Nhà nước gì? Dấu hiệu đặc trưng của nhà
nước gì?
1. Nhà nước gì?
Nhà nước hiện tượng hội rất đa dạng phức tạp, được nhiều ngành
khoa học nghiên cứu nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Ngay từ thời cổ đại,
các nhà tưởng đã quan tâm nghiên cứu đã những luận giải khác
nhau về khái niệm nhà nước. Trải qua các thời đại khác nhau, nhận thức,
quan điểm về vấn đề này ngày càng thêm phong phú. Tuy nhiên, do xuất phát
từ những góc đ nghiên cứu khác nhau, năng lực nhận thức khác nhau, lại bị
chi phối bởi yếu tố lợi ích, quan điểm chính trị..., vậy nhiều quan niệm
khác nhau về nhà nước.
Aristote, nhà tưởng đại thời cổ đại, cho rằng, nhà nước sự kết hợp
của các gia đình. Đồ cập nhà nước trong mối tương quan với quốc gia, một
số tác giả cho rằng, n nước một đơn vị chính trị độc lập, một vùng
lãnh thổ được công nhận dưới quyền thống trị của nó.1 Cùng quan điểm
trên, một số tác giả khác cho rằng nhà nước là:
“tổ chức quyền lực chính trị của hội giai cấp, lãnh thổ,
dân chỉnh quyền độc lập, khả năng đặt ra thực thi
pháp luật nhằm thiết lập trật tự hội nhất định trong phạm vi
lãnh thổ của mình”.
Tiếp cận n nước từ quan niệm về pháp luật trật tự pháp luật, I. Kant cho
rằng:
“Nhà nước sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp luật”;
“Nhà nước trong tưởng cái đó phải phù hợp với các
nguyên tắc của pháp luật”)
Cùng cách tiếp cận này, một số tác giả khác cho rằng:
“Nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là một tập họp các thế chế nắm
giữ những phương tiện cưỡng chế hợp pháp, thi hành trên một
vùng lãnh thể được c định người dân sổng trên lãnh thổ đó
được đề cập như một hội”.
Ăngghen khi nghiên cứu về nguồn gốc của nhà nước đã đề xuất một số quan
niệm về nhà nước. Ông cho rằng, nhà nước sản phẩm của hội đã phát
triển đến giai đoạn nhất định, khi hội đã phân chia thành giai cấp mâu
thuẫn giai cấp không thể điều h được, nhà nước lực lượng:
“nảy sinh từ hội nhưng lại đứng trên hội , “có nhiệm vụ
làm dịu bớt sự xung đột giữ cho sự xung đột đó trong vòng
“trật tự”).
Phát triển quan điểm của Ăngghen, nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong
việc duy trì sự thống trị giai cấp, Lênin quan niệm:
“Nhà nước bao giờ cũng một bộ máy nhẩt định, tự tách ra
từ hội gồm một nhóm người chỉ chuyên hay gần như chỉ
chuyên, hay chủ yếu chỉ chuyên làm công việc cai trị”).
Theo Lênin, nhà nước sinh ra đ thực hiện sự thống trị giai cấp:
“Nhà nước là bộ máy dùng đế duy trì sự thong trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác”.
Trong tác phẩm Nhà nước cách mạng, ông còn nhấn mạnh:
“Nhà nước theo đủng nghĩa của nó, b mảy trấn áp đặc biệt
của giai cấp này đối với giai cấp khác ”.
