Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mangtính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thứcvà vận dụng nó trong thực tiễn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BÀI TẬP TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN NHÓM 5 - TUẦN 8
1. Phân tích nội dung ý nghĩa phương pháp luận của 3 quy luật của phép biện
chứng duy vật.
a. Định nghĩa quy luật
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con
người dần dần nhận thức được tính trật tự mối liên hệ tính lặp lại của các hiện
tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”.
Khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các
sự vật tính chỉnh thể của chúng. V.I. Lênin viết: Khái niệm một quy luật trong
những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính thống nhất và về liên hệ, về sự
phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá trình thế giới”.
Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực, quy luật là mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, phổ biến lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự
vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang
tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức
và vận dụng nó trong thực tiễn.
Các quy luật được phản ánh trong các khoa học không phải là sự sáng tạo tùy ý
của con người. Các quy luật do khoa học phát hiện ra chính là sự phản ánh các quy luật
khách quan của tự nhiên, xã hội cũng như tư duy con người.
c. Phân loại quy luật
Các quy luật hết sức đa dạng. Chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi
bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển của
sự vật. Do vậy, việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả
các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người.
1
Căn cứ vào trình độ tính phổ biến, các quy luật được chia thành: những quy
luật riêng, những quy luật chung và những quy luật phổ biến.
Những quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của
các sự vật hiện tượng cùng loại. Thí dụ: Những quy luật vận động cơ giới, vận động hóa
học, vận động sinh học,v.v..
Những quy luật chungnhững quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy
luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn: quy luật
bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng,v.v..
Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực: từ
tự nhiên, hội cho đến duy. Đây chính những quy luật phép biện chứng duy vật
nghiên cứu.
Căn cứ vào lĩnh tác động, các quy luật được chia thành ba nhóm lớn: quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật của tư duy.
Quy luật tự nhiên là những quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể
cả cơ thể con người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Quy luật hội là những quy luật hoạt động của chính con người trong các quan
hệhội. Những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt độngý thức
của con người. Mặc dù vậy, quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan.
Quy luật của tư duy là những quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của những khái
niệm, phạm trù, những phán đoán. Nhờ đó, trong tưởng của con người hình thành tri
thức nào đó về sự vật.
Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật
phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Các
quy luật bản của phép biện chứng duy vật phản ánh sự vận động, phát triển dưới
những phương diện cơ bản nhất. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
2
những thay đổi về chất ngược lại cho biết phương thức của sự vận động, phát triển;
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho biết nguồn gốc của sự vận động
và phát triển; quy luật phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của sự phát triển.
b. Nội dung 3 quy luật:
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: 3 quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực
hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử – cụ thể về phương
diện vạch ra nguồn gốc, động lực, cách thức xu hướng phát triển tiến lên của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới. Đó là 3 quy luật:
+ Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập: Còn được gọi là quy luật
mâu thuẫn. Quy luật này hạt nhân của phép biện chứng, vạch ra nguồn gốc, động
lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật.
Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức
đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết mâu thuẫn bản mâu thuẫn chủ yếu,
phải phân tích mâu thuẫn quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh
phương thức giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng. linh hoạt,
tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
+ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất
ngược lại: gọi quy luật lượng chất. Quy luật này phản ánh cách thức, cơ chế của
quá trình phát triển, là cơ sở phương pháp luận chung để nhận thức và thúc đẩy quá trình
phát triển của sự vật với 3 yêu cầu cơ bản là:
Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về
chất. Chống chủ nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện bước nhảy vọt
cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.
Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình phát triển.
3
Quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển
tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.
Đó sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi
phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn
trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa
nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ
định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến
những hình thái cơ bản của tương lai.
d. Ý nghĩa 3 quy luật:
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại:
Trong nhận thức hoạt động thực tiễn, chúng ta phải chú ý cả hai mặt chất
lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.
Cần chú ý từng bước tích luỹ về lượng để tạo ra sự biến đổi về chất; đồng thời
phát huy tác động của chất mới để làm thay đổi lượng mới.
Quy luật này sở để chúng ta khắc phục hai biểu hiện tưởng sai lầm sau
đây:
tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, muốn tạo nhanh sự biến đổi về chất
chưa có sự tích luỹ về lượng.
tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, coi sự phát triển chỉ sự tăng lên đơn
thuần về lượng mà không chủ động tạo ra sự biến đổi về chất khi có điều kiện.
