



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61685031
VẤN ĐỀ 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT HIẾN
PHÁP VÀ HIẾN PHÁP.
I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM
1. Khái niệm về Luật Hiến pháp.
Luật Hiến pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
2. Đối tượng điều chỉnh: các quan hệ xã hội cùng loại:
• Chế độ nhà nước (chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học – công nghệ,
quốc phòng – an ninh, đối ngoại).
• Địa vị pháp lý cơ bản của công dân (quan hệ nhà nước – công dân). Tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước.
3. Phương pháp điều chỉnh:
Mỗi loại quan hệ xã hội có đặc điểm riêng Nhà nước có cách tác động phù hợp. Cụ thể:
• Phương pháp bắt buộc: “Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội” (khoản 2 điều 87 Hiến pháp 2013).
• Phương pháp cấm đoán: “Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” (điều 5 Hiến pháp 2013).
• Phương pháp cho phép: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào” (điều 24 Hiến pháp 2013).
• Phương pháp định hướng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội” (điều 4 Hiến pháp 2013).
4. Quy phạm pháp luật Hiến pháp:
Bộ phận cấu thành nhỏ nhất trong hệ thống cấu trúc luật Hiến pháp. Đặc điểm:
• Quy phạm luật Hiến pháp chứa đựng trong Hiến pháp (nguồn chủ yếu của luật Hiến pháp)
và các văn bản pháp luật về tổ chức quyền lực nhà nước.
• Quy phạm luật Hiến pháp thường không có đủ ba bộ phận (giả định, quy định, chế tài) mà
chủ yếu chỉ có phần quy định.
5. Quan hệ pháp luật Hiến pháp.
• Chủ thể: nhân dân; Nhà nước, cơ quan nhà nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã
hội; cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch; người mang chức vụ nhà nước).
• Khách thể: lãnh thổ quốc gia và địa giới hành chính; giá trị vật chất, tinh thần; hành vi của
nhà nước, tổ chức và cá nhân.
• Nội dung: tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, địa vị pháp lý cơ bản của công dân.
6. Nguồn của Luật Hiến pháp Việt Nam •
Hình thức thể hiện: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. •
Nội dung: tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; địa vị pháp lý cơ bản của công dân.
7. Vị trí của Luật Hiến pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam: lOMoAR cPSD| 61685031
Xác lập mô hình bộ máy nhà nước và điều chỉnh các quan hệ xã hội nền tảng ngành luật
chủ đạo = tính khởi đầu (nội dung của pháp luật thực định) + tính tối cao (tính thứ bậc trong hệ thống pháp luật).
II. LÝ LUẬN VỀ HIẾN PHÁP.
1. Sự ra đời của Hiến pháp
Thuật ngữ “Hiến pháp” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Constitutio” với ý nghĩa là "xác lập",
"thiết lập". Trong nhà nước La Mã cổ đại, các quy định của hoàng đế ban hành dưới hình thức
“Constitutio”có tính chất là một loại nguồn của pháp luật.
Ở phương Đông, từ “Hiến” được sử dụng trong Kinh Thi (thế kỷ VIII TCN) với ý nghĩa là
khuôn phép, khuôn mẫu. Thuật ngữ “Hiến pháp” còn được sử dụng trong sách Quốc Ngữ thời
Xuân thu (thế kỷ VII-VI TCN) với ý nghĩa là pháp lệnh của nhà nước (“thưởng thiện, phạt gian,
quốc chí Hiến pháp dã”).
Nhưng Hiến pháp được hiểu như ngày nay là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia để quy định
tổ chức quyền lực nhà nước, quy định các quyền con người, các quyền và các nghĩa vụ cơ bản
của công dân chỉ bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ cách mạng tư sản. Sự ra đời của Hiến pháp gắn
liền với việc khẳng định thắng lợi của cách mạng tư sản, đồng thời đánh dấu sự chấm dứt của
chế độ cai trị độc đoán, chuyên quyền, sử dụng bạo lực công khai và trắng trợn đã từng tồn tại
hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong Nhà nước chiếm hữu
nô lệ, Nhà nước phong kiến không hề biết tới Hiến pháp.
Dưới chế độ phong kiến, vua hay hoàng đế, - đại diện giai cấp thống trị phong kiến, được
coi là con trời ("thiên tử"), thâu tóm trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước: quyền đặt ra pháp
luật, quyền cắt cử quan lại để cai quản đất nước, quyền xét xử tối cao. Đối với đông đảo các
tầng lớp nhân dân được gọi là "thần dân" chỉ là khách thể của quyền lực nhà nước, bị tước đoạt
cả các quyền tối thiểu nhất của con người, vua cho sống thì được sống, vua bắt chết thì phải chết.
Để hạn chế quyền lực vô hạn định của giai cấp thống trị phong kiến mà đại diện là nhà vua,
tiến tới lật đổ chế độ cai trị hà khắc, độc đoán, chuyên quyền phong kiến, giai cấp tư sản đã phát
động cuộc cách mạng tư sản, đưa ra các khẩu hiệu về: chủ quyền nhân dân; về các quyền tự do,
bình đẳng, công bằng, bác ái ... nên được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ và tham gia
vào cuộc cách mạng này.
Cách mạng tư sản thắng lợi, Hiến pháp ra đời là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng, khẳng
định sự thống trị của giai cấp tư sản tiến bộ, đang lên và là lực lượng đại diện cho một phương
thức sản xuất mới - phương thức sản xuất TBCN, một chế độ cai trị mới - chế độ dân chủ tư
sản, đồng thời đánh dấu sự rút lui khỏi vũ đài chính trị của giai cấp phong kiến cùng với chế độ
cai trị độc đoán, chuyên quyền của nó.
Ở đâu cách mạng tư sản giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để, thì ở đó toàn bộ quyền
lực nhà nước được chuyển giao cho giai cấp tư sản và quyền lực này được tổ chức bằng hình
thức chính thể cộng hòa mà Hiến pháp là văn bản pháp lý chính thức ghi nhận. Còn ở đâu, giai
cấp tư sản không giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để, thì ở đó giai cấp tư sản phải nhượng
bộ và thỏa hiệp với giai cấp quý tộc phong kiến, ở đó quyền lực nhà nước được chia sẻ giữa hai
giai cấp thống trị này và hình thức chính thể quân chủ đại nghị được ghi nhận bởi một văn bản
pháp lý cũng có tên gọi là Hiến pháp (cũng vì thế chính thể này còn gọi là "quân chủ lập hiến").
Văn bản có tính chất Hiến pháp đầu tiên ra đời trong cách mạng tư sản ở nước Anh
(16401654) là đạo luật năm 1653 về "Hình thức cai quản Nhà nước Anh, Xcốtlen, Ailen và lOMoAR cPSD| 61685031
những địa phận thuộc chúng" (một trong các bộ phận hợp thành Hiến pháp không thành văn
của nước Anh), trong đó quy định hình thức tổ chức quyền lực mới. Tiếp đến là các bản Hiến
pháp Hoa Kỳ năm 1787 (Hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới), Hiến pháp của Pháp và
của Ba Lan năm 1791, Hiến pháp Na-uy năm 1814, Hiến pháp Bỉ năm 1831, Hiến pháp Áchen-
ti-na năm 1853, Hiến pháp Luych-xăm-bua năm 1868, Hiến pháp Thuỵ Sỹ năm 1874... Đến
cuối thế kỷ thứ 19, ở nhiều nước châu Âu đã có Hiến pháp và sự ra đời các bản Hiến pháp nói
trên đánh dấu bước khởi đầu lịch sử lập hiến của nhân loại.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ có Hiến pháp và sự hiện
diện của Hiến pháp được xem là dấu hiệu pháp lý không thể thiếu của một Nhà nước dân chủ
hiện đại, mặc dù Hiến pháp không phải là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ dân chủ.
