TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA MỸ THUẬT-THIẾT KẾ
*
* *
NHỮNG DI SẢN VĂN HOÁ VẬT THỂ CỦA
VIỆT NAM ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN
DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
(BÀI TIỂU LUẬN)
SINH VIÊN: Trần Đỗ Phương Anh
MSSV: 2275801080010
LỚP: TKNT06, khoá 2022-2026
SBD: 07
1
MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN.............................................................................................4
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:................................................................................4
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:...........................................................5
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:......................................................................5
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:................................................................6
5. DỰ KIẾN NHỮNG KẾ QUẢ SAU KHI NGHIÊN CỨU:...........................6
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................6
1. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA..........................................................6
2. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ........................................8
3. PHÂN LOẠI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ...............................................9
4. VAI TRÒ CỦA DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
CON NGƯỜI.......................................................................................................9
1. QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ...........................................................11
2. PHỐ CỔ HỘI AN........................................................................................16
3. KHU DI TÍCH MỸ SƠN.............................................................................20
4. HOÀNH THÀNH THĂNG LONG.............................................................22
5. THÀNH NHÀ HỒ.......................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................28
TÀI LIỆU KHAM KHẢO....................................................................................29
2
PHẦN TỔNG QUAN
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước vẽ nên
bao trang sử hào hùng cho dân tộc ta. Trải qua thời kì Bắc thuộc, Pháp thuộc,
kháng chiến chống Mĩ mà văn hóa Việt Nam ta vẫn len lõi và hình thành và đã
khẳng định bản lĩnh, bản sắc riêng. Kế thừa bao thế hệ, nền văn hóa phát triển
mạnh mẽ sau những thử thách,
Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là hạt nhân
gắn kết cộng đồng dân tộc. Đó là những giá trị văn hóa đã vượt qua sự thẩm định
của thời gian để trường tồn từ quá khứ đến được với hiện tại. Chúng ta thấy được
rằng di sản văn hóa do thiên nhiên con người tạo nên trong quá khứ. Chính
là phần cốt lõi, tinh hoa nhất động lại sau nhiều hoạt động sáng tạo của con người
từ đời này sang đời khác.
Di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận mang lại giá
trị văn hoá đặc biệt. Đây là những di sản có liên quan trực tiếp đến lịch sử, truyền
thống, triều đại của dân tộc Việt Nam. Chúng thể hiện những thành tựu văn
hóa, khoa học, và kiến trúc của người Việt qua các thời kỳ. Di sản văn hóa là một
phần quan trọng của danh tính văn hóa của một quốc gia. Việc bảo tồn giữ gìn
những di sản này giúp duy trì phát triển đặc trưng văn hóa của Việt Nam.
Chúng những biểu tượng biểu hiện của sự đa dạng sự kết hợp giữa các
yếu tố văn hóa khác nhau trong lịch sử phát triển của đất nước. Việc được
UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới đặt ra mục tiêu bảo tồn phát
triển di sản này. Sự công nhận của UNESCO mang lại tầm quốc tế cho di sản văn
hóa của Việt Nam. Điều này giúp nâng cao nhận thứchiểu biết của cộng đồng
quốc tế về văn hóa, lịch sửđịa điểm du lịch của Việt Nam. Sự công nhận này
cũng tạo điều kiện thu hút du khách quốc tế đến tham quan trải nghiệm những
di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam, góp phần vào phát triển du lịch tăng
cường sự giao lưu văn hóa. Và quan trọng hơn hết là mang lại niềm tự hào và tôn
trộng cho dân tộc Việt Nam đồng thời như một lời khen ngợi về nỗ lực bảo tồn
phát huy những di sản của Việt Nam. Tính đến tháng 11 năm 2023, Việt Nam đã
sở hữu một số lượng lớn các di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm
09 di sản văn hóa - thiên nhiên hỗn hợp, 15 di sản văn hóa phi vật thể 09 di
sản tư liệu.
3
Nhận thức được tầm qua trọng của việt gìn giữ phát huy những giá trị văn
hóa của dân tộc, những tài nguyên di sản văn hóa, phát triển du lịch địa phương
phổ cập kiến thức về di sản văn hóa cho thế hệ trẻ, tác giả chọn thực hiện
nghiên cứu đề tài: “Những di sản văn hoá vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Mục đích khoa học:
o Nghiên cứu, hệ thống hóa đánh giá giá trị của những di sản văn
hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa
thế giới.
o Làm những giá trị nổi bật toàn cầu của các di sản này, góp phần
nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa.
o Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn phát huy di sản văn
hóa của Việt Nam.
Mục đích thực tiễn:
o Đề xuất các giải pháp bảo tồn phát huy giá trị của các di sản văn
hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa
thế giới.
o Tạo cơ sở khoa học cho việc quản lý, bảo tồnphát huy các di sản
này.
o Góp phần phát triển kinh tế - hội của các địa phương di sản
văn hóa thế giới.
Cụ thể, nghiên cứu đề tài này sẽ tập trung vào các nội dung sau:
- Tổng quan về di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới.
- Phân tích, đánh giá giá trị của các di sản này.
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản này.
Nghiên cứu đề tài này ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo tồn phát
huy di sản văn hóa của Việt Nam. Nghiên cứu sẽ cung cấp những thông
tin khoa học về các di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới, từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn
phát huy giá trị của các di sản này một cách hiệu quả.
4
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng
thành Thăng Long, Thành nhà Hồ 5 di sản văn hóa vật thể Việt Nam
được UNESCO công nhận.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu tổng hợp kiến thức lý thuyết về giá trị di sản văn hóa; thu thập
dữ liệu qua các nguồn tài liệu, giáo trình, sách, báo, thông tin trên
internet…; phân tích, so sánh đi thực tế nhằm thu thập thông tin, dữ liệu,
hình ảnh….về giá trị di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới.
5. DỰ KIẾN NHỮNG KẾ QUẢ SAU KHI NGHIÊN CỨU:
Hệ thống hóa đánh giá giá trị của những di sản văn hóa vật thể của
Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.
Nghiên cứu sẽ cung cấp những thông tin khoa học về các di sản văn
hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế
giới, bao gồm:
* Lịch sử hình thành và phát triển của các di sản này.
* Đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật, văn hóa của các di sản này.
* Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật của các di sản này.
Những thông tin này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về
tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Làm rõ những giá trị nổi bật toàn cầu của các di sản này, góp phần nâng
cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo tồn
phát huy di sản văn hóa.
Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
của Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ GIÁ TRỊ CỦA
DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
5
1. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA
Di sản văn hóa là sản phẩm vật chất, tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, lễ hội, nếp sống
truyền thống, tri thức dân gian, văn hóa cộng đồng,… Đối với mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia, di sản văn hóa được coi là một kho tàng thiêng liêng mà mỗi thế hệ phải
có trách nhiệm phát huy, gìn giữ cho thế hệ mai sau. Một xã hội không thể tồn tại
phát triển nếu không dựa trên các giá trị văn hóa. Bất cứ dân tộc nào cũng
di sản riêng, đặc chưng bản sắc của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam cũng vậy điều
đó thể hiện trong Điều 1- Luật Di sản văn hóa Việt Nam: Di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa phi vật thể di sản văn hóa vật thể, sản phẩm tinh thần,
vật chất giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam Luật Di sản Văn hóa”. (
(2001); NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội).
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998 của Đảng đã khẳng định
nhiệm vụ bảo tồn văn hóa trong bối cảnh mới nước ta: “Di sản văn hóa tài
sản giá gắn kết cộng đồng dân tộc, cốt lõi của bản sắc dân tộc, sở để
sáng tạo những giá trị văn hóa mới giao lưu văn hóa.” (Nghị quyết 03 Ban
chấp hành trung ương đảng khóa VIII, Xây dựng phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;1998)
Theo Công ước về việc bảo vệ di sản văn hoátự nhiên của thế giới, Di sản
văn hoá là:
“Các di tích: các công trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội hoạ hoành tráng,
các yếu tố hay kết cấu tính chất khảo cổ, các văn bản, các hang động các
nhóm yếu tố giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay
khoa học.
Các quần thể: các nhóm công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có
giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến
trúc, sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan.
Các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình của
con người kết hợp với các công trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả
các di chỉ khảo cổ học, giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm
mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học”.
“Di sản văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất tin thần mang giá trị lịch sử
- văn hóa, khoa học, thẩm mỹ do các thế hệ trước sáng tạo lưu truyền lại cho
các thế hệ sau; là tài sản vô giá, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là nền tảng, cơ sở
để sáng tạo những giá trị văn hóa mới giao lưu văn hóa.” (UNESCO, Công
ước về việc bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới, 1972)
6
Theo UNESCO, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể
(Intangible) và di sản văn hóa vật thể (Tangible).
Tuy nhiên, sự phân loại giữa di sản văn hóa vật thể di sản văn hóa phi vật
thể này chỉ mang tính tương đối. Bởi di sản vật thể di sản phi vật thể luôn gắn
kết với nhau trở thành những thực thể sống. Ví dụ: đồ gốm văn hóa vật thể,
nhưng chứa đựng nhữngvăn hóa phi vật thể như: kỹ năng chế tác, cách nung, ...
2. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
“Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học bao gồm di ch lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia.” Di sản văn hóa Việt Nam được(Bộ văn hóa, thể thao du lịch,
hiểu là gì và bao gồm những loại di sản nào?, https://bvhttdl.gov.vn).
thể hiểu rằng, văn hóa vật thểmột bộ phận văn hóa nhân loại, thể hiện
đời sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; kết quả của hoạt
động sáng tạo, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể chất liệu tự nhiên,
đến hình dáng vật chất, kiến những sản phẩm vật chất giúp cho của con người.
