Nữ thần trong thần thoại Việt Nam Gía trị và bản sắc

Nữ thần trong thần thoại Việt Nam Gía trị và bản sắc

lOMoARcPSD|197044 94
lOMoARcPSD|197044 94
Nữ THAN TRONG THÂN THOI VIT NAM:
GIÓ TRÌ vn BN SÁC
§
Nguyn Thị Huế*
V [ thần một hệ thống nhân vật độc đáo trong thần thoại, nữ thần
^ nhiều địa vvà thân phận khác nhau. Ngày Iiay, khi tiếp cận
một số thần thoại về nữ thần, chúng ta thưng thấy nữ thần xuất hiện vi
thân phận v, con gái hoặc thuộc hạ của nam thần. Song đầy kng hoàn
toàn là diện mạo nguyên thủy của thần thoại v nữ thần.Trong những câu
chuyện thần thoại cổ a nhất của thế giới, song song bên cạnh các nam thần
những v nữ thần đảm nhiệm các chức vụ khác nhau như: Sinh ra con
ngưi (thần Nữ Oa, Tây ơng Mầu - thần thoại Trung Hoa); Bảo hộ hôn
nhân và sinh đẻ (nữ thần Hera - thần thoại Hy Lạp, nữ thần Frigg - thần thoại
Bắc Âu); Nữ thần tình yêu và sắc đẹp (nữ thần Aphrodite - thần thoại Hy
Lạp, nữ thần Freyja - thần thoại Bắc Âu); nữ thần chiến tranh (nữ thần
Athena - thần thoại Hy Lp)...
Chính đông đảo các vnữ thần này đã cùng vi nam thần tạo nên một
thế giới thần thoại hoàn chỉnh. Hình ảnh c nữ thần thưng xuất hiện bên
cạnh những nam thần nhằm tôn vinh tầm quan trọng của ngưi phụ nữ trong
hội cổ a và m phong phú thêm cho các câu chuyện thần thoại. Xét từ
diện mạo nguyên thủy đến những diễn biến của thần thoại nữ thần, chúng ta
sẽ thấy sự phản ánh tiến trình văn minh lịch sử của nhân loại. Bởi hội loài
ngưi đã trải qua quá trình diễn tiến từ hội mẫu hệ sang hội phụ hệ,
thần thoại cũng trải qua quá trình từ kiểu thần thoại nữ thần sang kiểu thần
thoại nam thần. vậy, nghiên cứu thần thoại về nữ thần - một bộ phận đặc
* PGS. TS, Viện Vãn học.
Downloaded by Ng?c Hoài (hoaingoc2962003@gmail.com)
lOMoARcPSD|197044 94
208
Van h ó a th Nữth N - MU VlTNAM CHÂU Á
biệt trong thần thoại một công việc cần thiết và ý nghĩa khi nghiên cứu
về thần thoại nói chung.
Tham luận trên sở khảo sát 3 hệ thống thần thoại tiêu biểu về nữ
thần của Việt Nam: Thần thoại vNữ thần Lúa, thần thoại vNữ thần La,
thần thoại vNữ thần c, để từ đó hình dung vdiện mạo của nữ thần
trong thần thoại Việt Nam. Đồng thời cũng từ đó đi sâu tìm hiểu quá trình
diễn biến của thần thoại nữ thần, sự chuyển hóa của vtrí trung m từ nữ
thần sang nam thần, khuynh ng thế tục hóa và ý thức tự ngã những vị
nữ thần này.
1. a - Nữ thn trong thn thoi về nguồn gc cây lúa
Nếu như ong thần thoại Hy Lạp thần Demeter (hay Ceres trong
thần thoại La Mã) Nữ thần Nông nghiệp, hiện thân của sự tnàu m, thì
trong thần thoại của Việt Nam - v thần Lúa, vthần cùa nền văn minh nông
nghiệp lúa nưc cũng mt vị Nữ thần.
Thần thoại vcây lúa và Nữ thần Lúa hầu hết các dân tộc Việt
Nam, thần tên gọi Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa (Mưng), Mẹ Lúa (Khơ
Mú) hay Nữ thần Jang Xri (Xơ Đăng)... Thần thoại các dân tộc coi sứ mệnh
tạo trồng, sản sinh giống lúa thuộc vNữ thần Lúa và những ngưi phụ nữ.
Thần thoại v lúa và N thần Lúa sự biến đổi khi (thần thoại Kinh, Tày,
H'mông, Cao Lan) coi sứ mệnh bảo vệ, chăm lo nghề nông, nghề trồng lúa
c thuộc về vị Nam thần Thần Nông.
Chúng ta thể thấy nhng thần thoại vlúa, phàn ánh tính chất chung
của các yếu tố văn hoá, hội, tinh thần của dân nông nghiệp Việt Nam
trên con đưng dài phát hiện, tìm tòi và thuần hóa cây lúa, làm cho trở
thành nguồn ơng thực chính nuôi sống con ngưi. Đồng thời chúng ta
cũng thể thấy những thần thoại về lúa có những biến đổi qua tiến ình
lịch sử, vì vậy vthần liên quan tới nguồn gc, sự sản sinh ra cây lúa đỏ v
Nữ thần Lúa cũng những biến đổi liên quan, một quá trình biến đổi không
đon tuyến đa tuyến.
