Những nội dung cốt lõi - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Chủ nghĩa Mác - Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học củaC.Mác, Ph.Ănghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triểnnhững giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là thếgiới quan. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
I. NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Chủ nghĩa Mác - Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của
C.Mác, Ph.Ănghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển
những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là thế
giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn
cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng
Nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm ba bộ phận cấu thành là: Triết học Mác - Lênin,
Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
1. Triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin là khoa học khái quát những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy; đem lại cho con người thế giới quan và phương pháp luận
đúng đắn, khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin với ba nội
dung cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Với trọng tâm là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, qua đó xác định
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và vấn đề khả năng nhận thức của con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xác định vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau,
vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất, con người nhận thức 1
được thế giới và khả năng nhận thức của con người là vô hạn. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng giúp chúng ta xác định được trong xã hội đâu là vật chất, đâu là đời sống
tinh thần, đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, nên muốn cải tạo xã hội,
phát triển đất nước ta đi từ cái gốc của nó tức là đời sống vật chất.
Trong giai đoạn hiện nay, kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là
chủ nghĩa Mác chỉ biết đến vật chất, kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức, tư tưởng.
Thật ra hoàn toàn không phải như vậy, chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường không
biện chứng mới phủ nhận hoặc xem nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần, ý thức mà
thôi. Khi khẳng định vai trò của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối
với vật chất. Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là
quan hệ tác động qua lại. Không thấy điều đó sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường
và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động. Nói tới vai trò của ý thức là nói
tới vai trò của con người, bản thân của ý thức nó không trực tiếp thay đổi được gì
trong hiện thực cả. Theo Mác thì lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng
vật chất, cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó
cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện được các quy luật khách quan thì phải
nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và có phương pháp để
tổ chức hành động. Tư tưởng, ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động
đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất
định. Thế giới vật chất với những quy luật khách quan của nó- không phụ thuộc vào ý
thức của con người, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực
tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Chính
vì vậy Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không được lấy ý muốn chủ quan của
mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và
sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí.
1.2. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong
thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tạo nên tính khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời nó cũng là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Với những nội dung cơ bản là: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; Nguyên lý về
sự phát triển; các cặp phạm trù: cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, tất nhiên
và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức, khả năng và hiện thực.
Ba quy luật gồm Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại; Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; Quy
luật phủ định của phủ định. Và lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Hai nguyên lý, ba quy
luật, sáu cặp phạm trù và lý luận nhận thức giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm về sự phát triển, giúp chúng ta thấy được con
đường, cách thức và khuynh hướng của sự phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, giúp chúng ta nhận ra được những mặt quyết định trong các mối quan hệ, giúp chúng ta hiệu quả nhất.
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Một là, nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến, dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng,
đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế
giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ giữa: các mặt đối
lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng... Hai là, nguyên lý
về sự phát triển, là dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi
lên: từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Đồng thời, phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và
kế thừa, nâng cao những nhân tố tích cực từ sự vật cũ, hình thành sự vật mới.
Hai nguyên lý trên giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm toàn diện vào trong hoạt
động thực tiễn giúp chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa chính sách dàn đều và chính sách
có trọng điểm. Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt,
các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đảng ta cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư
duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết
phải đổi mới toàn diện thì đổi mới kinh tế là trọng tâm. Vận dụng quan điểm lịch sử
cụ thể vào việc xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta
phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra
đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực cả khách quan lẫn chủ quan. Chân lý sẽ
biến thành sai lầm nếu chúng ta đẩy nó ra khỏi giới hạn tồn tại của nó. Quan điểm phát
triển giúp ta hiểu được sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thực tế là quá
trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Vận dụng quan điểm này vào quá trình nhận thức đòi
hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một
hiện tượng phổ biến. Nếu thiếu quan điểm khoa học như vậy thì rất dễ bi quan, dao
động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội
cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở. Như vậy, 3 quan điểm
trên là những nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người. Nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận này không những là nhân tố cơ bản
để hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, mà còn là điều kiện
tiên quyết cho mọi hoạt động tự do sáng tạo và phát triển toàn diện con người.
Sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật: Phạm trù là những khái niệm
rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản
nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Một là, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất: Phép duy vật biện chứng cho rằng
cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ
hữu cơ với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông quan cái riêng mà
biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài
cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Cái riêng là
cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái
riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng
còn có cái đơn nhất. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá
trình phát triển của sự vật.
