










Preview text:
lOMoAR cPSD| 59540283 I. Tổng quan
1.1 Định nghĩa về gói kích cầu
Gói kích cầu hay còn gọi với cái tên gói kích thích kinh tế là một gói các biện pháp
kinh tế mà Chính phủ và NHNN đưa ra để kích thích một nền kinh tế đang bị tụt dốc. Hồi
phục kinh tế, đảo ngược hay ngăn chặn sự suy thoái bằng cách thúc đẩy công việc làm và
chi tiêu của người dân là mục đích của các gói kích cầu.
Tính hữu dụng của các gói kích thích kinh tế xuất phát từ lý thuyết của nhà kinh tế
Keynes, ông đã đưa ra luận điểm là sự suy thoái không thể tự mình điều chỉnh. Chính vì lẽ
đó, những can thiệp của Chính phủ mang tính hữu ích và có thể làm hạ bớt các tác động
xấu của suy thoái. Lấy ví dụ: một biện pháp kích thích hoặc làm tăng chi tiêu của Chính
phủ có thể bù đắp một phần nào có cho việc các tư nhân cắt giảm việc sử dụng tiền, từ đó
thúc đẩy tổng cầu và thu hẹp khoảng cách trong nền kinh tế.
1.2 Các biện pháp kích cầu -
Kích thích tiền tệ: biện pháp này có liên quan đến việc NHNN cắt giảm lãi
suất để kích thích nền kinh tế. Khi lãi suất được cắt giảm, người dân có nhiều động lực đi
vay hơn do chi phí lãi vay đã được hạ thấp. Khi các doanh nghiệp và cá nhân vay nhiều
hơn thì sẽ có nhiều tiền hơn trong lưu thông, người dân sẽ có ít động lực để tiết kiệm và
nhiều động lực để chi tiêu mua sắm hơn. Việc hạ tỉ lệ lãi suất cũng là một trong những yếu
tố làm tỷ giá hối đoái của một quốc gia trở nên suy yếu, từ đó tạo động lực thúc đẩy xuất
khẩu. Khi xuất khẩu tăng, khối lượng tiền mặt được lưu thông trong nền kinh tế cũng tăng,
từ đó khuyến khích người dân chi tiêu mua sắm và kích thích nền kinh tế phát triển. -
Kích thích tài chính: Khi Chính phủ lựa chọn kích thích tài khóa, Chính phủ
sẽcắt giảm thuế hoặc gia tăng chi tiêu nhằm khôi phục nền kinh tế. Khi thuế được giảm
xuống thì thu nhập của người dân cũng sẽ tăng lên. Thu nhập khả dụng tăng lên thì đa phần
người ta sẽ có xu hướng tiêu xài nhiều hơn, điều này giúp thúc đẩy nhu cầu, sản xuất và
phát triển kinh tế. Khi Chính phủ gia tăng chi tiêu, Chính phủ sẽ bơm thêm tiền vào việc
phát triển kinh tế, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và cuối cùng là chống lại tác động của suy thoái. lOMoAR cPSD| 59540283
Mặc dù tốt nhưng kích thích tài chính cũng tiềm ẩn nguy cơ đó là tăng tỷ lệ nợ/GDP
và rủi ro người nhận hỗ trợ từ chính sách này sẽ tiết kiệm khoản tiền mà họ được cung cấp
cho thay vì chi tiêu mua sắm. Nếu điều này xảy ra, gói kích cầu có thể không còn tác dụng. -
Nới lỏng định lượng: đây được xem như một loại chính sách tiền tệ mở rộng.
Nới lỏng định lượng xuất hiện khi NHNN mua một khối lượng lớn tài sản tài chính (chẳng
hạn như cổ phiếu, trái phiếu) từ các ngân hàng con hay các tổ chức tài chính khác. Việc
NHNN mua những tài sản này với khối lượng lớn đã làm cho dự trữ dư thừa mà các tổ
chức doanh nghiệp nắm giữ tăng lên, dẫn đến lượng cung tiền mặt trong lưu thông tăng,
tạo điều kiện người dân cho vay, đẩy giá trái phiếu lên mức cao hơn, giảm lãi suất và lợi
tức. Khi các biện pháp kích thích tiền tệ truyền thống không có tác dụng, chính phủ thường
chọn biện pháp nới lỏng định lượng. II.
