Nội dung ôn tập chương 1 - Tổng quan hàng không không dân dụng | Học viện Hàng Không Việt Nam

Nội dung ôn tập chương 1 - Tổng quan hàng không không dân dụng | Học viện Hàng Không Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chương 1: Tổng quan về ngành hàng không dân dụng quốc
tế
NỘI DUNG CHÍNH
Hàng không là lĩnh vực quan trọng không những trong vận
chuyển mà đặc biệt quan trọng trong an ninh-quốc phòng, hơn
thế nữa HKDD còn góp phần quan trọng trong phát triển nền
kinh tế mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung.
“Tổng quan HKDD thế giới” sẽ sơ lược rõ nét hơn về khái niệm,
tính chất của ngành. Từ quá trình hình thành đến sự phát triển
qua từng giai đoạn, đặc trưng và sự phát triển HKDD.
1. Tổng quan về HKDD trên thế giới
1.1 Lịch sử phát triển về nghành
Trước năm 1914: Thời kì sơ khai
Ngành hàng không quốc tế đã trải qua một hành trình dài và
phức tạp, đánh dấu bằng những bước tiến vững chắc và thách
thức đối mặt. Bắt đầu từ những chuyến bay đầu tiên của những
chiếc máy bay cơ bản, ngành hàng không đã trở thành một lực
lượng quan trọng của nền kinh tế toàn cầu và gắn liền với cuộc
sống hàng ngày của hàng tỷ người trên thế giới.
- Chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới được biết đến từ đầu
TK20 do anh em nhà Wright bay thành công vào ngày
17/12/1903 và bay trong khoản thời gian ngắn vì gặp vấn đề về
điều khiển.
chuyến bay thế kỉ
- Quá trình nghiên cứu thử nghiệm và phục vụ cho mục tiêu
quân sự trong 2 cuộc chiến tranh TG. Một thập niên sau đó máy
bay động cơ được sử dụng phổ biến với vai trò trinh sát, điều
khiển pháo binh và trong phòng thủ tấn công. Chiến tranh đã
mang đến sự cách tân cho hàng không
- Sự tiến bộ lớn của khoa học công nghệ đã mở rộng sự phát
triển của lĩnh vực hàng không trong suốt những năm 1920-
1930, như chuyến bay xuyên Đại Tây Dương của Charles
Lindbergh vào năm 1927. Một trong số những thiết kế máy
bay thành công nhất của thời kỳ giữa 2 cuộc đại chiến là
Douglas DC-3, nó đã trở thành máy bay dân dụng loại lớn đầu
tiên mang lại lợi nhuận chỉ bằng hình thức vận chuyển hành
khách. Do sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới II, nhiều thành
phố và đô thị lớn đã xây dựng các sân bay, và có nhiều phi công
đủ trình độ đã gia nhập quân đội để lái máy bay chiến đấu.
Chiến tranh đã mang đến nhiều sự cách tân cho hàng không, bao
gồm những máy bay phản lực đầu tiên và tên lửa nhiên liệu
lỏng.
máy bay douglas
Tổ chức Hàng không dân dụng Quốc tế được thành lập
- Tháng 11 năm 1944 tại Hội nghị về HKDD thế giới ở Chicago,
Tổ chức HKDD Quốc tế (International Civil Aviation
Organization, viết tắt: ICAO) được thành lập với sự tham gia
của 52 nước. Đây là một tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc chịu
trách nhiệm soạn thảo và đưa ra các quy định về hàng không
trên toàn thế giới.
Hàng không dân dụng phát triển
-Sau chiến tranh thế giới II, đặc biệt ở Bắc Mỹ, có một sự bùng
nổ trong hàng không thông thường, cả tư nhân lẫn thương mại,
khi hàng nghìn phi công được giải ngũ và nhiều máy bay vận
tải, huấn luyện của quân đội dư thừa không được sử dụng đến
nên chúng đã được bán đi và không đắt lắm. Các hãng chế tạo
máy bay như Cessna, Piper, và Beechcraft mở rộng sản xuất để
cung cấp máy bay hạng nhẹ cho thị trường giai cấp tiểu tư sản
mới.
. - Vào thập niên 1950 việc phát triển máy bay phản lực dân
dụng dần đc phát triển lớn mạnh đặc biệt là sự ra đời của boeing
707 vào năm 1957 máy bay phản lực chở khách đã thúc đẩy
HKDD phát triển mạnh mẽ
- Vào thập niên 1950, việc phát triển máy bay phản lực dân
dụng dần dần trở nên lớn mạnh, đặc biệt là sự ra đời Boeing
707 và năm 1957 - máy bay phản lực chở khách đã thúc đẩy
HKDD nói chung và vận tải hàng không phát triển nhanh chóng.
Cùng lúc này, người ta đẩy mạnh việc nghiên cứu phát triển
động cơ tuốc bin khí, bắt đầu xuất hiện máy bay giá rẻ, làm cho
khả năng phục vụ trong những quãng đường nhỏ tốt hơn, và
chúng có thể bay trong mọi điều kiện thời tiết.
Từ thập niên 1960, vật liệu composite đã được ứng dụng để làm
thân máy bay giúp chúng hoạt động hiệu quả hơn, những động
cơ hiệu suất cao trở nên thông dụng và sẵn có, nhưng những
sáng kiến quan trong nhất đã diễn ra trong lĩnh vực trang bị máy
móc và điều khiển máy bay. Như tụ điện thể rắn, hệ thống định
vị toàn cầu, vệ tinh viễn thông, một thiết bị rất nhỏ nhưng có sức
mạnh rất lớn là máy tính và màn hình Luxeon; chúng đã thay
đổi đáng kể buồng lái trên máy bay dân dụng và máy bay quân
sự. Phi công có thể định hướng chính xác hơn và có tầm nhìn
địa hình, vật cản và mọi thứ khác gần máy bay trên một bản đồ
số hóa hoặc tầm nhìn ảo, dù trong ban đêm hay tầm nhìn thấp.
Đồng thời với sự phát triển của máy bay phục vụ HKDD và
quân sự là máy bay bay vào không gian với sự đánh dấu vào
ngày 12 tháng 4 năm 1961 khi Yuri Gagarin là người đầu tiên
bay vào vũ trụ và đến ngày 21 tháng 6 năm 1969 Neil
Armstrong là người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng.
- Đến ngày 21 tháng 6 năm 2004, SpaceShipOne trở thành máy
bay tư nhân đầu tiên thực hiện chuyến bay ra ngoài không gian,
mở ra triển vọng về thị trường hàng không ngoài không gian.
-Công nghệ hàng không ngày càng tiến bộ với sự xuất hiện của
máy bay siêu thanh và nâng cấp về hiệu suất năng lượng. Các
tiêu chuẩn an toàn đã được phát triển, và sự đổi mới trong thiết
kế máy bay nhằm giảm tiêu thụ nhiên liệu và khí thải cũng đang
trở thành ưu tiên quan trọng.
-Ngày nay, ngành hàng không dân dụng đang đối mặt với thách
thức về bảo vệ môi trường và giảm ảnh hưởng của nó. Các công
nghệ mới như máy bay chạy bằng năng lượng tái tạo và nỗ lực
hướng tới mục tiêu carbon zero đang dần hình thành. Đồng thời,
dịch vụ máy bay không người lái và ứng dụng của trí tuệ nhân
tạo cũng đang mở ra những triển vọng mới trong tương lai của
ngành hàng không.
