



















Preview text:
lOMoARcPSD| 61815267
NỘI DUNG LỊCH SỬ MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ ### I. Mở đầu
1. **Giới thiệu chung về thời kỳ Lê sơ**
- Thời kỳ Lê sơ kéo dài từ năm 1428 đến năm 1527.
Nhà Lê Sơ là giai đoạn đầu của triều đại Hậu Lê, được thành lập sau khi Lê Lợi đánh bại nhà Minh trong
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đổi tên Giao Chỉ, thời nhà Minh cai trị, trở lại Đại Việt, quốc hiệu từ thời
Lý Thánh Tông. Thời Lê Sơ có 10 vị hoàng đế thuộc 6 thế hệ, là thời kỳ đỉnh cao của chế độ phong kiến
Việt Nam. Đời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và đặc biệt là Lê Thái Tông, xã hội nhanh chóng ổn định và phát triển
thịnh vượng sau chiến tranh.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_L%C3%AA_s%C6%A1#:~:text=Nh%C3%A0%20L%C3%AA %
20s%C6%A1%20(ch%E1%BB%AF%20N%C3%B4m,nh%C6%B0%20suy%20tho%C3%A1i%20c %E1%BB %A7a%20n%C3%B3.
2. **Ý nghĩa của mỹ thuật thời Lê sơ**
- Phản ánh văn hóa, xã hội và tư tưởng đương thời.
Trong 20 năm đầu thế kỉ XV, quân Minh tàn phá nhiều công trình kiến trúc và điêu khắc của
dân tộc Việt, nhằm huỷ diệt văn hoá và âm mưu đồng hoá dân tộc. Lê Lợi, khi lên ngôi vua,
triển khai nhiều chính sách kinh tế như khai khẩn ruộng hoang, thu hút người đi phiêu bạt về
làm ăn, và tăng cường hệ thống đê điều. Điều này giúp phục hồi kinh tế nông nghiệp và cải
thiện đời sống nhân dân. Lê Thánh Tông tiếp tục phát triển chế độ quân đội và ban Bộ luật
Hồng Đức, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và dân tự do.
Chế độ phong kiến thời Lê thịnh vượng, cơ sở kinh tế chủ yếu là địa chủ và nhà Lê củng cố
chế độ phân cấp và truyền bá Nho giáo. Mỹ thuật thời Lê Sơ phát triển mạnh hơn mỹ thuật
phật giáo và dân gian, phản ánh ý thức phong kiến và độc lập dân tộc. Tuy bị ảnh hưởng văn lOMoARcPSD| 61815267
hoá phương bắc, sau chiến thắng chống quân Minh, ý thức độc lập dân tộc được khẳng định,
thể hiện trong nghệ thuật và kiến trúc.
- Đóng góp vào di sản văn hóa dân tộc.
Chế độ phong kiến thời Lê thịnh vượng, cơ sở kinh tế chủ yếu là địa chủ và nhà Lê củng cố
chế độ phân cấp và truyền bá Nho giáo. Mỹ thuật thời Lê Sơ phát triển mạnh hơn mỹ thuật
phật giáo và dân gian, phản ánh ý thức phong kiến và độc lập dân tộc. Tuy bị ảnh hưởng văn
hoá phương bắc, sau chiến thắng chống quân Minh, ý thức độc lập dân tộc được khẳng định,
thể hiện trong nghệ thuật và kiến trúc.
(Gửi cập sau do đang chỉnh lại nội dung)
### II. Bối cảnh lịch sử và xã hội
1. **Tình hình chính trị và xã hội**- Ổn định chính trị và
phát triển kinh tế.
https://truyenhinhthanhhoa.vn/nha-le-so-voi-nhung-dau-tich-vang-son-
trendat-thanh-hoa-180220916163349006.htm
2. **Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo**
- Sự thịnh hành của Nho giáo dưới triều đại nhà Lê.
Từ đời Hậu Lê (1428-1527), Việt Nam bắt đầu thời kỳ độc tôn của Nho giáo.
Thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI là thời kỳ thịnh vượng của chế độ phong kiến
trung ương tập quyền, đồng thời cũng là thời kỳ thịnh vượng nhất của Nho
giáo ở Việt Nam, đặc biệt là vào đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Sự thịnh
vượng của Nho giáo đã thúc đẩy sự phát triển của sử học và văn học Việt Nam.
Mặc dù thời kỳ thịnh vượng nhất của Nho giáo đã qua, nhưng trong thời kỳ
cuối nhà Lê, Nho giáo vẫn được tôn sùng.
- Ảnh hưởng đến các lĩnh vực nghệ thuật.
Vào năm 1460, sau khi lên ngôi thì Lê Thánh Tông đã ban hành sắc lệnh cấm tất
cả các người theo Phật giáo và Đạo giáo không được có quan hệ với các người
trong tầng lớp quan lại. Ông bài xích và gạt bỏ các nhà sư và đạo sĩ ra khỏi bộ
máy chính trị nhà nước và ra lệnh cấm xây thêm các chùa và đạo quán mới. Đưa
ra điều lệ quy định cứ ba năm lại tổ chức một khoa thi, và thể chế hóa chế độ thi
cử. Lê Thánh Tông đã xây dựng các quy định của các kỳ thi hương, cải cách các
cuộc thi hội và tự mình đứng ra tổ chức các cuộc thi đình. Vào thời kỳ đấu nhà
Lê, chế độ khoa cử phát triển rất mạnh, số người dự thi tăng nhanh. Riêng chỉ
trong 38 năm thời Lê Thánh Tông, đã có 12 kỳ thi và tuyển chọn được lOMoARcPSD| 61815267
511 tiến sĩ. Hai con số này đều lớn hơn tổng số của cả hai đời nhà Lý và nhà Trần
cộng lại. Phan Huy Chú đã nhận xét rằng: "Sự thịnh vượng nhất của khoa cử
trong các đời, bát đầu từ Hồng Đức (tức là Lê Thánh Tông)".
Nguồn: https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/20138/1/028.pdf
### III. Những đặc điểm nổi bật của mỹ thuật thời Lê sơ 1. **Kiến trúc**
- Các công trình tiêu biểu như chùa, đền, đình làng.
Những công trình tiêu biểu thời Lê sơ là điện Kính Thiên, điện Cần Chánh, điện
Vạn Thọ tại Đông Đô (Hà Nội) và Lam Kinh tại Tây Đô (Thanh Hóa).
Lam Kinh: Xây dựng từ năm 1433 sau khi Lê Thái Tổ qua đời, gồm các cung điện
và lăng mộ các vua Lê. Hiện chỉ còn lại một ít phế tích như tượng ngựa đá, voi
đá, nghê đá, hổ đá và các bia Vĩnh Lăng, Hựu Lăng, Chiêu Lăng.
Điện Kính Thiên: Xây dựng năm 1428 dưới đời vua Lê Thái Tổ, hoàn thiện vào
đời Lê Thánh Tông. Đây là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng, đón tiếp sứ giả
và thiết triều. Năm 1816, vua Gia Long xây dựng lại, trở thành hành cung cho
vua Nguyễn. Năm 1886, điện bị Pháp phá hủy, hiện chỉ còn di tích thềm bậc và
nền điện trong khu Thành cổ Hà Nội. Hiện nay có nhiều ý kiến về việc phục dựng điện Kính Thiên.
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_K%C3%ADnh_Thi %C3%AAn
- Phong cách kiến trúc Lê sơ: sự kết hợp giữa yếu tố dân gian và yếu tố Nho giáo.
Nhân vật tạo lập Lam Kinh là Lê Thái Tổ. Sau 10 năm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lOMoARcPSD| 61815267
Lam Sơn (1418 - 1428) đánh đuổi giặc nhà Minh và lên ngôi hoàng đế đóng đô ở
Đông Kinh (Thăng Long), vua Thái Tổ lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Đồng thời
nhà vua cho xây dựng ở quê hương đất tổ Lam Sơn một kinh thành gọi là Lam
Kinh hay còn gọi là Tây Kinh.