Những nguyên tắc cơ bản để thực hiện gói kích cầu
2.1 Nguyên tắc số một - Kích cầu phải kịp thời
Nguyên tắc kịp thời có nghĩa là các biện pháp kích thích mà Chính phủ và Ngân
hàng trung ương đưa ra được thực hiện ngay khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái. Bên
cạnh đó, kích cầu kịp thời còn mang nghĩa đó là các biện pháp kích thích phải được đưa ra
đúng thời điểm có tác dụng ngay lập tức. Chính vì lẽ đó, thời gian là một trong những yếu
tố đóng vai trò cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả của việc
thực hiện các gói kích cầu. Ví dụ, nếu Chính phủ thực hiện kích cầu quá sớm sẽ ảnh hưởng
đến lạm phát và ngược lại, nếu gói kích cầu đưa ra quá trễ thì sẽ không còn nhiều ý nghĩa
do nền kinh tế đã dần được phục hồi và cải thiện, dẫn đến hiệu quả kinh tế sẽ không còn được cao.
Việc xác định được thời gian hợp lý để đưa ra các gói kích cầu sẽ là yếu tố tiên quyết
xác định thành công của chính sách. Tuy nhiên, quá trình chuẩn bị cho các điều này lại đòi
hỏi sự nghiên cứu, phân tích vô cùng kỹ càng. Ngoài ra, các gói kích cầu cần phải được xét
duyệt thông qua các cấp, các ban ngành và đặc biệt nhất là quốc hội. Những quy trình này
thường sẽ tốn kém thời gian và không được giải quyết nhanh gọn trong thời gian ngắn mà
đòi hỏi phải có những lập luận chặt chẽ. Chính vì thế, kế hoạch và chiến lược phải vô cùng
chi tiết. Ngoài ra, quá trình tìm hiểu và đánh giá nền kinh tế phải vô cùng chính xác để xác lOMoAR cPSD| 59540283
định được nền kinh tế đang nằm ở giai đoạn nào, từ đó đưa ra quyết định kích thích kinh
tế chính xác, tránh gặp phải những vấn đề về lạm phát và lạm dụng gói kích thích.
2.2 Nguyên tắc số hai - Kích cầu phải đúng đối tượng
Sự thành bại của các phương án kích cầu phụ thuộc rất lớn vào xu hướng tiêu dùng
và đầu tư của các đối tượng nằm trong phương án kích cầu. Để tăng cầu đối với các loại
hàng hóa sản phẩm và dịch vụ, gói kích cầu phải hướng đến những người sẽ chi tiền để
mua sắm một khi được hỗ trợ bởi các chính sách kích cầu, từ đó đạt được mục tiêu là làm
gia tăng tổng cầu trong nền kinh tế.
Mục tiêu chủ chốt của các gói kích thích nhu cầu là làm tăng cầu. Suy ra, chìa khóa
để thực hiện điều này là đưa tiền cho những người sẽ sử dụng ngay khi nhận được sự hỗ
trợ, qua đó tăng lượng lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế. Nếu các đối tượng được hỗ trợ
không sử dụng tiền để chi tiêu mà thay vào đó họ tiết kiệm thì gói kích cầu sẽ không còn
hiệu quả. Ví dụ: Việc cắt giảm thuế TNCN chủ yếu sẽ đem lại lợi ích cho những người có
thu nhập cao, đây là biện pháp không mấy lại hữu hiệu trong việc kích cầu do những người
này họ thường có xu hướng tiết kiệm phần lớn bất kỳ khoản gia tăng thu nhập khả dụng
nào mà họ nhận được so với những người có thu nhập thấp hơn và ít chịu ảnh hưởng khi
cắt giảm thuế TNCN. Thay vào đó, việc cắt giảm thuế và tăng chi tiêu của Chính phủ nhằm
vào những người tiêu dùng có thu nhập thấp hoặc những người thất nghiệp, chẳng hạn như
cung cấp một khoản hoàn trả cố định cho những người khai nộp thuế đầy đủ, thêm một
phần tiền trợ cấp thất nghiệp cho những ai không tìm được việc làm hay gia tăng việc cấp
phiếu lương thực,… sẽ mang lại hiệu quả cao hơn do những người này sẽ sử dụng ngay
những khoản tiền được trợ cấp vào trong sinh hoạt.
