Nội dung quy luật ợng chất? dụ về quy luật
lượng chất?
1. Những vấn đề lý luận của quy luật
1.1 Khái niệm về lượng chất
1.1.1 Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất mặt lượng. Hai mặt
đó thống nhất hữu với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất phạm trù
triết học dùng để ch nh quy định khách quan vốn của sự vật, hiện tượng.
sự thống nhất hữu những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt với sự
vật, hiện tượng khác.
dụ: Nguyên tố đồng nguyên tử lượng 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy
1083đvC, nhiệt độ sôi 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những
chất riêng của đồng đ phân biệt với các kim loại khác.
1.1.2 Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan: chất cái vốn , nằm bên trong sự vật hiện
tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn
nước biển mặn tồn tại bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu
nhiên, ý muốn chủ quan của con người thể áp đặt được nó.
- Chất sự thống nhất hữu của các thuộc tính, các yếu tố của sự
vật.Thuộc tính những tính chất của sự vật, cái vốn của sự vật. Những
thuộc tính của sự vật ch được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại
của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều thuộc tính bản không bản. Chỉ những thuộc nh bản mới
hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ
thể thuộc tính bản không bản mới được phân biệt ràng.
Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động vật thì thuộc tính bản của con
người các thuộc tính khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, duy còn
các thuộc tính không thuộc tính bản. Xong trong quan hệ giữa con
người với con người thì những thuộc nh như nhận dạng về dấu vân tay lại
trở thành thuộc tính bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều quá trình tồn tại
phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy lại chất riêng. Như
vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ một chất rất thể nhiều
chất. dụ: những mức độ trưởng thành của nhân một con người từ ấu
thơ -> mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó
một chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của vẫn chưa thay đổi.
Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về
lượng của nhiệt độ từ 40-50đvC chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay
đổi.
1.1.3 Khái niệm về lượng:
Lượng phạm t triết học dùng để chỉ tính quy định vốn của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động phát triển cũng
như các thuộc tính của sự vật.
Biểu hiện của lượng
Lượng biểu hiện số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại
lượng tốc độ nhịp điệu vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên
cạnh đó lượng còn biểu hiện kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay
nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay
chậm, màu sắc đậm hay nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon dioxide
(CO2). Lượng số nguyên t tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C)
một nguyên tử oxi (O)
Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan lượng một dạng biểu hiện của vật chất,
chiếm một vị trí nhất định trong không gian tồn tại trong thời gian nhất
định.Trong sự vật hiện tượng nhiều loại lượng khác nhau như: lượng
yếu tố quyết định bên trong, lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự
vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng
phức tạp theo.
- Lượng thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc thể
nhận thức bằng con đường trừu tượng khái quát a. Trên thực tế lượng
của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận
tốc của ánh ng hay một phân tử bao gồm những nguyên tử nào. Bên cạnh
đó những lượng chỉ thể biểu thị dưới dạng trừu tượng khái quát như
trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một
công dân,..
- Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số
lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực bản của
đời sống hội hoặc chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật) gì, các
thông số về lượng không ổn định thường xuyên biến đổi cùng với sự vận
động biến đổi của sự vật , đó mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất lượng hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật,
hiện tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, hội duy. Hai
phương diện đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất
lượng của sự vật, hiện tượng chỉmang tính tương đối. những tính quy
định trong mối quan hệ này chất nhưng trong mối quan h khác lại lượng.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng
Sự thống nhất giữa chất lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng
sự thống nhất giữa mặt chất mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau,
chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất
định thì cũng một loại chất tương ứng ngược lại.Ví dụ như tương ng
với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô 1 nguyên t ôxy) thì
1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất bản,
khách quan, vốn của là: không u, không mùi, không vị, th hoà
tan muối, axít,…“Chất” “lượng” luôn thống nhất hữu với nhau, không
tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Khi sự vật đang tồn tại,
sự thống nhất giữa chất lượng luôn trong một độ nhất định. Bất cứ sự
thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự
vật, hiện tượng. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất
kỳ sự vật, hiện tượng nào ng chất lượng. Khi sự vật vận động
phát triển, chất lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay
đổi của lượng của chất không diễn ra độc lập với nhau chúng mối
quan hệ chặt ch với nhau. Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy
vượt quá giới hạn nhất định, thì chất sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ.
Không giới hạn đó gọi độ. Độ phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới
hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất
của sự vật ấy. nghĩa độ chỉ tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa
chất lượng, độ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. dụ khi ta nung một thỏi
thép trong lò, nhiệt độ của nung thể lên tới hàng nghìn đ song thỏi
thép vẫn trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng
thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về
chất. Giới hạn đó chính điểm nút. Theo triết học Mác-Lênin, điểm nút
phạm trù triết học dùng đ chỉ điểm giới hạn tại đó sự thay đổi về lượng
đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Chúng ta thể hiểu, điểm nút thời
điểm tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của ra đời.