Các câu chuyện thần thoại cồ a vcây lúa của hầu hết các dân tộc
Việt Nam đều krằng khi đó việc đi lại gia trời và đất còn dễ dàng, con
ngưi đã phải lên tri xin giống lúa, giống ngô. hầu hết các câu
chuyện, ngưi cho giống lúa giống ngô không phải ai khác mà chính do
Nữ thần Lúa hoặc i dạng một vị thần linh hoặc i dạng những ngưi
phụ nữ, già, hay gái trẻ.
lOMoARcPSD|197044 94
N thn trong thn thoại Vit Nam..
209
Truyện M Lúa, M Ncùa ngưi Pu Péo, truyện Sự ch cây lúa của
ngưi Đăng và ni Chu Ru đều k Trên trời Ngọc Huyệt gi
làm lão ăn xin, xuống mặt đất thấy ngưi đói khổ đã cho hai anh em ăn
thử com gạo, thấy ngon” và N thần Lúa từ trên trời thấy con ngưi vất v
kiếm ăn nên đã giả dạng thành ngưi phụ nữ đem đến cho con ngưi một thứ
hạt vàng óng”. Hoặc lão (Nữ thần Lúa) cho giống lúa và bắp, bày cách
trỉa lồ, gieo trồng. Lúa, bắp sinh sôi ngày càng nhiu,.... Hoặc theo ngưi
Khơ thì a ngưi chỉ biết bẫy thú để kiếm sống. một cái hang
trong đó bay ra những hạt màu vàng, ăn thử thấy ngon, nhưng ngưi không
sao vào hang lấy đưc...Có con vắt xin đưc ăn máu ngưi con gái trẻ,
hứa sẽ vào hang mang những hạt màu vàng về cho ngưi. gái nhận lời,
nhờ đó dân làng đưc hạt giống đem gieo trồng để làm ơng thực. Khi
lúa chín, chim hay chuột ra ruộng hoặc ra ơng ăn trưc, chó đưc ăn
m, vắt đưc hút máu ngưi, còn dân làng lấy tên gái đặt cho hạt vàng
ấy gọi Lúa”.
Ngưi ng trong sử thi Đẻ đất đẻ ớc k Rấp đi đào
củ mài gặp chuột ỉông đỏ, chuột mách vnói vi Lang Cun cần cử Nàng
Dặt Cái Dành lên trời xin lúa. Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa cho nàng đem v
trần 40 giống lúa ruộng, 30 giống lúa ơng. Từ khi trần gian lúa, ngưi
ng nhớ ơn hàng m đến mùa m mi lại làm lễ cúng Nàng Dặt Cái
Dành và Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa. Nhớ ơn, con ngưi gọi Mẹ Lúa Mẹ
Ngô, hay khi lúa chín ngưi ra ơng rẫy m lễ ẹúng các vthần đã cho lúa,
cho ngô lập đền thờ Nữ thần Lúa theo lời mách bảo cùa con trăn.
truyện của các dân tộc Tây Nguyên, lúa cũng đưc coi một vNữ
thần, hiện thân của mối quan hệ gia con ngưi vi thần trời, hình dạng
một g tốt bụng đã cho con ngưi giống lúa... Trong truyện Đẻ đất đẻ
người của ngưi Mạ k rằng v thần tối cao N'Đu của ngưi Mạ thấy loài
ngưi nghèo khổ, phải vào rừng đào củ hái quả kiếm ăn bèn sai Nữ thần Lúa
hiện hình thành hai con chim Phí, chim Tek. Chim theo thần bay đi lấy lúa
trời rồi đậu trên cành đa (Jri), trên dây leo (klác) nhả hạt, ngưi Mạ đem hạt
gieo xuống đất và t đó lúa ăn. Truyện của ngưi Chu Ru còn k vì con
ngưi bắn nhầm phải con gái thần Lúa i dạng một con chim nên ta đã
nổi giận m trời sập đè chết mọi ngưi, còn sót hai đứa trẻ, Nữ thần lại dạy
chúng cách m vợ chồng, cách trồng lúa, săn thú.
Trong các câu chuyện trên, hạt lúa luôn đưc nhắc tới vi đặc tính ban
đầu Hạt lúa ban đầu rất to, to như quả xanh hoặc to như quả bầu (Thái).
lOMoARcPSD|197044 94
2 1 0 V
a
N
h
ó
a
t
h
N
t
h
N
- MU VlT NAM VÀ
c
h
a
u
á
Con ngưi không cần gieo gặt mà cứ mùa xuân đến Các hạt lúa tự mọc lên
xanh, cuối vụ lại t động lăn vnhà, ngưi ta chì việc dọn sạch nhà để đón
lúa mà thôi” (Cao Lan) và “Lúa gặt xong lại trổ lại và chín tiếp, không sao
gặt hết” (Kinh). Hay Ngày a khi lúa, ngô, cây cỏ bị loài ngưi phạt đến
đâu, liền mọc đến đó. Mọi ngưi chỉ cần làm một đám ruộng tẹo, chỉ
to bằng cái dạng háng chân chim gặt mãi không hết” (Tày). ơng tự,
truyện của ngưi Mạ cũng kHạt giống lúa, bắp, cà, t, chi cần nấu bảy hạt
tự nhiên nồi m sẽ đầy lên” và.“Lúa những chiếc dài, to bằng bàn
tay mọc khắp i. Chỉ cần hái bỏ vào nồi nấu m ăn”.
