












Preview text:
lOMoAR cPSD| 60860503
Đề bài: Nội dung của Lễ hội truyền thống? BÀI LÀM
1. Đôi nét về Lễ hội và Lễ hội truyền thống
1.1.Khái niệm
Lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng là một sản phẩm văn hóa độc
đáo, sáng tạo của con người trong quá trình phát triển. Lễ hội nhằm thể hiện, tôn vinh
những nét văn hóa đặc sắc, đồng thời cũng thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”
của người Việt, là sự đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của con người với
mong muốn hướng đến những điều tốt đẹp, một cuộc sống bình an và hạnh phúc.
Từ việc nghiên cứu, và đúc kết các quan niệm khác nhau, một số tác giả đã đưa
ra khái niệm về “Lễ hội”.
Trong Giáo trình “Quản lý lễ hội và sự kiện”, tác giả Cao Đức Hải đã đưa ra khái
niệm "Lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc trưng của cộng đồng, xoay
xung quanh một trục, ý nghĩa nào đó, nhằm tôn vinh và quảng bá cho những giá trị nhất định."
Cố GS.TS. Ngô Đức Thịnh cho rằng "Lễ hội là một hoạt động mang ký niệm
định kỳ biểu thị thế giới quan của một nền văn hóa hay nhằm xã hội thông qua hành lễ,
diễn xướng, nghi lễ và trò chơi truyền thống. Là một hoạt động hết sức phổ biến, lễ hội
có thể là sự kiện có tính tượng trưng và tính xã hội phức tạp nhất, tồn tại lâu đời trong truyền thống."
Về khái niệm “Lễ hội truyền thống”, theo định nghĩa của UNESCO, Văn hóa
truyền thống (Traditional culture) “Là các tập quán và biểu tượng xã hội mà theo quan
niệm của một nhóm xã hội thì được lưu giữ từ quá khứ đến hiện tại thông qua việc lưu
truyền giữa các thế hệ và có một tầm quan trọng đặc biệt (ngay cả trong trường hợp
các tập quán và biểu tượng được hình thành trong khoảng thời gian không lâu) [36 -
tr.5]. Lễ hội thuộc phạm trù của văn hóa, do vậy khái niệm Lễ hội truyền thống có thể
bao trùm cả những lễ hội cổ truyền đã có từ xa xưa và cả những truyền thống lễ hội
được xác lập mấy chục năm trở lại đây như lễ hội kỷ niệm ngày quốc khánh, lễ hội
Làng Sen... Tuy nhiên, ở nước ta khi sử dụng cụm từ lễ hội truyền thống thông thường
được hiểu như lễ hội cổ truyền.
Lễ hội cổ truyền (hay lễ hội dân gian cổ truyền), được sử dụng ở đây bao gồm
những lễ hội đã được hình thành trong lịch sử từ xa xưa truyền lại trong các cộng đồng
nông nghiệp với tư cách một phong tục. Ví dụ: những lễ hội thờ Thành hoàng ở các
làng quê Bắc Bộ, lễ cúng đình ở Nam Bộ, lễ bỏ mả ở Tây Nguyên, lễ mừng lúa mới ở
nhiều tộc người miền núi... Khái niệm này cũng chỉ cả những lễ hội vượt ra ngoài
khuôn khổ của một cộng đồng làng, ấp, buôn, bản như những lễ hội ở đền, chùa... dân
gian được phát triển trên quy mô vùng hay cả nước như lễ hội Chùa Hương, lễ hội núi
Bà Đen, lễ hội Điện Hòn Chén... và cả những lễ hội có nguồn gốc dân gian nhưng đã lOMoAR cPSD| 60860503 2
phát triển yếu tố lịch sử rồi được công nhận một cách chính thống như những di tích
lịch sử thờ anh hùng dân tộc như hội đền Hùng, hội đền Kiếp Bạc, hội đền Hoa Lư.
Theo thời gian, có thể cho rằng các lễ hội được hình thành từ trước năm 1945,
từ thời kỳ lập nước của dân tộc và phát triển qua các thời kỳ được gọi là lễ hội truyền
thống (hay lễ hội cổ truyền), còn những lễ hội xuất hiện sau năm 1945 đến nay theo
các chủ đề hoặc các tiếp biến văn hóa khác nhau thì được xếp vào lễ hội hiện đại.