2. Các giai đoạn phát triển của Hiến pháp:
Sự phát triển Hiến pháp trên thế giới từ khi xuất hiện cho đến nay có thể chia thành 4 giai đoạn chủ yếu sau:
a. Giai đoạn thứ nhất:
Từ khi xuất hiện những bản Hiến pháp đầu tiên của các nhà nước tư sản trong thế kỷ thứ
XVIII cho đến trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và trước khi Nhà nước XHCN
đầu tiên ra đời ở nước Nga (1917):
- Sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn này diễn ra chủ yếu ở châu Âu, Bắc Mỹ. Ở Châu Á có
Hiến pháp của Nhật Bản năm 1889 (năm Minh Trị thứ 22).
- Nội dung quy định của các bản Hiến pháp ở giai đoạn này chỉ giới hạn ở 2 lĩnh vực: 1) Tổ
chức các cơ quan quyền lực nhà nước (các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp) và tổ chức chính quyền tự quản địa phương); 2) Các quyền con người,
quyền công dân về chính trị và dân sự (các quyền, tự do cá nhân).
b. Giai đoạn thứ hai:
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945).
Đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn này là thắng lợi của cách mạng
XHCN tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đường cho sự ra đời một kiểu nhà nước mới là Nhà
nước XHCN Xô viết ở các nước, như: Cộng hòa liên bang Nga, Cộng hòa Ukrai-na, Cộng
hòa Be-la-ru-xi-a, Cộng hòa ngoại Cáp-ca-dơ…cùng với sự ra đời của những bản Hiến pháp
kiểu mới là Hiến pháp XHCN. Các bản Hiến pháp XHCN này chỉ xác định một hình thức chính
thể nhà nước duy nhất là chính thể cộng hoà Xô viết, không chấp nhận nguyên tắc phân chia
quyền lực mà theo nguyên tắc tập quyền XHCN, xác định vị trí tối cao và nguyên tắc toàn quyền
của các Xô viết so với các cơ quan nhà nước khác cùng cấp với khẩu hiệu "Tất cả quyền lực
(chính quyền) về tay các Xô viết". Nội dung quy định của Hiến pháp ở giai đoạn này bắt đầu
mở rộng sang cả lĩnh vực kinh tế - xã hội, mở rộng các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
về kinh tế, văn hóa, xã hội. c. Giai đoạn phát triển thứ ba:
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối những năm 80 - đầu những năm 90 của thế kỷ
XX. Với sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa thực dân đế quốc, nhiều quốc gia đã tiến
hành thắng lợi cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân giành được độc lập, phát triển theo con
đường XHCN với hình thức chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân. Các quốc gia này đã lần lượt
ban hành các bản Hiến pháp XHCN, như: An-ba-ni (1946), Bun-ga-ri (1947), Ba Lan, Triều
Tiên, Tiệp Khắc, Ru-ma-ni (1948), Trung Quốc (1954)… Sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn
này đã mang tính toàn cầu, vì ở châu Á, châu Phi, châu Đại dương cùng với sự ra đời của hơn
100 quốc gia mới giành được độc lập sau khi xóa bỏ chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, lOMoAR cPSD| 61685031
đế quốc đã lần lượt ban hành các bản Hiến pháp của mình. Các bản Hiến pháp của các nước
XHCN được ban hành vào những năm 70 - 80 của giai đoạn này đã mở rộng phạm vi điều chỉnh
của Hiến pháp sang các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, trong đó mở rộng cả các quyền cơ
bản của công dân và điều này đã có ảnh hưởng, tác động đến xu hướng phát triển chung của
Hiến pháp các nước trên thế giới.
d. Giai đoạn thứ tư: Từ cuối những năm 80 - đầu những năm 90 đến nay.
Đây là thời kỳ khủng hoảng của hệ thống XHCN với sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô và các
nước XHCN ở Đông Âu. Thay thế cho các bản Hiến pháp XHCN trước đây, Liên bang Nga và
các nước XHCN cũ ở Đông Âu đã lần lượt ban hành mới các bản "Hiến pháp chuyển đổi", như:
Bungary và Rumany ban hành Hiến pháp mới năm 1991; Cộng hòa Séc và Slovakia (Tiệp Khắc
cũ) năm 1992; Liên bang Nga năm 1993; Belarusia, Môlđavia năm 1994; Ukraina năm 1996;
Ba Lan năm 1997; Anbany năm 1998; Hungary năm 2011 v.v.
Các nước XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba… tiếp tục kiên định phát triển đất nước
theo định hướng XHCN, nhưng đã và đang tiến hành đổi mới, cải cách các lĩnh vực của đời
sống xã hội cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. Thể chế hóa đường lối đổi mới do
Đảng cộng sản đề xướng và lãnh đạo, các nước XHCN đã sửa đổi hoặc ban hành các bản Hiến
pháp mới, như: Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam thay thế Hiến pháp 1980 (Hiến pháp năm
1992 cũng đã được sửa đổi, bổ sung 23 điều năm 2001 và hiện nay đang lấy ý kiến nhân dân về
Dự thảo sửa đổi, bổ sung cả nội dung, cả cơ cấu và cả cách thể hiện nhiều chương, điều của
Hiến pháp năm 1992 hiện hành); Hiến pháp năm 1976 của Cu Ba được sửa đổi 2 lần vào các
năm 1992 và năm 2002; Hiến pháp năm 1982 của Trung Quốc được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào
các năm 1988, 1993, 1999 và 2004…
Cũng từ cuối những năm 80 đến năm 1997 đã có hơn 100 bản Hiến pháp mới của các nước
được thông qua, với những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản cho phù hợp với xu hướng xây
dựng và phát triển của mỗi quốc gia trong điều kiện mới.
3. Khái niệm và các dấu hiệu đặc trưng của Hiến pháp.
a. Khái niệm Hiến pháp.
Có nhiều quan niệm khác nhau về Hiến pháp, nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê-
nin: Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước thể hiện chủ quyền của nhân dân do cơ quan
đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân thông qua (hoặc nhân dân trực tiếp thông
qua bằng trưng cầu ý dân), trong đó quy định những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của:
chế độ chính trị, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội; các quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân; nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước then chốt ở trung ương và địa phương ... thể hiện một cách tập trung nhất, mạnh mẽ nhất
ý chí và lợi ích của giai cấp (hoặc liên minh giai cấp) cầm quyền.
b. Các dấu hiệu đặc trưng của Hiến pháp: khác với các đạo luật và các văn bản pháp
luật thông thường khác, Hiến pháp có các dấu hiệu đặc trưng chủ yếu sau đây:
• Một là, Hiến pháp do chủ thể đặc biệt là nhân dân trực tiếp thông qua bằng trưng cầu
ý dân, hoặc cơ quan đại diện có thẩm quyền cao nhất của nhân dân thông qua theo
một trình tự, thủ tục đặc biệt.