Các tổ chức vận tải hàng không quốc tế
Hiện nay ngành hàng không toàn cầu có các tiêu chuẩn, và các
tiêu chuẩn đó do các tổ chức vận tải hàng không quốc tế đặt ra
chứ không phải các hãng hàng không. Các tổ chức hàng không
quốc tế có trách nhiệm thiết lập các tiêu chuẩn, quy định và
nguyên tắc nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của ngành
hàng không trên toàn cầu. Ngày nay đang có hai tổ chức hàng
không chiếm ưu thế lớn ở toàn cầu đó là ICAO và IATA
không quốc tế và thúc đẩy việc lập kế hoạch để phát triển ngành
vận tải hàng không quốc tế nhằm đảm bảo sự an toàn và độ phủ
sóng của hàng không quốc tế.
Ủy ban ICAO đặt ra các tiêu chuẩn và vấn đề thực tế liên quan
đến đường dẫn hàng không, ngăn chặn sự can thiệp bất hợp
pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho quy trình bay của cácquốc
gia khác trên thế giới trong ngành hàng không dân dụng.
Cùng với đó, ICAO cũng xác định các thủ tục điều tra tai nạn
hàng không dựa trên Công ước Hàng không Dân dụng Quốc tế
(còn gọi là Công ước Chicago), mà các nhà chức trách hàng
không quốc gia có thể dựa vào đó để thực hiện.
Cũng là trụ sở của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế
(ICAO), nhưng là một tổ chức riêng biệt). Tổ chức này được kế
nhiệm từ Hiệp hội Vận chuyển Hàng không Quốc tế IATA
( International Air Traffic Association ) thành lập tại The
Hague, Hà Lan vào năm 1919, đây là năm đầu tiên có dịch vụ
theo lộ trình quốc tế.Khi vừa thành lập, IATA có 57 thành viên
đến từ 31 quốc gia, chủ yếu tại Châu Âu và Bắc Mỹ. Nhưng đến
ngày nay hiệp hội đã có đến 270 thành viên gia nhập đến từ 140
quốc gia trên thế giới.
Hiệp hội Di chuyển Quốc tế (IAM)
Phòng thương mại quốc tế (ICC)
Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO)
Hiệp hội Di chuyển và kho bãi Hoa kỳ (AMSA)
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
1.2 Các lĩnh vực cơ bản trong nghành HKDD
Ngành hàng không dân dụng bao gồm nhiều lĩnh vực cơ bản
quan trọng, giúp hỗ trợ và duy trì hoạt động của hệ thống hàng
không thương mại. Dưới đây là một số lĩnh vực quan trọng
trong ngành này:
Sản xuất Máy bay: Bao gồm việc nghiên cứu, phát triển, và sản
xuất máy bay thương mại. Các công ty như Boeing, Airbus, và
Embraer chuyên về lĩnh vực này.
Vận tải Hàng không: Cung cấp dịch vụ vận chuyển hành khách
và hàng hóa qua đường hàng không. Hãng hàng không như
Delta, Emirates và FedEx là những đại diện nổi bật trong lĩnh
vực này.
Dịch vụ Sân bay: Bao gồm quản lý, vận hành và cung cấp dịch
vụ cho sân bay, bao gồm cả đường băng, nhà ga hành khách và
các tiện ích khác. Các công ty quản lý sân bay như Fraport và
Aeroports de Paris là những ví dụ.
Hệ thống Điều hành Đường không: Bao gồm quản lý lưu lượng
chuyến bay, an toàn hàng không và điều khiển lưu lượng không
lưu động. Cơ quan như Cơ quan An toàn Hàng không Dân dụng
(FAA) ở Hoa Kỳ thường tham gia trong lĩnh vực này.
Dịch vụ Hàng không Dân dụng: Bao gồm nhiều dịch vụ hỗ trợ
như bảo dưỡng máy bay, đào tạo phi công, và các dịch vụ về an
toàn hàng không. Các công ty như Lufthansa Technik và
FlightSafety International là những đối tác quan trọng.
Nghiên cứu và Phát triển: Lĩnh vực này tập trung vào nghiên
cứu và phát triển công nghệ mới, thiết kế máy bay tiên tiến và
các ứng dụng mới như máy bay không người lái. Công ty như
NASA và các tổ chức nghiên cứu trong ngành đóng vai trò quan
trọng.
Hệ thống An ninh Hàng không: Bao gồm các biện pháp và công
nghệ an ninh để đảm bảo an toàn trong hệ thống hàng không.
Các tổ chức an ninh như Transportation Security Administration
(TSA) tại Hoa Kỳ thường tham gia trong lĩnh vực này.
Các lĩnh vực này cùng nhau tạo nên một hệ thống phức tạp và
toàn diện để duy trì và phát triển ngành hàng không dân dụng.
Ngoài các lĩnh vực cơ bản trên, ngành HKDD còn bao gồm các
lĩnh vực khác như:
-Dịch vụ hàng không bao gồm các dịch vụ cung cấp cho hành
khách và hàng hóa trong quá trình vận chuyển hàng không, như
dịch vụ ăn uống, giải trí, nghỉ ngơi,...
-Dịch vụ hàng không đóng vai trò quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng không.
-Hành chính - quản lý bao gồm các hoạt động quản lý, điều
hành, tổ chức,... trong ngành HKDD. Hoạt động hành chính -
quản lý là nền tảng cho sự phát triển ổn định và bền vững của
ngành HKDD.
-Trong đó, vận tải hàng không là lĩnh vực giữ vai trò trung tâm
trong ngành HKDD. Lĩnh vực này quyết định đến quy mô, tốc
độ phát triển của ngành HKDD.
-Trong các yếu tố trên, có 5 yếu tố cơ bản có quan hệ chặt chẽ
với nhau và phụ thuộc lẫn nhau để tạo nên sản phẩm HKDD. Đó
là, vận tải hàng không, cảng hàng không, quản lý bay dân dụng,
dịch vụ kỹ thuật thương mại hàng không và quản lý nhà nước
chuyên ngành HKDD. Trong đó vận tải hàng không đóng vai trò
trung tâm, còn các lĩnh vực còn lại thực hiện các chức năng khác
nhau nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, điều hòa và hiệu quả của
lĩnh vực vận tải hàng không. Vai trò trung tâm của vận tải hàng
không thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
+Thứ nhất, vận tải hàng không trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
chính yếu của ngành HKDD là vận chuyển hành khách, hàng
hóa bằng đường hàng không.
+Thứ hai, vận tải hàng không tạo nên nguồn thu chính của
ngành HKDD từ giá cước vận chuyển, từ đó phân phối lại cho
các lĩnh vực khác dưới dạng phí và lệ phí.
+Thứ ba, vận tải hàng không vừa là điều kiện để phát triển các
lĩnh vực còn lại vừa là đối tượng để các lĩnh vực này phục vụ.