Trong hoạt động thực tiễn cần vận dụng linh hoạt các bước nhảy sử dụng kết
hợp các bước nhảy để cải tạo, biến đổi sự vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
4
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện ra mâu
thuẫn, tôn trọng mâu thuẫn, nắm được bản chất, nguồn gốc khuynh hướng vận động,
phát triển của sự vật để từ đó đưa ra được những đường lối, chủ trương, biện pháp phù
hợp đối với việc cải tạo, biến đổi sự vật.
Việc giải quyết mâu thuẫn phải xác định được vị trí, vai trò của từng loại mâu
thuẫn để có biện pháp giải quyết cụ thể với yêu cầu của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định sở khoa học giúp chúng ta nhận thức đúng
đắn về xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình phát triển đó không diễn ra
theo đường thẳng trải qua nhiều lần phủ định quanh co, phức tạp, nhất trong lĩnh
vực xã hội.
Để cái mới ra đời và thay thế cái cũ theo đúng quy luật của nó, chúng ta phải nhận
dạng được cái mới, ủng hộ cái mới quan trọng hơn tạo điều kiện cho cái mới phát
triển. Để thực hiện được điều này cũng cần khắc phục tưởng giáo điều, bảo thủ, kìm
hãm sự ra đời, phát triển của cái mới.
Phảiquan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa của sự phát triển. Chúng ta
không phủ định hoàn toàn nhưng cũng không kế thừa nguyên xi cái chỉ kế thừa
những nhân tố tích cực, tiến bộ, hợp lí của cái cũ, phù hợp với sự phát triển của cái mới.
2. Ví dụ thực tế làm rõ những bài học được rút ra của 3 quy luật
Theo quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại:
dụ 1: Sau khi tan làm, A đi xe máy với quãng đường 5km t cơ quan về đến
nhà. Lúc này, tất cả sự thay đổi trong quãng đường mà A di chuyển từ cơ quan đến trước
khi về đến nhà được coi là sự thay đổi về “lượng”, cho đến thời điểm a về đến nhà thì đó
5
thay đổi về “chất”. Như vậy trong trường hợp này, ta thể thấy sự thay đổi về
lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất.
dụ 2: Một sinh viên X tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ Anh, khi ra trường xin vào
làm phiên dịch viên tại một công ty Y. Sau 2 tháng thử việc X được nhận làm nhân viên
chính thức. Sau 1 năm cố gắng hoàn thành xuất sắc công việc được giao, X đã được bổ
nhiệm vào vị trí trưởng phòng đối ngoại của công ty. Như vậy, qua ví dụ trên có thể thấy
X từ một sinh viên mới tốt nghiệp qua quá trình làm việc chăm chỉ, học hỏi trau dồi
kiến thức chuyên môn, X đã dần tích lũy đủ một lượng kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm
để dần thăng tiến từ vị trí thấp đến cao trong công việc. Đó là quy trình chuyển hóa từ sự
thay đổi về lượng đến sự thay đổi về chất.
dụ 3: Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác
nhau. Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông
kỳ thi lên cấp 3 điểm nút, đồng thời cũng điểm khởi đầu mới trong việc tích
lũy lượng mới [tri thức mới] để thực hiện một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc
đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành
tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành
động của mỗi sinh viên, đósự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung
học hay một học sinh phổ thông.
Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng [tích lũy kiến thức] mới lại bắt đầu, quá
trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng bậc trung học hay phổ thông trung
học. Bởi đó không đơn thuần việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy
mả phần lớn sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức
trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động
trong những câu lạc bộ.
6
Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước
nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt quathi tốt nghiệp để
nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc.
Theo quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
dụ 1: Trong hoạt động kinh tế thì sản xuất tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm
để thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng mục đích cuối
cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần người tiêu
dùng. Sản xuất việc tạo ra sản phẩm đối tượng thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể
tiêu dùng. Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng,
đây không phảiđối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân
sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng. Do đó sản xuất không chỉ đối tượng của
tiêu dùng còn quyết định về phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản
phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này nghĩa chỉ khi
sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm
đó. Do vậy thể thấy được rằng sản xuất tiêu dùng chính sự thống nhất của hai
mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau
từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
dụ 2: Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất trong hội giai cấp đối
kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm
diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều
hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.
dụ 3: Trong mỗi con người, hoạt động ăn hoạt động bài tiết ràng các
mặt đối lập. Nhưng chúng phải nương tựa nhau, không tách rời nhau. Nếu hoạt động
ăn không hoạt động bài tiết thì con người không thể sống được. Như vậy, hoạt
động ăn và hoạt động bài tiết thống nhất với nhau ở khía cạnh này.