Ví dụ, Hiến pháp của Pháp (1958), của Liên bang Nga (năm 1993), của Hàn Quốc, Philippin
(1987), Anbany (1998), Công-gô (2002), Thái Lan (2007), Bôlivia (2009) v.v. được thông qua
bằng trưng cầu ý dân; Hiến pháp Hoa kỳ năm 1787 do Hội nghị lập hiến gồm đại biểu đại diện
cho 13 bang của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ khi đó soạn thảo và sau khi được 3/4 tổng số các lOMoAR cPSD| 61685031
bang (cơ quan lập pháp của các bang) tán thành bắt đầu có hiệu lực năm 1789; Hiến pháp nước
ta do Quốc hội - cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân thông qua khi có
ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (để thông qua bộ luật, đạo luật thường
chỉ cần quá 1/2 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành).
• Hai là, Hiến pháp là văn bản pháp luật duy nhất quy định tổ chức và thực hiện toàn bộ
quyền lực nhà nước, bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp có tính
chất khởi thuỷ ("quyền lập quyền") cho các cơ quan nhà nước then chốt ở trung ương và địa phương.
Các đạo luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước chỉ quy định về tổ chức và thực hiện một
loại quyền lực nhà nước nhất định, như: Luật tổ chức Quốc hội chỉ quy định về tổ chức và họat
động của Quốc hội, cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Luật tổ chức Tòa án chỉ quy định về tổ
chức các cơ quan xét xử chuyên thực hiện quyền tư pháp… Các cơ quan nhà nước được các
luật quy định cho các quyền và thực hiện các quyền này trên thực tế là bắt nguồn từ các quy
định có tính chất "khởi thuỷ" (xác lập đầu tiên) của Hiến pháp.
• Ba là, Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh rộng và mức độ điều chỉnh ở tầm khái quát
cao nhất so với các văn bản pháp luật khác.
Phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp rộng nhất so với tất cả các văn bản pháp luật khác, bao
gồm các quy định về các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước v.v., trong
khi đó các văn bản pháp luật khác có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn, chỉ giới hạn trong một hoặc
một số lĩnh vực nhất định.
Tuy Hiến pháp điều chỉnh phạm vi rộng như trên, nhưng mức độ điều chỉnh ở tầm khái quát
cao. Đối với mỗi lĩnh vực điều chỉnh, Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng
nhất, có tính nguyên tắc.
• Bốn là, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù
hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp.
Dấu hiệu đặc trưng này của Hiến pháp được quy định bởi các dấu hiệu đặc trưng nói trên
(do chủ thể ban hành, do tính chất quan trọng của nội dung quy định của Hiến pháp) và được thể hiện ở chỗ:
- Hiến pháp là cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống pháp luật của quốc gia. Tất cả các cơ quan
nhà nước (kể cả cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất đã ban hành Hiến pháp), khi
ban hành các văn bản pháp luật khác theo thẩm quyền là trên cơ sở và nhằm thi hành các
quy định của Hiến pháp, nhưng phải phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp,
nếu trái sẽ bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ (cho nên Hiến pháp còn được gọi là "đạo
luật gốc", hay "luật mẹ").
- Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất trong cả nước, đối với mọi địa phương, đối với tất
cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng lượng vũ
trang và mọi cá nhân có liên quan.
- Có một cơ chế giám sát đặc biệt để bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Ví dụ: một số nước
thành lập Toà án Hiến pháp (CHLB Đức, Liên bang Nga, Italia, Hunggari…), hoặc Hội
đồng bảo hiến (Pháp, Ka-dăc-xtan, Tuy-ni-di…), hay giao cho Toà án tối cao (Hoa Kỳ, Nhật
Bản…) để thực hiện sự giám sát Hiến pháp.
4. Phân loại Hiến pháp : Có nhiều cách phân loại Hiến pháp khác nhau.
Căn cứ vào hình thức thể hiện: lOMoAR cPSD| 61685031
- Hiến pháp thành văn: Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp Việt Nam và hầu hết các nước có
Hiến pháp thuộc loại này. Hiến pháp thể hiện trong một văn bản duy nhất (ví dụ, Hiến pháp
của Việt Nam, Nhật Bản, Liên bang Nga v.v.) hoặc một bản Hiến pháp và kèm theo là các
văn bản phụ lục, giải thích Hiến pháp (Hiến pháp Ấn Độ năm 1950), hay kèm theo các sửa
đổi, bổ sung (Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 và 27 bổ sung, sửa đổi). Những văn bản giải
thích Hiến pháp, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là bộ phận không tách rời Hiến pháp. Tóm lại,
Hiến pháp thành văn, như cách nói của người Mỹ, là "Hiến pháp có thể bỏ túi được".
- Hiến pháp không thành văn: Hiến pháp nước Anh, Niu-di-lân. Không có sự hiện diện của
một bản Hiến pháp, mà gồm một số văn bản luật có giá trị Hiến pháp; một số án lệ hoặc tập
tục cổ truyền mang tính hiến định. Ví dụ, Hiến pháp nước Anh gồm 3 nguồn: khoảng 300
đạo luật mang tính Hiến pháp, một số phán quyết của Tòa án tối cao và một số tập tục cổ
truyền mang tính hiến định.
Căn cứ vào thủ tục sửa đổi, bổ sung, thông qua Hiến pháp:
- Hiến pháp nhu tính (Ví dụ, các đạo luật mang tính Hiến pháp của nước Anh được thông
qua, sửa đổi như thủ tục thông qua, sửa đổi các đạo luật thường khác).
- Hiến pháp cương tính (Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp Việt Nam và Hiến pháp của nhiều
nước khác đòi hỏi thủ tục đặc biệt để thông qua, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp khác với các đạo luật thường).
• Căn cứ vào nội dung quy định:
Hiến pháp cổ điển (Hiến pháp Hoa Kỳ chỉ quy định về tổ chức quyền lực nhà nước và các
quyền con người, quyền tự do của công dân về chính trị, dân sự) và Hiến pháp hiện đại (các
Hiến pháp của nhiều nước được ban hành từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đã mở rộng phạm
vi điều chỉnh cả những chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội; quy định cả các quyền cơ bản của
công dân về kinh tế, văn hóa, xã hội).
• Căn cứ vào chế độ chính trị: Hiến pháp tư sản và Hiến pháp XHCN.
III. LỊCH SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM.
1. Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến với
chính thể quân chủ chuyên chế nên không có Hiến pháp. Tuy nhiên, vào những năm đầu thế kỷ
XX do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789), ảnh hưởng của cách
mạng Trung Hoa (1911) và chính sách duy tân mà Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng ở Nhật
Bản…nên trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng
chủ yếu về lập hiến là:
- Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới sự bảo hộ của
Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong đó bảo đảm: quyền của
thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn chế và quyền của
"dân An Nam" về tự do, dân chủ được mở rộng. Đại diện cho xu hướng này là Bùi Quang
Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến ở Nam Kỳ năm 1923) và Phạm Quỳnh (Chủ bút tờ
báo Nam Phong) tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề".
- Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sau khi
giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập đó. Không có độc lập
dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại diện cho chủ trương này là cụ Phan
Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam và lịch sử lập hiến ở nước ta đã chứng minh chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn. 2. Hiến pháp 1946.
a. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1946: lOMoAR cPSD| 61685031
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), Hồ Chủ tịch đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách
của Chính phủ, mà một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đó là tổ chức tổng tuyển cử để bầu ra
Quốc hội, Quốc hội có nhiệm vụ xây dựng và ban hành bản Hiến pháp. Vì theo Người:
"Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do,
dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" (Hồ Chí Minh.Toàn tập, T.4, tr.8).
- Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến
pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự thảo Hiến
pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý kiến.
- Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử ngày
06/01/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1946 bao gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều.
Lời nói đầu của Hiến pháp 1946 xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là:
“Bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết Quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Lời
nói đầu còn xác định 3 nguyên tắc cơ bản xây dựng Hiến pháp là: Đoàn kết toàn dân không
phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; Đảm bảo các quyền lợi dân chủ; và Thực hiện
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp 1946 đều
được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản nói trên.
Nguyên tắc "Đoàn kết toàn dân" được thể hiện ở Chương I "Chính thể", gồm 3 điều. Điều
1 xác định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”. Điều 2 khẳng định: "Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia".
Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do dân chủ được thể hiện ở Chương II (gồm 18 điều quy
định về "Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân"). Chương này quy định các quyền rất cơ bản của
con người, của công dân, như: quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bầu cử, ứng cử; quyền
tư hữu về tài sản; các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân; quyền phúc quyết về Hiến pháp và
những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia… Công dân có các nghĩa vụ: bảo vệ Tổ quốc, tôn
trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân được thể hiện cụ thể
trong các chương III, IV, V, VI quy định về Nghị viện nhân dân, về Chính phủ, Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban hành chính, về các cơ quan tư pháp. Điều này thể hiện cụ thể như sau:
Chương III: gồm 21 điều (Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân. Nghị
viện nhân dân được xác định là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, do công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, tự do, trực tiếp
và kín, nhiệm kỳ 3 năm. Nghị viện có những nhiệm vụ quyền hạn quan trọng như: giải quyết
mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, bầu ra Ban Thường vụ
Nghị viện, bầu Chủ tịch nước, biểu quyết chức danh Thủ tướng và danh sách các Bộ trưởng…
Chương IV: quy định về Chính phủ gồm 14 điều (từ Điều 43 đến Điều 56). Chính Phủ được
xác định "là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc", gồm: Chủ tịch nước và Nội các. Nội
các gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp lOMoAR cPSD| 61685031
1946 có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước: vừa là Nguyên thủ quốc gia, vừa là
người đứng đầu Chính phủ; là nghị viên của Nghị viện nhân dân, được Nghị viện bầu nhưng
nhiệm kỳ là 5 năm, Chủ tịch nước có quyền ban hành sắc lệnh có giá trị gần như luật, có quyền
yêu cầu Nghị viện thảo luận và biểu quyết lại dự luật của Nghị viện đã thông qua. Chủ tịch
nước còn là Tổng chỉ huy quân đội… Chủ tịch nước có quyền hạn rất lớn nhưng không phải
chịu trách nhiệm nào, trừ tội phản quốc (Điều 50 Hiến pháp 1946). Nội các do Thủ tướng đứng
đầu phải chịu trách nhiệm chính trị trước Nghị viện, có thể bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm
và phải bị từ chức ... Với những quy định về Chính phủ như trên, Hiến pháp năm 1946 đã tiếp
thu những đặc điểm chủ yếu của chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị để sáng
tạo ra một hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp (cộng hòa lưỡng tính) chưa từng có trên thế giới lúc bấy giờ.
Chương V: gồm 6 điều quy định về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Hiến
pháp qui định về 4 cấp chính quyền địa phương là cấp bộ, cấp tỉnh - thành phố, cấp huyện - khu
phố và cấp xã. Ở mỗi cấp chính quyền địa phương tổ chức hai loại cơ quan là: Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban hành chính, trừ cấp bộ và cấp huyện, khu phố chỉ có Uỷ ban hành chính (không
có Hội đồng nhân dân).
Chương VI: Gồm 7 điều quy định về các cơ quan tư pháp, chỉ gồm: Toà án tối cao, các Toà
án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và các Toà án sơ cấp. Theo Hiến pháp 1946, Tòa án không
thiết lập theo đơn vị hành chính - lãnh thổ tương ứng với chính quyền địa phương mà thiết lập
theo thẩm quyền cấp xét xử, theo khu vực.
Chương VII: Qui định về sửa đổi Hiến pháp, trong đó Điều 70 quy định: những điều sửa
đổi Hiến pháp sau khi được ít nhất 2/3 tổng số nghị viên tán thành "phải được đưa ra để nhân dân phúc quyết".
c. Ý nghĩa của Hiến pháp 1946.
Mặc dù Hiến pháp 1946 không được đưa ra để nhân dân phúc quyết như Điều 21 Hiến pháp
1946 quy định và cũng không được ban bố thi hành do điều kiện chiến tranh, nhưng Quốc hội
lập hiến đã giao cho Chính phủ cùng với Ban thường vụ Quốc hội căn cứ vào các nguyên tắc
của Hiến pháp này và tình hình thực tế ban hành các văn bản pháp luật để điều hành, quản lý đất nước.
Ý nghĩa và giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp năm 1946 thể hiện:
- Là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà và cũng là bản Hiến pháp của một Nhà
nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Hiến pháp đã ghi nhận
thành quả đấu tranh của nhân dân ta giành độc lập, tự do cho dân tộc, lật đổ chế độ thực dân
- phong kiến ở nước ta.
- Các quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp năm 1946 quy định mang tính tiến
bộ, tính nhân văn sâu sắc.
- Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của một
"chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt" của nhân dân với sự sáng tạo ra một hình thức chính
thể cộng hòa dân chủ độc đáo với chế định Chủ tịch nước phù hợp với điều kiện chính trị
xã hội rất phức tạp ở nước ta giai đoạn này.
- Nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được Hiến pháp 1946 quy
định đến nay vẫn còn nguyên giá trị. 3. Hiến pháp 1959.
a. Hoàn cảnh ra đời: lOMoAR cPSD| 61685031
- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, thực dân Pháp đã ký với Việt Nam Hiệp
định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước còn tạm
chia làm hai miền. Hiến pháp năm 1946 "đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình
hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy, chúng
ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy" (Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959).
- Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I đã ra nghị quyết về việc sửa đổi Hiến
pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng ban. Ngày
1/4/1959, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến.
- Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày 31/12/1959, Hiến pháp sửa đổi được thông qua và
ngày 01/01/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959:
Hiến pháp 1959 gồm: Lời nói đầu và 112 điều chia thành 10 chương.
Lời nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau,
khẳng định những truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đồng thời xác định bản
chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
Chương I: gồm 8 điều quy định về “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”: chính thể của Nhà
nước ta vẫn là Nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân, xác định tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Hiến pháp năm 1959 khẳng định “đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống
nhất không thể chia cắt”, khẳng định nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc…
Chương II: gồm 13 điều quy định về “Chế độ kinh tế và xã hội” bao gồm đường lối, chính
sách phát triển kinh tế, các hình thức sở hữu (nhà nước, tập thể, của người lao động riêng lẻ và
của nhà tư sản dân tộc), về chính sách kinh tế của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế …
So với Hiến pháp 1946 thì chương này là chương hoàn toàn mới. Chương này được xây dựng
theo mô hình của Hiến pháp các nước XHCN. Vì vậy, ngoài việc quy định kinh tế quốc doanh
giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, Hiến pháp còn quy định Nhà nước lãnh đạo
hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất, thực hiện cải tạo XHCN bằng hình thức công
tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Chương III: gồm 21 điều quy định “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Hiến
pháp1959 đã kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946 về các quyền và nghĩa vụ
của công dân, đồng thời quy định những quyền và nghĩa vụ mới, như: quyền của người lao động
được giúp đỡ vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền tự do nghiên
cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật (Điều 34); quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 29); quy
định nghĩa vụ mới của công dân: tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng (Điều 46)…
Chương IV: gồm 18 điều quy định về "Quốc hội". Theo Hiến pháp 1959, Quốc hội được
xác định là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà".