Theo Nghị Định 110/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ quy định về
quản lý và tổ chức Lễ hội đã định nghĩa “Lễ hội truyền thống (bao gồm cả lễ hội tại
các di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội dân gian) là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng
được tổ chức theo nghi lễ truyền thống, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân”.
1.2.Đặc trưng của lễ hội cổ truyền
Lễ hội cổ truyền Việt Nam thường có đề tài kép: nông nghiệp và lịch sử hoặc
ngược lại. Bản chất của lễ hội cổ truyền Việt Nam là sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, mang tính cộng đồng.
Lễ hội cổ truyền ở Việt Nam mang những đặc điểm sau: môi trường của lễ hội
cổ truyền Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội cổ truyền
là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng người.
So với các lễ hội hiện đại, lễ hội cổ truyền mang các đặc trưng cơ bản sau: -
Lễ hội cổ truyền gắn với đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng, nó mang
tính thiêng, do vậy nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập với đời sống trần gian, trần tục. -
Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống và tính phức
hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể. -
Chủ thể của lễ hội cổ truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng
đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là
cộng đồng quốc gia dân tộc.
Cả 3 đặc trưng này quy định tính chất, sắc thái văn hoá, cách thức tổ chức, thái
độ, hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội.
2. Nội dung của lễ hội truyền thống
2.1. Thời gian và không gian tổ chức lễ hội
Về thời gian, Lễ hội cổ truyền Việt Nam thường được tổ chức vào mùa xuân và
mùa thu hàng năm – đây là chu kỳ nông nghiệp lúa nước, là yếu tố gắn với lễ hội và
mong ước của người dân (cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu). Theo
nghiên cứu của tác giả Thu Linh và Đặng Văn Lung trong cuốn “Lễ hội truyền thống
và hiện đại”, các lễ hội Xuân mở ra từ tháng Giêng đến tháng Tư, tháng Năm; hội thu
bắt đầu từ tháng Bảy đến tháng Tám, tháng Chín hàng năm và trải dài khắp đất nước.
“Khắp 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đâu đâu cũng có hội. Mỗi vùng, mỗi miền,
mỗi dân tộc đều nổi lên một số hội lớn được nhân dân thừa nhận”. lOMoAR cPSD| 60860503 3
Về không gian, Lễ hội truyền thống tại Việt Nam thường được tổ chức tại các
không gian tự nhiên như gò, đống, bến sông, bãi bồi, bìa rừng, ven đê…Hoặc không
gian nhân tạo như đền, miếu, đình, chùa. Thường các không gian này có thể gắn với
một truyền thuyết hoặc một thần tích, một sự kiện nào đó của khu vực diễn ra lễ hội.
Ví dụ Lễ hội Gò Đống Đa được tổ chức tại Gò Đống Đa – Quận Đống Đa, TP. Hà Nội
vào mùng 5 tết Nguyên Đán hàng năm nhằm tri ân, tưởng nhớ Hoàng đế Quang Trung
– Nguyễn Huệ đã lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn
Thanh vào ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu (1789).
2.2.Phân loại lễ hội truyền thống
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, có nhiều quan điểm khác nhau về phân loại
Lễ hội truyền thống. Các lễ hội thường gắn với đặc điểm của vùng, miền, địa phương,
cùng với đó là nguồn gốc hình thành, tính chất khác nhau đã tạo nên sự đa dạng và phong phú của lễ hội. -
Lê Thị Nhâm Tuyết (1976) khi phân loại đã dựa vào tiết mục chính yếu
hoặc đặc sắc nhất của hội làng và căn cứ vào sự phân tích dân tộc học về ý nghĩa và
cội nguồn khác nhau của hội làng mà chia ra thành: Loại hình hội lễ nông nghiệp; Loại
hình hội lễ phồn thực giao duyên; Loại hình Hội văn nghệ, giải trí; Loại hình Hội thi
tài; Loại hình “Hội lịch sử -
Trịnh Cao Tường (1981) nói về những loại lễ hội xứ Bắc. Theo tác giả, lễ
hội cổ truyền ở Hà Bắc (cũ) có thể chia thành sáu loại: Hội liên quan tín ngưỡng nông
nghiệp cổ truyền; Hội mùa biểu hiện các hình thức Thượng võ; Hội liên quan tới anh
hùng dựng nước, giữ nước và nhân vật lịch sử; Hội văn hóa; Hội tập trung tại chùa lễ
Phật; Những hội hè tế lễ ở các làng mang màu sắc Đạo giáo. -
Đinh Gia Khánh (1989) đề nghị chia lễ hội làm hai loại: 1) “Hội lễ vốn có
nguồn gốc tôn giáo” và 2) “hội lễ vốn không có nguồn gốc tôn giáo”. -
Lê Trung Vũ (1997) lấy nội dung được phản ánh trong lễ hội dân gian cổ
truyền mà phân thành bốn hình thức thể hiện sau: Lễ hội tái hiện những sinh hoạt tiền
nông nghiệp; Lễ hội tái hiện những sinh hoạt nông nghiệp; Lễ hội tái hiện các sự kiện
lịch sử; Lễ hội tái hiện các mặt khác của xã hội: Như văn hóa nghệ thuật, phong tục, thề nguyền, tôn giáo... -
Nguyễn Quang Lê (2001) lấy các đặc điểm không gian tổ chức hội làm
tiêu chí phân loại lễ hội cổ truyền ở châu thổ Bắc Bộ.