Lượng mới chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên đ mới
điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này diễn ra liên tếp trong sự vật
vậy sự vật luôn phát triển chừng nào còn tồn tại. Sự vật tích luỹ đủ về
lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy phạm
trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút,
với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây
chính bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng. Bước nhảy sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới. thể nói, trong quá trình phát triển
của sự vật, sự gián đoạn tiền đề cho sự liên tục sự liên tục sự kế tiếp
của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu hơn về cái khái niệm ta cùng xét một
dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe trạng thái thể lỏng
(chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C ộ). Khi
lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng
thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy). Như vậy sự phát triển
của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất
định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của
quá trình ấy không cố định thể những thay đổi do tác động của
những điều kiện khách quan chủ quan quy định.
Các hình thức bản của bước nhảy:
+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật thể chia
thành bước nhẩy đột biến bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất
ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu bản của sự vật. dụ như khối
lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn t sẽ xảy ra
vụ n nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần bước nhảy được thực
hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất
mới những nhân tố của chất dần dần mất đi.
dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa hội một thời kỳ lâu i qua nhiều bước nhảy dần
dần.Vì một quá trình phức tạp, trong đó cả sự tuần t lẫn những bước
nhảy diễn ra từng bộ phận của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy thực hiện ớc nhảy của sự vật bước nhảy toàn bộ
bước nhảy cục bộ: Bước nhảy toàn bộ bước nhảy làm thay đổi chất của
toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ: bước
nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
dụ như trong hiện thực, các sự vật thuộc tính đa dạng, phong phú nên
muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ.
Sự quá độ lên chủ nghĩa hội ớc ta đang diễn ra từng bước nhảy cục
bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức chúng ta đang thực hiện những
bước nhảy cục bộ lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực hội lĩnh
vực tinh thần hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ
nghĩa hội trên đất nước ta.
Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của s vật:
Khi chất mới ra đời, không tồn tại một cách thụ động sự tác động
trở lại đối với lượng, được biểu hiện chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới
phù hợp với để sự thống nhất mới giữa chất lượng. Sự tác động ấy
thể hiện: chất mới thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi học
sinh vượt qua điểm nút kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức thực hiện bước nhảy
để trở thành sinh viên. Trình độ văn hoá của học sinh đã cao hơn trước sẽ
tạo điều kiện cho h thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến
lên trình độ cao hơn.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ
những sự phân tích trên thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng sự
thống nhất giữa chất lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới
hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước
nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình
tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phương diện chất lượng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau, tác động làm chuyển hóa lẫn nhau do đó
trong thức tiễn nhận thức phải coi trọng cả hai phương diện chất lượng.
+ Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất trong điều kiện
nhất định ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích lũy về lượng để làm
thay đổi chất của sự vật đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc
đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
+ Sự thay đổi về lượng chỉ m thay đổi chất khi lượng được tích lũy đến giới
hạn điểm nút do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh,
bảo thủ trì trệ.
+ Bước nhảy của sự vật, hiện tượng hết sức đa dạng, phong phú do vậy
cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều
kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời sống hội, quá trình phát triển không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện khách quan, n phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của
con người. Do đó, cần phải nâng cao nh tích cực chủ động của các chủ th
để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một ch hiệu quả nhất.
3 Liên hệ thực tiễn
3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng trong quá trình ch lũy kiến
thức của học sinh, sinh viên
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn cần sự
cố gắng không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh.
Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể
hiện chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe
các thầy giảng trên lớp, làm bài tập nhà, đọc thêm sách tham
khảo,…thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài
kiểm tra, những bài thi học kỳ kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri
thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức độ, các bài kiểm tra, các thi
điểm nút việc học sinh được sang một cấp học cao hơn bước nhảy.
Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau.