1.3 Đặc trưng của nghành HKDD
-Ngành HKDD là một ngành áp dụng khoa học, công nghệ kỹ
thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, có quy mô lớn về vốn
lớn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có sự gắn kết chặt chẽ
giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với
SXKD.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã
ra đời nhiều thế hệ máy bay mới có chỉ số kinh tế kỹ thuật ngày
càng tốt hơn, tiện nghi cho hành khách và người lái sử dụng, sản
xuất bằng vật liệu mới, áp dụng công nghệ tin học và trí tuệ
nhân tạo. Các thiết bị dẫn đường, kiểm soát không lưu, khai thác
tại các cảng hàng không… đều là những thiết bị áp dụng khoa
học công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đi đôi với việc sử sụng các
thiết bị tiến tiến hiện đại đòi hỏi trình độ quản lý, sử dụng cao và
hàm lượng vốn rất lớn. Chỉ cần so một chiếc máy bay khoảng
300 chỗ ngồi có giá trị hơn 100 triệu USD với các phương tiện
vận tải khác như đường sắt, đường bộ, đường thủy… có sức
chứa tương đương cho thấy hàm lượng vốn vượt trội của vận tải
hàng không. Trong ngành hàng không, vận tải hàng không là
hoạt động toàn cầu, có tính quốc tế cao. Mạng đường bay của
các hãng hàng không không những ở trong nước, quốc tế khu
vực mà còn xuyên lục địa. Việc khai thác các đường bay này đòi
hỏi các hãng hàng phải tổ chức hoạt động kinh doanh của mình
tại các điểm khai thác. Với việc sử dụng công nghệ hiện đại, tiên
tiến, quy mô và lĩnh vực hoạt động rộng lớn, đòi hỏi hàng không
phải đẩy mạnh công tác huấn luyện đào tạo, đặc biệt là các lao
động chuyên ngành như người lái, thợ kỹ thuật máy bay, tiếp
viên, kiểm soát không lưu…; đồng thời phải đẩy mạnh công tác
việc nghiên cứu triển khai trong SXKD.
1.4 Các xu thế phát triển của nghành hàng không dân dụng
1.4.1 Tự do hóa vận tải hàng không
- Mặc dù bảo hộ hợp lý của nhà nước đối với vận tải hàng không
quốc tế ở các quốc gia đang phát triển là cần thiết để tránh các
cuộc cạnh tranh không cân sức, nhưng trước yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế buộc các quốc gia này phải có lộ trình nới lỏng
hạn chế cạnh tranh, phi điều tiết, tiến tới tự do hóa vận tải hàng
không trong khu vực và thế giới.
- Khác với những thập kỷ trước được đặc trưng bởi điều tiết nhà
nước trong hoạt động vận tải hàng không diễn ra chặt chẽ trong
khuôn khổ quốc gia và trên cơ sở điều tiết song phương, từ
những thập kỷ cuối của thế kỷ XX đến nay được đặc trưng bởi
xu thế giảm dần mức độ kiểm soát nhà nước và dần thay thế
bằng tự do hóa cạnh tranh qua các dạng sau đây: - Hiệp định
song phương phi điều tiết, thực hiện nguyên tắc “mở cửa bầu
trời” như các trường hợp Mỹ-Singapore, Mỹ-Hàn quốc, Úc-New
Zealand ... - Hiệp định đa phương, điển hình là hiệp định đa
phương về các quyền thương mại của dịch vụ hàng không
không thường lệ ở Châu Âu (Paris, 30/4/1956); hiệp định đa
phương về các quyền thương mại của các dịch vụ hàng không
không thường lệ trong ASEAN (Manila, 13/3/1971); tuyên
ngôn Yamoussoukro về chính sách vận tải hàng không châu Phi
mới…
- Tạo thị trường vận tải hàng không chung, điển hình là trường
hợp của cộng đồng châu Âu (EU) với sự tham gia của Na uy,
Thụy điển tháng 1/1994; của các quốc gia công ước Andean
(Bolovia, Comlombia, Ecuavador, Peru và Venezuela) tháng
1/1991… Hiện nay EU và Mỹ bắt đầu cuộc đàm phán về thỏa
thuận “Bầu trời mở” nhằm tự do hóa hoạt động hàng không
xuyên Đại Tây Dương. Trong khuôn khổ khối ASEAN, các
nước Brunei, Indonesia, Malaysia và Philippines đã hợp tác
đa phương, tiến tới tự do hóa bầu trời khu vực tứ giác (BIMP);
các nước khu vực Đông dương đã thiết lập hợp tác từng bước
mở cửa bầu trời khu vực tiểu vùng Cămphuchia, Lào, Mianma
và Việt nam (CLMV). Hiện nay các nước trong khối ASEAN
đang xây dựng chương trình hành động tiến tới xây dựng thị
trường hàng không ASEAN thống nhất vào năm 2015.
1.4.2. Đa dạng hóa quyền sở hữu, giảm thiểu quyền kiểm
soát của nhà nước đối với kinh doanh vận tải và thương mại
hàng không
-Xu thế này thể hiện thông qua việc tư nhân hoá, cổ phần hoá
các hãng hàng không, các dịch vụ trong dây truyền vận tải hàng
không và các hoạt động liên quan đến vận tải hàng không nhằm
cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước, tạo động lực cho hoạt
động HKDD nâng cao hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh, tạo
nguồn vốn mới và tạo cơ hội đầu tư cho các doanh nghiệp.
-Do đặc thù của ngành HKDD, trừ hoạt động thương mại hàng
không, quá trình tư nhân hoá, cổ phần hóa các hãng hàng không
thường diễn ra chậm chạp hơn và thận trọng hơn nhiều so với
bước đi chung của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là bán cổ phần
cho nước ngoài thường chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà
nước. Tỷ lệ cổ phiếu của các hãng hàng không bán cho nước
ngoài thường được khống chế ở mức không quá 49%, có nhiều
khi còn thấp hơn. Tuy nhiên quá trình tư nhân hóa và quốc tế
hoá các hãng hàng không cũng đã diễn ra mạnh mẽ và trở thành
xu thế rõ rệt kể từ những năm 80 trở lại đây. Theo tài liệu của
Hiệp hội vận tải quốc tế (ITF), trong thời kỳ 1980-1992 cơ cấu
sở hữu đối với các hãng hàng không trên thế giới đã có thay đổi
đáng kể theo hướng tăng cường sở hữu tư nhân, từ 42% năm
1980 tăng lên thành 54% trong năm 1992; trong khi sở hữu nhà
nước đối với các nhà vận chuyển hàng không giảm từ 44%
xuống còn 28%.
-Những năm của thập kỷ 90 đã chứng kiến sự tư nhân hóa mạnh
mẽ với sự góp vốn đầu tư nước ngoài của các hãng hàng không
như Cathay Pacific, Air New Zealand, All Nipon Airways,
KLM, Royal Dutch Airlines, US Air… Trong thời gian này
khu vực Đông nam Á các hãng hàng không quốc gia có tên tuổi
cũng tiến hành cổ phần hóa mạnh mẽ của như: Malaysia
Airlines cổ phần hóa năm 1985 (sở hữu nhà nước chiếm 10%),
Singapore Airlines cổ phần hóa năm 1985 (sở hữu nhà nước
chiếm 54%), Philippines Airlines cổ phần hóa năm 1992 (sở hữu
nhà nước chiếm 45%), Thai Airways cổ phần hóa năm 1992 (sở
hữu nhà nước chiếm 93%)…
- Ngoài vận tải hàng không một số quốc gia còn cổ phần hóa các
hoạt động khai thác cảng, quản lý điều hành bay như ở Ca-na-
đa, Niu-di-lân, Thái Lan...