7
Theo quy luật phủ định của phủ định:
dụ 1: Một con mái được được coi cái khẳng định, nhưng khi con mái
đó đẻ trứng thì quả trứng đó sẽ đươc coi là cái phủ định của con gà. Sau đó quả trứng
trải qua thời gian vận động phát triển thì quả trứng lại nở ra con con. Vậy con
con lúc này sẽ được coi cái phủ định của phủ định, phủ định của phủ định sẽ trở
thành cái khẳng định. Sự vận động phát triển này luôn diễn ra liên tục vận động
phát triển và có tính chu kỳ.
Ví dụ 2: Một cây bắp chẳng hạn, khi đã tích lũy đủ chất dinh dưỡng và đủ lớn (tức
đã đủ lượng) có được cờ bắp, râu bắp. Khi đó, cần có sự thụ phấn giữa hạt phận và
quan sinh sản cái thì nó sẽ hình thành nên hạt bắp. Quá trình thụ phấn chính là bước nhảy
của cây bắp. Kể từ khi còn hạt bắp: khi hạt nảy mầm, phủ định lại hạt chưa nảy
mầm, cây bắp phủ định hạt bắp đã nảy mầm, trái bắp phủ định cây bắp...Vậy cây bắp là
phủ định của phủ định, và các giai đoạn khác cũng thế nó cũng là phủ định của phủ định
cái khác.
dụ 3: Khi giai cấp phong kiến nắm quyền, trong nội tai của hội phong kiến
đã sự tích lũy bản của các địa chủ, thương gia. Đó chính sự tích lũy về lượng.
Một khi lượng đã được tích lũy đủ thì giai cấp tư sản sẽ thực hiện bước nhảy đó chinh là
cuộc cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến. Đó là quá trình tích lũy dần về lượng,
khi đã đủ lượng thì thực hiện bước nhảy để dẫn đến sự thay đổi về chất. khi chính
quyềnsản đã thanh lập nó đã phủ định chính quyền phong kiến. trước đó chế độ
phong kiến đã phủ định chế độ chiếm hữu lệ. Vậy TBCN chính cái phủ định của
phủ định
3. Tài liệu tham khảo
1. Sách bài tập triết học Mác Lênin Trường Đại học Khoa học hội nhân
văn Khoa triết học
2. Giáo trình triết học Mác – LêninTrường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
Khoa triết học
8
3. https://www.tailieuontap.com/2013/03/nhung-quy-luat-co-ban-cua-phep-bien.html
4. https://www.wattpad.com/225980-c%C3%A2u-7-ba-quy-lu%E1%BA%ADt-c
%E1%BB%A7a-ph%C3%A9p-bi%E1%BB%87n-ch%E1%BB%A9ng-duy-v
%E1%BA%ADt-%C3%BD/page/7
9
| 1/9

Preview text:

BÀI TẬP TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN NHÓM 5 - TUẦN 8
1. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của 3 quy luật của phép biện chứng duy vật.
a. Định nghĩa quy luật
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con
người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các hiện
tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”.
Khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các
sự vật và tính chỉnh thể của chúng. V.I. Lênin viết: “ Khái niệm là một quy luật trong
những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính thống nhất và về liên hệ, về sự
phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá trình thế giới”.
Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực, quy luật là mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự
vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang
tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức
và vận dụng nó trong thực tiễn.
Các quy luật được phản ánh trong các khoa học không phải là sự sáng tạo tùy ý
của con người. Các quy luật do khoa học phát hiện ra chính là sự phản ánh các quy luật
khách quan của tự nhiên, xã hội cũng như tư duy con người.
c. Phân loại quy luật
Các quy luật hết sức đa dạng. Chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi
bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển của
sự vật. Do vậy, việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả
các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người. 1
Căn cứ vào trình độ tính phổ biến, các quy luật được chia thành: những quy
luật riêng, những quy luật chung và những quy luật phổ biến.
Những quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của
các sự vật hiện tượng cùng loại. Thí dụ: Những quy luật vận động cơ giới, vận động hóa
học, vận động sinh học,v.v..
Những quy luật chung là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy
luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn: quy luật
bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng,v.v..
Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực: từ
tự nhiên, xã hội cho đến tư duy. Đây chính là những quy luật phép biện chứng duy vật nghiên cứu.
Căn cứ vào lĩnh tác động, các quy luật được chia thành ba nhóm lớn: quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật của tư duy.
Quy luật tự nhiên là những quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể
cả cơ thể con người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Quy luật xã hội là những quy luật hoạt động của chính con người trong các quan
hệ xã hội. Những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt động có ý thức
của con người. Mặc dù vậy, quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan.