Song cũng chính nhng ngưi phụ nữ đã là ngưi làm thay đổi đặc
tính của Lúa. Truyện của ngưi Cao Lan, ngưi Kinh, ngưi Thái, ngưi
Tày, ngưi Khơ Me đều nói vhành động bất cẩn của ngưi phụ nữ khiến
cho đặc tính ban đầu của lúa bị thay đổi. Một ngưi đàn i biếng để
nhà cửa bẩn thiu hay mải gội đầu chải tóc, khi lúa chín kéo nhau vta
dùng gậy, dùng chổi đập, vụt vào lúa khiến v tan thành những hạt nhỏ,
miệng luôn chửi rủa rằng: Bao giờ vòi tre, i sắt cắt cổ hãy về!
cấm chúng không đưc tự ý về nhà” (Cao Lan). Hay Hạt gạo to như quả
đỏ, ngày ngày từ trên ơng rẫy vntheo ý muốn của con ngưi.
Hôm ấy, nghe tiếng ngưi đàn góa gọi, lúa bảo nhau về đầy bịch, nằm
góc nhà, rồi chất đầy nhà. một mình nên mỗi bữa phải vất vđập
cho hạt gạo v ra từng hạt nhỏ để nấu ăn. Bc mình vì gạo nằm la liệt trong
nhà, đi lại vưng víu, góa đập vụn hạt gạo và nói từ nay hạt gạo phải nhỏ
đi và không đưc ý về” (Thái). Truyện của ngưi Khơ Me k gái
đang đứng bên bồ lúa tâm sự vi bạn ai thì lúa tự ý kéo nhau v gây ồn ào
làm không nghe đưc tiếng nói của bạn nh, bực mình gái đập mạnh
vào bồ khiến hồn lúa (là nàng Pờ Lungsrâu vốn tính nhút nhát giật mình
sợ hãi bay đi trốn vào một khe đá hẹp tận ngoài biển sâu. Ngưi không
lúa ăn phải nhờ thác lác đi tìm lúa. Hay mcôi (Kinh) hay thằng
mcôi (Tày) không gặt hết đưc lúa, vì cứ gặt hết lúa lại mọc và chín tiếp
đằng sau, mệt khóc, xin tiên ông (hay các nàng tiên) bày cách lấy giấy
bản (hay lấy dáy tai) nút vào đầu cọng lúa, không cho lúa mọc lại và chín
tiếp nữa.Truyện của ngưi Mảng, ngưi Thái k bầy chó chặn đưng đi
của lúa, hay hai chị em i nhác không dọn nhà, hay ngưi đàn bụng
chửa đi đứng nặng nề, để lúa về bị mổ làm cho lúa sợ...
Tất cả những nguyên cớ nói trên, dẫn đến hậu quả ngày nay hạt lúa
trở nên nhỏ, lúa không tự mọc lăn về nhà nữa, lúa chín ngưi phải đi
gặt lúa. Loài ngưi không chỉ gieo hạt một lần đưc gặt ăn đời đời như trưc
lOMoARcPSD|197044 94
N ư thn trong thn thoại Vit Nam.
211
phải cấy cày hàng vụ hàng năm. Là nhng sáng tạo tài tình của con
ngưi thời a về lúa, các câu chuyện trên ẩn chứa sâu xa nhiều ý nghĩa về
sự phản ánh c đưng con ni tiếp cận cây lúa, từ việc m ra giống lúa,
thuần hóa cây lúa và các con vật, chuyển đổi từ hái luợm sang trồng trọt,
chăm sóc cây lúa, đến việc thu hoạch lúa và vai trò ngưi phụ nữ. Trong
ức xa a của nhiều dân tộc, họ tin rằng giống lúa (giống ngô) do những
vN thần trên trời ban phát cho con ngưi. c này nhiều dân tộc
như trong truyện của ngưi Pu Péo, ng, Đăng Chu Ru...
Như vậy, lúa gạo nguồn gốc thật thiêng liêng. Câu chuyện mang tới
ý nghĩa biểu ng sâu xa, chuyển tải thông điệp của ngưi a vmột phát
hiện ý nghĩa to lớn cả vmặt vật chất lẫn tinh thần, đó việc con ngưi
tìm ra cây lúa. đây sự gặp g chung gia phương Đông và phương Tây
trong sự khẳng định g trị của loài cây đưc coi nguyên và thanh
khiết” này: Không những ngưi ta đã biết truyền thuyết về quả bầu
nguyên thủy ong đó cây lúa và cả các giống ngưi nữa, mà cây lúa còn
giống như thứ thc ăn trời cho, mọc lên làm đầy các va thóc một cách
tự nhiên. Tất cả các truyền thuyết Á Đông đều nói đến điều này. Việc trồng
lúa công phu, knhọc quan hệ giữa trời và đất bị cắt đt... Ngưi Nhật
coi lúa gạo biểu ng cùa sự sung túc nh trời có...Ngay cả
phương Tây, lúa gạo cũng biểu ng của hạnh phúc khả năng sinh
sản dồi dào”.