+ Lễ hội đền: Là loại hình lễ hội dân gian truyền thống được tổ chức tại đền.
+ Lễ hội chùa: Là một loại hình lễ hội dân gian truyền thống được tổ chức tại
chùa. + Lễ hội đình: Là một loại hình lễ hội dân gian truyền thống được tổ chức tại đình.
Ngoài ra, trong lĩnh vực của quản lý lễ hội, có thể sử dụng tiêu chí phân loại
dựa theo phân cấp quản lý và quy mô (lễ hội địa phương, lễ hội vùng miền, lễ hội quốc
gia, lễ hội quốc tế…). lOMoAR cPSD| 60860503 4
2.3.Các thành tố của Lễ hội truyền thống
Lễ hội được cấu thành bởi hai yếu tố “lễ” và “hội”. Lễ là mặt tâm linh, tín
ngưỡng, tôn giáo… mang tính linh thiêng, còn hội là những sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật, là những trò chơi, trò diễn, các loại hình diễn xướng…có thể mang tính nghi thức
hoặc mang tính đời thường.
- Phần “Lễ”
Lễ vật cúng tế: là nghi thức dâng lễ vật lên thần linh, người được phụng thờ để
tỏ lòng cung kính hay tri ân, tưởng nhớ. Lễ vật thường có ở một Lễ hội là hương, đèn,
hoa trái, rượu, xôi gà, thủ lợn…ở một số nơi lễ vật có các loại bánh như bánh chưng,
bánh giầy tại Hội đền Hùng – Phú Thọ.
Văn tế: là áng văn ca ngợi công đức của các vị thánh, thần với làng xã, thể hiện
lòng thành kính hay mong ước của nhân dân. Văn tế thường được đọc tại đình, đền,
nghè…vào các ngày diễn ra lễ hội.
Nhạc cụ: Là những dụng cụ dùng để phụ trợ trong các nghi thức hành lễ như:
sênh tiền, đàn nguyệt, đàn tam, sáo, nhị, trống bộc…
Đối tượng hành lễ: Là những người tham gia vào nghi thức cúng, tế lễ tại lễ hội
như các cụ cao niên, Chủ tế, đội Tế, đội dâng hương. Đối tượng hành lễ có thể là tất cả
những người trong Ban tổ chức lễ hội và nhân dân, khách thập phương đến hành lễ.
Động tác lễ: là những “thao tác” để truyền tải lòng thành kính của con người đối
với đối tượng thờ cúng, thể hiện qua những cử chỉ, động tác của người hành lễ như vái,
lạy, quỳ…hay một số đã phát triển bài bản thành một buổi tế (ví dụ các buổi Tế nam,
Dâng hương nữ tại các lễ hội truyền thống được thực hành bởi một nhóm người, gồm
nhiều động tác thực hiện theo tuần tự, với các các trang phục phù hợp và được quy định tại buổi tế).
Ngoài ra, phần lễ tại các lễ hội truyền thống hiện nay có thể gồm nhiều hoạt động
khác, hoặc gọi chung cho phần nghi thức phải thực hiện như Lễ khai mạc, lễ Tế nam,
dâng hương nữ, lễ rước kiệu, rước nước… Phần Hội
- Trò diễn dân gian trong lễ hội
Trò diễn phục vụ cúng tế
+ Tục hèm: Theo giáo sư Đào Duy Anh, khái niệm hèm: “người ta thường bày
một trò để nhắc lại tính tình, sự nghiệp hoặc hành động của vị thần được làng thờ”. Có
thể hiểu hèm là trò diễn sinh hoạt, sự tích của vị thần được thờ trong làng, coi là nghi
tiết lúc mới vào đám, là điều kiêng kỵ do thờ cúng thần linh, hèm là một sự kiện quan
trọng đáng chú ý trong các lễ hội dân gian ở các miền quê khác nhau.
