Nội dung ôn tập môn LSĐ/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng ta chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ta ở miền Bắc mà còn nhằm xây dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương chung của cả nước để tiến hành giải phóng miền Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:
Trường:

Đại học Nguyễn Tất Thành 1 K tài liệu

Thông tin:
5 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Nội dung ôn tập môn LSĐ/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng ta chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ta ở miền Bắc mà còn nhằm xây dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương chung của cả nước để tiến hành giải phóng miền Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

12 6 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 46613224
“Tất cả tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Đó tinh thần của nhân
dân miền Bắc trong suốt 21 năm thực hiện công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sự đóng góp
vô cùng to lớn của quân và dân miền Bắc. Không chỉ chi viện sức người và sức của, miền
Bắc còn là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho những người ra trận, cho đồng bào, cán bộ,
chiến sỹ đang ngày đêm chiến đấu ở miền Nam.
Thi đua sản xuất, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng ta chủ trương
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng hội chủ nghĩa miền
Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ta ở
miền Bắc còn nhằm xây dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương chung của cả nước để
tiến hành giải phóng miền Nam.
Xuất phát từ vtrí, vai trò của hậu phương, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng ta chủ trương thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc
cách mạng dân chủ nhân dân miền Nam. Cách mạng hội chủ nghĩa
miền Bắc không chỉ mục tiêu xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng
bào ta miền Bắc còn nhằm xây dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương
chung của cả ớc để tiến hành giải phóng miền Nam. Trong quan điểm chỉ
đạo, Đảng ta luôn thống nhất: phải xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiến
ợc vững mạnh toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc
phòng, văn hóa, giáo dục, kết hợp giữa xây dựng và và bảo vệ vững chắc hậu
phương.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa II (tháng 8-1955), Ðảng ta nhận định: “Miền Bắc
là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”.
Phát biểu tại Ðại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc (tháng 9-1955), Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ: “Miền Bắc nền tảng, gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân
dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt”.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 khóa II (tháng 12-1957) đã xác định
đường lối của Đảng về xây dựng hậu phương trong điều kiện mới. Đảng ta đã nêu phương
hướng kết hợp chặt chxây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng để vừa thể nhanh
chóng phát triển kinh tế vừa củng cố quốc phòng ngày càng mạnh mẽ, làm tròn được nhiệm
vụ hậu phương đối với cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Theo đó, từ những năm 1960 đến 1975, khắp miền Bắc dấy lên các phong trào thi đua lao
động, sản xuất với khí thế sôi nổi. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền
lOMoARcPSD| 46613224
ngược, khí thế hăng say lao động, sản xuất đã trở thành một cao trào lôi cuốn hàng triệu
phụ nữ, nông dân, công nhân, bác sỹ trên toàn miền Bắc tham gia.
Điển hình như tại Thủ đô Hà Nội đã nổi lên c phong trào: Thanh niên “Ba sẵn sàng", phụ
nữ “Ba đảm đang”, nông dân “Tay cày tay súng”, công nhân “Tay búa tay súng”, học sinh
làm “Nghìn việc tốt chống Mỹ”... hay Tỉnh Thái Bình ghi bảng vàng 5 tấn, đánh dấu mốc
lịch sử về năng suất lúa của miền Bắc. Khẩu hiệu “Thóc thừa n, quân ợt mức” của
Thái Bình đã cổ vũ tinh thần nhân dân cả nước thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu, đánh
đuổi đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.
Khối công nhân viên chức cũng thực hiện nhiều phong trào thi đua sôi nổi như "Ngày thứ
bảy năng suất cao", "Luyện tay nghề thi thợ giỏi". Nhiều sáng kiến giá trị của các chị
em đã được ứng dụng hiệu quả trong sản xuất...