Tóm lại, nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm nhà nước, mỗi cách
tiếp cận xây dựng nên khái niệm nhà nước với ý nghĩa riêng, phục vụ mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu riêng. Điều này cũng chứng tỏ, nhà nước một
hiện tượng đa dạng, phức tạp, khái niệm nhà nước nội m phong phù,
tính đa diện, đa chiều.
một hình thức tổ chức của con người, nhà nước không đồng nhất với
hội, chỉ một bộ phận của hội. Nhà nước bao gồm những người
không tham gia vào hoạt động sản xuất trực tiếp, được tổ chức ra để quản
hội, điều hành mọi hoạt động của hội. Sự ra đời, tồn tại của n nước
trong đời sống hội tất yếu trước nhu cầu phối hợp hoạt động chung, duy
trì trật tự chung, phòng chống ngoại xâm, thiên tai, bảo vệ lợi ích chung của
cộng đồng. Nhà nước được xem như quan quyền lực tối cao của hội
nhưng lại bị chi phối bởi những kẻ mạnh, lực lượng này dùng nhà nước vừa
thực hiện việc điều hành các hoạt động chung của hội, vừa làm lợi riêng
cho giai cấp mình.
Nhà nước cũng không hoàn toàn đồng nhất với quốc gia, chỉ một trong
ba yếu tố hợp thành quốc gia. Mặc nhà nước pháp luật sự gắn
hết sức chặt chẽ với nhau, tuy nhiên đó hai hiện tượng khác nhau, do vậy
về mặt nhận thức, không thể đồng nhất nhà nước pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên, thể định nghĩa: Nhà nước tổ chức quyển
lực đặc biệt của hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ hội để
chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức quản lỉ hội, phục vụ lợi ích
chung của toàn hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong hội.
So với các tổ chức hội khác (tổ chức phi nhà nước), n nước các đặc
trưng sau đây:
+ Nhà nước quyền lực đặc biệt (quyền lực nhà nước)
Để tồn tại duy trì các hoạt động, nhà nước cũng như các tổ chức hội
khác đều cần quyền lực. Quyền lực n nước khả năng của nhậ nước
nhờ đó các nhân, tổ chức trong hội phải phục tùng ý chí của nhà
nước. “Khả năng” của nhà nước phụ thuộc o sức mạnh bạo lực, sức mạnh
vật chất, uy n của nhà nước trong hội hay khả năng vận động quần
chúng của nó... Quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước
với các nhân, tổ chức trong hội. Trong mối quan hệ này, nhà nước là
chủ thể của quyền lực, các nhân, tổ chức trong hội đối tượng của
quyền lực ấy, họ phải phục tùng ý chí của nhà nước. Quyền lực nhà nước
cũng tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với các thành viên cũng như
các quan của nó, ttong đó thành viên phải phục tùng tổ chức, cấp dưới
phải phục tùng cấp trên.
Nhà nước tổ chức đại diện chính thức cho toàn thể hội, vậy, quyền
lực nhà nước quyền lực đặc biệt, bao trùm đời sống hội, chi phối mọi
nhân, t chức trong hội, tác động đến mọi nh vực của đời sống hội. Để
thực hiện quyền lực nhà ớc, một lớp người ch ra khỏi hoạt động sản
xuất trực tiếp, t chức thành các quan khác nhau, mỗi quan chuyên
đảm nhiệm những công việc nhất định, hợp thành bộ máy nhà nước từ trung
ương xuống địa phương.
2. Dấu hiệu đặc trưng của nhà nước gì?
Nhà nước một t chức đặc biệt, nên so với c tổ chức khác, Nhà nước
các dấu hiệu đặc trưng, bản sau:
+ Phân bố dân theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ không phụ thuộc vào
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, huyết thống, địa vị hội, nghề nghiệp;
+ bộ máy quyền lực công với sức mạnh cưỡng chế bao gồm quân đội,
cảnh sát, Toà án một đội n công chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ cai
trị, quản hội;
+ chủ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của đất nước mình, quyết định
các vấn đề quan trọng nhất của đất nước về đối nội ng n đối ngoại;
+ quyền ban hành pháp luật, những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung đối với mọi thành viên trong hội, với cách một công cụ đắc lực
trong cai trị, quản hội;
+ Có quyền quy định các loại thuế mang tính bắt buộc đối với nhân tổ
chức trong hội nhằm thiết lập nguồn tài chính nuôi bộ máy công quyền
thực hiện các chức năng của mình.