Hai là, nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác
động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra
một biến đổi nhất định nào đó. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân
cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định
nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được. Ngẫu nhiên là cái không do mối liên
hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố
bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể
xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc xuất hiện như thế khác.
Bốn là, nội dung và hình thức: Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những
yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển
của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
Năm là, bản chất và hiện tượng: Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối
liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng là biểu hiện ra ngoài của bản chất trong những điều kiện xác định.
Sáu là, khả năng và hiện thực: Khả năng là cái hiện chưa có, cái còn là tiền đề,
là mầm móng khi có điều kiện thích hợp thì nó sẽ xuất hiện trên thực tế. Hiện thực là
những gì đã tồn tại trên thực tế. Khả năng và hiện thực là hai mặt thống nhất của mọi quá trình vận động.
Các phạm trù trên phản ánh những thuộc tính bản chất nhất, những mối liên hệ
chung tất yếu và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới từ tự nhiên đến xã hội và tư duy
con người. Các phạm trù không phải là cái có sẵn ở bên ngoài hay bên trong ý thức
của con người, mà nó được hình thành trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Mỗi phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức trước đó và là mắc xích trung gian
của quá trình nhận thức tiếp theo của con người để ngày càng tiến gần đến chân lý.
Phạm trù được hình thành bằng phương pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa những
thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của sự vật. Các phạm trù của phép biện chứng
duy vật là một hệ thống mở, nó thường xuyên được bổ sung và làm phong phú thêm
bằng những tri thức khoa học và những phạm trù mới. Với tư cách là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, các phạm trù luôn vận động và phát triển tương ứng với
sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Chỉ có như vậy chúng mới phản ánh
đúng đắn thế giới khách quan và trở thành công cụ của nhận thức và thực tiễn.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại (quy luật lượng- chất): Đây là quy luật cơ bản và phổ biến về
phương thức chung của quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và trong
tư duy của con người. Chất và lượng là hai mặt thống nhất của mọi sự vật và hiện
tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và trong cả tư duy. Hai phương
diện đó đều tồn tại khách quan, trong đó chất tồn tại thông qua lượng và lượng là biểu
hiện của chất ra bên ngoài. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình
nhận thức chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này lại là chất nhưng
trong mối quan hệ khác lại đóng vai trò là lượng.
Quy luật này chỉ ra rằng bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng,
sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản
về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi
của lượng. Việc nắm vững nội dung quy luật này có vai trò to lớn trong việc xem xét
giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay
ở nước ta đặt ra. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của
đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất ở đó, và tạo điều kiện để thực hiện thành công
quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy
về chất của toàn bộ xã hội nói chung. Như bất kì một sự thay đổi về chất nào khác,
những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình
thay đổi về lượng thích hợp. Bất kì một sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có
thể dẫn tới sai lầm, tổn thất, cản trở sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn):
Quy luật này là “hạt ”
nhân của phép biện chứng. Là quy luật về nguồn gốc,
động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này,
nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là
mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật. Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ
thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng
vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
Quy luật này giúp chúng ta hiểu rằng mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan
và phổ biến, nó tồn tại ở tất cả các sự vật và hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng, nhưng ở các sự vật khác nhau, ở các giai đoạn phát triển
khác nhau của một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có
những mâu thuẫn khác nhau. Giải quyết mâu thuẫn là để phát triển, nhưng phải giải
quyết mâu thuẫn khi có đủ điều kiện chín muồi, không nên giải quyết mâu thuẫn một
cách vội vàng khi chưa có điều kiện, cũng không thể cho việc giải quyết mâu thuẫn
diễn ra một cách tự phát, phải cố gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu
thuẫn và điều kiện giải quyết. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
Quy luật phủ định của phủ định: Đây là quy luật về khuynh hướng cơ bản,
phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
ngay cả trong tư duy của con người. Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính
chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo hình thức
một con đường thẳng, mà là phát triển theo hình “xoáy ốc”. Quy luật phủ định của
phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái
phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của các sự vật. Phủ định biện
chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những
nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu
kỳ của sự phát triển. Ph.Ăngghen khẳng định: “Phủ định cái phủ định là gì? Là một
quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng
vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, lịch sử và của tư duy”.
Phủ định biện chứng là cái mới ra đời thay thế cái cũ, là quá trình tự thân phủ
định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến
bộ hơn so với cái bị phủ định. Phủ định biện chứng yêu cầu phải kế thừa có chọn lọc
và cải biến những yếu tố tích cực của cái cũ để phục vụ cho sự phát triển của cái mới.