Thành điện Lam Kinh phía bắc dựa vào núi Dầu, mặt Nam nhìn ra sông Chu - có
núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi
Hàm Rồng chắn phía tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh
được bố trí xây dựng theo trục Nam - Bắc trên một khoảng đồi gò có hình dáng
chữ Vương (王). Bốn mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m, tường
thành phía Bắc hình cánh cung có bán kính 164m, thành dày 1m. Qua khảo cổ
và dấu tích còn lại cho thấy xưa kia ở đây đã từng tồn tại Ngọ môn, sân rồng,
chính điện, khu Thái miếu... nguy nga tráng lệ.
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_K%C3%ADnh_Thi %C3%AAn
Phong cách kiến trúc lê sơ: sự kết hợp giữa yếu tố dân gian và yếu tố nho giáo.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê sơ có đặc điểm chung là quy mô vừa
phải, vừa mang tính khuôn thước, mẫu mực theo tinh thần Nho giáo, vừa mang
nét giản dị, đậm tính dân gian. 2. **Điêu khắc** lOMoARcPSD| 61815267
- Tượng phật, tượng thần và các tác phẩm điêu khắc khác.
- Chất liệu: đá, gỗ, đồng.
- Đặc điểm nghệ thuật điêu khắc: tỉ mỉ, tinh tế và có tính biểu tượng cao.
Bao gồm: điêu khắc lăng mộ, văn bia, thành bậc bằng đá,...
Đầu thời Lê sơ, các pho tượng ở lăng mộ được sắp xếp với bố cục và kích thước
đều nhau phỏng theo hình mẫu của bia Vĩnh Lăng ở Lam Kinh. Từ thời vua Lê
Thánh Tông, phong cách điêu khắc có sự thay đổi theo chiều hướng hoa mĩ, cầu kì hơn.
Văn bia trong lăng mộ phản ánh rõ phong cách điêu khắc thời kì này. Trong đó,
bia Vĩnh Lăng là một trong những tấm bia mộ tiêu biểu còn nguyên vẹn đến ngày nay.
Nghệ thuật chạm khắc, trang trí thời Lê sơ rất tinh xảo. Các thành bậc bằng đá,
bia đá đều được chạm khắc các cảnh sinh hoạt như: đấu vật, đánh cờ, chèo
thuyền,... Trong đó, hình rồng trên bia đá có vẻ đẹp sống động, tự nhiên, khỏe
mạnh và dữ tợn hơn so với rồng thời Lý, thời Trần; tượng trưng cho quyền lực chuyên chế của vua.
Trong kiến trúc, so với thời Lý – Trần, loại hình kiến trúc tôn giáo (nhất là Phật
giáo) dưới thời Lê sơ kém phát triển, chủ yếu chỉ dừng lại ở mức tu sửa các công
trình đã xây dựng trước đó; rất hạn chế việc xây dựng các công trình mới.
https://vietjack.com/chuyen-de-lich-su-11/cau-hoi-trang-12-chuyen-de- lichsu-11-
kntt.jsp#:~:text=-%20Ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt %20ki%E
1%BA%BFn%20tr%C3%BAc%20v%C3%A0%20%C4%91i
%C3%AAu%20kh%E1%BA%AFc,mang%20n%C3%A9t%20gi%E1%BA
%A3n%20d%E1%BB%8B%2C%20%C4%91%E1%BA%ADm%20t %C3 %ADnh%20d%C3%A2n%20gian 3. **Hội họa** 4. **Gốm sứ**
Nguồn:https://cdspnart.blogspot.com/2008/09/my-thut-l-s.html
- Sự phát triển của nghề gốm, các trung tâm sản xuất gốm nổi tiếng. lOMoARcPSD| 61815267
Từ cuối thế kỷ thứ 14, gốm hoa nâu và gốm men ngọc đã mất dần vị trí độc tôn
và bắt đầu nhường chỗ cho gốm hoa lam với chất liệu và phong cách nghệ thuật
mới. Có thể nói, gốm hoa lam là mốc thứ ba trên tiến trình lịch sử phát triển của
gốm cổ Việt Nam cả về phương diện kỹ thuật và nghệ thuật trang trí, sau hai dòng
gốm nổi tiếng là men ngọc và hoa nâu. Những chính sách buổi đầu của nhà Lê sơ
sau khi giải phóng khỏi ách đô hộ của nhà Minh đã thúc đẩy sản xuất phát triển,
trong đó công - thương nghiệp có bước tiến nhanh chóng. Những phường thủ
công tập trung nhiều thợ cùng nghề, chuyên sản xuất một vài sản phẩm nhất định,
phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng ngày của nhân dân và tầng lớp quý tộc phong kiến.