Tóm lại, các biện pháp kích cầu cần phải được áp dụng đúng đối tượng thì mới đem
lại hiệu quả, tiền đề để áp dụng các biện pháp kích thích sự gia tăng tổng cầu là các nhóm
đối tượng này sẽ gia tăng các khoản chi tiêu chứ không cắt giảm hoặc dự trữ, tiết kiệm. Do
vậy, khi lên kế hoạch đưa ra các gói kích cầu, Chính phủ cần phải cân nhắc, tính toán kỹ
lưỡng, từ đó xác định chính xác đối tượng cần hỗ trợ để các biện pháp kích thích mang lại
hiệu quả như mong muốn. lOMoAR cPSD| 59540283
2.3 Nguyên tắc số ba - Kích cầu trong ngắn hạn
Nguyên tắc này có nghĩa là kế hoạch kích thích chỉ được áp dụng trong một khoảng
thời gian hữu hạn và sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế được cải thiện. Một quốc gia không
nên bị mắc kẹt mãi trong việc cắt giảm thuế, tăng chi tiêu hay gia tăng thâm hụt vì suy thoái
tạm thời; điều quan trọng là các biện pháp kích thích phải dừng lại khi nền kinh tế khỏe lên.
Nguyên tắc kích cầu trong ngắn hạn mang hai ý nghĩa đó là tăng hiệu quả việc kích
thích cầu và không làm ảnh hưởng đến tình hình ngân sách của Nhà nước trong dài hạn.
Chính phủ cho rằng sự thâm hụt về ngân sách diễn ra trong ngắn hạn do các gói kích
cầu tạo nên sẽ được bù đắp bằng các hình thức bồi bổ ngân sách được áp dụng trong những
năm sau. Nếu không, các hình thức kích thích nhu cầu này sẽ gây ra sự gia tăng vĩnh viễn
trong việc trả lãi cho các khoản nợ. Điều này sẽ khiến cho tình trạng thâm hụt ngân sách
trở nên nghiêm trọng thêm. Chính vì vậy, các chính sách kích thích nền kinh tế phải tuân
thủ nguyên tắc ngắn hạn để đảm bảo không làm ảnh hưởng đến ngân sách Nhà nước trong dài hạn.
Bên cạnh đó, các biện pháp kích thích trong ngắn hạn luôn đem đến những hiệu quả
cao hơn so với các biện pháp dài hạn. Những gói kích cầu mà vẫn còn hiệu lực khi nền
kinh tế đã được phục hồi không chỉ trở thành gánh nặng chi phí cho Chính Phủ mà còn
khiến cho các doanh nghiệp mất đi động lực đẩy nhanh tốc độ đầu tư. Ngược lại, những
gói kích cầu ngắn hạn như ưu đãi về khấu hao tài sản trong ngắn hạn, ưu đãi về thuế,... sẽ
khuyến khích được các doanh nghiệp tiến hành gia tăng tốc độ đầu tư bởi họ cho rằng nếu
không tận dụng những ưu đãi này thì sẽ để vụt mất cơ hội tốt.