Ví dụ: Tục hèm trong lễ rước kiệu hội làng Ngô – phường Thạch Bàn – quận
Long Biên – TP. Hà Nội là trai rước kiệu phải là trai tân, tuổi đời dưới 30, trước ngày
rước kiệu phải tịnh thân 1 tuần… lOMoAR cPSD| 60860503 5
+ Trò diễn dân gian: là các hoạt động trình diễn cuộc đời nhằm tái hiện, mô
phỏng một phần cuộc đời, sự hoặc công tích có liên quan đến đối tượng được cộng
đồng dân cư thờ cúng. Khác với hèm chỉ là một hành động, một nghi thức ngắn hay
chỉ là sự kiêng kị thì trò diễn dân gian diễn ra với quy mô lớn hơn thời gian dàihơn số
lượng người và phương tiện tham gia nhiều hơn. Đôi khi trò diễn trong lễ hội trở thành
hạt nhân của lễ hội thu hút sự quan tâm sâu sắc của cả người tổ chức và những người tham dự hội.
Ví dụ về trò diễn dân gian: trò “Kéo co ngồi” tại lễ hội truyền thống đền Trấn
Vũ – phường Thạch Bàn – quận Long Biên – TP. Hà Nội tái hiện lại sự tích trai làng
của 3 mạn tranh nhau lấy nước lại giếng Nghè Đằng Đông vào năm trời khô hạn.
Trò chơi dân gian: Đây là một phần đặc biệt quan trọng không thể thiếu của các
lễ hội và thu hút nhân dân, khách thập phương tham gia như: cờ người, đi cầu khỉ, bắt
vịt, bịt mắt đập niêu, bịt mắt bắt dê…
- Văn hóa ẩm thực: Văn hóa ẩm thực là một phần không thể thiếu của các lễ hội
truyền thống, ở một số nơi ẩm thực là nét đặc sắc của lễ hội. Văn hóa ẩm thực thể hiện
ở lễ vật, ở các món ăn trong ngày lễ hội mà khi thưởng thức thường chúng ta gọi là
“thụ lộc” bởi dâng cúng thánh thần đã mang cho món ăn một “tính thiêng” so với món
ăn thường ngày. Mỗi địa phương, vùng miền lại có một món ăn đặc trưng hoặc tổ chức
các cuộc thi, hoạt động ẩm thực gắn với lễ hội như thi làm bánh chưng bánh dày tại lễ hội Đền Hùng…
Phần Hội tại các lễ hội truyền thống ngày nay còn bao gồm các hoạt động văn
hóa – thể thao quần chúng như hát quan họ tại giếng đình, đêm liên hoan văn nghệ,
giao lưu các môn thể thao như bóng chuyền hơi, cờ tướng….Hoặc các hội thi như thi
chim cảnh (Hội đình Cự Đồng – Thạch Bàn – Long Biên), thi thả chim bồ câu bay (Hội
đình Lệ Mật – Việt Hưng – Long Biên), các hoạt động thương mại, làng nghề, hội chợ
(Hội đình Lệ Mật – Việt Hưng – Long Biên).
2.4.Tiến trình của lễ hội truyền thống
2.4.1. Công tác chuẩn bị
* Chuẩn bị về con người
Thành lập Ban tổ chức Lễ hội, phân công nhiệm vụ các thành viên phụ trách
từng nhóm công việc trong lễ hội. + Trưởng ban/ chủ trì
+ Các phó ban phụ trách về khánh tiết, hậu cần, tài chính….