Căn cứ theo những tư liệu khảo cổ thì gốm hoa lam thờ Lê sơ được sản xuất từ
hai trung tâm gốm lớn là Bát Tràng (Hà Nội) và Nam Sách (Hải Dương). Trong
đó, gốm hoa lam Bát Tràng ra đời sớm hơn và phát triển qua nhiều thế kỷ, tuy có
lúc thăng trầm nhưng vẫn còn được phát triển cho đến ngày nay. Đồ gốm hoa lam
Nam Sách (Hải Dương) chỉ sản xuất để phục vụ xuất khẩu trong suốt giai đoạn
triều Lê, đã đánh một dấu đậm trên bản đồ giao thương trên vùng biển Việt Nam thời Lê sơ.
- Đặc điểm gốm sứ thời Lê sơ: màu men, họa tiết trang trí.
Dưới thời Lê loại gốm được xem như tinh xảo nhất chính là loại gốm hoa lam.
Loại gốm tinh xảo này đánh giá bước phát triển vượt bậc của gốm sứ với các nét
vẽ bằng bút lông với màu sắc xanh lam, xanh lục bảo vô cùng tinh tế.
Gốm hoa lam là tên gọi một loại sản phẩm gốm có trang trí bằng mầu xanh lam.
Chất liệu tạo màu chủ yếu là ôxit côban màu xanh lam hay còn gọi màu chàm.
Phầm lớn gốm hoa lam được làm từ loại đất sét trắng, được tinh luyện khá kỹ,
nung ở nhiệt độ 1300 độ C. Trang trí hoa lam trên gốm bằng bút lông và màu lam
(hay xanh chàm). Nếu kỹ thuật trang trí gốm hoa nâu thời Trần trước đó người
thợ gốm dùng bút lông chấm men mầu để tô lên từng mảng đồ án văn khắc trên
cốt xương đất mộc, thì giờ đây trên gốm hoa lam người thợ đã vẽ thực sự. Lối vẽ
trang trí trên gốm hoa lam có 3 loại: vẽ dưới men, vẽ giữa men và vẽ trên men.
Gốm hoa lam thời Lê với họa tiết xanh lam trên nền gốm trắng. Chum vại là
những vật dụng cần thiết trong đời sống người dân hằng ngày vì vậy có thể hiểu
rằng gốm hoa lam gắn liền với lối sống và sinh hoạt của người dân thời Lê. lOMoARcPSD| 61815267
Họa tiết rồng phượng chim cò là những biểu tượng tiêu biểu cho họa tiết trên gốm
thời Lê. Những họa tiết này được vẽ một cách tinh xảo, uyển chuyển thể hiện
trình độ nghệ thuật cao ở thời Lê
Bình, gốm hoa lam vẽ thiên nga (Bảo vật Quốc gia).
Nét đẹp của gốm sứ thời Lê khắc họa được những hình ảnh gần gũi nhất với đồng
quê Việt Nam từ hình ảnh con cua, con cá đến hoa sen, hoa huệ. Vì những hình
ảnh gần gũi quen thuộc này mà đến ngày nay phong cách gốm sứ thời Lê vẫn còn
được nhiều người ưa chuộng. lOMoARcPSD| 61815267
Đĩa lớn, gốm hoa lam trang trí cánh sen, trong lòng vẽ sư tử.
Chậu hai ngăn, gốm hoa lam vẽ hoa cúc dây.
Nguồn: https://gomlang.vn/tin-tuc-va-su-kien/nghe-thuat-gom-thoi-le.html
Tưliệuhìnhảnhchogốmhoalam
Nguồn:https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3101/17759/gom-hoa-lam-thoi-le-
tk15-luu-giu-tai-bao-tang-lich-su-quoc-gia.html
### IV. Các tác phẩm và công trình tiêu biểu
1. **Các công trình kiến trúc**
- Kinh thành Thăng Long, Văn Miếu, chùa Phật Tích.