1.4.3. Thương mại cảng hàng không và hình thành, cạnh
tranh giữa các trung tâm trung chuyển hàng không
-Thương mại hóa cảng hàng không là một xu hướng tất yếu,
khách quan do: Thứ nhất, ngành HKDD từng bước chuyển từ
hoạt động công ích là chủ yếu trở thành ngành kinh tế với mục
tiêu thương mại là chủ yếu; thứ hai, nhằm chuyển hướng huy
động vốn từ ngân sách nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân
và nước ngoài.
-Tuy nhiên do quy luật chuyển dịch cơ cấu nguồn thu của cảng
hàng không nên việc thương mại hóa các cảng hàng không trước
hết chủ yếu tập trung ở các cảng hàng không quốc tế và một số
cảng hàng không nội địa nhưng có lưu lượng hành khách, hàng
hóa thông qua tương đối lớn.
-Qua quá trình phát triển một số cảng hàng không quốc tế trên
thế giới không chỉ đóng vai trò là cửa ngõ hàng không của quốc
gia mà từng bước trở thành điểm dừng chân trung gian trên
chặng đường bay từ quốc gia đến một quốc gia khác. Vì vậy
hình thành xu thế tạo lập và cạnh tranh giữa các trung tâm trung
chuyển hàng không. Xu thế này diễn ra ở tất cả các khu vực như
giữa Pa-ri, Luân-đôn, Am-stéc-đam, Phrăng-phuốc ở châu Âu;
giữa Tô-ky-ô, Xê-un, Hồng kông, Đài Loan ở bắc Á; Băng Cốc,
Xinh-ga-po, Kua-la-lăm-pơ ở Đông Nam Á...
1.4.4. Hợp nhất, liên minh, liên kết, chuyên môn hóa các
hãng hàng không
- Hợp nhất và liên kết các hãng hàng không vừa là hiện tượng
chung của quá trình tích tụ tư bản, vừa là hậu quả tất yếu của
quá trình tự do hóa vận tải hàng không. Trong điều kiện tự do
hóa cạnh tranh, các hãng hàng không nhỏ và vừa nhanh chóng bị
lâm vào tình trạng phá sản hoặc buộc phải hợp nhất hoặc liên
kết lại để tồn tại, hoặc bị sát nhập vào các hãng hàng không lớn
mạnh hơn, từ đó hình thành các hãng hàng không khổng lồ có
tính toàn cầu (Global Mega-Camers).
- Ở Canada trong năm 1984 hãng hàng không quốc gia CPAir
hợp nhất với 3 hãng hàng không phân vi vùng là EPA, Nordair
và Quebecair thành hãng hàng không CPAir. Năm 1986, hãng
hàng không này lại hợp nhất với 2 hãng khác trong nước là CAI
và PWA - thành Canadian Airlines Intemational. Đến năm 1992,
3 hãng hàng không lớn nhất nước là Air Canada, Canadian
Airlines Int’l và WardAir hợp nhất thành hãng hàng không
Mapleflot. Trong năm 1993 quá trình này được diễn ra ở
Mêhicô (hợp nhất giữa Aeromexico và Mexicana), Phần lan
(Finair “thôn tính” các thành viên của mình là Finnaviation và
Karair), Úc (Australian Airlines trở thành bộ phận của Qantas),
ở Trung quốc sát nhập 10 hãng hàng không để kiện toàn thành 3
tập đoàn hàng không lớn là China Airlines, Eartern Airlines và
Southern Airlines… Quá trình liên kết các hãng hàng không
cũng diễn ra ngoài khuôn khổ một quốc gia thông qua việc bán
cổ phần cho nước ngoài. Đặc biệt, gần đây sự sát nhập giữa hai
tập đoàn hàng không Air France của Pháp và KLM của Hà lan
để thành lập tập đoàn hàng không mới mang tên Air France –
KLM lớn nhất châu Âu thông qua quy chế chuyển đổi cổ phần
giữa 2 tập đoàn. Theo đó, Air France – KLM sẽ hoạt động theo
phương thức vẫn duy trì mạng lưới, thương hiệu và cơ sở kinh
doanh của 2 tập đoàn, trong đó chính phủ Pháp và Air France sẽ
nắm giữ 81% cổ phần và 19% cổ phần còn lại thuộc về KLM.
- Việc liên kết, hợp nhất các hãng hàng không là điều kiện để
phát triển thành các tập đoàn hàng không, có sự chuyên môn hóa
vận tải hàng không. Trong tập đoàn hàng không, công ty mẹ
thường là hãng hàng không lớn. Để chuyên môn hóa hoạt động
vận tải hàng không và hỗ trợ nhau trong chiến lược cạnh tranh
của tập đoàn, công ty mẹ thành lập hoặc tách ra thành các hãng
hàng không con là các hãng hàng không chuyên bay khu vực
hoặc chuyên vận tải hàng hóa… Đặc biệt là trong thời gian gần
đây các tập đoàn hàng không lớn thường cho ra đời các hãng
hàng không bán vé giá rẻ – LCC (Low Cost Carier). Việc tổ
chức các hãng hàng không này là chia sẻ bớt thị phần của các
hãng hàng không lớn vốn được tổ chức quy mô, phục vụ hành
khách đến nơi đến chốn khiến chi phí khai thác và chi phí quản
lý khá cao. Hình thức này là để khai thác đường bay có hiệu
quả, mà đối tượng khách là những người không đòi hỏi bất cứ
một tiện nghi nào khác ngoài một chỗ ngồi khiêm tốn trên máy
bay để đến đúng nơi mình muốn. Ví dụ: Qantas Airways có
Autralian Airlines, Garuda Indonesia có City Link, Japan
Airlines có Japan Express, All Nipon Airways có Air Japan,
Malaysia Airlines có Air Asia, Thai Airways có Nok Air,
Singapore Airlines có Tiger Airways…
- Cùng với sự liên kết, hợp nhất, các hãng hàng không lớn còn
tham gia liên minh mạng đường bay, hỗ trợ khai thác, bảo
dưỡng… Trong đó, rõ nét nhất là liên minh đường bay như liên
minh Star Alliance của 22 hãng hàng không lớn với mạng
đường bay đến 842 điểm của 152 quốc gia trên thế giới; liên
minh sky team Aillance của 10 hãng hàng không lớn với mạng
đường bay đến 728 điểm của 149 quốc gia trên thế giới.
- Ngoài những liên kết, sát nhập trong vận tải hàng không còn
có những xu thế liên kết, sát nhập các hoạt động kinh doanh
thương mại hàng không với vận tải hàng không, lấy vận tải hàng
không làm nòng cốt. Sự liên kết về mặt hoạt động được gắn liền
với sự hợp nhất về mặt tổ chức (“cứng”- hợp nhất về hành chính
hoặc “mềm”- hợp nhất trên cơ sở quyền sở hữu), tạo nên mô
hình tập đoàn kinh tế hàng không. Những kiểu mô hình như vậy
rất phổ biến ở nhiều nước có ngành HKDD phát triển trên thế
giới.
1.5. Vai trò của ngành HKDD
-Vận tải hàng không thuộc hệ thống giao thông vận tải quốc gia.