Trước hết bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học n học sinh
phổ thông kỳ thi lên cấp 3 điểm nút, đồng thời cũng điểm khởi đầu
mới trong việc tích y lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy
cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua thi đại học để trở thành một
sinh viên. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy
đủ khối lượng kiến thức vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm
nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất lượng học sinh
nào cũng muốn vượt qua đó thi đại học. Vượt qua thi tốt nghiệp cấp 3
đã một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được thi đại học lại còn
điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã
sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời phát
triển mới của lượng chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình
thành tác động trở lại lượng. S tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ
cũng như cách hành động của mỗi sinh viên, đó sự chín chắn, trưởng
thành hơn so với một học sinh trung học hay một học sinh phổ thông. tại
đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá
trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng bậc trung học hay phổ
thông. Bởi đó không đơn thuần việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng
của thầy mả phần lớn sự tự nghiên cứu, tìm tòi, ch lũy kiến thức, bên
cạnh những kiến thức trong sách vở những kiến thức hội từ các công
việc làm thêm hoặc từ c hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích
lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới,
bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó vượt qua thi tốt nghiệp để
nhận được tấm bằng cử nhân tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá
trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động
không ngừng trong quá trình tồn tại phát triển của mỗi con người, giúp con
người ngày càng đạt đến trình độ cao hơn, tạo động lực cho hội phát triển.
3.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên hiện
nay.
Sự khác nhau bản giữa việc học tập phổ thông Đại Học Lượng
kiến thức bậc đại học tăng lên đáng kể so với học bậc trung học
phổ thông.
dụ đơn giản, nếu cấp 3, một môn học o dài một năm thì đại học, một
môn học sẽ chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ ràng, lượng kiến thức tăng
lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho tân sinh viên. Không chỉ chênh
lệch về lượng kiến thức còn sự đa dạng về kiến thức bậc đại học
trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm,
thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay đổi về lượng kiến
thức, thời gian cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với
môi trường học tập giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học
đại học lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là
hoàn thành các mục tiêu giáo viên đ ra nhưng đối với sinh viên Đại học,
điều họ đang đối mặt không chỉ những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp họ
còn phải thực hiện các thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai
của họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác yếu tố quan trọng nhất,
không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh n bậc trung học, tinh thần tự học
sẽ được phát huy rệt. thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học
cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vậy mỗi
sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với i
trường đại học đ đạt được những thành ch cao trong quá rình học tập
nghiên cứu của mình.
Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động phát triển của sự vật bao giờ cũng diến
ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện
bước nhảy để chuyển về chất việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để
một tầm bằng Cử nhân yêu cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số lượng
các tín chỉ của các môn học. thể coi học tập quá trình tích lũy về lượng,
điểm nút các kỳ thi, thi cử bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức,
học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến
đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều phải
đến trường đ học tập, tiếp thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện
tích luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy hay
các thực tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng
Cử nhân, đảm bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói
cách khác chất đã thay đổi biến đổi sang chất mới.
Sinh viên phải tự học tập rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc,
trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành phát triển không ngừng theo thời gian,
con người cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. một sinh viên, chúng
ta cũng cần cải thiện bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta
sinh ra đều sứ mệnh sống làm việc, thành công hay không dựa trên
sự nỗ lực của mỗi người. Chính vậy, việc tự học, t nghiên cứu trau dồi
kiến thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người,
muốn bất sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải sự tích luỹ về lượng,
dưới sự giúp đỡ nào của bất ai thì đều không sự biến đổi nào về chất.
Như trong thi cử, sinh viên thể gian lận đ vượt qua thi , nhưng bản chất
thì vẫn chưa sự ch luỹ nào để làm biến đổi về chất.
Trong học tập nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng
vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất ngược lại thể rút ra một vài kết luận ý nghĩa phương pháp
luận trong việc học tập rèn luyện của sinh viên như sau: để thể cầm
được tấm bằng Cử nhân, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng c n chỉ môn
học; để môn học kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đ số lượng tiết của
các môn học. thể coi thời gian học độ, c bài kiểm tra các điểm nút
điểm số đạt yêu cầu bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết quả
tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn ch luỹ kiến thức trong quá trình học
tập rèn luyện của sinh viên. vậy, trong việc học tập các hoạt động học
thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) đ làm thay
đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập rèn luyện,
sinh viên cần tránh tưởng nhảy cấp. Nghĩa sau khi hoàn thành kiến thức
bản, tức đã sự biến đổi về chất thì sinh viên mới thể tiếp tục nghiên
cứu những kiến thức khó hơn. dụ như trước khi lên Đại học sinh viên phải
vượt qua thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy
ra. Hay trong quá trình học tập nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi
những chuyện ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại
từ đầu, đó giai đoạn ôn thi chứ không phải giai đoạn học lại kiến thức mới.