Trong di sản văn hóa vật thể theo khả năng thõa mãn như cầu tinh thần của con
người về như cầu vật chất như nhà ở, quần áo, đồ dùng, món ăn, thế người ta
thường sử dụng nhiều kiểu phương tiện: tài nguyên năng lượng dụng cụ lao đông,
công nghệ sản xuất, sở hạ tầng sinh sống của con người, phương tiện giao
thông đi lại, phương tiện truyền thông, công trình kiến trúc, các phương tiện tiêu
khiển, tiêu dùng, mối quan hệ kinh tế… Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đề là kết
quả lao động của con người.
Tính đến tháng 11 năm 2023, Việt Nam có tổng cộng 5 di sản văn hóa vật thể
dược UNESCO công nhận bao gồm:
- Quần thể Di tích Cố đô Huế (1993): Đây cũng di sản văn hóa đầu
tiên của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản văn
hóa thế giới vào ngày 11/12/1993.
- Khu di tích Mỹ Sơn (1999): Thánh địa Mỹ Sơn (thuộc Duy Phú,
huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), một quần thể kiến trúc nổi
tiếng nhất của người Chăm ở Việt Nam.
- Phố cổ Hội An (1999): thuộc tỉnh Quảng Nam, một kiểu cảng thị
truyền thống Đông Nam Á, hiếm trên thế giới. Là nơi giao thương
buôn bán hưng thịnh và sầm uất kéo dài từ thế kỉ 17 và 18.
- Hoành thành Thăng Long (2010): là quần thể di tích gắn liền với kinh
đô Thăng Long - Hà Nội. Công trình kiến trúc đồ sộ này được các triều
7
đại xây dựng qua nhiều giai đoạn lịch sử đã trở thành di tích quan
trọng nhất trong hệ thống di tích Việt Nam.
- Thành Nhà Hồ (2011): tồn tại vững trải hơn 600 năm với kiến trúc độc
đáo bằng đá. Với những giá trị nổi ¡t toàn cầu về văn hóa, kiến trúc
lịch sử, ngày 27/6/2011, Thành Nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là
Di sản văn hóa thế giới.
3. PHÂN LOẠI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
Di sản văn hóa vật thể bao gồm các loại hình như khác nhau sau:
Di tích lịch sử - văn hóa: bao gồm các công trình kiến trúc, nghệ thuật, khảo
cổ, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện sự sáng tạo của con người
trong quá trình phát triển.
Danh lam thắng cảnh: bao gồm các cảnh quan thiên nhiên giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên sự sáng tạo của con
người.
Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia: bao gồm các hiện vật giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện sự phát triển của văn hóa vật chất của con người.
4. VAI TRÒ CỦA DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
CON NGƯỜI
Di sản văn hóa vật thể có vai trò quan trọng đối với đời sống con người, đó là:
Là minh chứng cho quá trình phát triển của lịch sử, văn hóa của dân tộc.
tài sản quý giá của cộng đồng, nguồn lực để phát triển kinh tế -
hội.
Là cầu nối giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc.
Di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới cần
đáp ứng các tiêu chí sau:
- Tiêu chí (I) - là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
- Tiêu chí (II) - Thể hiện một sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị
của nhân loại, trong một khoảng thời gian hoặc trong phạm vi một
vùng văn hoá của thế giới, về các bước phát triển trong kiến trúc hoặc công
nghệ, nghệ thuật tạo hình, quy hoạch đô thị hoặc thiết kế cảnh quan.
- Tiêu chí (III) - Là một bằng chứng độc đáo hoặc duy nhất hoặc ít ra cũng là
một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn
minh đang tồn tại hoặc đã biến mất.
- Tiêu chí (IV) - Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoặc
một quần thể kiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều giai đoạn có
ý nghĩa trong lịch sử nhân loại.
8
- Tiêu chí (V) - Là một ví dụ tiêu biểu về sự định cư của con người hoặc một
sự chiếm đóng lãnh thổ mang tính truyền thống và tiêu biểu cho một hoặc
nhiều nền văn hóa, nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động
của những biến động không thể đảo ngược được.
- Tiêu chí (VI) - Gắn bó trực tiếp hoặc cụ thể với những sự kiện hoặc truyền
thống sinh hoạt với các ý tưởng, hoặc các tín ngưỡng, các tác phẩm văn
học nghệ thuật có ý nghĩa nổi bật toàn cầu. (tiêu chuẩn này chỉ duy nhất
được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt và áp dụng đồng thời với
các tiêu chuẩn khác)
Vậy nên, các tiêu chí này giúp đánh giá giá trị của di sản văn hóa vật thể, từ đó
xác định các di sản có giá trị nổi bật toàn cầu cần được bảo tồn và phát huy.
Sự ghi nhận của UNESCO không những góp phần quảng hình ảnh đất
nước văn hóa, con người Việt Nam, còn tạo thêm nguồn động lực để phát
triển – hội, du lịch sự phát triển của đất nước ta. Không thể phủ nhận rằng,
các di sản đã tạo hội để du lịch phát triển, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo
sinh kế cho người dân. “Theo thông kê, năm 2018 đã khoảng 3,5 triệu lượt
khách đã đến tham quan các điểm trong Quần thể di tích Cố đô Huế. Còn tại Hội
An, năm 2018 đón tổng lượt khách tham quan, lưu trú lên tới 5 triệu lượt, trong
đó khách quốc tế đạt 3,8 triệu lượt. Doanh thu tham quan phố cổ đạt hơn 266
tỷ đồng. Mạng lưới sở lưu trú du lịch nơi đây đang tiếp tục phát triển về số
lượng và đa dạng loại hình. Hội An cũng đã được vinh danh "Điểm đến thành
phố văn hóa hàng đầu châu Á" trong hệ thống Giải thưởng du lịch thế giới năm
2019.” (Vietnam+ ,, Phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo hội phát triển du lịch
https://tuyengiao.vn). nhiều nơi, một phần doanh thu từ du lịch di sản văn
hóa được sử dụng để bảo tồn, tôn tạo, phục hồi quản di sản. Điều này
nghĩ du lịch di sản văn hóa đã góp phần to lớn vào việc bảo tồn pháp huy
bền vững các giá trị di sản. Vậy nên, sự trao đổi qua lại giữa các giá trị văn hóa
kinh tế càng thêm ý nghĩa. Ngoài ra, di sản văn hóa còn là nguồn lực phát triển
hội, thể được sử dụng để giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng về văn
hóa, từ đó góp phần xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Di sản văn hóa cầu nối giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Hơn
thế nữa di sản văn hóa của các quốc gia, dân tộc phản ánh những giá trị văn hóa,
tinh thần của mỗi dân tộc. Việc giao lưu, trao đổi di sản văn hóa giữa các quốc
gia, dân tộc giúp chúng ta hiểu hơn về văn hóa của nhau, từ đó góp phần tăng
cường hiểu biết, gắn giữa các dân tộc. dụ, việc UNESCO công nhận Quần
thể di tích Cố đô Huế di sản văn hóa thế giới đã góp phần quảng văn hóa
Việt Nam ra thế giới. Quần thể di tích Cố đô Huế là một quần thể kiến trúc, nghệ
thuật, lịch sử, văn hóa độc đáo, phản ánh những giá trị văn hóa, tinh thần của dân
tộc Việt Nam. Việc UNESCO công nhận Quần thể di tích Cố đô Huế đã thu hút
sự quan tâm của du khách quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa Việt
Nam các quốc gia trên thế giới. Tương tự, việc UNESCO công nhận Phố cổ
Hội An di sản văn hóa thế giới cũng đã góp phần quảng văn hóa Việt Nam
ra thế giới. Phố cổ Hội An một đô thị cổ có lịch sử lâu đời, mang đậm nét văn
9
hóa truyền thống của Việt Nam. Việc UNESCO công nhận Phố cổ Hội An di
sản văn hóa thế giới đã thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế, góp phần thúc
đẩy giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
CHƯƠNG II: NHỮNG DI SẢN VĂN HOÁ VẬT THỂ CỦA VIỆT NAM
ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN LÀ DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
1. QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Trong kỳ họp thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới tổ chức tại Colombia từ
ngày 6 đến ngày 11 tháng 12 năm 1993, quần thể kiến trúc Huế đã vinh dự được
UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới thứ 410 trong Danh sách Di sản
Thế giới đáp ứng tiêu chí số 4: “Là một dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc
xây dựng hoặc một quần thể kiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều
giai đoạn ý nghĩa trong lịch sử nhân loại.” Đây thực sự niềm vinh dự lớn
đối với Việt Nam khi lần đầu tiên một di sản được UNESCO công nhận di sản
thế giới, điều này đã khẳng định tầm vóc giá trị toàn cầu của quần thể di tích
Cố đô Huế. Trong Biên bản họp lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới ghi rõ:
“Quần thể di tích Huế kinh đô của nước Việt Nam thống nhất được xây dựng
vào đầu thế kỷ XIX. kết hợp triết Đông phương truyền thống Việt Nam
xưa, hòa quyện vào môi trường thiên nhiên, vẻ đẹp với sự phong phú đặc biệt của
kiến trúc và trang trí ở các tòa nhà là một phản ánh độc đáo của đế chế Việt Nam
ngày xưa vào thời cực thịnh của nó”. (UNESCO Press, 1993, 2)
Hình 1: Quần thể di tích cố đô Huế
Nguồn: TTXVN
a) Vị trí địa lí, diện tích:
Khu di tích cố đô Huế thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thị
Hương Trà, thị Hương Thủy, huyện Phú Lộc, huyện Phú Vang, nằm dọc hai
bên bờ sông Hương một vài vùng phụ lân cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Với
tổng diện tích hơn 500 ha, 10 cửa thông ra bên ngoài, bao gồm gần 30 cụm
công trình có quy mô lớn, bao gồm cả thành lũy, cung điện, chùa quán, đàn miếu,
lăng tẩm...