Đồng thời phải chống lại chủ trương kế thừa máy móc và phủ định sạch trơn. Trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải coi trọng giá trị truyền
thống, vì nó là những giá trị vật chất và tinh thần được con người làm ra và bảo tồn từ
đời này sang đời khác, nó là nền tảng mà trên đó các thế hệ nối tiếp nhau ra đời, kế
thừa và phát triển. Sự ra đời và phát triển của cái mới không theo con đường thẳng
tắp, mà theo đường xoắn ốc. Vì vậy trong công việc chúng ta phải biết phát hiện cái
mới và tạo điều kiện để cái mới phát triển; thông thường cái mới ra đời gặp rất nhiều
khó khăn, luôn phải đấu tranh với cái cũ, nhưng theo quy luật phát triển nhất định cái
mới chân chính sẽ chiến thắng.
Lý luận nhận thức duy vật biện chứng: Phép biện chứng duy vật cho rằng
nhận thức không phải là hành động giản đơn, nhất thời, được thực hiện một lần là
xong mà nó là quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và
khách thể để nhận thức chân lý khách quan. Lý luận nhận thức biện chứng duy vật tập
trung vào những vấn đề quan trọng nhất như:
Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức: Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở,
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý kiểm tra tính chân lý
của quá trình nhận thức. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của
nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
Con đường biện chứng của nhận thức: Đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn, hay còn gọi là đi từ nhận thức cảm
tính đến nhận thức lý tính Nhận .
thức cảm tính và nhận thức lý tính tuy là 2 giai đoạn
của quá trình nhận thức, nhưng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm đối tượng, nội dung phản ánh. Giữa
chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của
nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện được nếu thiếu những tri
thức và tài liệu cần thiết do nhận thức cảm tính đưa lại. Như vậy, từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn là con đường biện
chứng của nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát,
vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Nhưng kết thúc
vòng khâu này thì lại là điểm bắt đầu của một vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá
trình liên tục, vô tận của sự nhận thức chân lý khách quan.
Nhận thức khoa học và các trình độ nhận thức khoa học; vấn đề chân lý; sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu quá trình nhận thức của con người
qua quan điểm của phép biện chứng duy vật giúp ta có những bước làm cụ thể để cải tạo
hiện thực theo hướng tiến bộ, phát triển, các bước đó cụ thể là: Tổ chức hoạt động
thực tiễn là khâu quyết định biến lý luận thành hiện thực, việc này yêu cầu phải tập hợp
lực lượng thành khối thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động; có tri thức khoa học
về đối tượng cải tạo; có kế hoạch thực hiện đồng bộ và chi tiết; phương án điều chỉnh
hoạt động; lựa chọn phương tiện và phương pháp tác động thực tiễn; triển khai thực hiện
kế hoạch; nắm bắt thông tin, phát hiện và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn nảy
sinh trong thực tiễn; đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, khái quát lý luận đưa ra
chương trình hoạt động mới. Như vậy việc tổ chức thực tiễn yêu cầu không chỉ tính đến
hiệu quả kinh tế mà còn phải đảm bảo hiệu quả của những mặt khác như: Chính trị,
an ninh quốc phòng, luật pháp, bảo vệ môi trường, sức khỏe, đạo đức, văn hóa...
1.3. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Với những nội dung cơ bản là: Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản
xuất; Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; Biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội và ý thức xã hội;
Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội; vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã
hội; quan niệm về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất: Sản xuất vật chất là
quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các
dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người. Phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách thức mà
con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch
sử nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai
trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội. Là hoạt động
nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó chính
là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo
thành năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng tự nhiên theo nhu cầu của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và
tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm
sản xuất ra. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố cơ bản, tất yếu của
quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó. Lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là
yêu cầu tất yếu và phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách
quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động
trở lại lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của
lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là
hình thái kinh tế- xã hội, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng dùng
để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Kiến trúc
thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với
các thiết chế chính trị- xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng kinh
tế nhất định. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng
tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và tác động trở
lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể
thông qua nhiều phương thức. Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong
kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể.
Trong đó nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội: Tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh
hoạt vật chất và các điều kiện vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố
chính là: Phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số
và mật độ dân số... trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Ý
thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và
phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi (nhất là phương thức sản
xuất) thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học... tất yếu cũng sẽ biến đổi theo. Song, ý thức xã hội cũng có tính độc lập
tương đối của nó vì: Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội; ý thức xã hội
có thể vượt trước tồn tại xã hội; ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của ý
thức xã hội; sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển
của chúng; ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.
