thương của người sống đối với người chết
- Nhóm tượng thú vật: là nhóm tượng thú vật, như khỉ, trâu, bò, rắn, hổ… được tạc ra
và đặt xen kẽ vào nhóm tượng khác cũng cùng chung mục đích phục vụ người chết.
- Nhóm tượng gỗ sinh tồn biểu hiện cặp nam nữ giao phối, tượng đàn bà chửa, nam nữ
khoe bộ phận sinh dục…được thể hiện cách chân thực, tự nhiên của con người.
Những tượng này không mang lại cảm giác sợ hãi, cách biệt mà tạo cho người nhìn
một cảm giác thân thuộc, gần gũi không những thế nó còn mang ý nghĩa giúp cho
người chết như đang được sống lại cuộc đời của chính mình chốn dương thế với những
sinh hoạt rất đỗi bình dị hằng ngày. 3.3. Dịp sử dụng
Nhà mồ được dựng vào ngày lễ bỏ mả và sử dụng ngay sau khi kết thúc lễ bỏ mả (lễ
Pơ Thi). Theo tục lệ thì trong gia đình có người mất, sau khi hoàn tất thủ tục tẩm liệm
thì thi hài của họ được chôn cất với ngôi mộ rất sơ sài. Đến ngày bỏ mả họ mới bắt đầu 19
dựng lên nhà mồ kiên cố, chỉn chu với lối trang trí bắt mắt, đẹp đẽ. Và thông thường
sau khi chôn cất từ 1-7 năm, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình, người Tây
Nguyên sẽ làm lễ bỏ mả tức là bỏ đứt. Nghi lễ bỏ mã được tổ chức rất lớn từ 3-5 ngày.
Đây là một trong những nghi thức vô cùng quan trọng khi an táng người đã khuất vì
người Tây Nguyên quan niệm rằng ngoài việc tổ chức lễ bỏ mả nhằm tưởng nhớ người
đã mất, cầu nguyện cho họ, và giúp họ tiếp tục hành trình trong cuộc sống sau khi qua
đời. Lễ bỏ mả còn mang ý nghĩa xua đuổi tà ma, mang lại sự bình yên cho người đã
qua đời và cho gia đình của họ
Lễ bỏ mả của người dân Tây Nguyên
Lễ bỏ mả có 2 phần: Tại nhà và ngoài mả, kéo dài 2 đến 3 ngày. Các gia đình có người
chết phải chuẩn bị đồ cúng lễ rồi báo tin cho họ hàng, toàn thể buôn làng tới dự. Trước
lễ bỏ mả cả tháng đã có hàng chục người chặt gỗ, đẽo tượng, làm nhà mồ. Mâm cúng
làm lễ không bắt buộc, tùy từng nhà. Nếu giàu có thì trâu, bò, heo, gà, rượu cần, cây
nêu. Nếu gia đình khó khăn thì sắm heo, gà, rượu cần. Đồng thời còn có tượng gỗ phản
ánh các lứa tuổi, sinh hoạt khác nhau. Lễ bỏ mả thường diễn ra vào buổi chiều, đó là
một cuộc trình diễn lớn quanh nhà mồ. Sau khi già làng làm lễ cúng xong, thân nhân
của người quá cố vào nhà mồ khóc than lần cuối với người đã chết. Tiếng cồng chiêng,
tiếng trống nổi lên tiễn đưa người chết đi về thế giới bên kia, đoàn đưa tiễn gồm những
người đánh khiêng và đánh trống, người đánh cồng chiêng, người đeo mặt nạ, người
trình diễn những con rối, phụ nữ thì múa, họ đi vòng quanh nhà mồ biểu diễn những 20