Các câu chuyện đã cho thấy rằng việc m ra cây lúa không chi một
phát hiện vĩ đại của con ni, mà còn tạo ra một c chuyển biến
mang ý nghĩa hội quan trọng. Đó đưa con ngưi từ nền kinh tế săn bắt
hái m hoang dại khi chi biết ăn rau rừng và quả dại” hay chỉ biết bẫy
thú để kiếm sống”, chuyển sang giai đoạn đầu cùa kinh tế nông nghiệp trồng
lúa. v hiện ng này, nhà nghiên cu Hoàng trong bài Những huyn
thoại a c và một s nét v kinh tế - xã hội truyn thống ni Tày ,
vi quan điểm dân tộc học và thông qua mt số truyện kv lúa của ngưi
Tày cũng đã nhng nhận xét rất xác đáng như sau: Các huyền thoại đã
cho chúng ta ý niệm vmột cuộc sống hoang của ngưi a, vquá trình
tìm biết đến cây lúa và nghề trồng lúa ngay từ thời nguyên thủy của loài
ngưi... Chính đây, trong khi tập thể những ni đàn ông thưng bận rộn
vi công việc săn bắn, thì những ngưi đàn bà, trong công việc hái m của
mình, đã phát hiện những đám lúa mọc hoang dại tự nhiên - nguồn ơng
thực sẵn có, thật như tự lăn về nhà” vậy”.
lOMoARcPSD|197044 94
r
212
V a n a th Nữthắn - MU VlTNAM CHÂU A
Việc con ngưi lấy tên gái đặt tên cho hạt Lúa, hoặc đặt ra Tục cúng
Nữ thần Lúa (Mưng), Tục cúng hồn Lúa (Khơ Mú)... đã hàm chứa ý nghĩa
một thông điệp của ngưi a trong việc không quên ơn ngưi công tìm
ra lúa, ban phát giống lúa đem gieo trồng để làm ơng thực. Điều này nói
tới sự đóng góp quan trọng của ni phụ nữ trong giai đoạn đầu kiếm m
giống lúa. Mặt khác đây cũng chính những tình tiết phản ánh sự xuất hiện
nền nông nghiệp trồng lúa và cũng giai đoạn con ngưi đang tiến vào một
giai đoạn mi - từ kinh tế chiếm đoạt các sản phẩm sẵn (chữ dùng cùa
Ăng ghen) của thiên nhiên sang kinh tế sản xuất - để đảm bảo đời sống n
định n.
Một điều đáng lưu ý nữa việc Tại sao nời phải gặt lúa mang v
hình ảnh ngưi đàn , trong đó hình nh ngưi đàn góa (ngưi đàn
không chồng, ngưi đàn một mình...). Hình ảnh ngưi đàn góa
này cũng từng xuất hiện trong những thần thoại chất phác thô của ngưi
Thái kvthuở khai sinh vũ trụ trời đất, nhiều sự việc đã đưc gán do chính
bàn tay ngưi đàn góa tạo nên. truyện kngày a trời đất còn gần
nhau, ngưi ta lên trài xuống đất một cách dễ dàng vì lúc đó hồ Uva
(Mưng Thanh) dây leo mọc lên gọi cha khâu cát”. trời đất gần
nhau nên con ngưi mặt đất “g gạo tri vưng chày, phơi thóc mây
vưng cót, quay sợi trời vưng guồng”. ngưi đàn góa, thấy ngưi
trần khổ cực quá, nên sinh bực tức, đem dao chặt chựa khâu cát”, thế từ
đó trời lên cao, lên cao mãi... Một truyện khác lại k một góa ggạo,
vô ý để chày đụng phải trời, nên trời giật mình vụt lên cao. Chỗ chày đụng
phải lên cao nhất, còn xung quanh thấp dần nên trời mi hình thù như
ngày nay... Hình ảnh ngưi đàn góa cũng tiếp tục xuất hiện trong những
ang thần thoại kể về việc kiếm m lương thực, trong đó củ mài lúa.
Củ mài a đưc ngưi Thái hình dung giống như một loại quả sống trên
cao, một m một góa vào rững lấy c mài, không cách nào để
trèo lên lấy củ trên cây cao đưc. Bực mình, ta đem dao chặt cây và còn
lấy tay dúi sâu củ mài xuống đất, miệng nói Từ rày trở đi chúng mày phải
sống i đất này, nghe chưa.... Từ đấy họ hàng nhà củ mài sợ hãi kng
dám trên cây nữa phải chui sâu xuổng đất, làm cho ngày nay ngưi
phải k nhọc mi đào chúng lên đưc.
Ngưi đàn góa ng hiện diện trong truyện kv nguồn gốc của lúa
ngưi Thái và nhiều dân tộc khác như Kinh, Tày, H'mông, Cao Lan, Khơ
Me... Ngưi đàn góa đã sự bất cẩn của mình gây nên hậu quả làm cho
hạt lúa a vốn to như quả đỏ, khi chín tự về nhà, thì nay trờ nên nhỏ
lOMoARcPSD|197044 94
lOMoARcPSD|197044 94
214
n a th Nữth á N - MU Vit NAM CHAU Á
nhưng tốt bụng, do nguyên hình của con cóc bởi cóc cũng giống như
hạt thóc vxì, nhưng bên trong lại hạt gạo trắng muốt nuôi sống con
ngưi. Ngưi phụ nữ này đưc ngưi Đăng hết sức coi trọng. Thần
quan hệ thân thiết vi thần sấm sét, vậy n mỗi khi hạn hán ngưi
Đăng hay lấy cóc ra, tức thần Lúa để cầu xin thần sấm sét cho mưa, V . V . . .
các thiên thần thoại kvnguồn gốc của lúa và nghề trồng lúa c
của một số dân tộc như Kinh, Tày, H'mông, Cao Lan... ngoài hình ảnh
ngưi phụ nữ gắn vi cây lúa như trên còn phải ktới hình ảnh vị nam thần
i hình dạng một ông già đưc gi Thần Nông, vi các truyện như Ông
Thần Nông cùa ngưi H mông (H'mông), Công vic bỏ dở của Thần Nông
(Tày), Thần Lúa (Kinh). Thần Nông một nhân vật thần linh, đưc trời sai
xuống trần để dạy loài ngưi ăn , khai pđất đai cày bừa và gieo cấy
giống lúa, vì vậy con ni đời đời biết ơn và tôn thờ v thần của nông
nghiệp. Từ khi con ngưi chưa biết trồng trọt, cấy lúa, thần đã đem các hạt
giống lúa và ngô đến giao cho con ngưi. Thần làm mưa cho nnông cày
cấy. Thần dạy cách gieo trồng, dạy cách cất giữ lương thc lên gác bếp, cách
xay gnấu ăn. Thần dạy cho ngưi H'mông cách lấy si lanh dệt vải may
quần áo mặc, cách lấy thuốc khi m đau, lại dạy cách làm nhà. Từ đó ni
H'mông biết tra lúa tra ngô, không phải lang thang đói rét.