Nhà nước thực hiện việc quản li dân theo lãnh thổ
Các tổ chức hội rất đa dạng, phức tạp, được hình thành duy trì dựa trên
những điều kiện hội khác nhau, thể quan hệ huyết thống, giới tính, độ
tuổi, quan điểm chính trị... Trong khi đó, nhà nước lấy việc quản dân
theo lãnh thổ làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết thống,
dân tộc, giới tính... cứ sống trên một địa vực nhất định thì chịu sự quản của
một nhà nước nhất định do vậy, họ thực hiện quyền nghĩa vụ trước nhà
nước theo nơi họ trú.
Nhà nước thực thỉ chủ quyền quốc gia
Nhà nước quyền lực bao trùm phạm vi lãnh th quốc gia, đứng trên mọi
nhân, tô chức trong hội, vậy nhà nước tổ chức duy nhất đủ tư cách
khả năng đại diện chính thức hợp pháp của quốc gia, thay mặt quốc gia
dân tộc thực hiện bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang
nội dung chính trị pháp lí, thể hiện quyền quyết định tối cao độc lập, tự
quyết mọi vấn đề đối nội đối ngoại, không phụ thuộc vào bất nhân, tổ
chức nào trong nước cũng như các n nước khác, các tổ chức quốc tế.
Trong các hội không dân chủ, chủ quyền quốc gia thuộc về nhà nước.
Trong điều kiện của hội dân chủ, quyền lực tối cao trong hội thuộc về
nhân dân, nhân dân ủy quyền cho nhà nước thay mặt nhân dân t chức thực
hiện bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Nhà nước ban hành pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ quản
hội
Pháp luật quy tắc ng xử của con người trong đời sống cộng đồng. Nhà
nước t chức đại diện cho hội, thay mặt hội ban hành pháp luật, cung
ứng cho hội một loại quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với mọi
nhân, tổ chức trong hội. Nhà nước tổ chức duy nhất quyền ban hành
pháp luật, đồng thời, với cách người sứ mệnh t chức quản mọi
mặt của đời sống hội, nhà nước phải sử dụng pháp luật, dựa vào pháp
luật, phưong tiện đặc biệt quan ữọng để tổ chức quản hội. Mọi
nhân, tổ chức trong hội nghĩa vụ tôn trọng thực hiện pháp luật một
cách nghiêm chỉnh.
Nhà nước quy định thực hiện việc thu thuế, phát hành tiền
Thuế khoản tiền hay hiện vật người dân buộc phải nộp cho nhà nước
theo quy định của pháp luật. Nhà nước một bộ máy được tách ra khỏi lao
động sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản hội, do vậy,
phải được nuôi dưỡng t nguồn của cải do dân đóng góp. Thiếu thuế
bộ máy n nước không thể tồn tại được. Bên cạnh đó, thuế còn nguồn
của cải quan trọng phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống. Chỉ nhà
nước mới quyền quy định thực hiện việc thu thuế nhà nước tổ
chức duy nhất cách đại diện chính thức cho toàn hội. Nhà nước phát
hành tiền làm phương tiện trao đổi trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng của
cải trong đời sống.
3. Quy định về nhà nước, quan nhà nước trong quan hệ
pháp luật dân sự?
Nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia vào một số quan hệ
pháp luật n sự với tư cách chủ thể đặc biệt. cách chủ thể của Nhà
nước không đặt ra như cách chủ thể của các chủ thể khác. Nhiều quan
nhà nước tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế với tư cách ch thể
độc lập, bình đẳng nhưng Nhà nựớc Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam
tham gia với cách chủ thể đặc biệt.
Nhà nước chủ th đặc biệt trong các quan hệ hội nói chung các quan
hệ dân sự, kinh tể nói riêng bởi các lẽ sau:
- Nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước của dân, do
dân, dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với nông dân tầng lớp tri thức. Nhà nước
nắm quyền lãnh đạo thống nhất, toàn diện về chính trị, kinh tế, vãn hoá, đối
ngoại theo định hướng hội chủ nghĩa. Nhà nước người đại diện cho
toàn dân một t chức chính trị - quyền lực.