+ Các thành viên đảm nhiệm các công việc khác nhau do Trưởng và Phó ban phân công. -
Chuẩn bị lực lượng tham gia vào các hoạt động mang tính thiêng như Tế
lễ,dâng hương, đoàn rước, đội phù giá… lOMoAR cPSD| 60860503 6 -
Lực lượng hỗ trợ từ các ban ngành, đoàn thể địa phương và nhân dân (hỗ
trợtrong việc vệ sinh môi trường, trang trí, dọn dẹp, hậu cần…) * Chuẩn bị về địa
điểm, cơ sở vật chất:
Dọn dẹp, tổng vệ sinh môt trường tại khu vực tổ chức lễ hội; Bao sái ban thờ và
đồ thờ; Chuẩn bị các cơ sở vật chất (bàn ghế, maket khẩu hiệu tuyên truyền, âm thanh
ánh sáng, ô dù, nhà bạt…) tương ứng với từng khu vực (khu vực khai mạc, khu vực tế
lễ, khu vực tổ chức trò chơi, văn nghệ, đoạn đường diễn ra các nghi lễ như rước kiệu,
rước nước….); Kiểm tra điện, nước tại khu vực tổ chức…
*Chuẩn bị đồ tế, lễ vật
Kiểm tra, bao sái, sửa chữa đồ thờ, kiệu, bát bửu, chiêng trống,…
Chuẩn bị các lễ vật dâng cúng như xôi gà, thủ lợn, rượu, nước, mâm cúng, hoa
quả, đèn nến, hương…
Chuẩn bị các dụng cụ trong thực hành các nghi lễ, các trò diễn, trò chơi dân gian tại lễ hội…
*Các công tác chuẩn bị khác
Soạn thảo giấy mời dự lễ hội gửi đến các đại biểu, các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan…
Các nội dung khác như đảm bảo an ninh trật tự, an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy, y tế…
2.4.2. Diễn biến của lễ hội truyền thống
Một lễ hội thông thường sẽ diễn ra theo quy trình: Công tác chuẩn bị - chính hội – giã hội.
Căn cứ vào các lễ hội truyền thống diễn ra tại địa phương nơi công tác (phường
Thạch Bàn, quận Long Biên, TP. Hà Nội), em xin trình bày diễn biến của lễ hội truyền thống như sau:
Lễ hội truyền thống thường diễn ra từ 3 – 4 ngày, trong đó có một ngày gọi là
“chính hội” (thường là ngày sinh, ngày hóa của nhân vật được phụng thờ hoặc ngày
diễn ra sự kiện chính của lễ hội)
Bước 1: Công tác chuẩn bị
Công tác chuẩn bị thường diễn ra trước lễ hội khoảng 1 tháng và được sự quan
tâm, tham gia của chính quyền địa phương cũng như Ban quản lý di tích, nhân dân trên
địa bàn (theo các nội dung tại phần 2.4.1).
Bước 2: Vào Hội:
Ngày thứ nhất: Thường tổ chức các nghi lễ mang tính chất “báo cáo”, “xin phép”
mở hội như lễ cúng nghênh triệu đức Thánh, lễ phong y, lễ mộc dục, lễ Tế và dâng
hương của Đội Tế nam và dâng hương Nữ và lễ rước nước.
Lễ rước nước thường gắn liền với văn minh lúa nước và lòng biết ơn đối với
nguồn nước. Nghi lễ này bao gồm việc rước nước từ sông, hồ, giếng hoặc suối về để
thờ cúng, dâng lễ, hoặc làm lễ tế. Lễ rước nước thường diễn ra trên một đoạn đường, lOMoAR cPSD| 60860503 7
được thực hiện bởi một đoàn rước gồm có lân, sư tử, các cụ cao niên, đội bát bửu, đội
sinh tiền, kiệu rước…
Ví dụ: Hội đền Trấn Vũ phường Thạch Bàn thường rước nước từ giếng Nghè
Đằng Đông về đền Trấn Vũ trên một đoạn đường khoảng 1 cây số.
Ngày thứ hai và thứ ba (có nơi diễn ra trong nhiều ngày hơn): Thường diễn ra
các hoạt động chính hội như: -
Khai mạc lễ hội: Có dự tham gia của các lãnh đạo địa phương, ban ngành
đoàn thể và đông đảo nhân dân. Sau phần tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, lễ khai
mạc bắt đầu bằng diễn văn khai mạc giới thiệu truyền thuyết và ý nghĩa của lễ hội, khai
chiêng, khai trống, dâng hương lễ Thánh. Bắt đầu khai mạc thường có màn trống hội,
kết thúc khai mạc là các hoạt động như Tế cờ, múa lân, sư tử, văn nghệ… -
Các nghi lễ chính mang tính đặc sắc của Hội như lễ rước kiệu, thực hành
Kéo co Ngồi, lễ chém lợn… -
Các hoạt động dân gian truyền thống: chạy ngựa, cờ người, tổ tôm điếm,
viết thư pháp, các trò chơi dân gian… -
Các hoạt động phần hội: Văn nghệ quần chúng, hát quan họ, giao lưu các
môn thể thao, hội thi, hội chợ… -
Nhân dân và khách thập phương dâng lễ, thụ lộc trong suốt các ngày hội. Ngày cuối cùng: -
Rước Thánh hoàn cung, Tế tạ và giã hội - Ban tổ chức tổng kết Lễ hội.