Khi xem xét các biện pháp kích cầu thì Chính Phủ và Ngân hàng trung ương phải
luôn đảm bảo là các biện pháp này tuân thủ theo ba nguyên tắc đã kể trên. Nếu một biện
pháp kích thích nhu cầu được đưa ra mà vi phạm một trong ba nguyên tắc thì có thể nói
biện pháp đó sẽ không nhận được sự đánh giá cao và nếu được áp dụng thì nó sẽ không
đem lại được hiệu quả như mong đợi. lOMoAR cPSD| 59540283
III. Những biện pháp mà Chính phủ và Ngân hàng trung ương Mỹ đã sử dụng
nhằm vực dậy nền kinh tế trong đợt dịch Covid - 19
Kể từ khi dịch bệnh Covid diễn ra vào cuối năm 2019, Mỹ là một trong những đất
nước chịu thiệt hại nặng nề nhất khi có hơn 40,5 triệu trường hợp mắc bệnh và hơn 652.000
trường hợp tử vong. Con số này ngày càng tăng khiến cho nền kinh tế của nước Mỹ bị thiệt
hại nghiêm trọng và rơi vào tình trạng suy thoái kể từ tháng 2 năm 2020.
Cuộc khủng hoảng Covid - 19 đã đẩy thị trường chứng khoán Mỹ vào lãnh thổ “Bear
Market” hay còn gọi là thị trường giá xuống vào tháng 3 năm 2020, với chỉ số S&P 500 rớt
liên tục từ trước đại dịch cho đến tháng 6 năm 2020. Tỷ lệ người dân không có việc làm ở
Mỹ tăng cao tới 14,8% vào tháng 4 năm 2020 – đây được coi là con số cao nhất kể từ cuộc
Đại suy thoái vào năm 2007.
Đối đầu với tình trạng khó khăn này, tổng thống Mỹ đã ban hành một số chính sách
nhằm đưa ra các biện pháp kích thích tài khóa cho nền kinh tế và cứu trợ những người chịu
ảnh hưởng bởi thảm họa toàn cầu này. Cục dự trữ liên bang (FED) cũng đưa ra hàng loạt
các gói kích thích tiền tệ nhằm hỗ trợ cho các chính sách tài khóa của Chính phủ. Dưới đây
là các cách mà nước Mỹ đã sử dụng để vực dậy nền kinh tế, chia làm 2 nhóm chính là các
biện pháp nằm trong chính sách tiền tệ do FED đưa ra và các biện pháp nằm trong chính
sách tài khóa do Quốc hội và tổng thống đưa ra.
3.1 Chính sách tiền tệ
Các phương thức kích thích trong chính sách tiền tệ của FED được chia thành ba
loại cơ bản đó là: cắt giảm lãi suất, cho vay và mua tài sản, và thay đổi quy định.
3.1.1 Cắt giảm lãi suất
FED đã cắt giảm lãi suất chuẩn, lãi suất quỹ liên bang, hai lần trong tháng 3/2020 –
lần thứ nhất là 0,50% và lần thứ hai là 1,00%. Vào giữa tháng 3 năm ngoái, FED cũng cắt
giảm lãi suất chiết khấu, một lãi suất chủ chốt khác, từ 1,5% xuống 0,25%. Mục đích của
việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu là để FED giảm bớt các vấn đề thanh khoản và áp lực lOMoAR cPSD| 59540283
yêu cầu dự trữ, kiểm soát nguồn cung tiền trong nền kinh tế và về cơ bản là bảo đảm sự
bình ổn trên thị trường tài chính.
3.1.2 Cho vay và mua tài sản
Thao tác sửa chữa và nới lỏng định lượng
Một trong những chương trình thu mua tài sản đơn giản nhất đó là chương trình nới
lỏng định lượng, viết tắt là QE, trong đó FED đã trực tiếp mua các tài sản như Kho bạc
Hoa Kỳ và chứng khoán được đảm bảo bằng thế chấp (MBS). Chương trình này ban đầu
được áp dụng trong thời kỳ Đại suy thoái và đã được FED khởi tạo lại vào ngày 15/3/2020.
FED cho biết rằng họ sẽ mua với số lượng cần thiết để trợ giúp thị trường hoạt động một cách trơn tru.
Vào ngày 12/3/2020, FED đã đầu tư thêm 1,5 nghìn tỷ USD vào Hợp đồng mua lại
Repo, bốn ngày sau đó FED bổ sung thêm 500 tỷ USD để bảo đảm thị trường tiền tệ có đủ thanh khoản.