Cùng với thi đua sản xuất, hậu phương miền Bắc cũng đặc biệt coi trọng việc tăng cường
quan hệ đoàn kết với nhân dân thế giới, với các tổ chức dân chủ, hòa bình quốc tế, đặc biệt
với các nước hội chủ nghĩa. Nhờ đó, ta đã tranh thủ sự giúp đcủa Liên các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trong đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng, cung cấp
hậu cần, bảo đảm vận chuyển, tranh thủ các khoản viện trợ không hoàn lại, cho vay không
tính lãi với nhiều chương trình kinh tế, thương mại. Hầu hết các ngành kinh tế quan trọng
của miền Bắc đều có sự giúp đỡ, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Với những nỗ lực trên, đến năm 1964, miền Bắc đã cơ bản tự bảo đảm được về lương thực
hàng tiêu dùng, đồng thời đã bắt đầu tạo được nguồn tích lũy từ trong nước. Từ năm
1965, miền Bắc phải chuyển ớng kinh tế từ thời bình sang thời chiến và đến năm 1975
là thời kỳ chống chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh tế.
vậy, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội vẫn đạt được những thành tích to lớn. Đến
năm 1975, trong khu vực sản xuất vật chất đã có 99,7% tài sản cố định thuộc về kinh tế xã
hội chủ nghĩa đã tăng gấp 5 lần so với năm 1960. Trong cấu công nghiệp đã những
sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng, như điện, than, hóa chất, cơ khí
luyện kim, vật liệu xây dựng.
Sức mạnh của hậu phương không chỉ về kinh tế mà còn gồm quân sự. Công cuộc xây dựng
quân sự ở hậu phương được Đảng ta thường xuyên quan tâm. Bộ đội chủ lực miền Bắc từ
16 vạn (năm 1960) tăng lên 27 vạn (năm 1965), bộ đội địa phương tăng từ 18.000 (năm
1959) lên 46.000 (năm 1965).
Năm 1960, dân quân tự vệ khoảng 1 triệu người, đến năm 1965 đã gần 1,7 triệu người
được huấn luyện theo định kỳ, đảm nhận vai trò nòng cốt trong bảo đảm trật tự trị an, xung
kích trong lao động, chiến đấu phục vụ chiến đấu tại các địa phương. ktrang bị
cho lực lượng trang được đổi mới, ngày càng hiện đại. Qua nhiều cuộc diễn tập hiệp
lOMoARcPSD| 46613224
đồng quân-binh chủng, hỏa lực sức động của bộ đội được tăng ờng không ngừng
phát triển.
Được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước anh em, nền công nghiệp quốc phòng của miền
Bắc ngày càng phát triển. Nhiều nhà máy được đầu tư, nâng cấp đã sản xuất ra một số
chủng loại khí bộ binh, trang thiết bị phụ tùng các mặt hàng quốc phòng thiết yếu
đáp ứng nhu cầu của các quân chủng, binh chủng và sự phát triển nhanh của các đơn vị bộ
đội chủ lực.
Tất cả vì miền Nam ruột thịt
Với tinh thần tất cả vì tiền tuyến “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,
“xe chưa qua nhà không tiếc”, trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền
Bắc trong vai trò hậu phương lớn đã luôn “thắt lưng, buộc bụng”, sẵn sàng chia lửa, sẵn
sàng hy sinh, sẵn sàng cung cấp đến những dòng vật chất cuối cùng để chở sức mạnh hậu
phương ra chiến trường.
khắp nơi, nhân dân miền Bắc thực hiện “mỗi người làm việc bằng hai” để thể vừa tiếp
tục đẩy mạnh sản xuất xây dựng tiềm lực giữ vững sự ổn định hậu phương, vừa đẩy
mạnh chi viện cho tiền tuyến.
Bộ Tư lệnh Ðoàn 559 được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ phải
phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các chiến trường miền Nam, với nước bạn Lào hậu
phương lớn miền Bắc; chủ động, sáng tạo sử dụng mọi phương tiện, mọi biện pháp hữu
hiệu nhất đẩy mạnh vận chuyển vật chất-kỹ thuật (vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh… ) chi viện kịp thời, đầy đủ cho chiến trường miền Nam.