10
b) Lịch sử hình thành và phát triển:
Trong khoảng gần 400 năm (1558 - 1945), cố đô Huế đã từng thủ phủ của
09 đời chúa Nguyễn từ thế kỷ XVI -XVIII Đàng Trong, trở thành kinh đô của
triều đại Tây Sơn kinh đô của quốc gia thống nhất dưới sự trị 13 triều vua
Nguyễn (1802 - 1945). Kinh thành Huế được xây dựng trong thời gian dài từ
năm 1803 đến năm 1832, từ thời vua Gia Long đến vua Minh Mạng. Các di tích
nằm trong ngoài Hoàng thành được xây dựng dưới thời các vua triều Nguyễn
nên có thể nói quần thể di tích ở Huế là công trình lịch sử, tiêu biểu cho một giai
đoạn lịch sử của dân tộc. Trong suốt triều đại của mỗi vị vua, lại thêm nhiều
công trình mới được xây dựng để đánh dấu các sự kiện lịch sử, thể hiện quan
niệm và thị hiếu, thẩm mỹ của mỗi vị vua.
c) Đặc điểm kiến trúc:
Theo đánh giá của các vua triều Nguyễn, vị trí địa của Huế không chỉ quan
trọng về mặt giao thông, phòng thủ còn ẩn chứa những ý nghĩa phong thủy
đặc biệt theo quan niệm truyền thống của người Á Đông. Vì vậy, họ tin rằng yếu
tố tự nhiên sức ảnh hưởng tới sự thịnh vượng suy tàn của cả một vương
triều. Vì vậy, vào thời nhà Nguyễn, các quần thể kiến trúc quan trọng Huế đều
được thiết kế gắn liền với các yếu tố cảnh quan phong thủy như ngọn núi, quả
đồi hay dòng sông, suối, đặc biệt hồ nước đều thể mang cách “tiền án”,
“hậu chẩm”, “tả thanh long”, “hữu bạch hổ”,…
Đại đa số các cung điện đều được sơn son thiếp vàng theo kiểu mái chồng nhà
nối. Điều này nghĩa nhà trước nhà sau của điện được kết nối với nhau
bằng một hệ thống mái trần hình vòm mai cua dưới máng thừa lưu là máng nước
nối của hai mái nhà. Trần mai cua ấy cộng với phần bên trong tạo ra một không
gian nội thất chiều sâu, rộng rãi lại thống nhất không mang lại cảm giác
ghép nối hai tòa nhà. Còn đồ nội thất của nhà Nguyễn được thiết kế với kiểu dáng
rất mềm mại, được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Chất liệu được dùng để khảm lên
bề mặt của gỗ thường là mảnh sành sứ, ngà voi, xà cừ,…
Điều tạo nên điểm nhấn đặc biệt của kiến trúc Cung đình Huế chính phần
mái của các điện đều được lợp bằng ngói hoàng lưu ly thanh lưu ly. Sự kết
hợp giữa hai màu vàng, xanh của ngói lưu ly màu đỏ chủ đạo tạo cho cung
điện xứ Cố đô càng thêm phần nổi bật, uy nghiêm. Hệ thống cổng, cửa đây
không chỉ đa dạng về kiểu dáng còn chất liệu. Cửa xếp bằng gỗ quý trong
chung đình được chạm khắc tinh tế, cửa vòm nguyệt môn có đường nét mềm mại
cho đến cổng tam quan bề thế…
11
Hình 2: Chi tiết mái điện Thái Hòa
Nguồn: REDSVN
Quần thể di tích cố đô Huế bao gồm: Kinh thành Huế, Hoành thành Huế
Tử Cấm thành Huế, 3 tòa thành được lồng vào nhau này, nhưng được bố trí đối
xứng trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Trong quần thể này
UNESCO đã công nhận 16 điểm di tích là Di sản Văn Hóa Thế Giới.
1. Kinh thành Huế
Hình 3: Kinh Thành Huế nhìn từ trên cao
Nguồn: SaiGon Tiếp Thị
12
Được khởi công từ năm 1805 xây dựng bờ Bắc sông Hương mặt về hướng
Nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc,
xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc, xung quanh 10 cửa chính hệ thống
vọng canh, hào nước… Với vai trò bảo vệ cho Khu vực hành chính của nhà
Nguyễn và là nơi ở của nhà vua.
2. Đại nội (Hoàng thành, Hoàng cung)
Trong trung tâm của Kinh thành là nơi ở và làm việc của các Vua Nguyễn bao
gồm các khu vực:
Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim thủy (hào), tường bao bọc 10
cây cầu.
Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ môn đến điện Thái Hòa, là nơi
cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc Khánh niệm, Ban
sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần Đại khánh tiết
của các Vua triều Nguyễn.
Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu miếu, Thái miếu,
Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng tiên.
Khu vực ăn của Hoàng thái hậu và Thái Hoàng thái hậu gồm: cung Diên
Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ
nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
13
Hình 4: Kinh Thành Huế
Nguồn: VnExpress
Khu vực vườn Hạ điện Khâm Văn: nơi học tập chơi đùa của
các Hoàng tử khi chưa xuất phủ.
Khu vực Tử Cấm Thành: là chốn cung cấm, dành riêng cho Vua và hoàng
gia ăn ở, sinh hoạt. Tử Cấm Thành Huế là nơi sinh hoạt của nhà vua cũng
như hoàng triều nhà Nguyễn, trong đó có điện Cần Chánh là nơi có không
gian lớn để vua thiết triều và tổ chức các bữa yến tiệc, bên cạnh đó là điện
Càn Thành là chốn cung ấm cho nhà vua nghỉ ngơi và Thái Bình Lâu là
điểm thư giãn, đọc sách. (Cảnh Toàn,Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế, https://nguyendu.com.vn/)
3. Lăng Gia Long "Hoành tráng Gia Long"
4. Lãng Minh Mạng "Thâm nghiêm Minh Mạng"
Lăng vua Minh Mạng Huế diện tích khoảng 18ha, gồm 40 công trình lớn
nhỏ, bố trí đối xứng. Các công trình được phân bố trên 3 trục lớn song song
với nhau, lấy đường Thần Đạo làm trung tâm. Hình thế của lăng Minh Mạng Huế
dáng tựa như một người đang nằm nghỉ thế đầu gối lên núi Kim Phụng,
chân duỗi ra ngã ba sông trước mặt. Hai nửa hồ Trừng Minh như cánh tay buông
xuôi tự nhiên, vô cùng nhàn hạ.
5. Lăng Thiệu Trị "Khoáng đạt Thiệu Trị"
6. Lăng Dực Đức “Giản dị Dức Đức”
7. Lăng Tự Đức "Thơ mộng Tự Đức"
8. Lăng Đồng Khánh "Xinh xăn Đồng Khánh"
9. Lăng Khải Định "Tinh xảo Khải Định"
Lăng mộ vua Khải (1885-1925) tọa lạc trên núi Châu Chữ thuộc Thủy
Bằng, thị Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng được đánh giá lăng mộ
kiến trúc nổi bật nhất, công trình xây dựng cuối cùng của triều Nguyễn
(1802-1945). Vua Khải Định đã chọn vị trí lăng theo phong thuỷ truyền thống. Vị
trí lăng nằm trên triền núi Châu Chữ, phía trước có một quả đồi thấp làm tiền án;
núi Chóp Vung Kim trước mặt làm "Tả thanh long" "Hữu bạch hổ"
(rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải)
10. Văn Miếu, nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên các Tiến sỹ thời Nguyễn.
11. Đàn Nam Giao, nơi vua tế trời
12. Chùa Thiên Mụ, Biểu trưng Phật giáo của Huế
14
13. Hồ Quyền, đấu trường duy nhất còn lại ở Châu Á dành cho voi và hổ
14. Điện Hòn Chén, nơi thờ Thánh Mẫu
15. Trấn Bình Đài án ngữ bảo vệ đường sông của Kinh thành
16. Trấn Hải Thành - pháo đài trần giữ mặt biển phía Đông
Ngoài ra Huế còn nhiều thắng tích liên quan đến Triều Nguyễn như: Cung
An Định, Điện Voi Ré, Miếu, Hải Vân Quan, Vọng cảnh Thiên An, Cầu ngói
Thanh Tồn.
d) Giá trị lịch sử, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc.
Tính chính xác của Quần thể di tích Cố đô Huế thể được hiểu thông qua cách
bố trí thiết kế cùng độc đáo của di sản - nơi đã trở thành kinh đô của đế chế
phong kiến Việt Nam hùng mạnh nhất vào thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những
đặc điểm bản về kiến trúc cảnh quan của Quần thể di tích Cố đô Huế đã
được duy trì tính nguyên vẹn kể từ lần xây dựng đầu tiên vào đầu thế kỷ XIX
kéo sang những năm 40 của thế kỷ XX. Hiện tại, mặc một số công trình đang
còn phế tích, hầu hết các di tích quan trọng còn đang được trùng tu từng
phần. Việc trùng tu đã được tiến hành thông qua sử dụng những kỹ thuật vật
liệu truyền thống theo những chuẩn mực chuyên môn của quốc tế trong ngành
bảo tồn để đảm bảo tính chân xác của các di tích này.