Quỹ tín dụng đại lý chính (PDCF)
Vào ngày 20/3 năm ngoái, FED đã khởi tạo lại một chương trình từng được sử dụng
trong thời kỳ Đại suy thoái đó là Quỹ tín dụng đại lý chính, viết tắt là PDCF, Quỹ này cung
cấp các khoản vay với mức lãi suất là 0,250% cho 23 tổ chức tài chính quy mô lớn ở nước
Mỹ với thời hạn vay kéo dài đến 3 tháng; tài sản mà các tổ chức này có thể dùng để thế
chấp là các cổ phiếu, thương phiếu và trái phiếu.
Chương trình cho vay này đã chấm dứt vào ngày cuối tháng 3 năm nay. Mặc dù chỉ
được thực hiện trong khoảng thời gian ít ỏi nhưng nó đã mang lại những điềm báo tích cực
cho các tổ chức tài chính. Những khoản vay này đã giúp cho thị trường tín dụng duy trì các
hoạt động ở mức bình thường trong bối cảnh nền kinh tế bị đảo lộn do dịch Covid -19 hoành hành. lOMoAR cPSD| 59540283
Thành lập Quỹ tài trợ thương phiếu (CPFF)
Vào ngày 17/3/2020, FED đã thành lập Quỹ tài trợ thương phiếu, viết tắt là CPFF,
đây là một tổ chức mua nợ ngắn hạn được gọi là thương phiếu. Tổ chức này được tạo ra để
đảm bảo rằng các thị trường không bị mất tính thanh khoản.
Vào ngày 23/3/2020, FED đã mở rộng các loại thương phiếu mà họ đã mua để hạ
giá khoản nợ. Đây được coi là động thái giúp các doanh nghiệp bị ảnh hưởng do tính thanh
khoản trên thị trường đang cạn kiệt.
Quỹ cho vay Main Street
Vào ngày 23/3/2020, FED đã công bố một chương trình cho vay mang tên Main
Street nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid – 19.
Thông qua các chương trình cấp tín dụng mới, tín dụng mở rộng và tín dụng ưu tiên, FED
sẽ cung ứng các khoản vay có giá trị lên đến 600 tỷ USD trong vòng 5 năm nhằm giúp các
doanh nghiệp phục hồi sản xuất. Theo kế hoạch, FED sẽ mua 95% cổ phần của mỗi khoản
vay, với 5% do ngân hàng giữ. Để đủ điều kiện tham gia chương trình, các doanh nghiệp
cần phải đáp ứng hai điều đó chính là có 10.000 nhân viên trở xuống và doanh thu năm
2019 đạt trên 2,5 tỷ USD.
Quỹ thanh khoản thành phố (MLF)
Trái với thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 – 2009,
FED phản đối cho các tiểu bang và thành phố cho vay, thì trong cuộc khủng hoảng lần này,
FED đã thay đổi quan điểm và trực tiếp cung cấp các khoản vay tới các chính quyền địa
phương để giúp họ ứng phó với đại dịch.
Động thái này được thực hiện vào ngày 9/4/2020, khi FED công bố Quỹ thanh khoản
thành phố (MLF) và đã mua 500 tỷ USD trái phiếu ngắn hạn được phát hành bởi: -
50 tiểu bang và đặc khu Columbia -
Các hạt có ít nhất 500.000 người lOMoAR cPSD| 59540283 -
Các thành phố có ít nhất 250.000 người -
Các thực thể đa bang (được FED định nghĩa là một thực thể được tạo
ra bởi sựkết hợp giữa hai hoặc nhiều bang) -
Tối đa hai công ty phát hành trái phiếu doanh thu cho mỗi tiểu bang,
chẳng hạnnhư sân bay hoặc công ty cung cấp dịch vụ tiện ích.
3.1.3 Thay đổi quy định và cập nhật các chính sách
FED đã thực hiện các thay đổi về quy định để tăng thêm tính thanh khoản cho thị
trường. Ví dụ, FED đã thực hiện một số thay đổi kỹ thuật để giữ vốn ít hơn và cho vay
nhiều hơn, tạm thời loại bỏ các hạn chế tài sản được áp dụng cho Wells Fargo sau vụ bê
bối tài khoản giả mạo để Wells Fargo có thể cho vay nhiều hơn.