Nhiệm kỳ của Quốc hội là 04 năm. Hiến pháp 1959 quy định quyền hạn của Quốc hội cụ thể
hơn, nhiều quyền quan trọng hơn, trong đó quy định chỉ Quốc hội mới có quyền làm Hiến pháp
và sửa đổi Hiến pháp (Điều 50, Điều 112). Quốc hội có cơ quan thường trực là Ủy ban thường
vụ Quốc hội. Ngoài ra, Quốc hội còn thành lập các Uỷ ban chuyên trách: Uỷ ban dự án pháp
luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban thẩm tra tư cách của các đại biểu và các Uỷ ban
khác mà Quốc hội thấy cần thiết. lOMoAR cPSD| 61685031
Chương V: Chủ tịch nước, bao gồm 10 điều. Theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước không
còn là người đứng đầu Chính phủ, chỉ là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước về đối nội
và đối ngoại. Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước từ 35 tuổi trở lên, là công dân của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà và không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Quyền hạn của Chủ
tịch nước theo Hiến pháp 1959 hạn chế hơn nhiều so với Hiến pháp 1946.
Chương IV: gồm 7 điều quy định về Hội đồng Chính phủ. Theo quy định của Điều 71, Hội
đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hội đồng Chính phủ gồm:
Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ. Tính chất
pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ v.v. theo quy định của Hiến pháp
năm 1959 là theo chế độ "Hội đồng" gần với mô hình Chính phủ của các nước XHCN lúc bấy giờ.
Chương VII: gồm 14 điều quy định về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp.
So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 quy định 3 cấp chính quyền địa phương là: cấp tỉnh,
cấp huyện, cấp xã và các cấp tương đương, bỏ cấp bộ. Ở tất cả các đơn vị hành chính đều tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, các cơ quan dân cử được đề cao, được xác định
không chỉ là cơ quan đại diện cho nhân dân dân địa phương mà còn là "cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương". Uỷ ban hành chính cấp nào do Hội đồng nhân dân cấp đó bầu ra, vừa là
"cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp", vừa là "cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương".
Chương VIII: gồm 15 điều quy định về Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Hiến
pháp 1959 quy định thành lập hệ thống Toà án tương ứng với các cấp chính quyền địa phương
(từ cấp huyện trở lên), Tòa án địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu. Đặc biệt, Hiến
pháp 1959 quy định thành lập mới hệ thống Viện kiểm sát nhân dân tương ứng với hệ thống
Tòa án nhân dân. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
toàn ngành, đứng đầu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để thực hiện chức năng
kiểm sát việc theo Hiến pháp, pháp luật và thực hành quyền công tố, bảo đảm thống nhất pháp
chế XHCN trong phạm vi toàn quốc.
Chương IX: gồm 3 điều quy định về Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô.
Chương X: Điều 112 quy định về sửa đổi Hiến pháp: "Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa
đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành".
c. Ý nghĩa của Hiến pháp năm 1959
- Hiến pháp 1959 ghi nhận thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân
ta, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày nay) trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
- Hiến pháp năm 1959 là Hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta, đặt cơ sở pháp lý nền tảng
cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và là cương lĩnh đấu tranh để thực hiện hoà
bình, thống nhất nước nhà. 4. Hiến pháp 1980.
a. Hoàn cảnh ra đời:
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 đã mở ra một giai đoạn phát
triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập hiến Việt Nam nói riêng. Đó
là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung là: xây
dựng CNXH trong phạm vi cả nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. lOMoAR cPSD| 61685031
Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976, cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất. Tại kỳ
họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976), Quốc hội đã thông qua những Nghị quyết
quan trọng, trong đó có Nghị quyết về lấy tên nước là "Cộng hòa XHCN Việt Nam", Nghị quyết
về thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp mới cho Nhà nước Việt nam thống nhất gồm 36 vị do
Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm Chủ tịch.
Sau hơn một năm chuẩn bị, dự thảo Hiến pháp đã được đưa ra lấy ý kiến trong cán bộ và
nhân dân. Ngày 18/12/1980, tại kỳ thứ 7 Quốc hội khoá VI đã chính thức thông qua Hiến pháp
mới. Hiến 1980 được xây dựng và thông qua trong không khí hào hùng và tràn đầy niềm tự hào
dân tộc sau Đại thắng mùa xuân năm 1975. Với tinh thần “lạc quan cách mạng” và mong muốn
nhanh chóng xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới CNCS ở nước ta, nên bản Hiến pháp này không
tránh khỏi các quy định mang tính chủ quan, duy ý chí, giáo điều và quan niệm giản đơn về CNXH.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980.
Hiến pháp 1980 bao gồm Lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu ghi nhận những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, chỉ rõ tên các nước đã từng là
kẻ thù xâm lược nước ta, xác định những nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới
mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) của Đảng đề ra và những vấn đề cơ bản
mà Hiến pháp 1980 cần thể chế hóa.
Chương I: Hiến pháp qui định về “Chế độ chính trị của Nhà nước CHXHCN Việt Nam”,
bao gồm 14 điều. Chương này xác định bản chất giai cấp của nhà nước ta là nhà nước chuyên
chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của nhà nước ta là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới CNCS (Điều 2). Hiến pháp 1980 chính thức ghi
nhận trong Điều 4 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội,
đồng thời đòi hỏi mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp (Điều
4). Hiến pháp 1980 còn đề ra đường lối, chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, xác định các nguyên tắc quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở nước ta (nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc v.v.
Chương II: Chế độ kinh tế gồm 22 điều. Theo Hiến pháp năm 1992, Nhà nước tiến hành
cách mạng về quan hệ sản xuất, cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN, thiết lập và củng cố
chế độ sở hữu XHCN nhằm xây dựng một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần là:
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể (Điều 18).
Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất (Điều 33)…
Chương III: Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật gồm 13 điều. Đây là một chương hoàn
toàn mới. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá (Điều 37), xác
định chính sách về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công tác thông tin báo chí,
xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình, …
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc XHCN bao gồm 3 điều. Đây cũng là chương mới trong lịch
sử lập hiến Việt Nam. Chương này xác định đường lối quốc phòng toàn dân của Nhà nước ta
(Điều 50), xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51) và việc thực hiện
chế độ nghĩa vụ quân sự (Điều 52).
Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 32 điều. Kế thừa và phát triển các
quy định của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
Hiến pháp 1980 quy định thêm một số quyền mới của công dân, như: quyền tham gia quản lý lOMoAR cPSD| 61685031
công việc của nhà nước và xã hội (Điều 56), quyền học không phải trả tiền (Điều 60), khám
bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62),… Về các nghĩa vụ
của công dân, Hiến pháp 1980 qui định thêm: công dân có nghĩa vụ tham gia xây dựng quốc
phòng toàn dân (Điều 77), nghĩa vụ tuân theo kỷ luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị, tôn
trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội (Điều 78), nghĩa vụ lao động công ích (Điều 80)…
Do giáo điều, quan niệm giản đơn về CNXH, cũng như bệnh chủ quan, duy ý chí khi xây dựng
và thông qua Hiến pháp 1980, nên nhiều quyền của công dân đề ra quá cao, không phù hợp với
điều kiện và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và vì thế các quyền này không
mang tính khả thi, không có điều kiện vật chất để đảm bảo thực hiện.
