Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa xã hội - Kinh tế Chính trị | Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng: Giai đoạn đầu đổi mới năm (1986 - 1990) , mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% . Giai đoạn năm (1991-1995), nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5) , về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20% , Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
5 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa xã hội - Kinh tế Chính trị | Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng: Giai đoạn đầu đổi mới năm (1986 - 1990) , mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% . Giai đoạn năm (1991-1995), nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5) , về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20% , Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

81 41 lượt tải Tải xuống
NHỮNG THÀNH TỰU HẠN CHẾ
CỦA CNXH
HIỆN THỰC VIỆT NAM TỪ KHI ĐỔI MỚI (1986)
ĐẾN NAY
I- THÀNH TỰU
1) Quy nền kinh tế tăng nhanh
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng:
- Giai đoạn đầu đổi mới năm (1986 - 1990) , mức tăng trưởng GDP bình quân hằng
năm chỉ đạt 4,4% .
- Giai đoạn năm (1991-1995), nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm
trong nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch 5,5 6,5) , vsản xuất công nghiệp là 13,3%, sản
xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20% , cấu kinh tế bước chuyển đổi: tỉ
trọng công nghiệp xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm 1995 ; dịch
vụ từ 39,6% lên 41,9%.
- Các giai đoạn sau đó đều mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt
mức bình quân 6,8%. Mặc năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh
Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao
nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân c về vật
chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159
USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được
cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu cho phát triển. Tính riêng năm
2019, vốn đầu phát triển toàn hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ
đồng; tổng vốn đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10
năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin
cậy cho các nhà đầu với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình
thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền cả
nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu phát
triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến
công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều bước phát triển
mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu
nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như phê,
gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì mức cao. Các mặt hàng
xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn.
2) Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - hội
- Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài
hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ công bằng hội, bảo vệ tài
nguyên môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ công bằng hội
ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc
làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu -
nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói
giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ
lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm
2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
- Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển,sở vật chất được nâng cao, chất lượng
đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông
của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt
99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành
chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
- Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu
Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018.
Lần đầu tiên, Việt Nam 4 s giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt
nhất thế giới. Việt Nam đang điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong
những năm gần đây.
- Các sở y tế được củng cố phát triển. Nhờ đó, người dân d dàng tiếp cận với
các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu
tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… , kiểm soát được nhiều dịch
bệnh nguy hiểm, trong đó Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắc-xin phòng
bệnh, mới đây nhất là vắc-xin phòng Covid-19...
- Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh hội luôn được Đảng Nhà nước quan
tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh hội ngày càng mở rộng, mức
hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Ngoài ra, các phong trào
“Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ nguồn” do các cp các
đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng
tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp
đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
3) Hội nhập quốc tế, vị thế ngày càng nâng cao.
- 35 năm đổi mới cũng một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hđối tác chiến
lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong
nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt
Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Việt Nam cũng thành viên chủ động, tích cực trách nhiệm cao trong các tổ
chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp
quốc... Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các quan quan trọng của Liên
hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của
UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - hội của Liên hợp quốc (ECOSOC)
nhiệm kỳ 2016 - 2018.
- Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN Chủ tịch AIPA. Trong
bối cảnh cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 những thiệt hại nặng nề do thiên tai
bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- Những thành tựu từ khi đổi mới đến nay thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục
khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và
ý nghĩa lịch sử kết tinh sứcng tạo của Đảng nhân dân ta, khẳng định con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam xu thế phát triển của
thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng
kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật
sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ
thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối
ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng
cao hơn đáp ứng mong mỏi sánh vai cường quốc năm châu của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong
những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có
đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được
nhân dân tích cực ủng hộ và thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng
đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng, mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ trương,
quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong nước. Ðó
là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía
sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu
quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.
Sau 35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, trước hết đổi mới
duy để khắc phục được nhận thức lệch lạc, nhất bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí,
thế vai trò lãnh đạo của Ðảng càng được tăng cường, định hướng XHCN được giữ vững,
hình thành quan niệm mới về mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất nước chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức
sản xuất, củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng một
nước thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - hội được
bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng
sâu rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, khi phải nhập lương thực, nay đã
thành nước xuất khẩu gạo đứng tốp đầu thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển đổi
thay từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như
hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống, làm việc của mọi gia đình mọi người dân
lại nhiều nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Ðổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa phát
huy những thành quả tốt đẹp đạt được trước đây, vừa cách nghĩ khác trước, nghe khác
trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển mới, vì thế, đã đem
đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm những bước dài trên con
đường đã chọn.
II -HẠN CH
Songn cạnh những thành tựu, chúng ta còn hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể như:
Công c tổng kết thực tiễn, nghiên cứu luận còn bất cập, chưa làm một số vấn đề đặt
ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp sở khoa học hoạch định
đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. luận về CNXH con đường
đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Kinh tế
phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cu thực tế nguồn lực được
huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao. Chất lượng,
hiệu quả, năng suất lao động hội năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát
triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc
nảy sinh, nhất các vấn đề hội quản hội chưa được nhận thức đầy đủ giải
quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một số
mặt, lĩnh vực, còn một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả
của công cuộc đổi mới…
Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực uy tín ngang tầm nhiệm vụ ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng
Ðảng trong sạch, vững mạnh, nh đạo thành công sự nghiệp đổi mới; ng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - hội cả hệ
thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của
Ðảng nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. thế, nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng Ðảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh nhiệm vụ then chốt. Ðảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự
đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đồng thời thường xuyên kiện toàn tổ
chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc các đoàn thể trong tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
| 1/5

Preview text:

NHỮNG THÀNH TỰU HẠN CHẾ CỦA CNXH HIỆN THỰC VIỆT NAM TỪ KHI ĐỔI MỚI (1986) ĐẾN NAY

  1. THÀNH TỰU
    1. Quy nền kinh tế tăng nhanh

Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng:

      • Giai đoạn đầu đổi mới năm (1986 - 1990) , mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% .
      • Giai đoạn năm (1991-1995), nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5) , về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20% , Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi: tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm 1995 ; dịch vụ từ 39,6% lên 41,9%.
      • Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.

Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.

Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.

Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn.

    1. Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - hội
      • Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
      • Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
      • Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
      • Các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… , kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắc-xin phòng bệnh, mới đây nhất là vắc-xin phòng Covid-19...
      • Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
    2. Hội nhập quốc tế, vị thế ngày càng nâng cao.
      • 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong

nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.

Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018.

      • Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
      • Những thành tựu từ khi đổi mới đến nay thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao hơn đáp ứng mong mỏi sánh vai cường quốc năm châu của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân tích cực ủng hộ và thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong nước. Ðó

là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.

Sau 35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, mà trước hết là đổi mới tư duy để khắc phục được nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của Ðảng càng được tăng cường, định hướng XHCN được giữ vững, hình thành quan niệm mới về mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, kinh tế thị trường theo định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương thực, nay đã thành nước xuất khẩu gạo đứng ở tốp đầu thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống, làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có nhiều nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Ðổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đạt được trước đây, vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển mới, vì thế, đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm những bước dài trên con đường đã chọn.

II -HẠN CHẾ

Song bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể như: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, lĩnh vực, còn một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới…

Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới; nâng cao hiệu lực,

hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Vì thế, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Ðảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đồng thời thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.