Kinh thành Thăng Long (Nổi bật với kiến trúc ba vòng và kiến trúc mái ngói Âm - Dương) • Kiến trúc ba vòng: lOMoARcPSD| 61815267
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội có tổng diện tích 18,395ha, bao gồm:
Khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và các di tích còn sót lại trong khu di tích Thành cổ Hà Nội
như: Cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, điện Kính Thiên, nhà D67, Hậu Lâu, Bắc Môn, tường bao và
8 cổng hành cung thời Nguyễn.
Ngày 12/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1272/QĐ-TTg xếp hạng di tích
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là một trong 10 di tích quốc gia đặc
biệt. Tiếp đó năm 2010, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Nguồn:https://baoxaydung.com.vn/hoang-thanh-thang-long-dau-an-van-hoa-kien-truc- docdao-243143.html
Kinh thành Thăng Long gồm 03 vòng thành (Tam Trùng Thành Quách): • Đại La/ La Thành • Long Thành/ Phượng Thành • Cấm Thành
(Hình thái kiến trúc Thành Thăng Long, daibieunhandan.vn) lOMoARcPSD| 61815267
(Minh họa các vòng thành Thăng Long, https://spiderum.com/)
Trong cấu trúc ba vòng thành, kinh thành Thăng Long nổi bật lên một quần thể kiến trúc khá
bề thế, gồm các lâu đài cung điện, những chùa quán đền miếu và các công trình văn hoá. Trong
đó, Long thành và Cấm thành là trung tâm chính trị của kinh thành. Phía ngoài, giữa Long
thành và thành Đại La là khu vực thị - dân cư với các chợ, bến, phố phường, thôn trại của nông
– công – thương xen kẽ một số cung điện, dinh thự của thái tử và quý tộc, quan lại. •
Vòng thành ngoài cùng được gọi là thành Đại La, được xây đắp năm 1014
“bao quanh bốn mặt kinh thành Thăng Long, có chức năng thành lũy bảo vệ toàn bộ khu
vực kinh thành, kể cả vùng cư trú của nhân dân, vừa là đê ngăn lũ lụt.
Theo các nhà nghiên cứu cho thấy, mặt bằng kiến trúc vòng thành Thăng Long không coi trọng
tính kỷ hà, đối xứng, vuông vắn mà uốn mình theo địa hình, thích nghi và tận dụng điều kiện thiên nhiên. lOMoARcPSD| 61815267
(Đại La Thành - Vòng ngoài cùng thành Thăng Long) •
Vòng thành ở giữa: Hoàng Thành (Thời Lê Sơ), hay Long thành/ Phượng
Thành (Thời Lý) (Theo Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc ngày 19, 20/8/2015), được xây
đắp bằng đất vào năm 1010, phía ngoài có hào mở 4 cửa: Tường Phù ở phía Đông, Quảng
Phúc ở phía Tây, Đại Hưng ở phía Nam, Diệu Đức ở phía Bắc.
(Đại La Thành - Vòng giữa cùng thành Thăng Long) •
Cấm Thành hay Cấm Trung là một khu vực làm việc của triều đình, còn nơi ở của lOMoARcPSD| 61815267
Vua và hoàng gia là điện Càn Nguyên, nằm ở vị trí trung tâm (sau đổi là điện Thiên An). Phía
Tây Cấm Thành có chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và vào năm 1121 đã có Đoan Môn khi tổ
chức hội đèn Quảng Chiếu.
(Cấm thành Thăng Long theo quy hoạch năm 1029 (Tranh: Hiệu Sicula) 1. Ngũ Phượng
Tinh Lâu; 2. Điện Phụng Thiên-Lầu Chính Dương; 3. Điện Thiên An; 4. Điện Tuyên
Đức; 5. Điện Diên Phúc; 6. Điện Văn Minh; 7. Điện Quảng Vũ; 8. Lầu chuông; 9. Điện
Thiên Khánh; 10. Điện Trường Xuân)
Năm 1999, kết quả đào thám sát khảo cổ học cho thấy dưới nền Đoan Môn có di tích và di vật
thời Lý, Trần - Một đoạn nền hai bên bó gạch xếp kiểu hoa chanh đặc trưng thời Trần cạy theo
hướng đến điện Kính Thiên dài 15,80m, lòng đường rộng 1,30m. Bên cạnh đó, nổi bật còn có
di tích lịch sử 18 Hoàng Diệu.