Ngưi Tày kể Thần Nông đã cùng vợ tạo n cánh đồng Thất Khê bao
la bằng phẳng. Núi đồi vây lấy cánh đồng này, từng dãy nhấp nhô chạy từ
phía Bắc xuống phía Nam dấu tích công việc bỏ dở của Thần Nông.
Ngưi Cao Lan gọi Thần Nông sằn Nông, v thần đã gặp lúa trên đưng
đi săn thú và đem vgieo ồng, do giận ni v i đánh đập lúa khi lúa
chín v nhà, ông mang lúa lên sông Ngân cày cấy. Vào tháng m
tháng sáu đêm nào ngưi trần nhìn lên trời cũng thấy dòng sông sáng rực v
đó mùa cày cấy của ông. Ngưi Kinh cũng gọi thần Lúa Thần Nông,
một vthần rất ktính, ai kng biết chiều chuộng t thần sẽ bỏ đi. Khi
nào thần xuất hiện vi v mệt nhọc lam và thần chịu ktrông nom mùa
màng thì vụ đỏ sẽ đưc bội thu, khi thần ăn mặc chỉnh tề thì mùa màng sẽ
thất bát, thần thờ ơ vi công việc.
Như vậy, trong thần điện của Lúa, theo quan niệm dân gian, sứ mệnh
tạo trồng, sản sinh ra giống lúa thuộc vN thần Lúa và nhng ngưi phụ
nữ, còn mang sứ mệnh bảo vệ, chăm lo nghề nông, nghề trồng lúa chính vị
Thần Nông, trong bóng dáng của ngưi đàn ông.
lOMoARcPSD|197044 94
N thn trong thn thoại Vit Nam..
215
2. Lửa - Nữ thần trong nhng thn thoi về nguồn gc của la
Trong thời kỳ hoang viễn cổ, con ngưi chưa biết đến lửa, cũng
chưa biết dùng lửa và do không lửa, con ngưi phải chịu cảnh sống tối
tăm, lạnh gvà thưng xuyên bị bệnh tật, tdữ và thời tiết đe dọa. Chiến
công vĩ đại của Promete trong thần thoại Hy Lạp khi lấy đưc ngọn lửa cùa
Thần Trời (Thần Dơz, Thần Juypiter) đem xuống cho loài ngưi, đã phản
ánh quá trình gian truân vất v mà con ngưi phải trải qua để tìm ra lửa và
biết sử dụng lửa như một thứ năng ng thần diệu. Ngưi Hy Lạp cũng kính
trọng và tôn vinh vthần Thợ rèn hay vthần La cùa họ Hephaistos và
vthần m linh ảnh ng hết sức sâu rộng khi vthần này còn đưc coi
ông tổ của nhiều ngành công nghệ cùa ngưi Hy lạp a.
thần thoại của các dân tộc Việt Nam cũng nhiều câu chuyện kv
nguồn gốc cùa lửa, v quá trình con ngưi phải trải qua khi đi tìm lửa, lấy
lửa cũng như gi lửa để phục vcho đời sống của mình. Đó những truyện
như Nời biết dùng lừa (Dao), Ruồi trâu đi xin lừa (Thái), Nạn hồng thủy
và ruồi trâu đi m lừa (Thái), Nời c lừa dừng (Xơ Đăng). Những truyện
đó krằng ngưi đưc i lửa Trời ấm áp, xin Trời cho lửa mang về. Trời
cho lửa nhưng dấu cách m ra lửa. Ngưi xin lửa nhiều lần nhưng bị Trời
bịt mắt nên không biết cách gi lửa, để lửa bay vtrời mất. Ngưi không có
lửa nên thưng phải ăn sống nuốt ơi, con chuột lửa nhưng lại đem
giấu rất kín. Ngưi tìm học cách làm ra lửa bằng việc cử các con vật đi xin
lừa của Trời và chủ yếu tìm hiểu xem cách thức làm ra lửa nhưng đều bị
thất bại. Chim cũng bị Trời bịt mắt bằng bông khi cho lửa, chỉ ruồi trâu
(hay con ve) mắt i cánh nên biết đưc mật làm ra lửa. Nh đó,
con ngưi biết cách làm ra lửa gi lửa để lúc nào cũng lửa dùng.
Trong các truyện Nguồn gốc loài người, S ch ớc lụt của ngưi
Mảng lại kcon ngưi đầu tiên cánh, con vật đầu tiên lửa con gi.
gi bắt muỗi ăn nên không cần lửa, do đó ngưi đã đổi cánh cho gi để
lấy lửa i nấu chín thức ăn.