3. Giá trị của lễ hội truyền thống trong quá khứ và hiện tại
Lễ hội truyền thống là kết tinh được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trải qua
bao nhiêu biến cố và thăng trầm của lịch sử, các lễ hội vẫn tồn tại, được các thế hệ
người gìn giữ và duy trì tới tận ngày nay. Như vậy, lễ hội truyền thống không chỉ mang
đậm nét bản sắc văn hóa của địa phương mà còn gắn liền với đời sống tinh thần và đời
sống xã hội của con người, phản ánh chính những đặc điểm, tính chất, đặc trưng của
cộng đồng nơi lễ hội đó hình thành. Cho dù ở thời kỳ nào, lễ hội cũng thể hiện mong
muốn của cộng đồng dân cư về một năm mới an lành, một cuộc sống tốt đẹp và bình yên.
Trong quá khứ và hiện tại, lễ hội truyền thống có những giá trị sau:
Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng
Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là
cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo
(hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội đền Hùng - quốc tế) đến cộng
đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ...
Chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo
nên sự cố kết cộng đồng. lOMoAR cPSD| 60860503 8
Giá trị hướng về nguồn cội
Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà
con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng
như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng về
nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam -“uống nước nhớ nguồn", "ăn
quả nhớ người trồng cây". Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gần với hành hương - du lịch.
Giá trị cân bằng đời sống tâm linh
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống
tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân thiện
mỹ - cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng.
Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải
tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng.
Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu
về đời sống tâm linh của con người, đó là "cuộc đời thứ hai", đó là trạng thái "thăng
hoa" từ đời sống trần tục, hiện hữu.
Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng – văn hóa cộng đồng của nhân dân ở
nông thôn cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí,
sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hóa
và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc.
Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa
Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi
trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc. Ví dụ: các làn điệu dân ca
như quan họ, hát xoan...; các điệu múa xanh tiền, con đi đánh bồng, múa rồng, múa
lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương...; các trò chơi, trò diễn:
Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám... được ra đời
và duy trì trong lễ hội suốt hàng nghìn năm qua.
Trong đời sống đương đại, lễ hội truyền thống còn mang lại các giá trị về kinh
tế và góp phần phát triển công nghiệp văn hóa. Một số lễ hội gắn với các tua du lịch và
thu hút đông đảo du khách có thể mang lại nguồn thu nhằm tái tạo nguồn lực tài chính
để tu bổ di tích, củng cố lễ hội, đồng thời tạo việc làm và nguồn thu cho cộng đồng địa
phương. Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại còn là lời nhắc nhở cho các thế hệ
sau về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là bản sắc văn hóa cần được bảo tồn và phát huy giá trị. PHỤ LỤC
Một số hình ảnh Lễ hội truyền thống tại phường Thạch Bàn lOMoAR cPSD| 60860503 9
– Quận Long Biên – TP. Hà Nội I. Phần Lễ
Khai mạc Lễ hội truyền thống Đền Trấn Vũ
Lễ rước nước từ Nghè Đằng Đông lên đền Trấn Vũ lOMoAR cPSD| 60860503 10
Lễ Tế dây song trước khi thực hành nghi lễ Kéo co Ngồi
Nghi lễ Kéo co Ngồi đền Trấn Vũ – di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
được UNESSCO công nhận lOMoAR cPSD| 60860503 11
Dâng hương nữ tại di tích đình Cự Đồng
Lễ rước kiệu – Nghi lễ độc đáo tại hội đình – nghè Ngô – phường Thạch Bàn lOMoAR cPSD| 60860503 12
Lễ chém thủ lợn Anh tại hội Đình Thạch Cầu Bây phường Thạch Bàn
II. Phần Hội lOMoAR cPSD| 60860503 13
Một số trò chơi dân gian tại Lễ hội Đình Thạch Cầu Bây phường Thạch Bàn
Các hoạt động văn hóa – thể thao tại các Lễ hội truyền thống