Vào ngày 16/12/2020, FED đã thông báo rằng chính sách nới lỏng định lượng của
họ vẫn sẽ tiếp tục cho đến khi đạt được tiến bộ đáng kể hơn nữa đối với mục tiêu lạm phát
và việc làm, FED dự kiến tiến trình này sẽ phải mất nhiều năm dựa trên những những đoán
mà họ đã nghiên cứu và đưa ra vào cùng ngày hôm đó.
Từ những biện pháp được kể trên, ta có thể thấy được FED đã và đang cố gắng duy
trì “dòng chảy” tín dụng tới các doanh nghiệp và hộ gia đình, hành động này góp phần làm
giảm các tác động tiêu cực xuất phát từ thảm họa toàn cầu, cũng như thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế trong tương lai.
3.2 Chính sách tài khóa
3.2.1 Đạo luật về viện trợ, cứu trợ và an ninh kinh tế (CARES) năm 2020
Vào cuối tháng 3 năm ngoái, các nhà lập pháp Hoa Kỳ đã đồng ý thông qua dự luật
kích thích trị giá 2 nghìn tỷ USD được gọi là Đạo luật CARES nhằm giảm thiểu các tác
động của suy thoái kinh tế do đại dịch Covid – 19 gây ra. Dưới đây là các biện pháp nhằm
kích thích nền kinh tế nằm trong Đạo luật này: -
Đề ra chương trình bảo vệ tiền lương: CARES đã sử dụng 349 tỷ USD để
hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ duy trì biên chế cũng như chi trả một số chi phí phát lOMoAR cPSD| 59540283
sinh trong thời gian khẩn cấp. Mục tiêu của biện pháp này là giữ cho người lao động được
trả lương và làm việc trong thời gian khẩn cấp. -
Mở rộng bảo hiểm thất nghiệp: biện pháp này giúp kéo dài thời gian nhận
trợ cấp thất nghiệp thường xuyên cho những người lao động bị ảnh hưởng từ mức bình
thường là 26 tuần lên đến 39 tuần. Ngoài ra, nó tài trợ khoản trợ cấp bồi thường thất nghiệp
đại dịch Liên bang mới là 600 USD mỗi tuần trên mức trợ cấp thất nghiệp thông thường
tiếp tục cho đến cuối tháng 7/2020. -
Ổn định kinh tế: để cung cấp thanh khoản cho các doanh nghiệp và ngành
công nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất, CARES đã phân bổ 500 tỷ USD cho các khoản
vay và bảo lãnh ổn định kinh tế. Con số này bao gồm 25 tỷ USD cho các hãng hàng không
chở khách, 4 tỷ USD cho các hãng vận chuyển hàng không và 17 tỷ USD cho các doanh
nghiệp được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia, tất cả đều do Bộ trưởng Bộ Tài
chính quản lý. 454 tỷ USD còn lại được phân bổ cho các chương trình và cơ sở cho vay do
FED điều hành để hỗ trợ các doanh nghiệp, tiểu bang và thành phố tự trị khác. -
Hỗ trợ cho doanh nghiệp: đối với các doanh nghiệp, CARES đã tạo ra một
Khoản tín dụng duy trì nhân viên (ERC) mới chống lại thuế việc làm, nhằm khuyến khích
họ giữ lại và trả lương cho nhân viên của mình trong bất kỳ quý nào khi hoạt động kinh
doanh bị đình chỉ một phần hoặc toàn bộ do dịch bệnh. Khoản tín dụng này không áp dụng
cho các doanh nghiệp đã nhận khoản vay gián đoạn cho doanh nghiệp nhỏ. Thuế trả lương
cho người sử dụng lao động đã được hoãn lại vào năm 2020. 50% tiền thuế trả lương cho
năm 2020 sẽ đến hạn vào năm 2021, 50% còn lại sẽ đến hạn vào năm 2022. Các khoản lỗ
trong hoạt động kinh doanh cho năm 2020 có thể được hoàn lại trong tối đa 5 năm. Thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với Alcohol được sử dụng để sản xuất nước rửa tay đã bị đình chỉ vào năm 2020.