Qua việc thấy được vai trò quyết định của sản xuất vật chất, của lực lượng sản
xuất, của cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội... giúp Đảng ta vận dụng để hoạch định
đường lối, chủ trương một cách khách quan, khoa học, phù hợp với mọi sự vận động và
phát triển trong xã hội... để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế như hiện nay.
Hạt nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử là lý luận về hình thái kinh tế- xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử đã không dừng lại ở việc lý giải nguyên lý chung về mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mà còn đi sâu phân tích kết cấu của xã hội,
xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố cấu thành xã hội, đồng thời xem xét mối quan hệ
biện chứng giữa các yếu tố đó hình thành học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Có thể
khẳng định rằng, trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế- xã hội
là một trong những nền tảng lý luận quan trọng của lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Hình thái kinh tế- xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử "dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến
trúc thượng t`ng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy"1.Học
thuyết về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác ra đời là một cuộc cách mạng của khoa học
xã hội nói chung và Triết học nói riêng. Khác với tất cả các lý luận duy tâm, thần bí hay siêu hình
1 Một số vấn đề về Chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, 1996, tr.18.
trước đó, học thuyết đó đã chỉ ra rằng, động lực của lịch sử không phải là một thứ tinh
thần thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn của con người, mà hoạt động đó lại xuất
phát từ cái sự thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc,
nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi
có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học,... C.Mác đã làm nổi bật những quan hệ
xã hội vật chất, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ cơ bản, ban đầu và
quyết định đối với tất cả mọi quan hệ khác, đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu
chuẩn hoàn toàn khách quan để thấy được các quy luật xã hội.
C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một
quá trình lịch sử- tự nhiên”. V.I.Lênin giải thích thêm: “Chỉ có đem quy những quan
hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình
độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên.
Và dĩ nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội
được”2. Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học của nhân loại, vấn đề không chỉ nhận thức thế giới mà còn
cải tạo thế giới: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”3.
Toàn bộ những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã
hội đã trở thành cơ sở lý thuyết và phương pháp luận khoa học của sự nghiệp đổi mới
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, ta cần phải xây dựng từ
đầu lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Để có một hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, trong thời kì đổi mới, hội nhập
quốc tế, Đảng ta đã đưa ra và thực hiện những quyết sách quan trọng như: Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta có thể khẳng
định rằng khi công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với việc ứng dụng rộng rãi
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, khi khoa học công nghệ cùng với giáo
dục- đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động lực của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và nguồn lực con người là yếu tố quyết định mọi thắng lợi.
Tóm lại, Triết học Mác- Lênin với 3 nội dung cốt lõi là chủ nghĩa duy vật biện
chứng; phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử là thế giới quan và
phương pháp luận được gắn kết và thống nhất hữu cơ với nhau là do triết học
2 V.I.Lênin toàn tập, tập 1, 1980, Nxb. Macxcova, tr.163.
3 Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.12.
Mác-Lênin hoàn toàn có khả năng nhận thức đúng đắn cả thế giới tự nhiên, xã hội và
tư duy con người. Triết học Mác- Lênin đã trang bị thế quan khoa học, nhân sinh quan
cách mạng và phương pháp luận khoa học để Đảng ta xây dựng chủ trương, đường
lối, chương trình, kế hoạch hành động và biến chúng thành hiện thực, thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Những bài học quý giá của thực tiễn cách mạng Việt Nam gần
một thế kỷ qua với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, của 2 cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, những thành tựu của 35 năm đổi
mới đất nước vừa qua là những bằng chứng sinh động thể hiện rõ vai trò, sức mạnh
của vận dụng sáng tạo Triết học Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Kinh tế chính trị Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu quan hệ giữa con người với
con người trong quá trình sản xuất của cải vật chất của xã hội. Nghiên cứu phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa; những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản
tới chỗ diệt vong. Nghiên cứu những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, xây dựng một xã hội không có áp bức, bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.
Kinh tế chính trị học Mác- Lênin gồm 2 nội dung chủ yếu: (1)Lý luận về phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa; (2)Dự báo về một số đặc điểm của nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa.