Từ khi được vinh danh di sản văn hóa thế giới (1993), Quần thể di tích Cố
đô Huế còn bảo tồn khá nguyên vẹn tổng thể thống nhất, hầu hết kiến trúc nghệ
thuật cung đình với hệ thống thành quách, cung điện, miếu, đền đài, lăng tẩm
được quy hoạch xây dựng theo nguyên tắc phong thủy phương Đông. Đây còn
quần thể di tích tiêu biểu cho những thành tựu về kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc
sức lao động sáng tạo của con người Việt Nam trong suốt một thời gian dài,
đặc biệt là những giá trị lịch sử, , văn hóa, khoa học, nghệ thuật, kiến trúc.
2. PHỐ CỔ HỘI AN
a) Vị trí địa lí, diện tích:
Nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, Phố cổ Hội An thuộc vùng đồng bằng ven biển
tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía
Nam. Với diện tích khoảng 30 ha, Phố cổ Hội An nằm dọc theo hai bên bờ sông
Thu Bồn. Phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Tây và phía Bắc giáp Điện Bàn,
phía Đông giáp biển với bờ biển dài 7 km
15
Hình 5: Hội An nhìn từ trên cao
Nguồn: Sưu tầm
b) Lịch sử hình thành và phát triển:
Vào nửa cuối thế kỷ 16, thời kỳ Việt Nam nằm dưới quyền cai trị của nhà đã
được hình thành, kể từ sau năm 1570, Nguyễn Hoàng bắt đầu nắm quyền trấn thủ
Quảng Nam. Cùng với con trai Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Hoàng xây
dựng thành trì, ra sức thúc đẩy kinh tế Đàng Trong, đẩy mạnh giao lưu thương
mại vớiớc ngoài Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất
khu vực Đông Nam Á thời kỳ bấy giờ. Trong vòng 30 năm, 75 con tàu Châu Ấn
đã cập cảng Hội An, cùng với 37 con tàu cập bến Đông Kinh, khu vực mà chúa
Trịnh cai trị. Các thương nhân người Nhật khi đó tới bán những đồ
đồng, tiền đồng, kim loại, đồ gia dụng. . . và mua lại đường, tơ lụa, trầm hương…
Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản Hội An được thành lập và phát
triển mạnh trong đầu thế kỷ 17. Thương cảng Hội An thịnh đạt vào thể kỷ 17-18
và suy giảm dần từ thế kỷ 19.
Từ rất lâu, những người Hoa đã biết về Hội An, ngày từ khi vùng đất
này vẫn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người Việt thay người
Chăm, những thương nhân Trung Hoa lại tiếp tục tới buôn bán bởi vì các tỉnh
miền Nam của Trung Quốc đang thiếu các sản phẩm muối, vàng, quế. . . Mặc
dù thế, xuyên suốt thời kỳ tiền Hội An, người Hoa chủ yếu tới buôn bán
rồi quay về, không ở lại sinh sống, thành lập phố xá.
sau khi chúa Trịnh chiếm đóng lại Quảng Nam, Hội An bị tàn phá hoang
tàn chỉ còn sót lại các kiến trúc tín ngưỡng. Hội An được hồi sinh lại 5 năm sau
16
đó tuy nhiên sự nhộn nhịp của nó không còn tấp nập như trước. Người Hoa
người Việt đã bắt tay xây dựng lại Hội An từ đống đổ nát theo kiến trúc của họ
nên vô tình làm dấu tích của khu phố Nhật biến mất vĩnh viễn.
Đến thời nhà Nguyễn vì thực thi chính sách đóng cửa, hạn chế thông
thương với Trung Quốc nên cảng Đông Kinh dần mất đi vai trò quan trọng. Đến
năm 1976 của thế kỷ 20, Đà Nẵng ngày càng phát triển mạnh Hội
An dần chìm vào lãng quên khi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được tái lập. Các học
giả Việt Nam các quốc gia nước ngoài mãi đến năm 1980 mới nhận được
sự quan tâm.
c) :Đặc điểm kiến trúc, văn hóa
Phố cổ Hội An ngày nay một điển hình đặc biệt cho cảng thị cổ ở Đông
Nam Á. Phần lớn những ngôi nhà ở Hội An mang kiến trúc cổ có niên đại vào
khoảng thế kỷ 17 -19. Những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng trong lòng
phố cổ là bằng chứng về quá trình ra đời, phát triển tồn tại của cảng thị
này. Có nhiều dấu ấn về giao thoa pha trộn văn hóa tại đây. Những hội quán,
đền miếu vẫn mang dấuch của người Hoa nằm bên những ngôi nhà của người
Việt và một số ngôi nhà phong cách kiến trúc Pháp. Rất nhiều di tích còn nguyên
vẹn như bến cảng, phố cổ, nhà thờ tộc, đền miếu các hội quán của người Hoa,
lăng mộ của người Nhật đặc biệt hơn là biểu tượng của Hội An – Chùa Cầu (chùa
Nhật Bản). Cho thấy Hội An vẩn còn lưu giữ lại những nét văn hóa, kiến trúc của
các nước quan hệ buôn bán với bến cảng này như Nhật Bản, Trung Quốc,
Lan, Bộ Đào Nha, Pháp, Ý. Đường Trần Phú con đường chính, nơi tập
trung đông nhất những công trình kiến trúc cổ, cũng như những căn nhà cổ
điển tiêu biểu cho kiến trúc Hội An. Trong số đó, các hội quán được thành lập bởi
người Hoa là phổ biến nhất nhằm tưởng nhớ về quê hương của họ. Nếu bắt đầu từ
Chùa Cầu, sẽ có năm hội quán trên đường Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn: Hội
quán Quảng Đông, Hội quán Trung Hoa, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán Triều
Châu, Hội quán Phúc Kiến.
17
Hình 6: Chùa Cầu về đêm
Nguồn: VnExpress
Kiểu truyền thống Hội An chính những ngôi nhà phố một hoặc hai tầng
với đặc trưng chiều ngang hẹp, chiều dài rất sâu tạo nên kiểu nhà hình ống.
Những vật liệu chính dùng để xây nhà sức chịu lực độ bền tốt do đặc điểm
khí hậu khắc nghiệt đây bão lụt hàng năm của miền Trung. Thông thường,
các ngôi nhà kết cấu nhà khung gỗ, hai bên tường gạch ngăn cách. Khuôn
viên trung bình của các ngôi nhà chiều ngang khoảng 4 đến 8 mét, chiều sâu
khoảng 10 đến 40 m, tùy thuộc theo từng tuyến phố. Bố cục mặt bằng phổ biến
của những ngôi nhà truyền thống đây gồm: vỉa hè, hiên, nhà chính, nhà phụ,
hiên, nhà cầu sân trong, hiên, nhà sau ba gian, vườn sau. Trên mặt bằng tổng
thể thì nhà trước, nhà cầu nhà sau được lợp bằng những phần mái riêng biệt.
Ngói Hội An là loại ngói được làm từ đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi
cạnh khoảng 22cm và có dạng hơi cong.
18
Hình 7: Nhà ngói
Nguồn: Sưu tầm
3. KHU DI TÍCH MỸ SƠN
a) Vị trí địa lý, diện tích
Quần thể di tích Mỹ Sơn nằm Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, Việt Nam. Quần thể di tích này cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km về
phía Tây Nam, cách thành phố Hội An khoảng 45 km về phía Tây, cách cố đô
Huế khoảng 145 km về phía Nam. Nằm trong một thung lũng đường kính
khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi trùng điệp. Địa hình nơi đây tương đối bằng
phẳng, thấp dần từ phía Nam lên phía Bắc. Quần thể di tích Mỹ Sơn bao gồm hơn
70 ngôi đền tháp Chăm Pa, được xây dựng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII. Đây
một trong những quần thể đền tháp Chăm Pa lớn và quan trọng nhất ở Việt Nam.
“Ngày 29/4/1979 Bộ Văn hóa-Thông tin đã ra Quyết định số 54VH/QĐ công
nhận Mỹ Sơn Di tích kiến trúc nghệ thuật. Năm 1898, một người Pháp tên
M.C Paris đã phát hiện khu đền tháp Mỹ Sơn nằm kín đáo trong một thung lũng
hẹp, giữa những khu rừng rậm rạp. Sau đó không lâu, những nhà khoa học của
Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đã đến nghiên cứu các bia công trình kiến
trúc, điêu khắc ở Mỹ Sơn.
19
Cũng chính họ đã vén lên bức màn mật về Mỹ Sơncho thấy đây khu
di tích tôn giáo kỳ nhất, đặc trưng nhất của người Chămpa, xây dựng liên tục
trong suốt hơn 1000 năm.” Di sản văn hóa Mỹ Sơn( , https://quangnam.gov.vn)
Hình 8: Toàn cảnh Thánh địa Mỹ Sơn
Nguồn: @shutterstock
b) Lịch sử hình thành và phát triển:
Được xây dựng từ thế kỷ IV bởi vị vua Bhadravarman (năm trị 349 đến năm
361) kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya
Simhavarman III (Chế Mân), Thánh địa Mỹ Sơn một quần thể với hơn 70 ngôi
đền tháp để lại nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu nhất cho từng giai
đoạn lịch sử của vương quốc Chămpa.
Vào thế kỷ IV, dưới thời vua Bhadravarman I, Mỹ Sơn được xây dựng thành một
trung tâm tôn giáo của vương quốc Chăm Pa. Đây nơi thờ cúng các vị thần
Hindu giáo, như: Shiva, Vishnu, Brahma,...
Từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII, Mỹ Sơn một trung tâm tôn giáo quan trọng của
vương quốc Chăm Pa. Nhiều ngôi đền tháp được xây dựng Mỹ Sơn, phản ánh
sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm Pa.