Cùng với các phương tiện vận tải khác, vận tải hàng không có
vai trò quan trọng trong việc phát triển và phân bổ các nguồn
lực, các sản phẩm, thực hiện chức năng như hệ tuần hoàn trong
nền kinh tế quốc dân, đảm bảo mối liên hệ giữa các ngành, các
lĩnh vực của hệ thống kinh tế- xã hội. IATA đánh giá vai trò của
ngành vận tải hàng không như sau: “Vận tải hàng không là một
trong những nguồn lực có tính sống còn nhất của thế giới. Sự
phát triển của nó với tư cách là ngành kinh tế và lĩnh vực dịch
| 1/24

Preview text:

Chương 1: Tổng quan về ngành hàng không dân dụng quốc tế NỘI DUNG CHÍNH
Hàng không là lĩnh vực quan trọng không những trong vận
chuyển mà đặc biệt quan trọng trong an ninh-quốc phòng, hơn
thế nữa HKDD còn góp phần quan trọng trong phát triển nền
kinh tế mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung.
“Tổng quan HKDD thế giới” sẽ sơ lược rõ nét hơn về khái niệm,
tính chất của ngành. Từ quá trình hình thành đến sự phát triển
qua từng giai đoạn, đặc trưng và sự phát triển HKDD.
1. Tổng quan về HKDD trên thế giới
1.1 Lịch sử phát triển về nghành
Trước năm 1914: Thời kì sơ khai

Ngành hàng không quốc tế đã trải qua một hành trình dài và
phức tạp, đánh dấu bằng những bước tiến vững chắc và thách
thức đối mặt. Bắt đầu từ những chuyến bay đầu tiên của những
chiếc máy bay cơ bản, ngành hàng không đã trở thành một lực
lượng quan trọng của nền kinh tế toàn cầu và gắn liền với cuộc
sống hàng ngày của hàng tỷ người trên thế giới.
- Chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới được biết đến từ đầu
TK20 do anh em nhà Wright bay thành công vào ngày
17/12/1903 và bay trong khoản thời gian ngắn vì gặp vấn đề về điều khiển.
chuyến bay thế kỉ
- Quá trình nghiên cứu thử nghiệm và phục vụ cho mục tiêu
quân sự trong 2 cuộc chiến tranh TG. Một thập niên sau đó máy
bay động cơ được sử dụng phổ biến với vai trò trinh sát, điều
khiển pháo binh và trong phòng thủ tấn công. Chiến tranh đã
mang đến sự cách tân cho hàng không
- Sự tiến bộ lớn của khoa học công nghệ đã mở rộng sự phát
triển của lĩnh vực hàng không trong suốt những năm 1920-
1930, như chuyến bay xuyên Đại Tây Dương của Charles
Lindbergh vào năm 1927. Một trong số những thiết kế máy
bay thành công nhất của thời kỳ giữa 2 cuộc đại chiến là
Douglas DC-3, nó đã trở thành máy bay dân dụng loại lớn đầu
tiên mang lại lợi nhuận chỉ bằng hình thức vận chuyển hành
khách. Do sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới II, nhiều thành
phố và đô thị lớn đã xây dựng các sân bay, và có nhiều phi công
đủ trình độ đã gia nhập quân đội để lái máy bay chiến đấu.
Chiến tranh đã mang đến nhiều sự cách tân cho hàng không, bao
gồm những máy bay phản lực đầu tiên và tên lửa nhiên liệu lỏng. máy bay douglas
Tổ chức Hàng không dân dụng Quốc tế được thành lập
- Tháng 11 năm 1944 tại Hội nghị về HKDD thế giới ở Chicago,
Tổ chức HKDD Quốc tế (International Civil Aviation
Organization, viết tắt: ICAO) được thành lập với sự tham gia
của 52 nước. Đây là một tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc chịu
trách nhiệm soạn thảo và đưa ra các quy định về hàng không trên toàn thế giới.
Hàng không dân dụng phát triển
-Sau chiến tranh thế giới II, đặc biệt ở Bắc Mỹ, có một sự bùng
nổ trong hàng không thông thường, cả tư nhân lẫn thương mại,
khi hàng nghìn phi công được giải ngũ và nhiều máy bay vận
tải, huấn luyện của quân đội dư thừa không được sử dụng đến
nên chúng đã được bán đi và không đắt lắm. Các hãng chế tạo
máy bay như Cessna, Piper, và Beechcraft mở rộng sản xuất để
cung cấp máy bay hạng nhẹ cho thị trường giai cấp tiểu tư sản mới.
. - Vào thập niên 1950 việc phát triển máy bay phản lực dân
dụng dần đc phát triển lớn mạnh đặc biệt là sự ra đời của boeing
707 vào năm 1957 máy bay phản lực chở khách đã thúc đẩy
HKDD phát triển mạnh mẽ
- Vào thập niên 1950, việc phát triển máy bay phản lực dân
dụng dần dần trở nên lớn mạnh, đặc biệt là sự ra đời Boeing
707 và năm 1957 - máy bay phản lực chở khách đã thúc đẩy
HKDD nói chung và vận tải hàng không phát triển nhanh chóng.
Cùng lúc này, người ta đẩy mạnh việc nghiên cứu phát triển
động cơ tuốc bin khí, bắt đầu xuất hiện máy bay giá rẻ, làm cho
khả năng phục vụ trong những quãng đường nhỏ tốt hơn, và
chúng có thể bay trong mọi điều kiện thời tiết.
Từ thập niên 1960, vật liệu composite đã được ứng dụng để làm
thân máy bay giúp chúng hoạt động hiệu quả hơn, những động
cơ hiệu suất cao trở nên thông dụng và sẵn có, nhưng những
sáng kiến quan trong nhất đã diễn ra trong lĩnh vực trang bị máy
móc và điều khiển máy bay. Như tụ điện thể rắn, hệ thống định
vị toàn cầu, vệ tinh viễn thông, một thiết bị rất nhỏ nhưng có sức
mạnh rất lớn là máy tính và màn hình Luxeon; chúng đã thay
đổi đáng kể buồng lái trên máy bay dân dụng và máy bay quân
sự. Phi công có thể định hướng chính xác hơn và có tầm nhìn
địa hình, vật cản và mọi thứ khác gần máy bay trên một bản đồ
số hóa hoặc tầm nhìn ảo, dù trong ban đêm hay tầm nhìn thấp.
Đồng thời với sự phát triển của máy bay phục vụ HKDD và
quân sự là máy bay bay vào không gian với sự đánh dấu vào
ngày 12 tháng 4 năm 1961 khi Yuri Gagarin là người đầu tiên
bay vào vũ trụ và đến ngày 21 tháng 6 năm 1969 Neil
Armstrong là người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng.
- Đến ngày 21 tháng 6 năm 2004, SpaceShipOne trở thành máy
bay tư nhân đầu tiên thực hiện chuyến bay ra ngoài không gian,
mở ra triển vọng về thị trường hàng không ngoài không gian.
-Công nghệ hàng không ngày càng tiến bộ với sự xuất hiện của
máy bay siêu thanh và nâng cấp về hiệu suất năng lượng. Các
tiêu chuẩn an toàn đã được phát triển, và sự đổi mới trong thiết
kế máy bay nhằm giảm tiêu thụ nhiên liệu và khí thải cũng đang
trở thành ưu tiên quan trọng.
-Ngày nay, ngành hàng không dân dụng đang đối mặt với thách
thức về bảo vệ môi trường và giảm ảnh hưởng của nó. Các công
nghệ mới như máy bay chạy bằng năng lượng tái tạo và nỗ lực
hướng tới mục tiêu carbon zero đang dần hình thành. Đồng thời,
dịch vụ máy bay không người lái và ứng dụng của trí tuệ nhân
tạo cũng đang mở ra những triển vọng mới trong tương lai của ngành hàng không.