Tổng cục Hậu cần quân đội bố trí các cung vận chuyển chấn chỉnh hệ thống kho, bến
bãi. Trước khi bước vào chiến dịch vận chuyển, lực lượng bộ đội, thanh niên xung phong,
công binh nhân dân các địa phương tuyến đường chiến lược đi qua đã mở mới
củng cố tuyến vận tải giới, hình thành nên thế trận giao thông vững chắc bảo đảm vận
chuyển thông suốt trong mọi tình huống.
Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong bối cảnh không còn nguồn viện trợ
từ các nước xã hội chủ nghĩa, để thực hiện quyết tâm của BChính trị Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam, miền Bắc đã phải dốc toàn bộ sức lực của mình chi viện cho các chiến
trường miền Nam.
Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1975, từ hậu phương lớn miền Bắc đã có hơn 110.000 quân
230.000 tấn vật chất các loại được đưa vào các chiến trường ở miền Nam. Để kịp thời đưa
nguồn nhân lực và vật chất được động viên từ miền Bắc vào các chiến trường phục vụ tổng
lOMoARcPSD| 46613224
tiến công, ngoài 6.770 chiếc ô vận tải chuyên trách của quân đội, các địa phương,
quan, ban, ngành ở miền Bắc còn huy động tới 60% các phương tiện vận tải dân sự.
Riêng về nhiên liệu, trong 2 năm 1973-1974, hệ thống đường ống xăng dầu Bắc-Nam đã
đưa vào các chiến trường gần 303.000 tấn. Khối lượng lớn binh khí, kỹ thuật, nhiên liệu
được miền Bắc động viên kịp thời chi viện cho các hướng tiến công trên các chiến
trường miền Nam đã giúp cho các binh đoàn chủ lực thực hiện động thần tốc, hoàn
thành các mục tiêu chiến lược đề ra.
Theo con số thống chưa đầy đủ, từ năm 1959 đến năm 1975 hậu phương miền Bắc đã
chi viện cho các chiến trường gần 700.000 tấn vật chất (gấp 2 lần slượng vật chất khai
thác tại chỗ), trong đó trên 180.000 tấn khí trang bị kỹ thuật. Đó chưa kể đến sự
hy sinh xương máu của bộ đội, dân công làm công tác vận chuyển. Nhưng dù thế nào, bom
đạn ác liệt của kẻ thù cũng không thể làm lay chuyển được tinh thần và ý chí của nhân dân
miền Bắc tất cả vì miền Nam ruột thịt.
Không chỉ huy động một lượng lớn của cải, vật chất, hậu phương lớn miền Bắc đã động
viên một nguồn nhân lực lớn phục vụ cuộc kháng chiến. Trong một thời gian ngắn, hàng
vạn nam, nữ thanh niên trình độ văn hóa, giác ngộ chính trị, sức khỏe được động viên
vào lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong.
Dù biết ra trận sẽ có hy sinh, mất mát nhưng đối với thanh niên miền Bắc khi đó, được đi
bộ đội để cầm súng chiến đấu với kẻ thù một tưởng sống. Để được vào Nam chiến
đấu, được sống với tưởng của mình, nhiều thanh niên, học sinh miền Bắc đã viết đơn
tình nguyện nhập ngũ bằng máu để thể hiện quyết tâm và mong muốn được xã, huyện phê
duyệt cho nhập ngũ.
Trong những năm tháng ấy, toàn miền Bắc đã huy động trên 3 triệu người phục vụ chiến
tranh (chiếm trên 12% số dân miền Bắc), trong đó gia nhập quân đội trên 1,5 triệu người.
Có tới trên 70% số hộ gia đình ở miền Bắc có người thân chiến đấu trên các chiến trường;
trên đồng ruộng, phụ nchiếm trên 63% trong số lao động trực tiếp, để nam giới đi đánh
giặc, cứu nước.