- Nhà nước chủ sở hữu đối với tài sản thuộc chế độ sở hữu toàn dân.
- Nhà nước tự quy định cho mình các quyền trong c quan hệ Nhà nước
tham gia, trình tự, cách thức thực hiện các quyền nghĩa vụ ttong các quan
hệ đó.
- Nhà nước chủ thể của tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật của
Nhà nước ta.
Nhà nước trực tiếp nắm quyền định đoạt tối cao đối với các tài sản pháp
luật quy định thuộc chế độ sở hữu toàn dân. Những tài sản ý nghĩa quyết
định đến nền tảng kinh tế của toàn hội, đến an ninh, quốc phòng như: đất
đai, rừng núi, sông hồ, biển cả, các tài nguyên thiên nhiên khác.
Nhà nước giao quyền của mình cho các quan nhà nước thực hiện quyền
quản các tài sản, giao cho các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, chính trị-xã
hội các tổ chức khác, nhân thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt c tài sản của Nhà nước; quy định về trình tự, giới hạn thực hiện các
quyền đó. Pháp nhân do Nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam,
quan n nước trung ương, địa phương thành lập không chịu trách
nhiệm về nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng h
hội chủ nghĩa Việt Nam, quan n nước trung ương, địa phương. Nhà
nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam, quan n nước trung ương,
địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của pháp nhân do
mình thành lập, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, trừ trường hợp Nhà
nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam, quan n nước trung ương,
địa phương bảo lãnh cho nghĩa vụ dân sự của pháp nhân này theo quy
định của pháp luật.
quan nhà nước trung ương, địa phương không chịu trách nhiệm về
nghĩa vụ dân sự của Nhà nước Cộng h hội chủ nghĩa Việt Nam,
quan nhà nước khác trung ương, địa phương, trừ trường hợp luật liên
quan quy định khác.
Nhà nước uỷ quyền cho các quan nhà nước tham gia vào các quan hệ
dân sự, kinh tế như: ngân hàng, kho bạc, phát hành các phiếu, trái phiếu,
công trái. Việc đại diện cho Nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam,
quan n nước trung ương, địa phương tham gia quan hệ dân sự
được thực hiện theo quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn tổ chức bộ máy của quan nhà nước. Việc đại diện thông qua
nhân, pháp nhân khác chỉ được thực hiện trong các trường hợp theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Nhà nước chủ sở hữu các tài sản chủ, tài sản không người thừa kế, tài
sản b trưng thu, trưng mua.

Preview text:

Nhà nước là gì? Dấu hiệu đặc trưng của nhà nước là gì? 1. Nhà nước là gì?
Nhà nước là hiện tượng xã hội rất đa dạng và phức tạp, được nhiều ngành
khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Ngay từ thời cổ đại,
các nhà tư tưởng đã quan tâm nghiên cứu và đã có những luận giải khác
nhau về khái niệm nhà nước. Trải qua các thời đại khác nhau, nhận thức,
quan điểm về vấn đề này ngày càng thêm phong phú. Tuy nhiên, do xuất phát
từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, năng lực nhận thức khác nhau, lại bị
chi phối bởi yếu tố lợi ích, quan điểm chính trị..., vì vậy có nhiều quan niệm khác nhau về nhà nước.
Aristote, nhà tư tưởng vĩ đại thời kì cổ đại, cho rằng, nhà nước là sự kết hợp
của các gia đình. Đồ cập nhà nước trong mối tương quan với quốc gia, một
số tác giả cho rằng, nhà nước là một đơn vị chính trị độc lập, có một vùng
lãnh thổ được công nhận là dưới quyền thống trị của nó.1 Cùng quan điểm
trên, một số tác giả khác cho rằng nhà nước là:
“tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ,
dân cư và chỉnh quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi
pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi
lãnh thổ của mình”.