Các tổ chức vận tải hàng không quốc tế
Hiện nay ngành hàng không toàn cầu có các tiêu chuẩn, và các
tiêu chuẩn đó do các tổ chức vận tải hàng không quốc tế đặt ra
chứ không phải các hãng hàng không. Các tổ chức hàng không
quốc tế có trách nhiệm thiết lập các tiêu chuẩn, quy định và
nguyên tắc nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của ngành
hàng không trên toàn cầu. Ngày nay đang có hai tổ chức hàng
không chiếm ưu thế lớn ở toàn cầu đó là ICAO và IATA
không quốc tế và thúc đẩy việc lập kế hoạch để phát triển ngành
vận tải hàng không quốc tế nhằm đảm bảo sự an toàn và độ phủ
sóng của hàng không quốc tế.
Ủy ban ICAO đặt ra các tiêu chuẩn và vấn đề thực tế liên quan
đến đường dẫn hàng không, ngăn chặn sự can thiệp bất hợp
pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho quy trình bay của cácquốc
gia khác trên thế giới trong ngành hàng không dân dụng.
Cùng với đó, ICAO cũng xác định các thủ tục điều tra tai nạn 
hàng không dựa trên Công ước Hàng không Dân dụng Quốc tế
(còn gọi là Công ước Chicago), mà các nhà chức trách hàng
không quốc gia có thể dựa vào đó để thực hiện.
Cũng là trụ sở của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế
(ICAO), nhưng là một tổ chức riêng biệt). Tổ chức này được kế
nhiệm từ Hiệp hội Vận chuyển Hàng không Quốc tế IATA
( International Air Traffic Association ) thành lập tại The
Hague, Hà Lan vào năm 1919, đây là năm đầu tiên có dịch vụ
theo lộ trình quốc tế.Khi vừa thành lập, IATA có 57 thành viên
đến từ 31 quốc gia, chủ yếu tại Châu Âu và Bắc Mỹ. Nhưng đến
ngày nay hiệp hội đã có đến 270 thành viên gia nhập đến từ 140
quốc gia trên thế giới.
Hiệp hội Di chuyển Quốc tế (IAM)
Phòng thương mại quốc tế (ICC)
Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO)
Hiệp hội Di chuyển và kho bãi Hoa kỳ (AMSA)
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
1.2 Các lĩnh vực cơ bản trong nghành HKDD
Ngành hàng không dân dụng bao gồm nhiều lĩnh vực cơ bản
quan trọng, giúp hỗ trợ và duy trì hoạt động của hệ thống hàng
không thương mại. Dưới đây là một số lĩnh vực quan trọng trong ngành này:
Sản xuất Máy bay: Bao gồm việc nghiên cứu, phát triển, và sản
xuất máy bay thương mại. Các công ty như Boeing, Airbus, và
Embraer chuyên về lĩnh vực này.
Vận tải Hàng không: Cung cấp dịch vụ vận chuyển hành khách
và hàng hóa qua đường hàng không. Hãng hàng không như
Delta, Emirates và FedEx là những đại diện nổi bật trong lĩnh vực này.
Dịch vụ Sân bay: Bao gồm quản lý, vận hành và cung cấp dịch
vụ cho sân bay, bao gồm cả đường băng, nhà ga hành khách và
các tiện ích khác. Các công ty quản lý sân bay như Fraport và
Aeroports de Paris là những ví dụ.
Hệ thống Điều hành Đường không: Bao gồm quản lý lưu lượng
chuyến bay, an toàn hàng không và điều khiển lưu lượng không
lưu động. Cơ quan như Cơ quan An toàn Hàng không Dân dụng
(FAA) ở Hoa Kỳ thường tham gia trong lĩnh vực này.
Dịch vụ Hàng không Dân dụng: Bao gồm nhiều dịch vụ hỗ trợ
như bảo dưỡng máy bay, đào tạo phi công, và các dịch vụ về an
toàn hàng không. Các công ty như Lufthansa Technik và
FlightSafety International là những đối tác quan trọng.
Nghiên cứu và Phát triển: Lĩnh vực này tập trung vào nghiên
cứu và phát triển công nghệ mới, thiết kế máy bay tiên tiến và
các ứng dụng mới như máy bay không người lái. Công ty như
NASA và các tổ chức nghiên cứu trong ngành đóng vai trò quan trọng.
Hệ thống An ninh Hàng không: Bao gồm các biện pháp và công
nghệ an ninh để đảm bảo an toàn trong hệ thống hàng không.
Các tổ chức an ninh như Transportation Security Administration
(TSA) tại Hoa Kỳ thường tham gia trong lĩnh vực này.
Các lĩnh vực này cùng nhau tạo nên một hệ thống phức tạp và
toàn diện để duy trì và phát triển ngành hàng không dân dụng.
Ngoài các lĩnh vực cơ bản trên, ngành HKDD còn bao gồm các lĩnh vực khác như:
-Dịch vụ hàng không bao gồm các dịch vụ cung cấp cho hành
khách và hàng hóa trong quá trình vận chuyển hàng không, như
dịch vụ ăn uống, giải trí, nghỉ ngơi,...
-Dịch vụ hàng không đóng vai trò quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng không.
-Hành chính - quản lý bao gồm các hoạt động quản lý, điều
hành, tổ chức,... trong ngành HKDD. Hoạt động hành chính -
quản lý là nền tảng cho sự phát triển ổn định và bền vững của ngành HKDD.
-Trong đó, vận tải hàng không là lĩnh vực giữ vai trò trung tâm
trong ngành HKDD. Lĩnh vực này quyết định đến quy mô, tốc
độ phát triển của ngành HKDD.
-Trong các yếu tố trên, có 5 yếu tố cơ bản có quan hệ chặt chẽ
với nhau và phụ thuộc lẫn nhau để tạo nên sản phẩm HKDD. Đó
là, vận tải hàng không, cảng hàng không, quản lý bay dân dụng,
dịch vụ kỹ thuật thương mại hàng không và quản lý nhà nước
chuyên ngành HKDD. Trong đó vận tải hàng không đóng vai trò
trung tâm, còn các lĩnh vực còn lại thực hiện các chức năng khác
nhau nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, điều hòa và hiệu quả của
lĩnh vực vận tải hàng không. Vai trò trung tâm của vận tải hàng
không thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
+Thứ nhất, vận tải hàng không trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
chính yếu của ngành HKDD là vận chuyển hành khách, hàng
hóa bằng đường hàng không.
+Thứ hai, vận tải hàng không tạo nên nguồn thu chính của
ngành HKDD từ giá cước vận chuyển, từ đó phân phối lại cho
các lĩnh vực khác dưới dạng phí và lệ phí.
+Thứ ba, vận tải hàng không vừa là điều kiện để phát triển các
lĩnh vực còn lại vừa là đối tượng để các lĩnh vực này phục vụ.