Nếu so vi việc Promete m ra lửa và lấy lửa của thần Trời trong thần
thoại Hy Lạp - La Mã, thì nhũng truyện vnguồn gốc cùa lửa, vviệc m ra
lửa và gi gìn ngọn lửa ktrên của các dân tộc Việt Nam mang v cổ a
n. Tính chất cổ a thể hiện những nhân vật tìm ra lửa chỉ những con
vật thuần túy như chuột, chim, ruồi trâu, ve, gi... và vi những cách thức
làm ra lửa hết sức giản đơn như cọ thanh giang cho tóe lửa vào đống i
nhùi”. ơng tự, nếu Thần La trong thần thoại Hy Lạp vị Nam thần
lOMoARcPSD|197044 94
216
n hóa th Nữthá N - MU VlỆTNAM CHẢU Á
Hephaistos, thì trong thần thoại của nhiều n tộc Việt Nam vị thần La lại
một Nữ thần.
Nữ thần La trong thần thoại ngưi Việt (hay còn tên gọi
Hỏa), đưc Tri giao cho một trọng trách ln giữ lửa. Truyện N thần
La của ngưi Việt kể:
Dưi hình dạng một gmặt mũi cau , k khan, Nữ thần Lửa
giữ ngọn lửa màu nhiệm, giúp nấu chín và tạo ra thức ăn. La của Nữ thần
này rất nhiều loại, loại lửa xanh chì thần Sét mi đưc dùng, thứ lừa
màu nhiệm thể giúp ngưi ta chi cần đặt nồi không mà nấu ra đù những
thức ăn ngon lành. Nhưng thứ lửa này chì nhà Trời mi đưc dùng, còn
ngưi thưng thì không bao giờ đưc biết đến. Loài ngưi hạ giới đều biết
đến thứ lửa đó, nhưng chưa ai thể lấy đưc vì Nữ thần Lửa một ngưi
ktính và hung dữ. N thần một bảo bối dùng m vũ k luôn ngm
trong miệng. Đó lắ chiếc i đỏ lòm, thể liếm cháy trụi cả cánh đồng,
hàng dãy núi làm kcạn hết c của các ao hồ. Thần lúc hung dữ
sai bộ hạ đi tàn phá cây cối, nhà cửa. La đốt nhà của Thần thứ lửa liếm từ
trên nóc liếm xuống”.
Truyện còn k rằng con ngưi đã phải m rất nhiều cách để km phá
ra mật m lửa và gi lửa của N thần, k cả cách lấy trộm hay nhặt lấy
mẩu tàn tro bọc vào khố mang vtrong bếp cho thành ngọn lửa. Nhưng N
thần La hay Hỏa khi nhìn thấy con ngưi (lão tiều phu) khám phá ra
ngọn la màu nhiệm của mình đã lấy bầu c dập tắt và bỏ đi. Hoặc khi
con ngưi đã lấy đưc lửa của thần thì chính sự bất cẩn của họ đã làm cho
ngọn lửa bị tắt hoặc m Nữ thần giận dữ khiến ngọn lửa bốc cháy, gây ra
những đám hỏa hoạn, thiêu rụi tất cả. Từ đó con ngưi đã phải hết sức cẩn
thận giữ không để mất lửa, cũng như ngưi ta rất s những n giận của Nữ
thần La nên họ hết sức chiều chuộng ngọn lửa và kính trọng, th cúng v
Nữ thần này”.
Trong thần thoại Tậy, Nữ thần La thưng nằm im trong khúc g to,
Thần ăn rồi ỉa ra tro. Loài ngưi biết ơn thần, nhưng khi cuồng nộ, thần đốt
cháy nhà cửa, cây rừng, nên mỗi nhà đều phải thờ thần La.
Thần thoại các dân tộc Tây Nguyên cũng phbiến coi thần Lửa một
vị n thần. Nữ thần La đưc knhư sau: Vào thuở xa a, một v
nữ thần khổng lồ đã phả sức nóng của thân mình thiêu cháy tất cả các loài
quỷ dữ ác thú cùa rừng núi Tây Nguyên. Sau đó nữ thần trụ mình, ng
đẩy trời lên cao uốn mình thành con rồng lửa. Đầu rồng hạ xuống phía
lOMoARcPSD|197044 94
N thn trong thn thoại Vit Nam..
217
bắc Tây Nguyên, nay cao nguyên Công Tum, địa bàn trú cùa ngưi
Đăng, Ba Na. Thân rồng gò ng lên cao vùng Gia Lai, quê ơng của
ngưi Gia Rai. Đuôi rồng Đắc Lắc, Lâm Đồng, nơi trú của đồng bào
Nông”.
Như vậy trong thần thoại các dân tộc Việt Nam, Nữ thần Lửa vừa
ngưi giữ ngn lửa thiêng màu nhiệm, va ngưi quyền năng sai
ngọn lửa đi tàn phá, hủy diệt. Điều này thể hiện tính chất hai mặt của La -
va hữu ích thiêng liêng va mang sức mnh hủy diệt - như S.Freud đã
nói: “La hiện ng duy nhất thể tiếp nhận rệt cả hai mặt gtrị
đối lập cái tốt và cái xấu. sáng long lanh trên thiên đưng và cháy rực
đò i địa ngục”.
Nhìn chung, hình ảnh Nữ thần La trong thần thoại Việt cũng như hình
ảnh Thần La trong thần thoại cùa nhiều c đều sự hình dung và nhân
tính hóa sức mnh của một thực thể vật chất theo dạng thức của con ni.