Tiếp cận nhà nước từ quan niệm về pháp luật và trật tự pháp luật, I. Kant cho rằng:
“Nhà nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp luật”;
“Nhà nước là trong tư tưởng là cái gì đó phải phù hợp với các
nguyên tắc của pháp luật”)

Cùng cách tiếp cận này, một số tác giả khác cho rằng:
“Nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là một tập họp các thế chế nắm
giữ những phương tiện cưỡng chế hợp pháp, thi hành trên một
vùng lãnh thể được xác định và người dân sổng trên lãnh thổ đó
được đề cập như một xã hội”.

Ăngghen khi nghiên cứu về nguồn gốc của nhà nước đã đề xuất một số quan
niệm về nhà nước. Ông cho rằng, nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phát
triển đến giai đoạn nhất định, khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và mâu
thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được, nhà nước là lực lượng:
“nảy sinh từ xã hội nhưng lại đứng trên xã hội ”, “có nhiệm vụ
làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó trong vòng “trật tự”).

Phát triển quan điểm của Ăngghen, nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong
việc duy trì sự thống trị giai cấp, Lênin quan niệm:
“Nhà nước bao giờ cũng là một bộ máy nhẩt định, nó tự tách ra
từ xã hội và gồm một nhóm người chỉ chuyên hay gần như chỉ
chuyên, hay chủ yếu chỉ chuyên làm công việc cai trị”).

Theo Lênin, nhà nước sinh ra để thực hiện sự thống trị giai cấp:
“Nhà nước là bộ máy dùng đế duy trì sự thong trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác”.

Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, ông còn nhấn mạnh:
“Nhà nước theo đủng nghĩa của nó, là bộ mảy trấn áp đặc biệt
của giai cấp này đối với giai cấp khác ”.

Tóm lại, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm nhà nước, mỗi cách
tiếp cận xây dựng nên khái niệm nhà nước với ý nghĩa riêng, phục vụ mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu riêng. Điều này cũng chứng tỏ, nhà nước là một
hiện tượng đa dạng, phức tạp, khái niệm nhà nước có nội hàm phong phù, có tính đa diện, đa chiều.
Là một hình thức tổ chức của con người, nhà nước không đồng nhất với xã
hội, nó chỉ là một bộ phận của xã hội. Nhà nước bao gồm những người
không tham gia vào hoạt động sản xuất trực tiếp, nó được tổ chức ra để quản
lí xã hội, điều hành mọi hoạt động của xã hội. Sự ra đời, tồn tại của nhà nước
trong đời sống xã hội là tất yếu trước nhu cầu phối hợp hoạt động chung, duy
trì trật tự chung, phòng chống ngoại xâm, thiên tai, bảo vệ lợi ích chung của
cộng đồng. Nhà nước được xem như cơ quan quyền lực tối cao của xã hội
nhưng lại bị chi phối bởi những kẻ mạnh, lực lượng này dùng nhà nước vừa
thực hiện việc điều hành các hoạt động chung của xã hội, vừa làm lợi riêng cho giai cấp mình.
Nhà nước cũng không hoàn toàn đồng nhất với quốc gia, nó chỉ là một trong
ba yếu tố hợp thành quốc gia. Mặc dù nhà nước và pháp luật có sự gắn bó
hết sức chặt chẽ với nhau, tuy nhiên đó là hai hiện tượng khác nhau, do vậy
về mặt nhận thức, không thể đồng nhất nhà nước và pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên, có thể định nghĩa: Nhà nước là tổ chức quyển
lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để
chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lỉ xã hội, phục vụ lợi ích
chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội.