2.1. Lý luận về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản, C.Mác đã xây dựng lý luận giá trị lao động
thật sự khoa học. Đặc biệt, với phát hiện mới về tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa, C.Mác đã luận giải một cách khoa học về nguồn gốc của giá trị sử dụng và
giá trị hàng hóa. C.Mác phân tích nguồn gốc, bản chất của tiền tệ, luận giải quy luật
lưu thông tiền tệ, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng tiền cần thiết trong
lưu thông. Nghiên cứu về kinh tế hàng hóa, C.Mác chỉ ra bản chất sản xuất tư bản chủ
nghĩa là tạo ra giá trị thặng dư. Trên cơ sở xây dựng lý luận hàng hóa sức lao động,
C.Mác chỉ ra nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư là do sức lao động của người công
nhân làm thuê sáng tạo ra; luận giải khoa học bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Để làm rõ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác còn
phân tích trình độ và quy mô bóc lột của tư bản; chỉ ra các phương pháp làm tăng giá trị
thặng dư và quá trình tích lũy tư bản làm cho tư bản không ngừng lớn lên.
Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, Ph.Ăngghen coi học thuyết giá trị
thặng dư là phát minh vĩ đại thứ hai của C.Mác: “Khong phải chỉ có tifm ra quy luật
phát triển của lịch sử loài người, Mác cgng tìm ra quy luật vận động riêng của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức
đó đh ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh
sáng đã hiện ra trong khi tất cả các cong trifnh nghiên cứu trước đây của các nhà kinh
tế học tư sản cgng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong
bóng tối”4. Cho đến nay, các học giả tư sản vẫn không thể bác bỏ được mà còn phải
thừa nhận học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Học thuyết giá trị thặng dư của Mác
vẫn là học thuyết kinh tế quan trọng khi nguyên cứu về chủ nghĩa tư bản. Nó có một ý
nghĩa thời đại sâu sắc mà chúng ta cần biết khai thác, vận dụng để xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản, C.Mác phân tích về quá trình tuần
hoàn và chu chuyển của tư bản; làm rõ tư bản cố định, tư bản lưu động và chỉ ra
phương thức chu chuyển giá trị của chúng; phân tích sự hao mòn của tư bản cố định.
Ngoài ra, C.Mác còn nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội; sự trao đổi giữa hai khu
vực của nền sản xuất xã hội và các điều kiện thực hiện sản phẩm trong tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội. Đây là cơ sở khoa học cho nhận thức
về tính cân đối trong phát triển kinh tế và các quy luật của tái sản xuất mở rộng trên
phạm vi toàn xã hội trong nền kinh tế thị trường.
Nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác chỉ ra các hình
thái cụ thể trong quá trình vận động của tư bản. Đó là sự chuyển hóa của giá trị thặng
dư và tỷ suất giá trị thặng dư thành lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận; sự vận động
chuyển hóa của quy luật giá trị thành giá cả sản xuất và quy luật giá trị thặng dư thành
quy luật lợi nhuận bình quân. Phân tích khoa học sự phân phối giá trị thặng dư cho
các nhà tư bản kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau dưới hình thức lợi nhuận
công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay và địa tô tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, lý luận kinh tế chính trị Mác- Lênin đã vạch rõ bản chất của chủ nghĩa
tư bản, đó là quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê bằng hình thức bóc
lột giá trị thặng dư. Đồng thời, C.Mác đã vạch rõ quá trình vận động của tư bản chủ
nghĩa, đó là quá trình phát sinh, phát triển và tất yếu diệt vong của nó. C.Mác khẳng
định: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khong phải là phương thức tồn tại
vĩnh viễn, mà nó chỉ là một giai đoạn lịch sử đặc biệt và tất yếu được thay thế bằng
một xã hội mới cao hơn, tốt đẹp hơn, đó là chủ nghĩa cộng sản.
2.2. Dự báo về một số đặc điểm của nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa
C.Mác đã chỉ ra nguyên lý về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội; đồng thời, C.Mác dự báo về sự phân kỳ trong sự phát triển của hình thái kinh
tế cộng sản chủ nghĩa và đặc điểm của các giai đoạn phát triển đó. C.Mác dự báo về
vấn đề phân phối trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, đó là “làm theo
năng lực, hưởng theo lao động”. Khi chuyển sang giai đoạn cao của xã hội cộng sản,
Mác chỉ rõ: cùng với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội
được phát triển, trình độ văn hóa được nâng cao… thì tất yếu phải chuyển sang
4 Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.500
nguyên tắc phân phối mới là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu c`u”. Đó là lúc xã
hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối
lợi ích vật chất để kích thích lao động.
2.3. V.I.Lênin đã có những cống hiến vô cùng to lớn trong việc bảo vệ và
phát triển kinh tế chính trị học mác-xít
Trên cơ sở thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã bổ sung và
phát triển về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội.