Quy luật của tư duy là những quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của những khái
niệm, phạm trù, những phán đoán. Nhờ đó, trong tư tưởng của con người hình thành tri
thức nào đó về sự vật.
Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật
phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Các
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh sự vận động, phát triển dưới
những phương diện cơ bản nhất. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành 2
những thay đổi về chất và ngược lại cho biết phương thức của sự vận động, phát triển;
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho biết nguồn gốc của sự vận động
và phát triển; quy luật phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của sự phát triển.
b. Nội dung 3 quy luật:
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: 3 quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực
hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử – cụ thể về phương
diện vạch ra nguồn gốc, động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới. Đó là 3 quy luật:
+ Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập: Còn được gọi là quy luật
mâu thuẫn. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, Nó vạch ra nguồn gốc, động
lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật.
Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức
đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu,
phải phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là
phương thức giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng. linh hoạt,
tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
+ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất
và ngược lại: gọi là quy luật lượng – chất. Quy luật này phản ánh cách thức, cơ chế của
quá trình phát triển, là cơ sở phương pháp luận chung để nhận thức và thúc đẩy quá trình
phát triển của sự vật với 3 yêu cầu cơ bản là:
 Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về
chất. Chống chủ nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
 Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện bước nhảy vọt
cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.
 Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình phát triển. 3
Quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển
tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.
Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi
phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn
trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa
nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ
định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến
những hình thái cơ bản của tương lai.
d. Ý nghĩa 3 quy luật:
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải chú ý cả hai mặt chất và
lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.
Cần chú ý từng bước tích luỹ về lượng để tạo ra sự biến đổi về chất; đồng thời
phát huy tác động của chất mới để làm thay đổi lượng mới.
Quy luật này là cơ sở để chúng ta khắc phục hai biểu hiện tư tưởng sai lầm sau đây:
Tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, muốn tạo nhanh sự biến đổi về chất mà
chưa có sự tích luỹ về lượng.
Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, coi sự phát triển chỉ là sự tăng lên đơn
thuần về lượng mà không chủ động tạo ra sự biến đổi về chất khi có điều kiện.
Trong hoạt động thực tiễn cần vận dụng linh hoạt các bước nhảy và sử dụng kết
hợp các bước nhảy để cải tạo, biến đổi sự vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: 4
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện ra mâu
thuẫn, tôn trọng mâu thuẫn, nắm được bản chất, nguồn gốc và khuynh hướng vận động,
phát triển của sự vật để từ đó đưa ra được những đường lối, chủ trương, biện pháp phù
hợp đối với việc cải tạo, biến đổi sự vật.
Việc giải quyết mâu thuẫn phải xác định được vị trí, vai trò của từng loại mâu
thuẫn để có biện pháp giải quyết cụ thể với yêu cầu của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở khoa học giúp chúng ta nhận thức đúng
đắn về xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình phát triển đó không diễn ra
theo đường thẳng mà trải qua nhiều lần phủ định quanh co, phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã hội.
Để cái mới ra đời và thay thế cái cũ theo đúng quy luật của nó, chúng ta phải nhận
dạng được cái mới, ủng hộ cái mới và quan trọng hơn là tạo điều kiện cho cái mới phát
triển. Để thực hiện được điều này cũng cần khắc phục tư tưởng giáo điều, bảo thủ, kìm
hãm sự ra đời, phát triển của cái mới.
Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa của sự phát triển. Chúng ta
không phủ định hoàn toàn nhưng cũng không kế thừa nguyên xi cái cũ mà chỉ kế thừa
những nhân tố tích cực, tiến bộ, hợp lí của cái cũ, phù hợp với sự phát triển của cái mới.
2. Ví dụ thực tế làm rõ những bài học được rút ra của 3 quy luật
Theo quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại:
Ví dụ 1: Sau khi tan làm, A đi xe máy với quãng đường 5km từ cơ quan về đến
nhà. Lúc này, tất cả sự thay đổi trong quãng đường mà A di chuyển từ cơ quan đến trước
khi về đến nhà được coi là sự thay đổi về “lượng”, cho đến thời điểm a về đến nhà thì đó 5
là có thay đổi về “chất”. Như vậy trong trường hợp này, ta có thể thấy sự thay đổi về
lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất.