Các lực lượng vận tải, lực lượng bảo đảm giao thông, mở đường và các lực lượng bảo đảm
khác... bao gồm hàng chục vạn người đều được động viên từ hậu phương lớn miền Bắc.
Ngoài ra, hậu phương miền Bắc cũng tiếp nhận hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ, con em
miền Nam tập kết ra miền Bắc học tập công tác; đón tiếp gần 31 vạn thương binh
hơn 35 vạn lượt người từ tiền tuyến ra hậu phương chữa bệnh, học tập, phục hồi sức khỏe
trở lại chiến trường.
Tuyến đường Tờng Sơn huyền thoại nơi đã chứng kiến lòng yêu ớc, tinh thần
quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Bắc. Đã hàng chục vạn thanh niên
lOMoARcPSD| 46613224
xung phong, dân công hoả tuyến của miền Bắc được huy động tham gia đảm bảo giao
thông trên mọi nẻo đường từ hậu phương ra tiền tuyến.
Với sự hỗ trợ không ngừng nghỉ, sự chi viện thường xuyên, hiệu quả của miền Bắc, tuyến
vận tải chiến lược Trường Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Một khối lượng
khổng lồ vật chất và một lực lượng to lớn các binh đoàn chiến đấu đã được vận chuyển qua
tuyến đường này.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong 16 năm, tuyến vận tải quân sự chiến lược này đã
vận chuyển khoảng 1.850.000 tấn vật chất hậu cần, khí, trang bị kthuật, kịp thời chi
viện tới các chiến trường miền Nam và hai nước bạn Lào, Campuchia; bảo đảm hành quân
cơ động, đưa đón hơn một triệu lượt người vào, ra hai miền Nam-Bắc.
Mặc bị đánh phá ác liệt, nhưng tuyến đường Trường Sơn chưa bao giờ bị gián đoạn.
Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà nghiên cứu chiến lược quân sMỹ đều cho rằng,
một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Mỹ thua Việt Nam do không
triệt phá được tiềm lực của miền Bắc.
Ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975 toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của
nhân dân ta.
Hậu phương lớn miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, đúng như sự khẳng
định của Đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ IV của Đảng: “Không thể nào có thắng lợi của
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt
16 năm qua luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến ợc. Miền Bắc đã dốc
vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã
làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước.”./.
| 1/5

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46613224
“Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Đó là tinh thần của nhân
dân miền Bắc trong suốt 21 năm thực hiện công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước có sự đóng góp
vô cùng to lớn của quân và dân miền Bắc. Không chỉ chi viện sức người và sức của, miền
Bắc còn là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho những người ra trận, cho đồng bào, cán bộ,
chiến sỹ đang ngày đêm chiến đấu ở miền Nam.
Thi đua sản xuất, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng ta chủ trương
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ta ở
miền Bắc mà còn nhằm xây dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương chung của cả nước để
tiến hành giải phóng miền Nam.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của hậu phương, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (năm 1954), Đảng ta chủ trương thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng
bào ta ở miền Bắc mà còn nhằm xây dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương
chung của cả nước để tiến hành giải phóng miền Nam. Trong quan điểm chỉ
đạo, Đảng ta luôn thống nhất: phải xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiến
lược vững mạnh toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc
phòng, văn hóa, giáo dục, kết hợp giữa xây dựng và và bảo vệ vững chắc hậu phương.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa II (tháng 8-1955), Ðảng ta nhận định: “Miền Bắc
là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”.