Theo Thần thoại Ân Độ, thần Agni - thần Lửa của ngưi An cũng đưc hình
dung “một ông thần cầm một cái lao phóng bằng lửa, i thờ đen ngòm
(khói), tiếng kêu răng rắc (tiếng nổ của vt cháy, c da và râu tóc đỏ
rực, i dài vàng chói. Vị thần này va “dữ tợn... liếm sạch cả cây rng,
chim mng hoa cỏ trong phút chốc và để lại những vết bánh xe đen ngòm
g rợn”, vừa đưc ngưi Ấn xem ni bạn tốt nhất, ngưi chúa của
cải, con đẻ của Angira - thị tộc đã tìm ra lửa đầu tiên”.
Thần thoại vNữ thần La của ngưi Việt sự biến đổi khi gán cho
thần bộ hạ Bợ (ông, thằng) - một nam nhân vật vi tính tình hunng ác,
ăn cắp lừa của Thần gây cháy nhà, chết ngưi. Những câu chuyện về nhân
vật này phổ biến vùng Nghệ Tĩnh, i khậu khắc nghiệt và hàng năm
g Lào thổi gây nạn hỏa hoạn cho ngưi dân.
Truyện c Bợ thưng đưc km tắt như sau: Trong sổ bộ hạ của
Thần La thằng Bợ que thói hung ác. vi thần lửa lâu năm, một
hôm ăn cắp lửa của thần rồi trốn đi. kthù của loài ngưi”. Hoặc đưc
ngưi dân vùng Nghệ Tĩnh k lại vi những tình tiết như: Tại một vùng
một chàng trai khỏe mạnh tên Bợ. Nhìn mặt trời Bợ ng lửa đó mà để
ngưi và vật bị chết rét sao. Bợ liền đi vphía đông, lật nga cái nón mê,
ngxuống biển m thuyền rồi lấy cành cây làm chèo, chèo mãi đến chỗ mặt
trời mọc, lấy trộm lửa của mặt trời, đem vcho con ngưi”, v sau nhân vật
này đưc gắn vi hiện ng thiên nhiên cụ thể, đó hiện ng gió Lào vi
những n g như những n bão lửa gây cháy nhà hàng loạt vào mùa
lOMoARcPSD|197044 94
218 Văn
h
ó
a
t
h
N
THN - MU VlT NAM VÀCHÂU Á
hàng m, phản ánh nét khậu đặc trưng của vùng Nghệ Tĩnh: Cố Bợ sẵn
lửa trong ngưi, nên đến mùa nam nắng thưng hay đốt nhà để xem cho
thích. Khi ngọn lửa xanh bốc lên, từ đâu đó tiếng i ròn rã, tiếng vtay
đôm đốp. kcủa thần lửa cả gió nữa vì thế thần đi đến đâu
cháy nhà đến đó. Đặc biệt thần thưng vđốt nhà vào mùa - mùa gnam
Lào. Mỗi lần đám cháy, ngưi dân đều cho cố Bợ đốt, họ bảo nhau: Lại
thằng Bợ rồi
Truyện kvà nhân vật cố Bợ - thần La của dân gian vùng Nghệ Tĩnh
ràng xu ng thế tục hóa của thần thoại suy nguyên vnguồn gốc cùa
lửa. Là thần Lửa, sản phẩm của duy thần thoại nhưng cố Bợ cũng nhân
vật của truyện trạng, truyện i, truyện tiếu lâm của dân gian Nghệ Tĩnh.
Liên quan tới thần La, trong truyện kdân gian cũng như trong văn
hóa tâm linh ngưi Việt vi câu chuyện Ba ông đầu rau và tín ngưng thờ
thần Bếp vi tục lệ Tết ông Công ông Táo vào 23 tháng Chạp hàng m.
Thần Bếp nhiệm vtrông nom củi lửa bếp núc cho trần thế, gồm mt
bộ ba, một và hai ông. Tín ngưng này cũng cổ ngưi ng, một
dân tộc quan hệ gần gũi, gắn lâu đời vi ngưi Việt. đây ngưi
phụ nữ đưc đặt bên cạnh những ngưi đàn ông bởi chính những hành
động, việc làm của ni phụ nữ này đối vi hai ngưi đàn ông (một là
chồng và một chồng mi) đã làm cho thần Trời (Ngọc Hoàng) cảm
động phong cho họ làm Thần Bếp.
Thần Bếp hay còn gọi thần Táo (Ông Táo, Táo Quân) hay thần Núc
thực sự một dạng chuyển đổi vai trò của thần La khi hội đã xuất hiện
hình thức gia đình thể thay cho hình thức công thị tộc nguyên thủy.
đây thần Lửa đã thu hẹp ý nghĩa của mình vào phạm vi gia đình, bằng việc
gắn vi vai trò quan trọng của bếp lửa. Thần Bếp đã tr thành một vthần
hết sức gần gũi, thân thiết và cũng ngưi sứ mệnh điều tiết và dõi theo
hành vi, đạo đức, thành quả lao động của mi gia đình trần thế. Cùng vi Nữ
thần La, Táo Quân ong bộ ba thần Bếp những vthần tâm linh vtrí
ý nghĩa quan trọng trong đời sống ngưi dân Việt Nam.
ơng tự, Trung Quốc cũng tục lệ cúng Táo Quân như ngưi Việt,
gọi tết Tiểu niên. Nhà nghiên cứu Ngô Tổ Đức trong bài viết Trong tiết
nhật truyn thống Trung Quốc có những tiết nhật tể tự nào? Tập tục rơ
sao?" đã cho biết; Tiết nhật thờ cúng Táo Quân bắt nguồn từ sùng bái lửa,
ý nghĩa kỷ niệm về tác dụng quan trọng của việc dùng lừa nấu chín thức ăn
trong quá trình phát triển của nhân loại cc kỳ ràng, nhưng về sau sự
lOMoARcPSD|197044 94
N thn trong thn thoại Vit Nam..