Đặc biệt, trong lý luận tái sản xuất tư bản xã hội, khi tính tới ảnh hưởng của tiến bộ
khoa học- kỹ thuật làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản không ngừng tăng lên trong quá
trình tái sản xuất mở rộng, V.I.Lênin đã phát hiện ra quy luật ưu tiên phát triển sản
xuất tư liệu sản xuất- quy luật kinh tế quan trọng của nền kinh tế hiện đại.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn
mới, V.I.Lênin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa tư bản độc quyền.
V.I.Lênin cho rằng, chủ nghĩa tư bản độc quyền là sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh, là nấc thang phát triển cao của chủ nghĩa tư bản và chỉ rõ 5 đặc điểm
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đó là: (1)Sự tích tụ sản xuất và các tổ chức độc
quyền; (2)Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tư bản tài chính; (3)Xuất khẩu tư bản; (4)Sự
phân chia thế giới về kinh tế giữa các liên minh tư bản độc quyền; (5)Sự phân chia thế
giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc. Những đặc điểm này vạch rõ bản chất
của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới.
Đồng thời, V.I.Lênin chỉ ra bản chất, nguyên nhân hình thành và hình thức biểu
hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cùng với xu hướng vận động của nó.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, là sự kết hợp hay dung hợp sức mạnh
của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ
chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và
can thiệp vào quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu
nguy cho chủ nghĩa tư bản. Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào quá trình
kinh tế. Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là tổng thể những thể chế và
thiết chế kinh tế của nhà nước tư sản. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống
chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tư sản độc quyền. Các
công cụ chủ yếu nhà nước tư sản dùng để điều tiết nền kinh tế và thực hiện các chính
sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước...
Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước:
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài,
là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính
trên phạm vi toàn thế giới. Chủ thể phân chia thị trường thế giới không chỉ có các tổ
chức độc quyền quốc gia mà bên cạnh đó còn có các nhà nước tư sản phát triển và
đang phát triển. Kết quả của việc phân chia kinh tế thế giới hình thành các liên minh
và các khối liên kết khu vực.
Học thuyết đã chỉ ra sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang
chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước; vai trò và giới hạn lịch sử của
chủ nghĩa tư bản. Từ sự phân tích những đặc trưng kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư
bản độc quyền, V.I.Lênin đã rút ra những kết luận về vị trí lịch sử của chủ nghĩa tư
bản trong giai đoạn phát triển mới của nó: giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đó là giai
đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, đêm trước cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó
có nghĩa là, chủ nghĩa đế quốc nhất định sẽ bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội, nhưng
quá trình thay thế đó là một quá trình đấu tranh quyết liệt, quanh co khúc khuỷu,
có cao trào và có thoái trào chứ không phải là một quá trình trơn tru, thẳng tắp.
Tóm lại, Kinh tế chính trị Mác- Lênin là khoa học rất quan trọng trong đời sống
xã hội, ngoài việc chỉ ra bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nó giúp chúng ta thấy
được bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, nắm được các quy luật kinh tế
chi phối sự vận động và phát triển kinh tế; phát triển lý luận kinh tế và vận dụng lý
luận đó vào thực tế, hành động theo quy luật, tránh bệnh chủ quan, giáo điều, duy ý
chí. Kinh tế chính trị cung cấp các luận cứ khoa học làm cơ sở cho sự hình thành
đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội và các chính sách, biện pháp kinh tế cụ
thể phù hợp với các yêu cầu của các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của đất
nước ở từng thời kì nhất định. Là công cụ cần thiết không chỉ cho các nhà quản lý vĩ
mô mà còn rất cần cho quản lý sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp của mọi tầng lớp
dân cư, ở tất cả các thành phần kinh tế. Kinh tế chính trị là phương tiện giúp ta hiểu rõ
tính đúng đắn, khoa học, sáng tạo về chủ trương, đường lối, chính sách kinh tế cụ thể
của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kì phát triển đất nước.
3. Chủ nghĩa xã hội khoa học
Nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học là nghiên cứu: Sứ mệnh lịch sử
của giai nhân cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; Những vấn đề chính trị-
xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; Chủ nghĩa xã hội
hiện thực và triển vọng.
3.1. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội là một xã hội có cơ sở vật chất-
kỹ thuật là nền đại công nghiệp; xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất; tạo ra được cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới; thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc căn bản nhất;
nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, có tính dân tộc