Phát biểu tại Ðại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc (tháng 9-1955), Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân
dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt”.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 khóa II (tháng 12-1957) đã xác định
đường lối của Đảng về xây dựng hậu phương trong điều kiện mới. Đảng ta đã nêu phương
hướng kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng để vừa có thể nhanh
chóng phát triển kinh tế vừa củng cố quốc phòng ngày càng mạnh mẽ, làm tròn được nhiệm
vụ hậu phương đối với cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Theo đó, từ những năm 1960 đến 1975, khắp miền Bắc dấy lên các phong trào thi đua lao
động, sản xuất với khí thế sôi nổi. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền lOMoAR cPSD| 46613224
ngược, khí thế hăng say lao động, sản xuất đã trở thành một cao trào lôi cuốn hàng triệu
phụ nữ, nông dân, công nhân, bác sỹ trên toàn miền Bắc tham gia.
Điển hình như tại Thủ đô Hà Nội đã nổi lên các phong trào: Thanh niên “Ba sẵn sàng", phụ
nữ “Ba đảm đang”, nông dân “Tay cày tay súng”, công nhân “Tay búa tay súng”, học sinh
làm “Nghìn việc tốt chống Mỹ”... hay Tỉnh Thái Bình ghi bảng vàng 5 tấn, đánh dấu mốc
lịch sử về năng suất lúa của miền Bắc. Khẩu hiệu “Thóc thừa cân, quân vượt mức” của
Thái Bình đã cổ vũ tinh thần nhân dân cả nước thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu, đánh
đuổi đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.
Khối công nhân viên chức cũng thực hiện nhiều phong trào thi đua sôi nổi như "Ngày thứ
bảy năng suất cao", "Luyện tay nghề thi thợ giỏi". Nhiều sáng kiến có giá trị của các chị
em đã được ứng dụng hiệu quả trong sản xuất...
Cùng với thi đua sản xuất, hậu phương miền Bắc cũng đặc biệt coi trọng việc tăng cường
quan hệ đoàn kết với nhân dân thế giới, với các tổ chức dân chủ, hòa bình quốc tế, đặc biệt
là với các nước xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, ta đã tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô và các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trong đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng, cung cấp
hậu cần, bảo đảm vận chuyển, tranh thủ các khoản viện trợ không hoàn lại, cho vay không
tính lãi với nhiều chương trình kinh tế, thương mại. Hầu hết các ngành kinh tế quan trọng
của miền Bắc đều có sự giúp đỡ, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Với những nỗ lực trên, đến năm 1964, miền Bắc đã cơ bản tự bảo đảm được về lương thực
và hàng tiêu dùng, đồng thời đã bắt đầu tạo được nguồn tích lũy từ trong nước. Từ năm
1965, miền Bắc phải chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến và đến năm 1975
là thời kỳ chống chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh tế.
Dù vậy, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn đạt được những thành tích to lớn. Đến
năm 1975, trong khu vực sản xuất vật chất đã có 99,7% tài sản cố định thuộc về kinh tế xã
hội chủ nghĩa và đã tăng gấp 5 lần so với năm 1960. Trong cơ cấu công nghiệp đã có những
cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng, như điện, than, hóa chất, cơ khí
luyện kim, vật liệu xây dựng.
Sức mạnh của hậu phương không chỉ về kinh tế mà còn gồm quân sự. Công cuộc xây dựng
quân sự ở hậu phương được Đảng ta thường xuyên quan tâm. Bộ đội chủ lực miền Bắc từ
16 vạn (năm 1960) tăng lên 27 vạn (năm 1965), bộ đội địa phương tăng từ 18.000 (năm
1959) lên 46.000 (năm 1965).
Năm 1960, dân quân tự vệ có khoảng 1 triệu người, đến năm 1965 đã có gần 1,7 triệu người
được huấn luyện theo định kỳ, đảm nhận vai trò nòng cốt trong bảo đảm trật tự trị an, xung
kích trong lao động, chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại các địa phương. Vũ khí trang bị
cho lực lượng vũ trang được đổi mới, ngày càng hiện đại. Qua nhiều cuộc diễn tập hiệp lOMoAR cPSD| 46613224
đồng quân-binh chủng, hỏa lực và sức cơ động của bộ đội được tăng cường và không ngừng phát triển.
