





Preview text:
Những đặc điểm của hệ thống chính trị và pháp luật tại Việt Nam
1. Khái niệm pháp luật
Theo định nghĩa pháp luật là hệ thống bao gồm những quy tắc xử sự chung được đặt ra
bởi nhà nước, mang tính chất bắt buộc thực hiện. Có các biện pháp giáo dục hoặc cưỡng chế
để đảm bảo thực hiện theo pháp luật hướng tới mục đích bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình
và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Có thể nhận thấy định nghĩa của pháp luật bao gồm các yếu tố như:
- Pháp luật là các quy tắc xử sự chung được hệ thống mang tính pháp luật và tính đạo
đức, áp dụng với quy mô cả nước, đối với mọi chủ thể trong xã hội.
- Đối với các quy định của pháp luật được áp dụng chung trong cộng đồng, chủ thể không
có quyền lựa chọn thực hiện hay không. Vì pháp luật mang tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện.
- Quá trình hình thành của pháp luật là được Nhà nước ban hành hoặc chấp nhận của Nhà
nước đối với những tập quán ban đầu đã có sẵn được nâng lên thành pháp luật. Nội dung của
pháp luật thể hiện ý chí, bản chất của giai cấp thống trị.
2. Đặc trưng của pháp luật Việt Nam
Một là, pháp luật Việt Nam hiện nay là pháp luật thuộc thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là thời kì có sự đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, diễn ra khá lâu dài với nhiều
bước phát triển, nhiều hỉnh thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Hiện nay, đất nước ta đã ra
khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. (Xem:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI). Điều kiện kinh tế
xã hội đó chi phối mạnh mẽ pháp luật nước ta hiện nay.
Hai là, pháp luật là cơ sở, hành lang pháp lí cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế; xác lập địa vị pháp lí cho các loại hình doanh nghiệp; thừa nhận và bảo vệ
quyền tự do kinh doanh; phát triển đồng bộ các loại thị trường; tôn trọng quy luật cung cầu;
bảo đảm tự do cạnh tranh, chống độc quyền, chống gian lận trong sản xuất và phân phối, bảo
vệ quyền lợi của nhà sản xuất, người tiêu dùng... Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn khá mới mẻ, nhiều vấn đề còn đang trong quá trình tìm tòi.
Chính vì vậy, hệ thống thể chế pháp lí cho sự tồn tại và vận hành của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang được từng bước xác lập và hoàn thiện.
Ba là, pháp luật thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của nhân dân, đó là hệ thống pháp luật
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức. Chính vì vậy, “Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ
quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động”)
Bốn là, pháp luật là sự thể chế hoá chủ trương, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hiến pháp đã xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà
nước và xã hội. Để thực hiện sự lãnh đạo của minh, Đảng đề ra chủ trương, đường lối chính
sách về phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... Trên cơ sở đó, Nhà
nước thể chế hoá thành pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật, làm cho đường lối của
Đảng đi vào đời sống, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Năm là, pháp luật xác lập cơ sở pháp lí cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
ở nước ta đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật giữ vị trí rất quan trọng. Pháp luật quy
định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; thừa nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân; quy định việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xác lập cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước; củng cố và mở rộng dân chủ xã hội; giáo dục ý thức tôn
trọng pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật trong xã hội...
Sáu là, pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức, truyền thống tốt đẹp, những thuần
phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, tinh thần nhân đạo, sự vị tha, tinh
thần tập thể, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tinh thần đoàn kết, đạo lí uống nước
nhớ nguồn, tinh thần tương thân tương ái, đùm bọc xẻ chia, đề cao các giá trị gia đình, tôn
trọng người già, coi trọng việc học hành, tinh thần tôn sư trọng đạo, cần cù, tiết kiệm...
Bảy là, pháp luật đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện. Công cuộc đổi mới đất nước
càng trở nên toàn diện và đi vào chiều sâu càng đòi hỏi sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
Sự phát triển trên nhiều mặt của đời sống xã hội làm cho phạm vi điều chỉnh của pháp luật
ngày càng mở rộng. Các quan hệ kinh tế xã hội vận động, biến đổi nhanh chóng đòi hỏi hệ
thống pháp luật phải được bổ sung, sửa đổi thường xuyên, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc sống.
Tám là, pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang
tham gia sâu rộng vào quá trình hợp tác, hội nhập quốc tế, giao lưu quốc tế về kinh tế, văn hoá,
giáo dục, khoa học kĩ thuật... ngày càng rộng, sự ảnh hưởng của truyền thông quốc tế ngày
càng lớn. Những yếu tố đó có tác động mạnh mẽ đến pháp luật nước ta, đòi hỏi các quy định
pháp luật Việt Nam phải phù hợp với những chuẩn mực chung của các nước trong khu vực
cũng như trên thế giới.
3. Khái niệm chính trị
Chính trị là toàn bộ những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp,
giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và
sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của Nhà nước; sự xác định hình thức
tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước.