Nguồn:http://www.nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/15036/
language/en-US/Default.aspx https://spiderum.com/bai-dang/Quy-hoach-Cam-thanh-Thang- Long-thoi-Ly-krv
Kiến trúc cung điện và mái ngói Âm – Dương:
Theo phong cách kiến trúc truyền thống của Việt Nam, các trụ cột hiên thường nằm gần cấp
nền trên phần mái hiên của kiến trúc và không nhô ra nhiều.
Theo nhà nghiên cứu GS Ueno người Nhật Bản đã chỉ ra rằng, kiến trúc của cung điện Thăng
Long sử dụng đấu (cụm trụ cột) nhưng phần mái không nổi lên nhiều. Điều này có thể do đấu
được thiết kế đơn giản trong thời kỳ đó. lOMoARcPSD| 61815267
Mái cung điện được làm bằng ngói âm – dương, ngói phẳng. Các góc mái và đầu nóc được
trang trí bằng các loại tượng tròn làm từ đất nung thành hình rồng, phượng, hoặc sư tử, với sự
tinh tế đáng kinh ngạc. Sự đẹp và hoành tráng của kiến trúc cung Thăng Long được thể hiện
qua việc sử dụng các loại ngói và sự tỉ mỉ trong từng chi tiết.
(Kiến trúc mái ngói Âm – Dương thành Thăng Long)
Nguồn: https://sovhttdltuyenquang.vn/kham-pha-hoang-thanh-thang-long-ha-noi/
Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng, phong phú hàng đầu của
thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Quần thể kiến trúc
Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám
và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn miếu (chữ Hán: 文廟) - nơi thờ Khổng
Tử, và Quốc tử giám (chữ Hán: 國子監) - trường đại học đầu tiên của Việt Nam
với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. lOMoARcPSD| 61815267
Khu Văn Miếu Quốc Tử Giám được thiết kế và xây dựng trên sự hài hoà về thiên
nhiên và con người. Khu chính của quần thể là khu trung tâm. Ở thế tựa sơn
hướng thủy. phía trước là hồ nước, phía sau dựa vào núi. Đây là lối kiến trúc phổ
biến của Bắc Bộ. Với phía trước nhà hay chùa sẽ có một chiếc ao nhỏ như để
hứng lấy ánh sáng tinh túy của trời đất. Với những ngôi chùa thường có thêm hòn
non bộ để tạo nên sự hài hoà giữa con người và vũ trụ.
Kiến trúc quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám xưa
Văn Miếu Quốc Tử Giám là một khối kiến trúc cổ và độc đáo mang đậm dấu ấn
phương Đông, với sự ảnh hưởng đậm đặc của Nho – Phật giáo thể hiện rõ nét lOMoARcPSD| 61815267
trong từng chi tiết của không gian. Từ chất liệu (chủ yếu là gỗ lim, gạch nung và
ngói mũi hài…) cho đến những lớp ngói, hoa văn đều được trang trí một cách tỉ
mỉ và sang trọng. Với triết lý âm dương ngũ hành trong từng thiết kế, dù là những
chi tiết nhỏ nhất. Coi trọng cân bằng các yếu tố về Âm dương và Ngũ hành. Tính
thẩm mỹ, tính hài hòa và cân đối cao thì bản thân công trình sẽ có tác động tích
cực đến ý thức của con người
Khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia
thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được
giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và
hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu,
Đại Trung, Khuê Văn các, Đại Thành và cổng Thái Học.
Khu vực thứ nhất từ Văn Miếu Môn (cổng vào Văn Miếu) vào là khu Nhập Đạo
với 3 gian lợp ngói và 3 cổng chính là Đại Trung, Thành Đức và Đạt Tài. Khu
vực thứ 2 trong quần thể Văn Miếu là Khuê Văn Các. Sử sách ghi lại Khuê Văn
Các được xây dựng từ năm 1805 với kiến trúc độc đáo – tượng trưng cho hình
ảnh sao Khuê tỏa sáng trên bầu trời. Ngày nay Khuê Văn Các là hình ảnh biểu
trưng cho Hà Nội cũng như nét đẹp văn hóa – kiến trúc Việt.