Từ thế kỷ XIV trở đi, Mỹ Sơn bắt đầu suy tàn do sự suy yếu của vương quốc
Chăm Pa. Tuy nhiên, Mỹ Sơn vẫn giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa độc
đáo, trở thành một di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận vào năm
1999. Thánh địa Mỹ Sơn thể được chia thành các giai đoạn phát triển chính
như sau:
20

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG KHOA MỸ THUẬT-THIẾT KẾ * * *
NHỮNG DI SẢN VĂN HOÁ VẬT THỂ CỦA
VIỆT NAM ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN
DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI (BÀI TIỂU LUẬN)
SINH VIÊN: Trần Đỗ Phương Anh MSSV: 2275801080010 LỚP: TKNT06, khoá 2022-2026 SBD: 07 1 MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN.............................................................................................4
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:................................................................................4
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:...........................................................5
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:......................................................................5
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:................................................................6
5. DỰ KIẾN NHỮNG KẾ QUẢ SAU KHI NGHIÊN CỨU:...........................6
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................6
1. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA..........................................................6
2. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ........................................8
3. PHÂN LOẠI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ...............................................9
4. VAI TRÒ CỦA DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
CON NGƯỜI.......................................................................................................9
1. QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ...........................................................11
2. PHỐ CỔ HỘI AN........................................................................................16
3. KHU DI TÍCH MỸ SƠN.............................................................................20
4. HOÀNH THÀNH THĂNG LONG.............................................................22
5. THÀNH NHÀ HỒ.......................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................28
TÀI LIỆU KHAM KHẢO....................................................................................29 2 PHẦN TỔNG QUAN 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước vẽ nên
bao trang sử hào hùng cho dân tộc ta. Trải qua thời kì Bắc thuộc, Pháp thuộc,
kháng chiến chống Mĩ mà văn hóa Việt Nam ta vẫn len lõi và hình thành và đã
khẳng định bản lĩnh, bản sắc riêng. Kế thừa bao thế hệ, nền văn hóa phát triển
mạnh mẽ sau những thử thách,
Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là hạt nhân
gắn kết cộng đồng dân tộc. Đó là những giá trị văn hóa đã vượt qua sự thẩm định
của thời gian để trường tồn từ quá khứ đến được với hiện tại. Chúng ta thấy được
rằng di sản văn hóa là do thiên nhiên và con người tạo nên trong quá khứ. Chính
là phần cốt lõi, tinh hoa nhất động lại sau nhiều hoạt động sáng tạo của con người
từ đời này sang đời khác.
Di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận mang lại giá
trị văn hoá đặc biệt. Đây là những di sản có liên quan trực tiếp đến lịch sử, truyền
thống, và triều đại của dân tộc Việt Nam. Chúng thể hiện những thành tựu văn
hóa, khoa học, và kiến trúc của người Việt qua các thời kỳ. Di sản văn hóa là một
phần quan trọng của danh tính văn hóa của một quốc gia. Việc bảo tồn và giữ gìn
những di sản này giúp duy trì và phát triển đặc trưng văn hóa của Việt Nam.
Chúng là những biểu tượng và biểu hiện của sự đa dạng và sự kết hợp giữa các
yếu tố văn hóa khác nhau trong lịch sử phát triển của đất nước. Việc được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới đặt ra mục tiêu bảo tồn và phát
triển di sản này. Sự công nhận của UNESCO mang lại tầm quốc tế cho di sản văn
hóa của Việt Nam. Điều này giúp nâng cao nhận thức và hiểu biết của cộng đồng
quốc tế về văn hóa, lịch sử và địa điểm du lịch của Việt Nam. Sự công nhận này
cũng tạo điều kiện thu hút du khách quốc tế đến tham quan và trải nghiệm những
di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam, góp phần vào phát triển du lịch và tăng
cường sự giao lưu văn hóa. Và quan trọng hơn hết là mang lại niềm tự hào và tôn
trộng cho dân tộc Việt Nam đồng thời như một lời khen ngợi về nỗ lực bảo tồn và
phát huy những di sản của Việt Nam. Tính đến tháng 11 năm 2023, Việt Nam đã
sở hữu một số lượng lớn các di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm
09 di sản văn hóa - thiên nhiên – hỗn hợp, 15 di sản văn hóa phi vật thể và 09 di sản tư liệu. 3
Nhận thức được tầm qua trọng của việt gìn giữ và phát huy những giá trị văn
hóa của dân tộc, những tài nguyên di sản văn hóa, phát triển du lịch địa phương
và phổ cập kiến thức về di sản văn hóa cho thế hệ trẻ, tác giả chọn thực hiện
nghiên cứu đề tài: “Những di sản văn hoá vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: Mục đích khoa học: o
Nghiên cứu, hệ thống hóa và đánh giá giá trị của những di sản văn
hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới. o
Làm rõ những giá trị nổi bật toàn cầu của các di sản này, góp phần
nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa. o
Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Việt Nam. Mục đích thực tiễn: o
Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn
hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới. o
Tạo cơ sở khoa học cho việc quản lý, bảo tồn và phát huy các di sản này. o
Góp phần phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương có di sản văn hóa thế giới.
Cụ thể, nghiên cứu đề tài này sẽ tập trung vào các nội dung sau:
- Tổng quan về di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới.
- Phân tích, đánh giá giá trị của các di sản này.
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản này.
Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa của Việt Nam. Nghiên cứu sẽ cung cấp những thông
tin khoa học về các di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới, từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn và
phát huy giá trị của các di sản này một cách hiệu quả. 4
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng
thành Thăng Long, Thành nhà Hồ là 5 di sản văn hóa vật thể Việt Nam được UNESCO công nhận.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu tổng hợp kiến thức lý thuyết về giá trị di sản văn hóa; thu thập
dữ liệu qua các nguồn tài liệu, giáo trình, sách, báo, thông tin trên
internet…; phân tích, so sánh đi thực tế nhằm thu thập thông tin, dữ liệu,
hình ảnh….về giá trị di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới.
5. DỰ KIẾN NHỮNG KẾ QUẢ SAU KHI NGHIÊN CỨU:
Hệ thống hóa và đánh giá giá trị của những di sản văn hóa vật thể của
Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.
Nghiên cứu sẽ cung cấp những thông tin khoa học về các di sản văn
hóa vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới, bao gồm:
* Lịch sử hình thành và phát triển của các di sản này.
* Đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật, văn hóa của các di sản này.
* Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật của các di sản này.
Những thông tin này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về
tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Làm rõ những giá trị nổi bật toàn cầu của các di sản này, góp phần nâng
cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ GIÁ TRỊ CỦA
DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ 5
1. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA
Di sản văn hóa là sản phẩm vật chất, tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, lễ hội, nếp sống
truyền thống, tri thức dân gian, văn hóa cộng đồng,… Đối với mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia, di sản văn hóa được coi là một kho tàng thiêng liêng mà mỗi thế hệ phải
có trách nhiệm phát huy, gìn giữ cho thế hệ mai sau. Một xã hội không thể tồn tại
và phát triển nếu không dựa trên các giá trị văn hóa. Bất cứ dân tộc nào cũng có
di sản riêng, đặc chưng bản sắc của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam cũng vậy điều
đó thể hiện trong Điều 1- Luật Di sản văn hóa Việt Nam: “Di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần,
vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. (Luật Di sản Văn hóa
(2001); NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội).
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998 của Đảng đã khẳng định
nhiệm vụ bảo tồn văn hóa trong bối cảnh mới ở nước ta: “Di sản văn hóa là tài
sản vô giá gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để
sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa.” (Nghị quyết 03 Ban
chấp hành trung ương đảng khóa VIII, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;1998)
Theo Công ước về việc bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới, Di sản văn hoá là:
“Các di tích: các công trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội hoạ hoành tráng,
các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các văn bản, các hang động và các
nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học.
Các quần thể: các nhóm công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có
giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến
trúc, sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan.
Các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình của
con người kết hợp với các công trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả
các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm
mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học”.
“Di sản văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất tin thần mang giá trị lịch sử
- văn hóa, khoa học, thẩm mỹ do các thế hệ trước sáng tạo và lưu truyền lại cho
các thế hệ sau; là tài sản vô giá, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là nền tảng, cơ sở
để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa.” (UNESCO, Công
ước về việc bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới, 1972) 6
Theo UNESCO, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể
(Intangible) và di sản văn hóa vật thể (Tangible).
Tuy nhiên, sự phân loại giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật
thể này chỉ mang tính tương đối. Bởi di sản vật thể và di sản phi vật thể luôn gắn
kết với nhau và trở thành những thực thể sống. Ví dụ: đồ gốm là văn hóa vật thể,
nhưng chứa đựng nhữngvăn hóa phi vật thể như: kỹ năng chế tác, cách nung, ...
2. KHÁI NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
“Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia.” (Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, Di sản văn hóa Việt Nam được
hiểu là gì và bao gồm những loại di sản nào?, https://bvhttdl.gov.vn).
Có thể hiểu rằng, văn hóa vật thể là một bộ phận văn hóa nhân loại, thể hiện
đời sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt
động sáng tạo, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu tự nhiên,
đến hình dáng vật chất, kiến những sản phẩm vật chất giúp cho của con người.