1.3 Đặc trưng của nghành HKDD
-Ngành HKDD là một ngành áp dụng khoa học, công nghệ kỹ
thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, có quy mô lớn về vốn
lớn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có sự gắn kết chặt chẽ
giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với SXKD.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã
ra đời nhiều thế hệ máy bay mới có chỉ số kinh tế kỹ thuật ngày
càng tốt hơn, tiện nghi cho hành khách và người lái sử dụng, sản
xuất bằng vật liệu mới, áp dụng công nghệ tin học và trí tuệ
nhân tạo. Các thiết bị dẫn đường, kiểm soát không lưu, khai thác
tại các cảng hàng không… đều là những thiết bị áp dụng khoa
học công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đi đôi với việc sử sụng các
thiết bị tiến tiến hiện đại đòi hỏi trình độ quản lý, sử dụng cao và
hàm lượng vốn rất lớn. Chỉ cần so một chiếc máy bay khoảng
300 chỗ ngồi có giá trị hơn 100 triệu USD với các phương tiện
vận tải khác như đường sắt, đường bộ, đường thủy… có sức
chứa tương đương cho thấy hàm lượng vốn vượt trội của vận tải
hàng không. Trong ngành hàng không, vận tải hàng không là
hoạt động toàn cầu, có tính quốc tế cao. Mạng đường bay của
các hãng hàng không không những ở trong nước, quốc tế khu
vực mà còn xuyên lục địa. Việc khai thác các đường bay này đòi
hỏi các hãng hàng phải tổ chức hoạt động kinh doanh của mình
tại các điểm khai thác. Với việc sử dụng công nghệ hiện đại, tiên
tiến, quy mô và lĩnh vực hoạt động rộng lớn, đòi hỏi hàng không
phải đẩy mạnh công tác huấn luyện đào tạo, đặc biệt là các lao
động chuyên ngành như người lái, thợ kỹ thuật máy bay, tiếp
viên, kiểm soát không lưu…; đồng thời phải đẩy mạnh công tác
việc nghiên cứu triển khai trong SXKD.
1.4 Các xu thế phát triển của nghành hàng không dân dụng
1.4.1 Tự do hóa vận tải hàng không
- Mặc dù bảo hộ hợp lý của nhà nước đối với vận tải hàng không
quốc tế ở các quốc gia đang phát triển là cần thiết để tránh các
cuộc cạnh tranh không cân sức, nhưng trước yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế buộc các quốc gia này phải có lộ trình nới lỏng
hạn chế cạnh tranh, phi điều tiết, tiến tới tự do hóa vận tải hàng
không trong khu vực và thế giới.
- Khác với những thập kỷ trước được đặc trưng bởi điều tiết nhà
nước trong hoạt động vận tải hàng không diễn ra chặt chẽ trong
khuôn khổ quốc gia và trên cơ sở điều tiết song phương, từ
những thập kỷ cuối của thế kỷ XX đến nay được đặc trưng bởi
xu thế giảm dần mức độ kiểm soát nhà nước và dần thay thế
bằng tự do hóa cạnh tranh qua các dạng sau đây: - Hiệp định
song phương phi điều tiết, thực hiện nguyên tắc “mở cửa bầu
trời” như các trường hợp Mỹ-Singapore, Mỹ-Hàn quốc, Úc-New
Zealand ... - Hiệp định đa phương, điển hình là hiệp định đa
phương về các quyền thương mại của dịch vụ hàng không
không thường lệ ở Châu Âu (Paris, 30/4/1956); hiệp định đa
phương về các quyền thương mại của các dịch vụ hàng không
không thường lệ trong ASEAN (Manila, 13/3/1971); tuyên
ngôn Yamoussoukro về chính sách vận tải hàng không châu Phi mới…
- Tạo thị trường vận tải hàng không chung, điển hình là trường
hợp của cộng đồng châu Âu (EU) với sự tham gia của Na uy,
Thụy điển tháng 1/1994; của các quốc gia công ước Andean
(Bolovia, Comlombia, Ecuavador, Peru và Venezuela) tháng
1/1991… Hiện nay EU và Mỹ bắt đầu cuộc đàm phán về thỏa
thuận “Bầu trời mở” nhằm tự do hóa hoạt động hàng không
xuyên Đại Tây Dương. Trong khuôn khổ khối ASEAN, các
nước Brunei, Indonesia, Malaysia và Philippines đã hợp tác
đa phương, tiến tới tự do hóa bầu trời khu vực tứ giác (BIMP);
các nước khu vực Đông dương đã thiết lập hợp tác từng bước
mở cửa bầu trời khu vực tiểu vùng Cămphuchia, Lào, Mianma
và Việt nam (CLMV). Hiện nay các nước trong khối ASEAN
đang xây dựng chương trình hành động tiến tới xây dựng thị
trường hàng không ASEAN thống nhất vào năm 2015.
1.4.2. Đa dạng hóa quyền sở hữu, giảm thiểu quyền kiểm
soát của nhà nước đối với kinh doanh vận tải và thương mại hàng không
-Xu thế này thể hiện thông qua việc tư nhân hoá, cổ phần hoá
các hãng hàng không, các dịch vụ trong dây truyền vận tải hàng
không và các hoạt động liên quan đến vận tải hàng không nhằm
cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước, tạo động lực cho hoạt
động HKDD nâng cao hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh, tạo
nguồn vốn mới và tạo cơ hội đầu tư cho các doanh nghiệp.
-Do đặc thù của ngành HKDD, trừ hoạt động thương mại hàng
không, quá trình tư nhân hoá, cổ phần hóa các hãng hàng không
thường diễn ra chậm chạp hơn và thận trọng hơn nhiều so với
bước đi chung của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là bán cổ phần
cho nước ngoài thường chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà
nước. Tỷ lệ cổ phiếu của các hãng hàng không bán cho nước
ngoài thường được khống chế ở mức không quá 49%, có nhiều
khi còn thấp hơn. Tuy nhiên quá trình tư nhân hóa và quốc tế
hoá các hãng hàng không cũng đã diễn ra mạnh mẽ và trở thành
xu thế rõ rệt kể từ những năm 80 trở lại đây. Theo tài liệu của
Hiệp hội vận tải quốc tế (ITF), trong thời kỳ 1980-1992 cơ cấu
sở hữu đối với các hãng hàng không trên thế giới đã có thay đổi
đáng kể theo hướng tăng cường sở hữu tư nhân, từ 42% năm
1980 tăng lên thành 54% trong năm 1992; trong khi sở hữu nhà
nước đối với các nhà vận chuyển hàng không giảm từ 44% xuống còn 28%.
-Những năm của thập kỷ 90 đã chứng kiến sự tư nhân hóa mạnh
mẽ với sự góp vốn đầu tư nước ngoài của các hãng hàng không
như Cathay Pacific, Air New Zealand, All Nipon Airways,
KLM, Royal Dutch Airlines, US Air… Trong thời gian này
khu vực Đông nam Á các hãng hàng không quốc gia có tên tuổi
cũng tiến hành cổ phần hóa mạnh mẽ của như: Malaysia
Airlines cổ phần hóa năm 1985 (sở hữu nhà nước chiếm 10%),
Singapore Airlines cổ phần hóa năm 1985 (sở hữu nhà nước
chiếm 54%), Philippines Airlines cổ phần hóa năm 1992 (sở hữu
nhà nước chiếm 45%), Thai Airways cổ phần hóa năm 1992 (sở
hữu nhà nước chiếm 93%)…
- Ngoài vận tải hàng không một số quốc gia còn cổ phần hóa các
hoạt động khai thác cảng, quản lý điều hành bay như ở Ca-na- đa, Niu-di-lân, Thái Lan...
1.4.3. Thương mại cảng hàng không và hình thành, cạnh
tranh giữa các trung tâm trung chuyển hàng không
-Thương mại hóa cảng hàng không là một xu hướng tất yếu,
khách quan do: Thứ nhất, ngành HKDD từng bước chuyển từ
hoạt động công ích là chủ yếu trở thành ngành kinh tế với mục
tiêu thương mại là chủ yếu; thứ hai, nhằm chuyển hướng huy
động vốn từ ngân sách nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân và nước ngoài.