Ví dụ 2: Một sinh viên X tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ Anh, khi ra trường xin vào
làm phiên dịch viên tại một công ty Y. Sau 2 tháng thử việc X được nhận làm nhân viên
chính thức. Sau 1 năm cố gắng hoàn thành xuất sắc công việc được giao, X đã được bổ
nhiệm vào vị trí trưởng phòng đối ngoại của công ty. Như vậy, qua ví dụ trên có thể thấy
X từ một sinh viên mới tốt nghiệp qua quá trình làm việc chăm chỉ, học hỏi và trau dồi
kiến thức chuyên môn, X đã dần tích lũy đủ một lượng kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm
để dần thăng tiến từ vị trí thấp đến cao trong công việc. Đó là quy trình chuyển hóa từ sự
thay đổi về lượng đến sự thay đổi về chất.
Ví dụ 3: Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác
nhau. Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông
và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới trong việc tích
lũy lượng mới [tri thức mới] để thực hiện một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc
đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành
và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành
động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung
học hay một học sinh phổ thông.
Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng [tích lũy kiến thức] mới lại bắt đầu, quá
trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thông trung
học. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô
mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức
trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. 6
Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước
nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để
nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc.
Theo quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Ví dụ 1: Trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm
để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối
cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu
dùng. Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể
có tiêu dùng. Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng,
đây không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân
sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng. Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của
tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản
phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi
sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm
đó. Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai
mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau
từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Ví dụ 2: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối
kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm
nó diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều
hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.
Ví dụ 3: Trong mỗi con người, hoạt động ăn và hoạt động bài tiết rõ ràng là các
mặt đối lập. Nhưng chúng phải nương tựa nhau, không tách rời nhau. Nếu có hoạt động
ăn mà không có hoạt động bài tiết thì con người không thể sống được. Như vậy, hoạt
động ăn và hoạt động bài tiết thống nhất với nhau ở khía cạnh này. 7
Theo quy luật phủ định của phủ định:
Ví dụ 1: Một con gà mái được được coi là cái khẳng định, nhưng khi con gà mái
đó đẻ trứng thì quả trứng đó sẽ đươc coi là cái phủ định của con gà. Sau đó quả trứng gà
trải qua thời gian vận động và phát triển thì quả trứng lại nở ra con gà con. Vậy con gà
con lúc này sẽ được coi là cái phủ định của phủ định, mà phủ định của phủ định sẽ trở
thành cái khẳng định. Sự vận động và phát triển này luôn diễn ra liên tục vận động và
phát triển và có tính chu kỳ.
Ví dụ 2: Một cây bắp chẳng hạn, khi đã tích lũy đủ chất dinh dưỡng và đủ lớn (tức
là đã đủ lượng) có được cờ bắp, râu bắp. Khi đó, cần có sự thụ phấn giữa hạt phận và cơ
quan sinh sản cái thì nó sẽ hình thành nên hạt bắp. Quá trình thụ phấn chính là bước nhảy
của cây bắp. Kể từ khi còn là hạt bắp: khi hạt nảy mầm, nó phủ định lại hạt chưa nảy
mầm, cây bắp phủ định hạt bắp đã nảy mầm, trái bắp phủ định cây bắp...Vậy cây bắp là
phủ định của phủ định, và các giai đoạn khác cũng thế nó cũng là phủ định của phủ định cái khác.
Ví dụ 3: Khi giai cấp phong kiến nắm quyền, trong nội tai của xã hội phong kiến
đã có sự tích lũy tư bản của các địa chủ, thương gia. Đó chính là sự tích lũy về lượng.
Một khi lượng đã được tích lũy đủ thì giai cấp tư sản sẽ thực hiện bước nhảy đó chinh là
cuộc cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến. Đó là quá trình tích lũy dần về lượng,
khi đã đủ lượng thì thực hiện bước nhảy để dẫn đến sự thay đổi về chất. Và khi chính
quyền Tư sản đã thanh lập nó đã phủ định chính quyền phong kiến. Mà trước đó chế độ
phong kiến đã phủ định chế độ chiếm hữu nô lệ. Vậy TBCN chính là cái phủ định của phủ định
3. Tài liệu tham khảo
1. Sách bài tập triết học Mác – Lênin – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Khoa triết học
2. Giáo trình triết học Mác – Lênin – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Khoa triết học 8 3. https://www
.tailieuontap.com/2013/03/nhung-quy-luat-co-ban-cua-phep-bien.html 4. https://www
.wattpad.com/225980-c%C3%A2u-7-ba-quy-lu%E1%BA%ADt-c
%E1%BB%A7a-ph%C3%A9p-bi%E1%BB%87n-ch%E1%BB%A9ng-duy-v %E1%BA%ADt-%C3%BD/page/7 9