Trong di sản văn hóa vật thể theo khả năng thõa mãn như cầu tinh thần của con
người về như cầu vật chất như nhà ở, quần áo, đồ dùng, món ăn, vì thế người ta
thường sử dụng nhiều kiểu phương tiện: tài nguyên năng lượng dụng cụ lao đông,
công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng sinh sống của con người, phương tiện giao
thông đi lại, phương tiện truyền thông, công trình kiến trúc, các phương tiện tiêu
khiển, tiêu dùng, mối quan hệ kinh tế… Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đề là kết
quả lao động của con người.
Tính đến tháng 11 năm 2023, Việt Nam có tổng cộng 5 di sản văn hóa vật thể
dược UNESCO công nhận bao gồm:
- Quần thể Di tích Cố đô Huế (1993): Đây cũng là di sản văn hóa đầu
tiên của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản văn
hóa thế giới vào ngày 11/12/1993.
- Khu di tích Mỹ Sơn (1999): Thánh địa Mỹ Sơn (thuộc xã Duy Phú,
huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một quần thể kiến trúc nổi
tiếng nhất của người Chăm ở Việt Nam.
- Phố cổ Hội An (1999): thuộc tỉnh Quảng Nam, là một kiểu cảng thị
truyền thống Đông Nam Á, hiếm có trên thế giới. Là nơi giao thương
buôn bán hưng thịnh và sầm uất kéo dài từ thế kỉ 17 và 18.
- Hoành thành Thăng Long (2010): là quần thể di tích gắn liền với kinh
đô Thăng Long - Hà Nội. Công trình kiến trúc đồ sộ này được các triều 7
đại xây dựng qua nhiều giai đoạn lịch sử và đã trở thành di tích quan
trọng nhất trong hệ thống di tích Việt Nam.
- Thành Nhà Hồ (2011): tồn tại vững trải hơn 600 năm với kiến trúc độc
đáo bằng đá. Với những giá trị nổi bâ ¡t toàn cầu về văn hóa, kiến trúc và
lịch sử, ngày 27/6/2011, Thành Nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là
Di sản văn hóa thế giới.
3. PHÂN LOẠI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
Di sản văn hóa vật thể bao gồm các loại hình như khác nhau sau:
Di tích lịch sử - văn hóa: bao gồm các công trình kiến trúc, nghệ thuật, khảo
cổ, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện sự sáng tạo của con người
trong quá trình phát triển.
Danh lam thắng cảnh: bao gồm các cảnh quan thiên nhiên có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và sự sáng tạo của con người.
Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia: bao gồm các hiện vật có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện sự phát triển của văn hóa vật chất của con người.
4. VAI TRÒ CỦA DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Di sản văn hóa vật thể có vai trò quan trọng đối với đời sống con người, đó là:
Là minh chứng cho quá trình phát triển của lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Là tài sản quý giá của cộng đồng, là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Là cầu nối giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc.
Di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới cần
đáp ứng các tiêu chí sau:
- Tiêu chí (I) - là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
- Tiêu chí (II) - Thể hiện một sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị
của nhân loại, trong một khoảng thời gian hoặc trong phạm vi một
vùng văn hoá của thế giới, về các bước phát triển trong kiến trúc hoặc công
nghệ, nghệ thuật tạo hình, quy hoạch đô thị hoặc thiết kế cảnh quan.
- Tiêu chí (III) - Là một bằng chứng độc đáo hoặc duy nhất hoặc ít ra cũng là
một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn
minh đang tồn tại hoặc đã biến mất.
- Tiêu chí (IV) - Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoặc
một quần thể kiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều giai đoạn có
ý nghĩa trong lịch sử nhân loại. 8
- Tiêu chí (V) - Là một ví dụ tiêu biểu về sự định cư của con người hoặc một
sự chiếm đóng lãnh thổ mang tính truyền thống và tiêu biểu cho một hoặc
nhiều nền văn hóa, nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động
của những biến động không thể đảo ngược được.
- Tiêu chí (VI) - Gắn bó trực tiếp hoặc cụ thể với những sự kiện hoặc truyền
thống sinh hoạt với các ý tưởng, hoặc các tín ngưỡng, các tác phẩm văn
học nghệ thuật có ý nghĩa nổi bật toàn cầu. (tiêu chuẩn này chỉ duy nhất
được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt và áp dụng đồng thời với các tiêu chuẩn khác)
Vậy nên, các tiêu chí này giúp đánh giá giá trị của di sản văn hóa vật thể, từ đó
xác định các di sản có giá trị nổi bật toàn cầu cần được bảo tồn và phát huy.
Sự ghi nhận của UNESCO không những góp phần quảng bá hình ảnh đất
nước và văn hóa, con người Việt Nam, mà còn tạo thêm nguồn động lực để phát
triển – xã hội, du lịch và sự phát triển của đất nước ta. Không thể phủ nhận rằng,
các di sản đã tạo cơ hội để du lịch phát triển, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo
sinh kế cho người dân. “Theo thông kê, năm 2018 đã có khoảng 3,5 triệu lượt
khách đã đến tham quan các điểm trong Quần thể di tích Cố đô Huế. Còn tại Hội
An, năm 2018 đón tổng lượt khách tham quan, lưu trú lên tới 5 triệu lượt, trong
đó khách quốc tế đạt 3,8 triệu lượt. Doanh thu vé tham quan phố cổ đạt hơn 266
tỷ đồng. Mạng lưới cơ sở lưu trú du lịch nơi đây đang tiếp tục phát triển về số
lượng và đa dạng loại hình. Hội An cũng đã được vinh danh là "Điểm đến thành
phố văn hóa hàng đầu châu Á" trong hệ thống Giải thưởng du lịch thế giới năm
2019.” (Vietnam+, Phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo cơ hội phát triển du lịch,
https://tuyengiao.vn). Và ở nhiều nơi, một phần doanh thu từ du lịch di sản văn
hóa được sử dụng để bảo tồn, tôn tạo, phục hồi và quản lý di sản. Điều này có
nghĩ là du lịch di sản văn hóa đã góp phần to lớn vào việc bảo tồn và pháp huy
bền vững các giá trị di sản. Vậy nên, sự trao đổi qua lại giữa các giá trị văn hóa –
kinh tế càng thêm ý nghĩa. Ngoài ra, di sản văn hóa còn là nguồn lực phát triển xã
hội, có thể được sử dụng để giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng về văn
hóa, từ đó góp phần xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Di sản văn hóa là cầu nối giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Hơn
thế nữa di sản văn hóa của các quốc gia, dân tộc phản ánh những giá trị văn hóa,
tinh thần của mỗi dân tộc. Việc giao lưu, trao đổi di sản văn hóa giữa các quốc
gia, dân tộc giúp chúng ta hiểu rõ hơn về văn hóa của nhau, từ đó góp phần tăng
cường hiểu biết, gắn bó giữa các dân tộc. Ví dụ, việc UNESCO công nhận Quần
thể di tích Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới đã góp phần quảng bá văn hóa
Việt Nam ra thế giới. Quần thể di tích Cố đô Huế là một quần thể kiến trúc, nghệ
thuật, lịch sử, văn hóa độc đáo, phản ánh những giá trị văn hóa, tinh thần của dân
tộc Việt Nam. Việc UNESCO công nhận Quần thể di tích Cố đô Huế đã thu hút
sự quan tâm của du khách quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa Việt
Nam và các quốc gia trên thế giới. Tương tự, việc UNESCO công nhận Phố cổ
Hội An là di sản văn hóa thế giới cũng đã góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam
ra thế giới. Phố cổ Hội An là một đô thị cổ có lịch sử lâu đời, mang đậm nét văn 9
hóa truyền thống của Việt Nam. Việc UNESCO công nhận Phố cổ Hội An là di
sản văn hóa thế giới đã thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế, góp phần thúc
đẩy giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
CHƯƠNG II: NHỮNG DI SẢN VĂN HOÁ VẬT THỂ CỦA VIỆT NAM
ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN LÀ DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
1. QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Trong kỳ họp thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới tổ chức tại Colombia từ
ngày 6 đến ngày 11 tháng 12 năm 1993, quần thể kiến trúc Huế đã vinh dự được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới thứ 410 trong Danh sách Di sản
Thế giới vì nó đáp ứng tiêu chí số 4: “Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc
xây dựng hoặc một quần thể kiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều
giai đoạn có ý nghĩa trong lịch sử nhân loại.” Đây thực sự là niềm vinh dự lớn
đối với Việt Nam khi lần đầu tiên một di sản được UNESCO công nhận là di sản
thế giới, điều này đã khẳng định tầm vóc và giá trị toàn cầu của quần thể di tích
Cố đô Huế. Trong Biên bản họp lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới có ghi rõ:
“Quần thể di tích Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất được xây dựng
vào đầu thế kỷ XIX. Nó kết hợp triết lí Đông phương và truyền thống Việt Nam
xưa, hòa quyện vào môi trường thiên nhiên, vẻ đẹp với sự phong phú đặc biệt của
kiến trúc và trang trí ở các tòa nhà là một phản ánh độc đáo của đế chế Việt Nam
ngày xưa vào thời cực thịnh của nó”. (UNESCO Press, 1993, 2)
Hình 1: Quần thể di tích cố đô Huế Nguồn: TTXVN
a) Vị trí địa lí, diện tích:
Khu di tích cố đô Huế thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thị xã
Hương Trà, thị xã Hương Thủy, huyện Phú Lộc, huyện Phú Vang, nằm dọc hai
bên bờ sông Hương và một vài vùng phụ lân cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Với
tổng diện tích hơn 500 ha, có 10 cửa thông ra bên ngoài, bao gồm gần 30 cụm
công trình có quy mô lớn, bao gồm cả thành lũy, cung điện, chùa quán, đàn miếu, lăng tẩm... 10
b) Lịch sử hình thành và phát triển:
Trong khoảng gần 400 năm (1558 - 1945), cố đô Huế đã từng là thủ phủ của
09 đời chúa Nguyễn từ thế kỷ XVI -XVIII ở Đàng Trong, trở thành kinh đô của
triều đại Tây Sơn và kinh đô của quốc gia thống nhất dưới sự trị vì 13 triều vua
Nguyễn (1802 - 1945). Kinh thành Huế được xây dựng trong thời gian dài từ
năm 1803 đến năm 1832, từ thời vua Gia Long đến vua Minh Mạng. Các di tích
nằm trong và ngoài Hoàng thành được xây dựng dưới thời các vua triều Nguyễn
nên có thể nói quần thể di tích ở Huế là công trình lịch sử, tiêu biểu cho một giai
đoạn lịch sử của dân tộc. Trong suốt triều đại của mỗi vị vua, lại có thêm nhiều
công trình mới được xây dựng để đánh dấu các sự kiện lịch sử, thể hiện quan
niệm và thị hiếu, thẩm mỹ của mỗi vị vua.