Được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước anh em, nền công nghiệp quốc phòng của miền
Bắc ngày càng phát triển. Nhiều nhà máy được đầu tư, nâng cấp đã sản xuất ra một số
chủng loại vũ khí bộ binh, trang thiết bị phụ tùng và các mặt hàng quốc phòng thiết yếu
đáp ứng nhu cầu của các quân chủng, binh chủng và sự phát triển nhanh của các đơn vị bộ đội chủ lực.
Tất cả vì miền Nam ruột thịt
Với tinh thần tất cả vì tiền tuyến “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,
“xe chưa qua nhà không tiếc”, trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền
Bắc trong vai trò hậu phương lớn đã luôn “thắt lưng, buộc bụng”, sẵn sàng chia lửa, sẵn
sàng hy sinh, sẵn sàng cung cấp đến những dòng vật chất cuối cùng để chở sức mạnh hậu
phương ra chiến trường.
Ở khắp nơi, nhân dân miền Bắc thực hiện “mỗi người làm việc bằng hai” để có thể vừa tiếp
tục đẩy mạnh sản xuất xây dựng tiềm lực và giữ vững sự ổn định hậu phương, vừa đẩy
mạnh chi viện cho tiền tuyến.
Bộ Tư lệnh Ðoàn 559 được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ phải
phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các chiến trường miền Nam, với nước bạn Lào và hậu
phương lớn miền Bắc; chủ động, sáng tạo sử dụng mọi phương tiện, mọi biện pháp hữu
hiệu nhất đẩy mạnh vận chuyển vật chất-kỹ thuật (vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh… ) chi viện kịp thời, đầy đủ cho chiến trường miền Nam.
Tổng cục Hậu cần quân đội bố trí các cung vận chuyển và chấn chỉnh hệ thống kho, bến
bãi. Trước khi bước vào chiến dịch vận chuyển, lực lượng bộ đội, thanh niên xung phong,
công binh và nhân dân các địa phương có tuyến đường chiến lược đi qua đã mở mới và
củng cố tuyến vận tải cơ giới, hình thành nên thế trận giao thông vững chắc bảo đảm vận
chuyển thông suốt trong mọi tình huống.
Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong bối cảnh không còn nguồn viện trợ
từ các nước xã hội chủ nghĩa, để thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam, miền Bắc đã phải dốc toàn bộ sức lực của mình chi viện cho các chiến trường miền Nam.
Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1975, từ hậu phương lớn miền Bắc đã có hơn 110.000 quân và
230.000 tấn vật chất các loại được đưa vào các chiến trường ở miền Nam. Để kịp thời đưa
nguồn nhân lực và vật chất được động viên từ miền Bắc vào các chiến trường phục vụ tổng lOMoAR cPSD| 46613224
tiến công, ngoài 6.770 chiếc ô tô vận tải chuyên trách của quân đội, các địa phương, cơ
quan, ban, ngành ở miền Bắc còn huy động tới 60% các phương tiện vận tải dân sự.
Riêng về nhiên liệu, trong 2 năm 1973-1974, hệ thống đường ống xăng dầu Bắc-Nam đã
đưa vào các chiến trường gần 303.000 tấn. Khối lượng lớn binh khí, kỹ thuật, nhiên liệu
được miền Bắc động viên và kịp thời chi viện cho các hướng tiến công trên các chiến
trường ở miền Nam đã giúp cho các binh đoàn chủ lực thực hiện cơ động thần tốc, hoàn
thành các mục tiêu chiến lược đề ra.
Theo con số thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1959 đến năm 1975 hậu phương miền Bắc đã
chi viện cho các chiến trường gần 700.000 tấn vật chất (gấp 2 lần số lượng vật chất khai
thác tại chỗ), trong đó có trên 180.000 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Đó là chưa kể đến sự
hy sinh xương máu của bộ đội, dân công làm công tác vận chuyển. Nhưng dù thế nào, bom
đạn ác liệt của kẻ thù cũng không thể làm lay chuyển được tinh thần và ý chí của nhân dân
miền Bắc tất cả vì miền Nam ruột thịt.