Chương VI: gồm 16 điều quy định về Quốc hội. Hiến pháp 1980 chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của Hiến pháp XHCN nói chung, Hiến pháp năm 1977 của Liên Xô (cũ) nói riêng nên đã đề
cao một cách quá mức các cơ quan dân cử, áp dụng triệt để nguyên tắc về vị trí tối cao và toàn
quyền của các cơ quan dân cử, nhất là Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội theo Điều 82 và 83 của Hiến pháp năm 1980 không những được mở rộng và tăng cường
hơn so với Hiến pháp năm 1959 mà còn có quyền "định cho mình những nhiệm vụ và quyền
hạn khác, khi xét thấy cần thiết" ngoài 15 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn đã được Điều 83 quy
định! Theo Hiến pháp 1980, Quốc hội bầu ra Chủ tịch và Phó chủ tịch Quốc hội để Chủ tọa các
phiên họp của Quốc hội nhưng lại không không đương nhiên là thành viên của cơ quan thường trực Quốc hội.
Chương VII: gồm 6 điều quy định về Hội đồng nhà nước. Khác với Hiến pháp 1959, do áp
dụng mô hình nguyên thủ quốc gia tập thể của các nước XHCN nên Hiến pháp năm 1980 bỏ
chế định "Chủ tịch nước", thiết lập chế định mới là Hội đồng nhà nước. Hội đồng nhà nước vừa
là "cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội", vừa là "Chủ tịch tập thể của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam" (Điều 98). Vì vậy, Hội đồng nhà nước có 21 nhóm nhiệm vụ,
quyền hạn rất rộng lớn, ngoài ra, "Quốc hội có thể giao cho Hội đồng nhà nước những nhiệm
vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết" (Điều 100).
Chương VIII: Hội đồng Bộ trưởng (8 điều): Hội đồng Bộ trưởng được xác định "là Chính
phủ của nước CHXHCN Việt Nam", là “cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất
của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” (Điều 104). Hội đồng Bộ trưởng do Quốc hội bầu,
gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà
nước. Hội đồng Bộ trưởng có 26 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn
mới so với Hiến pháp 1959 như: tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài nhà nước về kinh tế, tổ
chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà nước… (Điều 107). Theo quy định của Hiến pháp năm
1980, Chính phủ không có tính độc lập cả về tổ chức, cả về hoạt động và không có người đứng
đầu Chính phủ theo đúng nghĩa, mặc dù có chức danh "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng". Hiến
pháp 1980 qui định trách nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội
và Hội đồng nhà nước.
Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (14 điều). Chương này quy định về
các đơn vị hành chính - lãnh thổ; xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp theo hướng áp dụng triệt để hơn mô hình tổ chức chính
quyền địa phương XHCN. Hiến pháp 1980 quy định ba cấp chính quyền địa phương: 1. Tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương (đặc khu); 2. Huyện, quận, thành phố và
thị xã trực thuộc tỉnh; và 3. Xã, phường, thị trấn. Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều
thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Chương X: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (15 điều). Các quy định về chương
này về cơ bản giống với quy định của Hiến pháp 1959. lOMoAR cPSD| 61685031
Chương XI: quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và Thủ đô.
Chương XII: quy định hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
c. Ý nghĩa của Hiến pháp 1980: mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng Hiến pháp 1980
vẫn có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ:
- Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam thống nhất, Hiến pháp của thời
kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước.
- Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý tổng kết và khẳng định những thành quả đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỉ, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân
ta quyết tâm xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Hiến pháp 1980 thể chế hoá cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí”.
5. Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
a. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Như trên đã trình bày, Hiến pháp 1980 được xây dựng và thông qua trong hoàn cảnh đất
nước chan hòa khí thế lạc quan, hào hùng của Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta sạch
bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN được ban hành vào cuối
những năm 60 - 70 đã khẳng định đây là thời kì xây dựng CNXH phát triển, đang thịnh hành
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về
CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp 1980 và là một trong những
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước.
Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và phát triển,
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới theo chủ trương: trọng tâm và
đẩy mạnh đổi mới kinh tế, đồng thời đổi mới từng bước và vững chắc cơ cấu tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Ngày 30/6/1989, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII đã thông qua Nghị quyết thành lập
Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm đáp ứng
yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Uỷ ban này gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng nhà
nước Võ Chí Công làm Chủ tịch.
Ngày 15/04/1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 1992.
Để đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước do đại hội Đảng
lần thứ IX đề ra, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X (ngày 29/06/2001), Quốc hội đã thông qua
Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 gồm 22 thành
viên do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An là chủ tịch. Ngày 25/12/2001, Quốc hội thông qua
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH10 để sửa đổi, bổ sung lời nói đầu và 23 điều của Hiến pháp
1992 nhằm thể chế hoá Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
b. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) Hiến
pháp 1992 gồm lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam, xác định những nhiệm vụ
trong giai đoạn cách mạng mới và xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp cần quy định.
Chương I: Chế độ chính trị cũng bao gồm 14 điều như Hiến pháp năm 1980. Khác với Hiến
pháp 1980, Hiến pháp 1992 không dùng thuật ngữ “nhà nước chuyên chính vô sản” mà dùng
thuật ngữ “nhà nước của của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Việc thay đổi này phù hợp lOMoAR cPSD| 61685031
với bản chất dân chủ của Nhà nước ta, thể hiện chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp
trong xã hội cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới và thời đại. Hiến pháp 1992 đề
cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận là “cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân”. Hiến pháp 1992 quy định đường lối đối ngoại rộng mở.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung 04 điều
trong Chương Chế độ chính trị của Hiến pháp 1992 (Điều 02, Điều 3, Điều 8 và Điều 9). Quan
trọng nhất là Điều 2 với hai nội dung: một là, khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp
quyền XHCN; hai là, khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Điều 3: bổ sung một tư tưởng quan trọng, xác định mục tiêu phát triển chế độ chính trị, mục
tiêu của Nhà nước ta là nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Điều 8: được sửa đổi nhằm nhấn mạnh thêm tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí. Điều 9: bổ sung để làm rõ bản chất, cơ cấu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị
xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Chương II: Chế độ kinh tế gồm 15 điều. Chương này được đổi mới một cách cơ bản và
triệt để nhất nhất so với Hiến pháp năm 1980, khẳng định rõ quan điểm đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta. Hiến pháp 1992 đã đoạt tuyệt nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, thuần nhất chế
độ sở hữu XHCN với hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Lần đầu tiên trong lịch sử lập
hiến Việt Nam, Hiến pháp quy định: kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức
tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động
trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh (Điều 21). Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế được liên doanh, liên kết với các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo
quy định của pháp luật (Điều 22). Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch và chính sách; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp
luật... Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 vẫn khẳng định: "sở hữu toàn dân là nền tảng", "thành
phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân" và coi đây là đặc điểm,
điều kiện bảo đảm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển theo định hướng XHCN.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 sửa đổi, bổ sung thêm 05 điều trong
Chương Chế độ kinh tế của Hiến pháp 1992 (gồm Điều 15, 16, 19, 21, 25), trong đó quan trọng
nhất là Điều 15 và Điều 16 nói về đường lối, chính sách và mục tiêu xây dựng, phát triển nền
kinh tế của nhà nước ta. Các sửa đổi, bổ sung có những điểm mới sau: xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tiếp tục khẳng định tính nhất quán của nền kinh tế thị trường,
định hướng XHCN; bổ sung thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, xác định các thành
phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nước ta; xác định rõ các thành
phần kinh tế được tự do phát triển, không bị phân biệt đối xử, được sản xuất, kinh doanh trong
những ngành nghề mà pháp luật không cấm,khuyến khích, tạo điều kiện hơn nữa cho đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam…
Chương III: Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ gồm 14 điều xác định đường
lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam, xác định “phát triển giáo dục và đào tạo", "phát
triển khoa học và công nghệ" "là quốc sách hàng đầu”. Có thể nói rằng, Hiến pháp 1992 đánh
dấu bước phát triển mới trong chính sách của nhà nước và xã hội về giáo dục và đào tạo, về
phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta. lOMoAR cPSD| 61685031
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN bao gồm 5 điều xác định đường lối quốc
phòng toàn dân. Hiến pháp 1992 còn quy định thêm về nhiệm vụ xây dựng lực lượng Công an nhân dân…
Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bao gồm 34 điều. So với Hiến pháp
1980 thì chương này trong Hiến pháp 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được
bổ sung và sửa đổi. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp 1992 có một điều
chính thức quy định “Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được
tôn trọng” (Điều 50), quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (Điều 57), “công dân
có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
kinh tế khác” (Điều 58). Công dân có “quyền được thông tin”. Ngoài việc quy định các quyền
mới kể trên, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và không có tính khả thi.