c) Đặc điểm kiến trúc:
Theo đánh giá của các vua triều Nguyễn, vị trí địa lý của Huế không chỉ quan
trọng về mặt giao thông, phòng thủ mà còn ẩn chứa những ý nghĩa phong thủy
đặc biệt theo quan niệm truyền thống của người Á Đông. Vì vậy, họ tin rằng yếu
tố tự nhiên có sức ảnh hưởng tới sự thịnh vượng và suy tàn của cả một vương
triều. Vì vậy, vào thời nhà Nguyễn, các quần thể kiến trúc quan trọng ở Huế đều
được thiết kế gắn liền với các yếu tố cảnh quan phong thủy như ngọn núi, quả
đồi hay dòng sông, suối, đặc biệt là hồ nước đều có thể mang tư cách “tiền án”,
“hậu chẩm”, “tả thanh long”, “hữu bạch hổ”,…
Đại đa số các cung điện đều được sơn son thiếp vàng theo kiểu mái chồng nhà
nối. Điều này có nghĩa là nhà trước và nhà sau của điện được kết nối với nhau
bằng một hệ thống mái trần hình vòm mai cua dưới máng thừa lưu là máng nước
nối của hai mái nhà. Trần mai cua ấy cộng với phần bên trong tạo ra một không
gian nội thất có chiều sâu, rộng rãi mà lại thống nhất không mang lại cảm giác
ghép nối hai tòa nhà. Còn đồ nội thất của nhà Nguyễn được thiết kế với kiểu dáng
rất mềm mại, được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Chất liệu được dùng để khảm lên
bề mặt của gỗ thường là mảnh sành sứ, ngà voi, xà cừ,…
Điều tạo nên điểm nhấn đặc biệt của kiến trúc Cung đình Huế chính là phần
mái của các điện đều được lợp bằng ngói hoàng lưu ly và thanh lưu ly. Sự kết
hợp giữa hai màu vàng, xanh của ngói lưu ly và màu đỏ chủ đạo tạo cho cung
điện xứ Cố đô càng thêm phần nổi bật, uy nghiêm. Hệ thống cổng, cửa ở đây
không chỉ đa dạng về kiểu dáng mà còn chất liệu. Cửa xếp bằng gỗ quý trong
chung đình được chạm khắc tinh tế, cửa vòm nguyệt môn có đường nét mềm mại
cho đến cổng tam quan bề thế… 11
Hình 2: Chi tiết mái điện Thái Hòa Nguồn: REDSVN
Quần thể di tích cố đô Huế bao gồm: Kinh thành Huế, Hoành thành Huế và
Tử Cấm thành Huế, 3 tòa thành được lồng vào nhau này, nhưng được bố trí đối
xứng trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Trong quần thể này
UNESCO đã công nhận 16 điểm di tích là Di sản Văn Hóa Thế Giới. 1. Kinh thành Huế
Hình 3: Kinh Thành Huế nhìn từ trên cao Nguồn: SaiGon Tiếp Thị 12
Được khởi công từ năm 1805 xây dựng ở bờ Bắc sông Hương mặt về hướng
Nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc,
xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc, xung quanh có 10 cửa chính và hệ thống
vọng canh, hào nước… Với vai trò bảo vệ cho Khu vực hành chính của nhà
Nguyễn và là nơi ở của nhà vua.
2. Đại nội (Hoàng thành, Hoàng cung) Hình 4: Kinh Thành Huế Nguồn: VnExpress
Trong trung tâm của Kinh thành là nơi ở và làm việc của các Vua Nguyễn bao gồm các khu vực:
Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim thủy (hào), tường bao bọc và 10 cây cầu.
Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ môn đến điện Thái Hòa, là nơi
cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc Khánh niệm, Ban
sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần Đại khánh tiết
của các Vua triều Nguyễn.
Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu miếu, Thái miếu,
Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng tiên.
Khu vực ăn ở của Hoàng thái hậu và Thái Hoàng thái hậu gồm: cung Diên
Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ
nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc. 13
Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: là nơi học tập và chơi đùa của
các Hoàng tử khi chưa xuất phủ.
Khu vực Tử Cấm Thành: là chốn cung cấm, dành riêng cho Vua và hoàng
gia ăn ở, sinh hoạt. Tử Cấm Thành Huế là nơi sinh hoạt của nhà vua cũng
như hoàng triều nhà Nguyễn, trong đó có điện Cần Chánh là nơi có không
gian lớn để vua thiết triều và tổ chức các bữa yến tiệc, bên cạnh đó là điện
Càn Thành là chốn cung ấm cho nhà vua nghỉ ngơi và Thái Bình Lâu là
điểm thư giãn, đọc sách. (Cảnh Toàn,Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế, https://nguyendu.com.vn/)
3. Lăng Gia Long "Hoành tráng Gia Long"
4. Lãng Minh Mạng "Thâm nghiêm Minh Mạng"
Lăng vua Minh Mạng Huế có diện tích khoảng 18ha, gồm 40 công trình lớn
nhỏ, bố trí đối xứng. Các công trình được phân bố trên 3 trục lớn và song song
với nhau, lấy đường Thần Đạo làm trung tâm. Hình thế của lăng Minh Mạng Huế
có dáng tựa như một người đang nằm nghỉ ở tư thế đầu gối lên núi Kim Phụng,
chân duỗi ra ngã ba sông trước mặt. Hai nửa hồ Trừng Minh như cánh tay buông
xuôi tự nhiên, vô cùng nhàn hạ.
5. Lăng Thiệu Trị "Khoáng đạt Thiệu Trị"
6. Lăng Dực Đức “Giản dị Dức Đức”
7. Lăng Tự Đức "Thơ mộng Tự Đức"
8. Lăng Đồng Khánh "Xinh xăn Đồng Khánh"
9. Lăng Khải Định "Tinh xảo Khải Định"
Lăng mộ vua Khải (1885-1925) tọa lạc trên núi Châu Chữ thuộc xã Thủy
Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng được đánh giá là lăng mộ
có kiến trúc nổi bật nhất, là công trình xây dựng cuối cùng của triều Nguyễn
(1802-1945). Vua Khải Định đã chọn vị trí lăng theo phong thuỷ truyền thống. Vị
trí lăng nằm trên triền núi Châu Chữ, phía trước có một quả đồi thấp làm tiền án;
có núi Chóp Vung và Kim Sơ trước mặt làm "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ"
(rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải)
10. Văn Miếu, nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên các Tiến sỹ thời Nguyễn.
11. Đàn Nam Giao, nơi vua tế trời
12. Chùa Thiên Mụ, Biểu trưng Phật giáo của Huế 14
13. Hồ Quyền, đấu trường duy nhất còn lại ở Châu Á dành cho voi và hổ
14. Điện Hòn Chén, nơi thờ Thánh Mẫu
15. Trấn Bình Đài án ngữ bảo vệ đường sông của Kinh thành
16. Trấn Hải Thành - pháo đài trần giữ mặt biển phía Đông
Ngoài ra Huế còn có nhiều thắng tích liên quan đến Triều Nguyễn như: Cung
An Định, Điện Voi Ré, Võ Miếu, Hải Vân Quan, Vọng cảnh Thiên An, Cầu ngói Thanh Tồn.
d) Giá trị lịch sử, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc.
Tính chính xác của Quần thể di tích Cố đô Huế có thể được hiểu thông qua cách
bố trí thiết kế vô cùng độc đáo của di sản - nơi đã trở thành kinh đô của đế chế
phong kiến Việt Nam hùng mạnh nhất vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Những
đặc điểm cơ bản về kiến trúc và cảnh quan của Quần thể di tích Cố đô Huế đã
được duy trì tính nguyên vẹn kể từ lần xây dựng đầu tiên vào đầu thế kỷ XIX và
kéo sang những năm 40 của thế kỷ XX. Hiện tại, mặc dù một số công trình đang
còn là phế tích, và hầu hết các di tích quan trọng còn đang được trùng tu từng
phần. Việc trùng tu đã được tiến hành thông qua sử dụng những kỹ thuật và vật
liệu truyền thống theo những chuẩn mực chuyên môn của quốc tế trong ngành
bảo tồn để đảm bảo tính chân xác của các di tích này.