Không chỉ huy động một lượng lớn của cải, vật chất, hậu phương lớn miền Bắc đã động
viên một nguồn nhân lực lớn phục vụ cuộc kháng chiến. Trong một thời gian ngắn, hàng
vạn nam, nữ thanh niên có trình độ văn hóa, giác ngộ chính trị, có sức khỏe được động viên
vào lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong.
Dù biết ra trận sẽ có hy sinh, mất mát nhưng đối với thanh niên miền Bắc khi đó, được đi
bộ đội để cầm súng chiến đấu với kẻ thù là một lý tưởng sống. Để được vào Nam chiến
đấu, được sống với lý tưởng của mình, nhiều thanh niên, học sinh miền Bắc đã viết đơn
tình nguyện nhập ngũ bằng máu để thể hiện quyết tâm và mong muốn được xã, huyện phê duyệt cho nhập ngũ.
Trong những năm tháng ấy, toàn miền Bắc đã huy động trên 3 triệu người phục vụ chiến
tranh (chiếm trên 12% số dân miền Bắc), trong đó gia nhập quân đội trên 1,5 triệu người.
Có tới trên 70% số hộ gia đình ở miền Bắc có người thân chiến đấu trên các chiến trường;
trên đồng ruộng, phụ nữ chiếm trên 63% trong số lao động trực tiếp, để nam giới đi đánh giặc, cứu nước.
Các lực lượng vận tải, lực lượng bảo đảm giao thông, mở đường và các lực lượng bảo đảm
khác... bao gồm hàng chục vạn người đều được động viên từ hậu phương lớn miền Bắc.
Ngoài ra, hậu phương miền Bắc cũng tiếp nhận hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ, con em
miền Nam tập kết ra miền Bắc học tập và công tác; đón tiếp gần 31 vạn thương binh và
hơn 35 vạn lượt người từ tiền tuyến ra hậu phương chữa bệnh, học tập, phục hồi sức khỏe
trở lại chiến trường.
Tuyến đường Trường Sơn huyền thoại là nơi đã chứng kiến lòng yêu nước, tinh thần và
quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Bắc. Đã có hàng chục vạn thanh niên lOMoAR cPSD| 46613224
xung phong, dân công hoả tuyến của miền Bắc được huy động tham gia đảm bảo giao
thông trên mọi nẻo đường từ hậu phương ra tiền tuyến.
Với sự hỗ trợ không ngừng nghỉ, sự chi viện thường xuyên, hiệu quả của miền Bắc, tuyến
vận tải chiến lược Trường Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Một khối lượng
khổng lồ vật chất và một lực lượng to lớn các binh đoàn chiến đấu đã được vận chuyển qua tuyến đường này.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong 16 năm, tuyến vận tải quân sự chiến lược này đã
vận chuyển khoảng 1.850.000 tấn vật chất hậu cần, vũ khí, trang bị kỹ thuật, kịp thời chi
viện tới các chiến trường miền Nam và hai nước bạn Lào, Campuchia; bảo đảm hành quân
cơ động, đưa đón hơn một triệu lượt người vào, ra hai miền Nam-Bắc.
Mặc dù bị đánh phá ác liệt, nhưng tuyến đường Trường Sơn chưa bao giờ bị gián đoạn.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu chiến lược quân sự Mỹ đều cho rằng,
một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Mỹ thua ở Việt Nam là do không
triệt phá được tiềm lực của miền Bắc.
Ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975 toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta.
Hậu phương lớn miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, đúng như sự khẳng
định của Đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ IV của Đảng: “Không thể nào có thắng lợi của
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt
16 năm qua luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược. Miền Bắc đã dốc
vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã
làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước.”./.