Chương VI: gồm 18 điều quy định về Quốc hội. Hiến pháp 1992 có bổ sung thêm so với
Hiến pháp 1980 về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, như: quyết định xây dựng chương trình
luật, pháp lệnh; quyết định chính sách dân tộc của nhà nước; quyết định trưng cầu dân ý (Điều
48). Về cơ cấu tổ chức Quốc hội, Hiến pháp 1992 có một số thay đổi quan trọng: bỏ thiết chế
Hội đồng nhà nước, khôi phục lại chế định Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch
nước như Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1992 không trực tiếp qui định Chủ tịch, các Phó Chủ tịch
Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nhưng thực chất
là như vậy, vì Điều 90 quy định: "Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có: Chủ tịch Quốc hội; Các
Phó Chủ tịch Quốc hội; và Các ủy viên". Hiến pháp năm 1992 còn quy định: Một số thành viên
của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội làm việc chuyên trách (Điều 94, 95). Đặc biệt,
Điều 84 Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định 14 loại nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, bỏ quy
định "Quốc hội tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết "như Hiến pháp năm 1980.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 quy định Quốc hội chỉ quyết định phân
bổ ngân sách trung ương chứ không phân bổ ngân sách nhà nước nói chung như trước đây và
bổ sung thêm quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn… Đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (theo sửa đổi, bổ sung Điều 91): không
còn quyền phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành
viên khác của Chính phủ khi Quốc hội không họp như Hiến pháp năm 1992 trước đây; chỉ trong
trường hợp “Quốc hội không thể họp được”, Uỷ ban Thường vụ mới có quyền quyết định việc
tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược…
Chương VII: Chủ tịch nước bao gồm 8 điều. Với Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước
cá nhân được quy định thành một chế định riêng biệt như Hiến pháp 1959. Chủ tịch nước theo
Điều 103 Hiến pháp 1992 không có nhiều quyền hạn rộng lớn như Hiến pháp 1946, nhưng so
với Hiến pháp 1959 có nhiều quyền hơn, mặc dù một số quyền chỉ mang tính thủ tục pháp lý.
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 bổ sung quyền ban bố tình trạng khẩn
cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong tình trạng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không
thể họp được; đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh (chứ không phải cả
Nghị quyết như khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 1992)…
Chương VIII: Chính phủ gồm 19 điều. Hiến pháp 1992 kế thừa Hiến pháp 1959 xây dựng
chế định Chính phủ theo quan điểm tập quyền “mềm”, nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập
trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân biệt chức năng giữa các cơ quan nhà nướctrong
việc thực hiện 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.Vì vậy, Hiến pháp 1992 quy định “Chính lOMoAR cPSD| 61685031
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội", nhưng Chính phủ còn là "cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”. Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng
Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ. Ngoài ra, Hiến pháp 1992 còn tăng thêm nhiều
quyền hạn khác cho Thủ tướng trong các khoản 2, 4, 5 Điều 114.
Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân gồm 8 điều. Chương này của Hiến
pháp năm 1992 không có sửa đổi gì nhiều so với Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp 1992 quy
định các đơn vị hành về cơ bản như Hiến pháp năm 1980, nhưng việc tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính Hiến pháp năm 1992 dành cho luật quy định
(Điều 118). Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dânđược quy định trong Hiến
pháp năm 1992 không có thay đổi gì so với Hiến pháp năm 1980.
Chương X: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân gồm 15 điều. Hiến pháp 1992 thực
hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm. Đối với Hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế
độ bầu. Theo Hiến pháp 1992, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh thành lập Uỷ ban kiểm sát. Hiến pháp 1992 còn có quy định mới về Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi
hành luật ở địa phương và trả lời chất vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140).
Nghị quyết số 51/2001/NQ - QH ngày 25/12/2001 sửa đổi, bổ sung Điều 137 Hiến pháp
1992: bỏ quy định về chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân các cấp (tức là
Viện kiểm sát không còn thực hiện kiểm sát vịêc tuân theo pháp luật đối với các bộ, các cơ quan
ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang như Điều 137 Hiến pháp 1992 quy định). Quy định Viện
kiểm sát nhân dân chỉ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (bao gồm
kiểm sát các hoạt động điều tra, hoạt động truy tố, hoạt động xét xử, hoạt động thi hành án, hoạt
động tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù đảm bảo pháp luật
đuợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chương XI: quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh.
Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
6. Hiến pháp năm 2013.
a. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi
mới đất nước. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình
quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện,
bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để
bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
Vì vậy, ngày 06/8/2011, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua
Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 gồm 30 vị do Chỉ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng là Chủ tịch Ủy ban
này. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố trên tất cả các phương tiện thông lOMoAR cPSD| 61685031
tin đại chúng để tổ chức lấy ý kiến của nhân dân. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có nhiều
sửa đổi, bổ sung mới về nội dung quy định, về cách thức thể hiện từ Lời nói đầu đến tất cả các
chương, điều của Hiến pháp. Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 13 đã thông qua
Hiến pháp 2013, đánh dấu bước phát triển mới về chất lịch sử lập hiến Việt Nam. b. Nội dung
cơ bản của Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 có cấu trúc gồm: Lời nói đầu, 11 chương với 120 điều.
Mặc dù số lượng chương, điều của Hiến pháp năm 2013 đều giảm so với Hiến pháp năm
1992 do một số chương, điều được nhập lại. Nhưng nhìn chung phạm vi điều chỉnh của Hiến
pháp năm 2013 là không thay đổi so với Hiến pháp năm 1992.
Chương I: Chế độ chính trị bao gồm 13 điều. So với Hiến pháp 1992, những nội dung quan
trọng của chương Chế độ chính trị trong Hiến pháp năm 2013 về cơ bản vẫn giữ nguyên nhưng
thay đổi cách thể hiện một số nội dung ngắn gọn, súc tích và phù hợp hơn:
Thứ nhất, Điều 2 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ” và tất cả các chữ “Nhân dân” đều được trình bày viết hoa một cách trang trọng, thể hiện
sự tôn trọng và đề cao vai trò của Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, Điều 4 quy định rõ “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân,
phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình”.