So với các tổ chức xã hội khác (tổ chức phi nhà nước), nhà nước có các đặc trưng sau đây:
+ Nhà nước có quyền lực đặc biệt (quyền lực nhà nước)
Để tồn tại và duy trì các hoạt động, nhà nước cũng như các tổ chức xã hội
khác đều cần có quyền lực. Quyền lực nhà nước là khả năng của nhậ nước
nhờ đó các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng ý chí của nhà
nước. “Khả năng” của nhà nước phụ thuộc vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh
vật chất, uy tín của nhà nước trong xã hội hay khả năng vận động quần
chúng của nó... Quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước
với các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong mối quan hệ này, nhà nước là
chủ thể của quyền lực, các cá nhân, tổ chức trong xã hội là đối tượng của
quyền lực ấy, họ phải phục tùng ý chí của nhà nước. Quyền lực nhà nước
cũng tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với các thành viên cũng như
các cơ quan của nó, ttong đó thành viên phải phục tùng tổ chức, cấp dưới
phải phục tùng cấp trên.
Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho toàn thể xã hội, vì vậy, quyền
lực nhà nước là quyền lực đặc biệt, bao trùm đời sống xã hội, chi phối mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để
thực hiện quyền lực nhà nước, có một lớp người tách ra khỏi hoạt động sản
xuất trực tiếp, tổ chức thành các cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan chuyên
đảm nhiệm những công việc nhất định, hợp thành bộ máy nhà nước từ trung
ương xuống địa phương.
2. Dấu hiệu đặc trưng của nhà nước là gì?
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt, nên so với các tổ chức khác, Nhà nước có
các dấu hiệu đặc trưng, cơ bản sau:
+ Phân bố dân cư theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ không phụ thuộc vào
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, huyết thống, địa vị xã hội, nghề nghiệp;
+ Có bộ máy quyền lực công với sức mạnh cưỡng chế bao gồm quân đội,
cảnh sát, Toà án và một đội ngũ công chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ cai trị, quản lí xã hội;
+ Có chủ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của đất nước mình, quyết định
các vấn đề quan trọng nhất của đất nước về đối nội cũng như đối ngoại;
+ Có quyền ban hành pháp luật, những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung đối với mọi thành viên trong xã hội, với tư cách là một công cụ đắc lực
trong cai trị, quản lí xã hội;
+ Có quyền quy định các loại thuế mang tính bắt buộc đối với cá nhân và tổ
chức trong xã hội nhằm thiết lập nguồn tài chính nuôi bộ máy công quyền và
thực hiện các chức năng của mình.
Nhà nước thực hiện việc quản li dân cư theo lãnh thổ
Các tổ chức xã hội rất đa dạng, phức tạp, được hình thành và duy trì dựa trên
những điều kiện xã hội khác nhau, có thể là quan hệ huyết thống, giới tính, độ
tuổi, quan điểm chính trị... Trong khi đó, nhà nước lấy việc quản lí dân cư
theo lãnh thổ làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết thống,
dân tộc, giới tính.. cứ sống trên một địa vực nhất định thì chịu sự quản lí của
một nhà nước nhất định vă do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ trước nhà
nước theo nơi mà họ cư trú.
Nhà nước thực thỉ chủ quyền quốc gia
Nhà nước có quyền lực bao trùm phạm vi lãnh thổ quốc gia, đứng trên mọi cá
nhân, tô chức trong xã hội, vì vậy nhà nước là tổ chức duy nhất có đủ tư cách
và khả năng đại diện chính thức và hợp pháp của quốc gia, thay mặt quốc gia
dân tộc thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang
nội dung chính trị pháp lí, nó thể hiện quyền quyết định tối cao và độc lập, tự
quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào bất kì cá nhân, tổ
chức nào trong nước cũng như các nhà nước khác, các tổ chức quốc tế.
Trong các xã hội không có dân chủ, chủ quyền quốc gia thuộc về nhà nước.