-Tuy nhiên do quy luật chuyển dịch cơ cấu nguồn thu của cảng
hàng không nên việc thương mại hóa các cảng hàng không trước
hết chủ yếu tập trung ở các cảng hàng không quốc tế và một số
cảng hàng không nội địa nhưng có lưu lượng hành khách, hàng
hóa thông qua tương đối lớn.
-Qua quá trình phát triển một số cảng hàng không quốc tế trên
thế giới không chỉ đóng vai trò là cửa ngõ hàng không của quốc
gia mà từng bước trở thành điểm dừng chân trung gian trên
chặng đường bay từ quốc gia đến một quốc gia khác. Vì vậy
hình thành xu thế tạo lập và cạnh tranh giữa các trung tâm trung
chuyển hàng không. Xu thế này diễn ra ở tất cả các khu vực như
giữa Pa-ri, Luân-đôn, Am-stéc-đam, Phrăng-phuốc ở châu Âu;
giữa Tô-ky-ô, Xê-un, Hồng kông, Đài Loan ở bắc Á; Băng Cốc,
Xinh-ga-po, Kua-la-lăm-pơ ở Đông Nam Á...
1.4.4. Hợp nhất, liên minh, liên kết, chuyên môn hóa các hãng hàng không
- Hợp nhất và liên kết các hãng hàng không vừa là hiện tượng
chung của quá trình tích tụ tư bản, vừa là hậu quả tất yếu của
quá trình tự do hóa vận tải hàng không. Trong điều kiện tự do
hóa cạnh tranh, các hãng hàng không nhỏ và vừa nhanh chóng bị
lâm vào tình trạng phá sản hoặc buộc phải hợp nhất hoặc liên
kết lại để tồn tại, hoặc bị sát nhập vào các hãng hàng không lớn
mạnh hơn, từ đó hình thành các hãng hàng không khổng lồ có
tính toàn cầu (Global Mega-Camers).
- Ở Canada trong năm 1984 hãng hàng không quốc gia CPAir
hợp nhất với 3 hãng hàng không phân vi vùng là EPA, Nordair
và Quebecair thành hãng hàng không CPAir. Năm 1986, hãng
hàng không này lại hợp nhất với 2 hãng khác trong nước là CAI
và PWA - thành Canadian Airlines Intemational. Đến năm 1992,
3 hãng hàng không lớn nhất nước là Air Canada, Canadian
Airlines Int’l và WardAir hợp nhất thành hãng hàng không
Mapleflot. Trong năm 1993 quá trình này được diễn ra ở
Mêhicô (hợp nhất giữa Aeromexico và Mexicana), Phần lan
(Finair “thôn tính” các thành viên của mình là Finnaviation và
Karair), Úc (Australian Airlines trở thành bộ phận của Qantas),
ở Trung quốc sát nhập 10 hãng hàng không để kiện toàn thành 3
tập đoàn hàng không lớn là China Airlines, Eartern Airlines và
Southern Airlines… Quá trình liên kết các hãng hàng không
cũng diễn ra ngoài khuôn khổ một quốc gia thông qua việc bán
cổ phần cho nước ngoài. Đặc biệt, gần đây sự sát nhập giữa hai
tập đoàn hàng không Air France của Pháp và KLM của Hà lan
để thành lập tập đoàn hàng không mới mang tên Air France –
KLM lớn nhất châu Âu thông qua quy chế chuyển đổi cổ phần
giữa 2 tập đoàn. Theo đó, Air France – KLM sẽ hoạt động theo
phương thức vẫn duy trì mạng lưới, thương hiệu và cơ sở kinh
doanh của 2 tập đoàn, trong đó chính phủ Pháp và Air France sẽ
nắm giữ 81% cổ phần và 19% cổ phần còn lại thuộc về KLM.
- Việc liên kết, hợp nhất các hãng hàng không là điều kiện để
phát triển thành các tập đoàn hàng không, có sự chuyên môn hóa
vận tải hàng không. Trong tập đoàn hàng không, công ty mẹ
thường là hãng hàng không lớn. Để chuyên môn hóa hoạt động
vận tải hàng không và hỗ trợ nhau trong chiến lược cạnh tranh
của tập đoàn, công ty mẹ thành lập hoặc tách ra thành các hãng
hàng không con là các hãng hàng không chuyên bay khu vực
hoặc chuyên vận tải hàng hóa… Đặc biệt là trong thời gian gần
đây các tập đoàn hàng không lớn thường cho ra đời các hãng
hàng không bán vé giá rẻ – LCC (Low Cost Carier). Việc tổ
chức các hãng hàng không này là chia sẻ bớt thị phần của các
hãng hàng không lớn vốn được tổ chức quy mô, phục vụ hành
khách đến nơi đến chốn khiến chi phí khai thác và chi phí quản
lý khá cao. Hình thức này là để khai thác đường bay có hiệu
quả, mà đối tượng khách là những người không đòi hỏi bất cứ
một tiện nghi nào khác ngoài một chỗ ngồi khiêm tốn trên máy
bay để đến đúng nơi mình muốn. Ví dụ: Qantas Airways có
Autralian Airlines, Garuda Indonesia có City Link, Japan
Airlines có Japan Express, All Nipon Airways có Air Japan,
Malaysia Airlines có Air Asia, Thai Airways có Nok Air,
Singapore Airlines có Tiger Airways…
- Cùng với sự liên kết, hợp nhất, các hãng hàng không lớn còn
tham gia liên minh mạng đường bay, hỗ trợ khai thác, bảo
dưỡng… Trong đó, rõ nét nhất là liên minh đường bay như liên
minh Star Alliance của 22 hãng hàng không lớn với mạng
đường bay đến 842 điểm của 152 quốc gia trên thế giới; liên
minh sky team Aillance của 10 hãng hàng không lớn với mạng
đường bay đến 728 điểm của 149 quốc gia trên thế giới.
- Ngoài những liên kết, sát nhập trong vận tải hàng không còn
có những xu thế liên kết, sát nhập các hoạt động kinh doanh
thương mại hàng không với vận tải hàng không, lấy vận tải hàng
không làm nòng cốt. Sự liên kết về mặt hoạt động được gắn liền
với sự hợp nhất về mặt tổ chức (“cứng”- hợp nhất về hành chính
hoặc “mềm”- hợp nhất trên cơ sở quyền sở hữu), tạo nên mô
hình tập đoàn kinh tế hàng không. Những kiểu mô hình như vậy
rất phổ biến ở nhiều nước có ngành HKDD phát triển trên thế giới.
1.5. Vai trò của ngành HKDD
-Vận tải hàng không thuộc hệ thống giao thông vận tải quốc gia.
Cùng với các phương tiện vận tải khác, vận tải hàng không có
vai trò quan trọng trong việc phát triển và phân bổ các nguồn
lực, các sản phẩm, thực hiện chức năng như hệ tuần hoàn trong
nền kinh tế quốc dân, đảm bảo mối liên hệ giữa các ngành, các
lĩnh vực của hệ thống kinh tế- xã hội. IATA đánh giá vai trò của
ngành vận tải hàng không như sau: “Vận tải hàng không là một
trong những nguồn lực có tính sống còn nhất của thế giới. Sự
phát triển của nó với tư cách là ngành kinh tế và lĩnh vực dịch