Thứ ba, Điều 6 nêu rõ hơn các hình thức dân chủ được thực hiện ở nước ta bao gồm: dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Thứ tư, Điều 9 liệt kê đầy đủ các tổ chức chính trị - xã hội gồm: Công đoàn Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,
Hội cựu chiến binh Việt Nam và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức này trong Mặt
trận tổ quốc Việt Nam.
Thứ năm, Điều 13 Hiến pháp năm 2013 quy định về quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc
khánh và thủ đô. Trước đây, vấn đề này được quy định tại Chương XI của Hiến pháp 1992.
Chương II: Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bao gồm 36 điều.
Trước đây, Chương V của Hiến pháp 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Việc bồ sung vào tên chương chữ “Quyền con người” và chuyển vị trí chương quy định về
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân lên chương II thể hiện rõ quan điểm
của Nhà nước ta về tầm quan trọng của quyền con người. Ngoài việc thay đổi vị trí chương, và
sửa đổi tên chương, so với nội dung Chương V của Hiến pháp 1992, Chương II của Hiến pháp
năm 2013 có một số điểm mới sau:
Thứ nhất, Điều 14 nêu rõ “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Thứ hai, quy định thêm về quyền sống (Điều 19), quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và
hiến xác theo quy định của luật (Điều 21), quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34),quyền
được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43).
Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường bao gồm 14 điều. lOMoAR cPSD| 61685031
Chương này có nội dung gộp lại từ Chương II và Chương III Hiến pháp 1992 thể hiện sự
gắn kết giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường.
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và
khẳng định vai vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Đặc biệt, Hiến pháp sửa
đổi 2013 khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc “xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công,
phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính
thống nhất của nền kinh tế quốc dân” (Điều 52) và lần đầu tiên Hiến pháp quy định về vấn đề
ngân sách nhà nước và “Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam”.
Các vấn đề phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ đều được Hiến pháp quy định là quốc
sách hàng đầu được Nhà nước quan tâm khuyến khích phát triển.
Điểm mới của chương này bổ sung thêm nội dung môi trường (Điều 63), điều này rất phù
hợp với thực tế điều kiện phát triển của xã hội hiện nay.
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc bao gồm 5 điều, Hiến pháp quy định chính sách quốc phòng
toàn dân, khẳng định Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân, quy
định về vai trò của lực lượng quân đội nhân dân, Công an nhân dân…
Chương V: Quốc hội, bao gồm 17 điều. Nhìn chung, chương Quốc hội không có thay đổi
cơ bản so với Hiến pháp 1992 trong quy định về vị trí tính chất pháp lý và chức năng của Quốc
hội. Những nội dung mới được sửa đổi, bổ sung so với Hiến pháp 1992 gồm có:
Thứ nhất, bổ sung thẩm quyền quyền quyết định của Quốc hội đối với hai cơ quan mới là
Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Thứ hai, xác định rõ “Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười
hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh”. Thứ ba, quy định về việc thành lập Ủy ban lâm thời
để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định giúp Quốc hội.
Chương VI: Chủ tịch nước bao gồm 8 điều.
Theo Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước vẫn là một chế định độc lập và do cá nhân đảm nhiệm,
“là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội
và đối ngoại”. Tiêu chuẩn, điều kiện và thẩm quyền của Chủ tịch nước về cơ bản vẫn giữ như
Hiến pháp 1992. Tuy nhiên có một nội dung được bổ sung mới quan trọng là quy định tại Điều
90 đã tăng cường khả năng tham gia của Chủ tịch nước đối với hoạt động của Chính phủ, theo
đó “Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, phiên họp của
Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước
xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.
Chương VII: Chính phủ gồm có 8 điều. Một số điểm mới trong quy định về Chính phủ của
Hiến pháp sửa đổi 2013 so với Hiến pháp 1992 là:
Thứ nhất, khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Điều này thể hiện
rõ hơn nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước ta.
Thứ hai, quy định cụ thể về vai trò của các thành viên của Chính phủ. lOMoAR cPSD| 61685031
Thứ ba, quy định về trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện chế độ báo
cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng
thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Chương VIII: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân bao gồm 8 điều. So với Hiến pháp
1992, Hiến pháp 2013 có một số điểm mới chủ yếu tập trung vào cơ quan Tòa án nhân dân, gồm có:
Thứ nhất, khẳng định rõ Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp;
Thứ hai, quy định nguyên tắc xét xử hai cấp gồm sơ thẩm và phúc thẩm;
Thứ ba, quy định cụ thể hơn về hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao: “Tòa án nhân dân
tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “giám đốc
việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”.
Những quy định liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân về cơ bản vẫn giữ như Hiến pháp 1992.
Chương IX: Chính quyền địa phương bao gồm 9 điều.
Trước đây, Hiến pháp 1992 dành chương IX quy định về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân và chương này được quy định trước chương Tòa án nhân dân và Việt kiểm sát nhân dân.
Hiến pháp sửa đổi 2013 đã đổi tên chương thành “Chính quyền địa phương” và đặt chương
này sau chương “Tòa án nhân dân và Việt kiểm sát nhân dân”.
Các đơn vị hành chính lãnh thổ địa phương vẫn được phân thành ba cấp: Tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương đương; phường và xã.
Ngoài ra, để tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa phương Hiến pháp 2013 đã
bổ sung thêm đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Đặc biệt, nếu
Hiến pháp 1992 chưa thể hiện rõ sự phân biệt về tổ chức chính quyền địa phương giữa loại đơn
vị hành chính thì Hiến pháp 2013 tại Điều 11 đã xác định rõ “Cấp chính quyền địa phương gồm
có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Chương X: Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước bao gồm 2 điều.
Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm toán nhà nước là hai cơ quan mới lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp.
Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử
đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Việc thành lập Hội đồng bầu cử Quốc gia hoạt động mang tính chất thường xuyên đã hoàn thiện
một bước chế định bầu cử, tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp, tạo cơ chế để nhân dân thực
hiện đầy đủ hơn quyền làm chủ của mình, thể hiện rõ hơn chủ quyền nhân dân.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Kiểm toán nhà
nước mặc dù đã được thành lập và đang hoạt động, tuy nhiên đến Hiến pháp 2013, cơ quan này
chính thức được quy định trong Hiến pháp thể hiện sự đề cao một bước vai trò của cơ quan này
trong bộ máy nhà nước. Điều này cũng là phù hợp với xu hướng chung của thể giới, góp phần lOMoAR cPSD| 61685031
hoàn thiện bộ máy kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công, ngăn ngừa nạn tham nhũng.
Chương XI: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp gồm 2 điều, trong đó Điều
119 xác định “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu
lực pháp lý cao nhất” và yêu cầu “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể
Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”.
Về thủ tục sửa đổi Hiến pháp thì Điều 120 quy định: “Quốc hội quyết định việc làm Hiến
pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán
thành”; “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”. c. Ý nghĩa của Hiến pháp 2013.
- Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa đường lối chủ trương tiếp tục đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn mới, bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN;
- Hiến pháp 2013 đề cao và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
- Hiến pháp 2013 hoàn thiện thêm một bước về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước. Từng
bước phân công cụ thể giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp, và đặt cơ sở cho việc xây dựng bộ máy chính quyền địa phương phù hợp về tổ
chức và hiệu quả trong hoạt động.