Chính trị liên quan đến quyền lợi của giai cấp và nhà nước. Chính trị thuộc kiến trúc
thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, đảng phái chính trị xuất hiện khi xã hội
phân chia giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Chính trị còn tồn tại khi nào còn
giai cấp, còn nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chính trị trước hết là bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lí của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân
dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, đoàn thể xã
hội, nói chung là các lực lượng tham gia, và mối quan hệ giữa các lực lượng đó, chỉ phối sự
tồn tại và phát triển đời sống chính trị của một quốc gia, thể hiện bản chất của chế độ chính
trị của quốc gia, con đường phát triển của xã hội.
4. Đặc điểm của hệ thống chinh trị tại Việt Nam
Một là, hệ thống chính trị Việt Nam có 1 chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền
đó là Đảng cộng sản Việt Nam
Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm quyền. Trong
những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có Đảng Dân chủ và
Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến
lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên chính trị,
không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam
sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập
hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị – xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự
lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường
lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp
luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan
tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước
thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán
bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước
và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị – xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm
công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ…
Hai là, có tính thống nhất cao
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức
năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Sự
thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ
thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức
mạnh trong toàn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp thành.
Ba là, mang bản chất dân chủ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm
tra, giám sát của nhân dân.
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc điểm này
khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị,quyền lực chính trị, mà
còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tồ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước),
các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị – xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như
những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã
hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, có sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc
+ Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho
nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
+ Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt
đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn kết
trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu
tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
+ Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng
tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên
sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang
tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
Năm là, có tổ chức và hoạt động được đảm bảo bằng nguồn ngân sách Nhà nước
HTCT VN được tổ chức và hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các
hoạt động phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, chi trả lương cho cán bộ, công chức.
5. Mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật.
Giữa pháp luật và chính trị có mối liên hệ mật thiết với nhau, cụ thể như sau:
5.1. Mối quan hệ của pháp luật và chính trị trong việc hình thành, tổ chức bộ máy nhà nước:
– Bộ máy nhà nước là toàn bộ hệ thống từ Trung ương đến địa phương bao gồm nhiều
loại cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp…là một thiết chế phức tạp nhiều bộ phận. Để xác
định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm và phương pháp tổ chức hoạt động phù hợp để
thực hiện một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập thực hiện quyền lực nhà nước cần phải
thực hiện trên cơ sở vững chắc của những quy định của pháp luật.
– Khi một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức chưa đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và
chính xác để làm cơ sở cho việc xác lập và hoạt động của bộ máy nhà nước thì dễ dẫn tới tình
trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng của các cơ quan trong bộ máy
nhà nước. Ngoài ra, pháp luật còn quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong bộ máy nhà nước.
– Ngược lại, bộ máy nhà nước cũng tác động đến pháp luật. Một bộ máy nhà nước hoàn
chỉnh đại diện cho giai cấp tiến bộ trong xã hội sẽ đưa ra được một hệ thống pháp luật phù hợp
với đất nước, thể hiện đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội.
5.2. Mối quan hệ của pháp luật và chính trị trong quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia:
Pháp luật luôn tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao
giữa các quốc gia. Sự phát triển của quan hệ bang giao đòi hỏi pháp luật của các nước thay đổi
cho phù hợp với từng thời kỳ thay đổi của mỗi quốc gia.
5.3. Pháp luật với đường lối chính sách của giai cấp thống trị:
Mối liên hệ giữa chính trị và pháp luật thể hiện tập trung nhất trong quan hệ với đường
lối chính sách của đảng cầm quyền với pháp luật của nhà nước. Pháp luật thể chế hóa đường
lối chính sách của đảng cầm quyền tức là làm cho ý chí của đảng cầm quyền trở thành ý chí
của nhà nước. Đường lối chính sách của Đảng có vai trò chỉ đạo nô ̣i dung và phương hướng
phát triển của pháp luâ ̣t. Sự thay đổi trong đường lối chính sách của Đảng cầm quyền sớm hay
muô ̣n cũng dẫn đến sự thay đổi trong pháp luâ ̣t. Ví dụ, những năm trước đây do sự chỉ đạo của
chính trị nên pháp luâ ̣t của các xã hô ̣i chủ nghĩa đều thiết lâ ̣p và củng cố cơ chế quản lý kinh
tế tâ ̣p trung bao cấp, trên cơ sở thiết lâ ̣p càng nhiều càng nhanh chế đô ̣ công hữu về tư liê ̣u sản
xuất càng tốt.Phương hướng phát triển của pháp luâ ̣t của pháp luâ ̣t trong mô ̣t đất nước là do
đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền (Đảng cầm quyền) chỉ đạo. Đương nhiên chính
sách của lực lượng cầm quyền phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội và cuộc đấu tranh giữa
các lực lượng chính trị-xã hội trong đất nước.
6. Một số thuật ngữ khác liên quan chính trị và pháp luật
6.1 Khái niệm về cơ quan lập pháp?
Cơ quan lập pháp là cơ quan thực hiện chức năng lập pháp của một quốc gia là làm luật
và sửa đổi luật. Theo Hiến pháp năm 1992, cơ quan lập pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
6.2 Khái niệm về cơ quan hành pháp?
Cơ quan hành pháp là cơ quan thi hành Hiến pháp và các đạo luật do Quốc hội
ban hành. Cơ quan hành pháp là một bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, bao gồm số lượng
người nhất định, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước
thực hiện quyền lực nhà nước.