Chính vậy, sinh viên chăm học cũng không thể đảm bảo đủ lượng
kiến thức để vượt qua thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức
kết quả cao trong các thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức
bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về
chất theo hướng tích cực
Liên tục phấn đấu học tập rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để thể bước ra ngoài hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho
mình từ những điều đơn giản nhất như năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho
đến những kiến thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về c lĩnh vực khoa
học nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12 năm học tập khoảng thời gian bước
đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu
những kỹ ng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn
đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất ngược lại được thể hiện việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp
dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, m kiếm những
thông tin, mang về những lượng” tốt, sở đầy đủ. Từ đó, m biến
đổi “chất” tốt hơn, tạo n các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực
ấy. trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi,
nghiên cứu thư viện, giáo trình, luận văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích lu
học hỏi những năng mềm thiết yếu cho mai sau. Được tự do sáng tạo
trau dồi những “lượng” mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt được những
thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… tự tin bước
ra đời. C n vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra
không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng mỗi
sinh viên, giúp h tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy,
nhiệm vụ của sinh viên khai phá hết tiềm năng tri thức, kho d liệu ứng
dụng vào thực tiễn tiếp tục mở rộng con đường khoa học nghệ thuật,
tránh bị tưởng bảo thủ chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức thể.
Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ
năng; không được bỏ qua kiến thức bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ
dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không
thành công không thể hình thành chất mới. dụ, nếu bạn hỏng kiến thức
bản bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy đ được học
cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức bạn vượt qua điểm
nút một cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng không là vận
dụng theo quy luật lượng chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện
bước nhảy gây n chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn
thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, rằng sự phát triển vận
động của sự vật, hiện tượng việc liên tục thực hiện các bước nhảy, bạn
phải chú ý đến đ trong quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng bỏ
bước. tưởng bảo th ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như một
kỳ thi học sinh giỏi, mặc bạn đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ
thi, nhưng lại không đủ t tin đ thực hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó
chỉ được xem tích luỹ về lượng không sự thay đổi về chất. Bạn phải
nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để
lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ ch luỹ, kèm theo
chất lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu bản
chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ

Preview text:

Nội dung quy luật lượng chất? Ví dụ về quy luật lượng chất?
1. Những vấn đề lý luận của quy luật
1.1 Khái niệm về lượng và chất 1.1.1 Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt
đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù
triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng.
Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy
là 1083đvC, nhiệt độ sôi là 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những
chất riêng của đồng để phân biệt nó với các kim loại khác.
1.1.2 Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên trong sự vật hiện
tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn
nước biển mặn tồn tại ở bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu
nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó.
- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự
vật.Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những
thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại
của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới
hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ
thể mà thuộc tính cơ bản và không cơ bản mới được phân biệt rõ ràng.
Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động vật thì thuộc tính cơ bản của con
người là các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, có tư duy còn
các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con
người với con người thì những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân tay lại
trở thành thuộc tính cơ bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và
phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như
vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều
chất. Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu
thơ -> mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi.
Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về
lượng của nhiệt độ từ 40-50đvC chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi.
1.1.3 Khái niệm về lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng
như các thuộc tính của sự vật.
Biểu hiện của lượng
Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại
lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên
cạnh đó lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay
nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay
chậm, màu sắc đậm hay nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon dioxide
(CO2). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) và một nguyên tử oxi (O)
Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất,
chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất
định.Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau như: có lượng là
yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự
vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo.
- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể
nhận thức bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa. Trên thực tế lượng
của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận
tốc của ánh sáng hay một phân tử bao gồm những nguyên tử nào. Bên cạnh
đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như
trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,..
- Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số
lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội hoặc chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các
thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận
động biến đổi của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật,
hiện tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai
phương diện đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và
lượng của sự vật, hiện tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy
định trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thống nhất giữa chất và lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là
sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau,
chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất
định thì cũng có một loại chất tương ứng và ngược lại.Ví dụ như tương ứng
với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì
1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản,
khách quan, vốn có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà
tan muối, axít,…“Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không
tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Khi sự vật đang tồn tại,
sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong một độ nhất định. Bất cứ sự
thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự
vật, hiện tượng. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất
kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động và
phát triển, chất và lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay
đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy
vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ.
Không giới hạn đó gọi là độ. Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới
hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất
của sự vật ấy. Có nghĩa là độ chỉ tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa
chất và lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung một thỏi
thép ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng nghìn độ song thỏi
thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng
thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về
chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Theo triết học Mác-Lênin, điểm nút là
phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng
đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Chúng ta có thể hiểu, điểm nút là thời
điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời.
Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và
điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì
vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Sự vật tích luỹ đủ về
lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút,
với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây
chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và là
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới. Có thể nói, trong quá trình phát triển
của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp
của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một
ví dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể lỏng
(chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ). Khi
lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng
thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy). Như vậy sự phát triển
của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất
định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của
quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động của
những điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia
thành bước nhẩy đột biến và bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất
ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối
lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra
vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực
hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất
mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần
dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước
nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ
và bước nhảy cục bộ: Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của
toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ: là bước
nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên
muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ.
Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục
bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những
bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh
vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động mà có sự tác động
trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới
phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy
thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi học
sinh vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức là thực hiện bước nhảy
để trở thành sinh viên. Trình độ văn hoá của học sinh đã cao hơn trước và sẽ
tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ
những sự phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự
thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới
hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước
nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình
tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau do đó
trong thức tiễn và nhận thức phải coi trọng cả hai phương diện chất và lượng.
+ Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất trong điều kiện
nhất định và ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích lũy về lượng để làm
thay đổi chất của sự vật đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc
đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
+ Sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích lũy đến giới
hạn điểm nút do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
+ Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú do vậy
cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều
kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của
con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của các chủ thể
để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất. 3 Liên hệ thực tiễn
3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến

thức của học sinh, sinh viên
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự
cố gắng không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh.
Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể
hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe
các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham
khảo,…thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài
kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri
thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi
là điểm nút và việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy.
Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau.
Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh
phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu
mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy
vô cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một
sinh viên. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy
đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm
nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh
nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3
đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là
điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có
sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát
triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình
thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ
cũng như cách hành động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng
thành hơn so với một học sinh trung học hay một học sinh phổ thông. Và tại
đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá
trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ
thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng
của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên
cạnh những kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công
việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích
lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới,
bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để
nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá
trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động
không ngừng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con
người ngày càng đạt đến trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.
3.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học Lượng
kiến thức ở bậc đại học tăng lên đáng kể so với học ở bậc trung học phổ thông.
Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một
môn học sẽ chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ ràng, lượng kiến thức tăng
lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho tân sinh viên. Không chỉ chênh
lệch về lượng kiến thức mà còn có sự đa dạng về kiến thức ở bậc đại học và
trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm,
thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay đổi về lượng kiến
thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với
môi trường học tập và giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và
đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là
hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối với sinh viên Đại học,
điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ
còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai
của họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác là yếu tố quan trọng nhất,
không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học
sẽ được phát huy rõ rệt. Có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học
cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi
sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với môi
trường đại học để đạt được những thành tích cao trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến
ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện
bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để có
một tầm bằng Cử nhân yêu cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số lượng
các tín chỉ của các môn học. Có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng,
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức,
học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến
đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều phải
đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện
tích luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô hay
các kì thực tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng
Cử nhân, đảm bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói
cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và
con người cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. Là một sinh viên, chúng
ta cũng cần cải thiện bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta
sinh ra đều có sứ mệnh là sống và làm việc, thành công hay không dựa trên
sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi
kiến thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người,
muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về lượng,
dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều không có sự biến đổi nào về chất.
Như trong thi cử, sinh viên có thể gian lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất
thì vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.
Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng
vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp
luận trong việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm
được tấm bằng Cử nhân, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn
học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của
các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút
và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết quả
tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học
tập rèn luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học
thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay
đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện,
sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy cấp. Nghĩa là sau khi hoàn thành kiến thức
cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên
cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học sinh viên phải
vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy
ra. Hay trong quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi
những chuyện ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại
từ đầu, đó là giai đoạn ôn thi chứ không phải giai đoạn học lại kiến thức mới.
Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học cũng không thể đảm bảo đủ lượng
kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và
có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức
cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về
chất theo hướng tích cực
Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho
mình từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho
đến những kiến thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa
học – nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước
đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu
những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn
đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp
dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những
thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến
đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực
ấy. Ở trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi,
nghiên cứu ở thư viện, giáo trình, luận văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ
và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai sau. Được tự do sáng tạo
và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt được những
thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin bước
ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra
không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi
sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy,
nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng
dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật,
tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ
năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ
dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không
thành công và không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức
cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để được học ở
cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm
nút một cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận
dụng theo quy luật lượng – chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện
bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn
thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, dù rằng sự phát triển và vận
động của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các bước nhảy, bạn
phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ
bước. Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như là một
kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ
thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó
chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất. Bạn phải
nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để
lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo
chất lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản
chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ
Document Outline

  • Nội dung quy luật lượng chất? Ví dụ về quy luật lư
    • 1. Những vấn đề lý luận của quy luật
      • 1.1 Khái niệm về lượng và chất
        • 1.1.1 Khái niệm về chất
        • 1.1.2 Đặc điểm của chất:
        • 1.1.3 Khái niệm về lượng:
      • 1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
    • 2. Ý nghĩa phương pháp luận
    • 3 Liên hệ thực tiễn
      • 3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng tro
      • 3.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và