Trong điều kiện của xã hội dân chủ, quyền lực tối cao trong xã hội thuộc về
nhân dân, nhân dân ủy quyền cho nhà nước thay mặt nhân dân tổ chức thực
hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Nhà nước ban hành pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ quản lí xã hội
Pháp luật là quy tắc ứng xử của con người trong đời sống cộng đồng. Nhà
nước là tổ chức đại diện cho xã hội, thay mặt xã hội ban hành pháp luật, cung
ứng cho xã hội một loại quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành
pháp luật, đồng thời, với tư cách là người có sứ mệnh tổ chức và quản lí mọi
mặt của đời sống xã hội, nhà nước phải sử dụng pháp luật, dựa vào pháp
luật, là phưong tiện đặc biệt quan ữọng để tổ chức và quản lí xã hội. Mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế, phát hành tiền
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho nhà nước
theo quy định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy được tách ra khỏi lao
động sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản lí xã hội, do vậy,
nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn của cải do dân cư đóng góp. Thiếu thuế
bộ máy nhà nước không thể tồn tại được. Bên cạnh đó, thuế còn là nguồn
của cải quan trọng phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống. Chỉ nhà
nước mới có quyền quy định và thực hiện việc thu thuế vì nhà nước là tổ
chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức cho toàn xã hội. Nhà nước phát
hành tiền làm phương tiện trao đổi trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng của cải trong đời sống.
3. Quy định về nhà nước, cơ quan nhà nước trong quan hệ pháp luật dân sự?
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia vào một số quan hệ
pháp luật dân sự với tư cách là chủ thể đặc biệt. Tư cách chủ thể của Nhà
nước không đặt ra như tư cách chủ thể của các chủ thể khác. Nhiều cơ quan
nhà nước tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế với tư cách là chủ thể
độc lập, bình đẳng nhưng Nhà nựớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt trong các quan hệ xã hội nói chung và các quan
hệ dân sự, kinh tể nói riêng bởi các lẽ sau:
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp tri thức. Nhà nước
nắm quyền lãnh đạo thống nhất, toàn diện về chính trị, kinh tế, vãn hoá, đối
ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là người đại diện cho
toàn dân và là một tổ chức chính trị - quyền lực.
- Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc chế độ sở hữu toàn dân.
- Nhà nước tự quy định cho mình các quyền trong các quan hệ mà Nhà nước
tham gia, trình tự, cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ ttong các quan hệ đó.
- Nhà nước là chủ thể của tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Nhà nước trực tiếp nắm quyền định đoạt tối cao đối với các tài sản mà pháp
luật quy định thuộc chế độ sở hữu toàn dân. Những tài sản có ý nghĩa quyết
định đến nền tảng kinh tế của toàn xã hội, đến an ninh, quốc phòng như: đất
đai, rừng núi, sông hồ, biển cả, các tài nguyên thiên nhiên khác.
Nhà nước giao quyền của mình cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền
quản lí các tài sản, giao cho các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, chính trị-xã
hội các tổ chức khác, cá nhân thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt các tài sản của Nhà nước; quy định về trình tự, giới hạn thực hiện các
quyền đó. Pháp nhân do Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ
quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương thành lập không chịu trách
nhiệm về nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương. Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương,
ở địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của pháp nhân do
mình thành lập, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, trừ trường hợp Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương,
ở địa phương bảo lãnh cho nghĩa vụ dân sự của pháp nhân này theo quy định của pháp luật.
Cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương không chịu trách nhiệm về
nghĩa vụ dân sự của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ
quan nhà nước khác ở trung ương, ở địa phương, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Nhà nước uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước tham gia vào các quan hệ
dân sự, kinh tế như: ngân hàng, kho bạc, phát hành các kì phiếu, trái phiếu,
công trái. Việc đại diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương tham gia quan hệ dân sự
được thực hiện theo quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước. Việc đại diện thông qua cá
nhân, pháp nhân khác chỉ được thực hiện trong các trường hợp và theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Nhà nước là chủ sở hữu các tài sản vô chủ, tài sản không người thừa kế, tài
sản bị trưng thu, trưng mua.
Document Outline

  • Nhà nước là gì? Dấu hiệu đặc trưng của nhà nước là
    • 1. Nhà nước là gì?
    • 2. Dấu hiệu đặc trưng của nhà nước là gì?
    • 3. Quy định về nhà nước, cơ quan nhà nước trong qu