3.2.1 Đạo luật về kế hoạch giải cứu người Mỹ năm 2021
Đạo luật về kế hoạch giải cứu Hoa Kỳ năm 2021 là một gói các biện pháp kích thích
và cứu trợ trị giá 1,9 nghìn tỷ USD được thiết kế để hỗ trợ Hoa Kỳ phục hồi sau những tác lOMoAR cPSD| 59540283
động khốc liệt đến nền kinh tế và sức khỏe của người dân trong đại dịch COVID-19. Với
mức giá gần 2 nghìn tỷ USD, đạo luật này đã trở thành một trong những đạo luật đắt giá
nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Đây là một phần trong kế hoạch xây dựng lại nước Mỹ của
Tổng thống Biden, bao gồm kế hoạch việc làm và kế hoạch gia đình. Dưới đây là những
biện pháp giúp kích thích nền kinh tế nằm trong Đạo luật này: -
Hỗ trợ tài chính: Chính phủ sẽ hỗ trợ tài chính cho những người đứng sau
các khoản thế chấp tiền thuê nhà hoặc các hóa đơn điện nước. Cụ thể như sau: 21,55 tỷ
USD hỗ trợ những người cho thuê nhà; 5 tỷ USD hỗ trợ trong phiếu mua nhà khẩn cấp;
100 triệu USD hỗ trợ người dân trong các bộ lạc cải thiện nhà ở; 100 triệu USD cho người
dân có nhà ở nông thôn; 5 tỷ USD để hỗ trợ những người vô gia cư. -
Trợ cấp thất nghiệp mở rộng: Chính phủ sẽ hỗ trợ 300 USD/tuần cho những
người thất nghiệp vì dịch Covid -19 từ ngày 11/3/2020 cho đến hết ngày 6/9/2021. Các
khoản phúc lợi của Liên bang cũng được mở rộng thông qua vào ngày 6/9/2021. Ngoài ra,
Đạo luật này cũng sẽ áp dụng miễn thuế cho các gia đình có thu nhập dưới 150.000 USD.
Những người đã khấu trừ thuế từ trợ cấp thất nghiệp vào năm 2020 sẽ có thể khôi phục khi
họ nộp thuế năm 2021 hoặc thông qua tờ khai thuế sửa đổi nếu họ đã nộp thuế. Đạo luật
cũng hỗ trợ 100% phí bảo hiểm y tế COBRA để những người lao động thất nghiệp có thể
tiếp tục tham gia các kế hoạch chăm sóc sức khỏe cho đến cuối tháng 9. -
Hỗ trợ cho doanh nghiệp: Đạo luật đã tạo ra một chương trình mới dành
cho các nhà hàng và quán bar mang tên “Quỹ phục hồi nhà hàng”, phân bổ 28,6 tỷ USD
nhằm hỗ trợ các nhà hàng, quán bar vượt qua đại dịch. Các khoản tài trợ có thể cung cấp
tới 10 triệu USD cho mỗi công ty với giới hạn là 5 triệu USD cho mỗi địa điểm thực tế. Số
tiền này sẽ được các doanh nghiệp sử dụng để trang trải tiền lương, tiền thuê nhà, điện
nước và các chi phí khác. IV. Kết luận
Chính phủ và ngân hàng trung ương Mỹ đã đưa ra các biện pháp kích thích phù hợp
với tình hình suy thoái. Nhờ vậy mà các biện pháp này đã phát huy tối đa tác dụng, giúp
cho nền kinh tế Mỹ từng bước phục hồi và phát triển trở lại. lOMoAR cPSD| 59540283
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đại học Hoa Sen (2016), Bài báo cáo về những nguyên tắc cơ bản để thực hiện gói kích cầu.
Tạp chí Tài chính (2021), Chính sách tài chính ứng phó với đại dịch Covid-19 của một số quốc gia.