Từ khi được vinh danh là di sản văn hóa thế giới (1993), Quần thể di tích Cố
đô Huế còn bảo tồn khá nguyên vẹn tổng thể thống nhất, hầu hết kiến trúc nghệ
thuật cung đình với hệ thống thành quách, cung điện, miếu, đền đài, lăng tẩm
được quy hoạch xây dựng theo nguyên tắc phong thủy phương Đông. Đây còn là
quần thể di tích tiêu biểu cho những thành tựu về kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc
và sức lao động sáng tạo của con người Việt Nam trong suốt một thời gian dài,
đặc biệt là những giá trị lịch sử, , văn hóa, khoa học, nghệ thuật, kiến trúc. 2. PHỐ CỔ HỘI AN
a) Vị trí địa lí, diện tích:
Nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, Phố cổ Hội An thuộc vùng đồng bằng ven biển
tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía
Nam. Với diện tích khoảng 30 ha, Phố cổ Hội An nằm dọc theo hai bên bờ sông
Thu Bồn. Phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Tây và phía Bắc giáp Điện Bàn,
phía Đông giáp biển với bờ biển dài 7 km 15
Hình 5: Hội An nhìn từ trên cao Nguồn: Sưu tầm
b) Lịch sử hình thành và phát triển:
Vào nửa cuối thế kỷ 16, thời kỳ Việt Nam nằm dưới quyền cai trị của nhà Lê đã
được hình thành, kể từ sau năm 1570, Nguyễn Hoàng bắt đầu nắm quyền trấn thủ
Quảng Nam. Cùng với con trai là Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Hoàng xây
dựng thành trì, ra sức thúc đẩy kinh tế Đàng Trong, đẩy mạnh giao lưu thương
mại với nước ngoài và Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất
khu vực Đông Nam Á thời kỳ bấy giờ. Trong vòng 30 năm, 75 con tàu Châu Ấn
đã cập cảng Hội An, cùng với 37 con tàu cập bến Đông Kinh, khu vực mà chúa
Trịnh cai trị. Các thương nhân người Nhật khi đó tới bán những đồ
đồng, tiền đồng, kim loại, đồ gia dụng. . . và mua lại đường, tơ lụa, trầm hương…
Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản ở Hội An được thành lập và phát
triển mạnh trong đầu thế kỷ 17. Thương cảng Hội An thịnh đạt vào thể kỷ 17-18
và suy giảm dần từ thế kỷ 19.
Từ rất lâu, những người Hoa đã biết về Hội An, ngày từ khi vùng đất
này vẫn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người Việt thay người
Chăm, những thương nhân Trung Hoa lại tiếp tục tới buôn bán bởi vì các tỉnh
miền Nam của Trung Quốc đang thiếu các sản phẩm muối, vàng, quế. . . Mặc
dù thế, xuyên suốt thời kỳ tiền Hội An, người Hoa chủ yếu tới buôn bán
rồi quay về, không ở lại sinh sống, thành lập phố xá.
Và sau khi chúa Trịnh chiếm đóng lại Quảng Nam, Hội An bị tàn phá hoang
tàn chỉ còn sót lại các kiến trúc tín ngưỡng. Hội An được hồi sinh lại 5 năm sau 16
đó tuy nhiên sự nhộn nhịp của nó không còn tấp nập như trước. Người Hoa và
người Việt đã bắt tay xây dựng lại Hội An từ đống đổ nát theo kiến trúc của họ
nên vô tình làm dấu tích của khu phố Nhật biến mất vĩnh viễn.
Đến thời nhà Nguyễn vì thực thi chính sách đóng cửa, hạn chế thông
thương với Trung Quốc nên cảng Đông Kinh dần mất đi vai trò quan trọng. Đến
năm 1976 của thế kỷ 20, Đà Nẵng ngày càng phát triển mạnh và Hội
An dần chìm vào lãng quên khi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được tái lập. Các học
giả Việt Nam và các quốc gia nước ngoài mãi đến năm 1980 mới nhận được sự quan tâm. c) :
Đặc điểm kiến trúc, văn hóa
Phố cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt cho cảng thị cổ ở Đông
Nam Á. Phần lớn những ngôi nhà ở Hội An mang kiến trúc cổ có niên đại vào
khoảng thế kỷ 17 -19. Những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng trong lòng
phố cổ là bằng chứng về quá trình ra đời, phát triển và tồn tại của cảng thị
này. Có nhiều dấu ấn về giao thoa và pha trộn văn hóa tại đây. Những hội quán,
đền miếu vẫn mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà của người
Việt và một số ngôi nhà phong cách kiến trúc Pháp. Rất nhiều di tích còn nguyên
vẹn như bến cảng, phố cổ, nhà thờ tộc, đền miếu và các hội quán của người Hoa,
lăng mộ của người Nhật đặc biệt hơn là biểu tượng của Hội An – Chùa Cầu (chùa
Nhật Bản). Cho thấy Hội An vẩn còn lưu giữ lại những nét văn hóa, kiến trúc của
các nước có quan hệ buôn bán với bến cảng này như Nhật Bản, Trung Quốc, Hà
Lan, Bộ Đào Nha, Pháp, Ý. Đường Trần Phú là con đường chính, nơi tập
trung đông nhất những công trình kiến trúc cổ, cũng như những căn nhà cổ
điển tiêu biểu cho kiến trúc Hội An. Trong số đó, các hội quán được thành lập bởi
người Hoa là phổ biến nhất nhằm tưởng nhớ về quê hương của họ. Nếu bắt đầu từ
Chùa Cầu, sẽ có năm hội quán trên đường Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn: Hội
quán Quảng Đông, Hội quán Trung Hoa, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán Triều
Châu, Hội quán Phúc Kiến. 17
Hình 6: Chùa Cầu về đêm Nguồn: VnExpress
Kiểu truyền thống ở Hội An chính là những ngôi nhà phố một hoặc hai tầng
với đặc trưng chiều ngang hẹp, chiều dài rất sâu tạo nên kiểu nhà hình ống.
Những vật liệu chính dùng để xây nhà có sức chịu lực và độ bền tốt do đặc điểm
khí hậu khắc nghiệt ở đây và bão lụt hàng năm của miền Trung. Thông thường,
các ngôi nhà có kết cấu nhà khung gỗ, hai bên có tường gạch ngăn cách. Khuôn
viên trung bình của các ngôi nhà có chiều ngang khoảng 4 đến 8 mét, chiều sâu
khoảng 10 đến 40 m, tùy thuộc theo từng tuyến phố. Bố cục mặt bằng phổ biến
của những ngôi nhà truyền thống ở đây gồm: vỉa hè, hiên, nhà chính, nhà phụ,
hiên, nhà cầu và sân trong, hiên, nhà sau ba gian, vườn sau. Trên mặt bằng tổng
thể thì nhà trước, nhà cầu và nhà sau được lợp bằng những phần mái riêng biệt.
Ngói Hội An là loại ngói được làm từ đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi
cạnh khoảng 22cm và có dạng hơi cong. 18 Hình 7: Nhà ngói Nguồn: Sưu tầm 3. KHU DI TÍCH MỸ SƠN
a) Vị trí địa lý, diện tích
Quần thể di tích Mỹ Sơn nằm ở xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, Việt Nam. Quần thể di tích này cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km về
phía Tây Nam, cách thành phố Hội An khoảng 45 km về phía Tây, cách cố đô
Huế khoảng 145 km về phía Nam. Nằm trong một thung lũng có đường kính
khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi trùng điệp. Địa hình nơi đây tương đối bằng
phẳng, thấp dần từ phía Nam lên phía Bắc. Quần thể di tích Mỹ Sơn bao gồm hơn
70 ngôi đền tháp Chăm Pa, được xây dựng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII. Đây là
một trong những quần thể đền tháp Chăm Pa lớn và quan trọng nhất ở Việt Nam.
“Ngày 29/4/1979 Bộ Văn hóa-Thông tin đã ra Quyết định số 54VH/QĐ công
nhận Mỹ Sơn là Di tích kiến trúc nghệ thuật. Năm 1898, một người Pháp tên là
M.C Paris đã phát hiện khu đền tháp Mỹ Sơn nằm kín đáo trong một thung lũng
hẹp, giữa những khu rừng rậm rạp. Sau đó không lâu, những nhà khoa học của
Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đã đến nghiên cứu các bia ký và công trình kiến
trúc, điêu khắc ở Mỹ Sơn. 19
Cũng chính họ đã vén lên bức màn bí mật về Mỹ Sơn và cho thấy đây là khu
di tích tôn giáo kỳ vĩ nhất, đặc trưng nhất của người Chămpa, xây dựng liên tục
trong suốt hơn 1000 năm.”( Di sản văn hóa Mỹ Sơn, https://quangnam.gov.vn)
Hình 8: Toàn cảnh Thánh địa Mỹ Sơn Nguồn: @shutterstock
b) Lịch sử hình thành và phát triển:
Được xây dựng từ thế kỷ IV bởi vị vua Bhadravarman (năm trị vì 349 đến năm
361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya
Simhavarman III (Chế Mân), Thánh địa Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi
đền tháp để lại nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu nhất cho từng giai
đoạn lịch sử của vương quốc Chămpa.
Vào thế kỷ IV, dưới thời vua Bhadravarman I, Mỹ Sơn được xây dựng thành một
trung tâm tôn giáo của vương quốc Chăm Pa. Đây là nơi thờ cúng các vị thần
Hindu giáo, như: Shiva, Vishnu, Brahma,...
Từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII, Mỹ Sơn là một trung tâm tôn giáo quan trọng của
vương quốc Chăm Pa. Nhiều ngôi đền tháp được xây dựng ở Mỹ Sơn, phản ánh
sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm Pa.
Từ thế kỷ XIV trở đi, Mỹ Sơn bắt đầu suy tàn do sự suy yếu của vương quốc
Chăm Pa. Tuy nhiên, Mỹ Sơn vẫn giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa độc
đáo, trở thành một di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận vào năm
1999. Thánh địa Mỹ Sơn có thể được chia thành các giai đoạn phát triển chính như sau: 20