Tiếp theo Khuê Văn Các là khu Bia Tiến Sĩ. Nơi đây ghi danh 1.307 vị Tiến sĩ
của 82 khoa thi từ triều Lê (từ khoa thi 1442 đến thời Nguyễn). Bia Tiến Sĩ được
chạm khắc tinh xảo bằng loại đá xanh trên lưng rùa tượng trưng cho sự biết ơn,
tôn trọng tới các bậc kì tài của đất nước. lOMoARcPSD| 61815267
Khu vực Bia Tiến Sĩ qua nhiều đời tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Khu thứ tư trong nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám là là sân Đại bái. Trước đây
nơi này thờ bài vị của 72 học trò xuất sắc của Khổng tử và thầy giáo nổi tiếng Chu Văn An.
Cuối cùng là nhà Thái Học, chính là trường Quốc Tử Giám xưa. Tên Thái Học
được vua Lê Hiển Tông đổi vào năm 1785 và được gọi cho đến ngày nay. lOMoARcPSD| 61815267
Nhà Thái Học - Quốc Tử Giám
Nguồn:https://gachdongtam.com.vn/kien-truc-xay-dung-van-mieu-quoc-tugiam/
https://nhipsonghanoi.hanoimoi.vn/kinh-thanh-thang-long-thoi-le-624567.html
- Các di tích lịch sử và văn hóa khác.
Di tích bài thơ của vua Lê Thánh Tông trên vách núi Bài Thơ đã được phiên âm,
dịch nghĩa khắc lên 3 bia đá để du khách dễ cảm nhận. lOMoARcPSD| 61815267
Đình Trà Cổ là nơi còn giữ được nhiều nét điêu khắc mang đậm dấu ấn mỹ thuật thời Lê.
Nguồn:https://baoquangninh.vn/nhung-di-san-van-hoa-thoi-le-3235939.html
Đền Đá thuộc thôn Nam Hà, xã Tân Thịnh (Nam Trực), với những giá trị độc đáo
theo phong cách kiến trúc thời Hậu Lê (thế kỷ XVII-XVIII)
2. **Tác phẩm điêu khắc và hội họa**
- Các bức tượng phật nổi tiếng. Nguồn: lOMoARcPSD| 61815267
https://nghethuatxua.com/chuyen-de-bao-tang-my-thuat-viet-nam-phan-v- mythuat-thoi-le-so-mac/
2.1.1. Pho tượng Quan Âm chùa Cung Kiệm
Điểm độc đáo đáng chú ý của pho tượng Quan Âm chùa Cung Kiệm là phần minh
văn khắc trên tượng. Giới nghiên cứu đã xác định có tất cả 67 chữ Hán, trong đó
39 chữ khắc trên lưng tượng và 28 chữ khắc trên bệ tượng. Phần minh văn cung
cấp thông tin về niên đại tạo tác, địa chỉ, tên các tín chủ công đức. Pho tượng có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử tạo tượng
Việt Nam, bởi tín ngưỡng thờ Quan âm được du nhập vào nước ta từ rất lâu nhưng
không có một bằng chứng chính xác để xác nhận tín ngưỡng này có mặt tại Việt
Nam ở thời điểm nào. Tượng Quan Thế Âm chùa Cung Kiệm là một bằng chứng
chính xác để chứng minh cho tín ngưỡng thờ cúng Quan âm ở nước ta có từ rất
sớm, ít nhất là tại miền Bắc Việt Nam từ thế kỷ 15.
Tượng Quan Âm đá thời Lê Sơ - Bảo vật quốc Gia tại Bắc Ninh lOMoARcPSD| 61815267
Chạm nổi đôi thủy quái nâng đài sen
2.1.2 Tượng Phật Thích Ca Niêm Hoa Vi Tiếu (Thiền viện Vạn Hạnh, Đà Lạt)