219
hội tụ cùa những nội dung hoạt động khác đã dần dần nhấn chìm dấu ấn
sùng bái tín ngưng này”.
vậy, từ thần La, các vTáo Quân đã tr thành thần ông coi bếp
lửa cùa gia đình, i trú ngcùa thần bếp lửa. Bàn thờ và lễ thức thờ cúng
thần cũng đưc đặt ngay cạnh bếp lửa. Đặc biệt đối vi đồng bào ng,
bếp - i thể hiện tín ngưng thờ Vua Bếp đưc coi i hết sức thiêng
liêng, gn vi sự thịnh vưng, vng chắc và khát vọng no ấm cùa mọi gia
đình. Với ngưi Việt, những thói quen kiêng kxung quanh lửa và bếp lửa
vẫn đưc bảo u như luôn giữ cho bếp lửa sạch sẽ, không dùng nhng thứ
uế tạp để nhóm lửa hay đun bếp, trong các ngày tết phải luôn giữ ngọn lửa
ấm nóng trong bếp, kiêng kviệc đi xin lửa láng giềng vì lửa ng trưng
cho sự may mắn, cho vận đỏ của từng gia đình.
Từ Nữ thần La - một vthần t nhiên, phản ánh tín ngưng nguyên
thủy của ngưi a đến những nhân vật nam thần như cố Bợ hay bộ ba thần
Bếp... ngọn lửa đã chứa đựng thêm nhiều ý nghĩa mang nội dung hội phù
họp vi m của từng thời đại. Song nh thức biểu hiện thay đổi thì
tín ngưng bản địa, tín ngưng cổ a nhất vNữ thần La vẫn đưc bảo
u trong chiều sâu của m thc dân gian các dân tộc Việt Nam. Nữ thần
La - một v thần mang tính nữ, gắn vi chế độ mẫu hệ của thời ksăn bắt
hái m, đó chính sự hình dung của con ngưi trong việc thần khóa khả
năng đặc biệt của lửa, sự đề cao sức mạnh kdiệu mà lửa đã đem đến cho
con ngưi từ khi lửa cho đến ngày nay. Nữ thần La một biểu ng
của thần thoại c a v lửa, trải qua thời gian, La đã đưc thiêng hóa và v
Nữ thần này ngưi vai trò trọng trách giữ thứ lửa thiêng liêng ấy, thứ
lửa màu nhiệm của Trời ban cho loài ngưi và mãi mãi đưc ngưi dân Việt
Nam tôn thờ, kính trọng.
3. Nước - Nữ thần trong nhng thn thoi về nước
Trong thần thoại Thái, các nữ thần liên quan đến c knhiều và
vi diện mạo hết sức phong phú. Ngưi Thái gọi thần c vi nhiều tên
gọi khác nhau, như Mẹ Nặm - Mẹ c, Luông Me (Rồng Mẹ), chủ a
(hay còn gọi Thần a), Già vài khao (Bà thần trâu trắng),... Trong áng
sử thi thần thoại cổ của ngưi Thái Mhọng Trời, cỏ câu chuyện kvc
nữ thần các Nàng c, Nàng An, Nàng - các nữ thần này coi sóc về việc
làm mưa trên i, tức thần sấm, thần Chớp, thần Sét. Truyện kể lần
lOMoARcPSD|197044 94
r
2 2 0 V a n hóa th N th ắn - MU V iệ t NAM VẢ chAu A
dân ng Bằng bị hạn hán lâu ngày, hỏi ra thì họng trời bị tắc. Họng trờii
tắc bởi:
Nàng c chưa cho tri gm,
Nàng An chưa cho tri chp,
Nàng Nè chưa cho tri sét,
Chưa sm sét thì chưa cỏ mưa
Sau phải nhờ Lang Cặp Lang chặt rễ cây đa, cây si, họng trời mi
thông và các Nàng - tức các nữ thần đã cho trời gầm, trời chớp, trời sét. Dân
gian nghe sấm sét thì sợ, phải víađể hồn khỏi bay đi. Nhưng trưc khi
ra lệnh cho sấm chớp, các Nàng cũng đã cho cây cỏ báo trưc:
Rau hác mc, tri sẽ bão,
Rau dang lên, tri sẽ cỏ sm,
Măng lành - anh mc, trời sẽ sét
Chính vậy từ a dân các ng thưng ra xem rau, xem măng
để đoán mưa bão. Truyện kvdòng sông cũng krằng các dòng sông
Đà sông đều do các Nữ thần sông c canh giữ vi những mvàng mỏ
bạc i lòng sông.
Trong các thần thoại Thái của vùng ng Then, ngưi Thái quan
niệm các vthần canh giữ nguồn c của ba con sông Nặm u, Nặm Rốn,
Nặm Núa các Nữ thần và đưc gọi Luông Mẹ (Rồng Mẹ). Thần thoại
về sông kể rằng các bạc, mỏ vàng i lòng sông Mã, sông Đà đều
do các Nữ thần sông canh gi. Cũng trong thần thoại về sông đã giải
thích hiện ng lụt hàng m do các Nữ thần cai quản dòng sông này
hay ngquên, nhân đó mà con ngưi lấy đi nhiều bạc i lòng sông. vậy
khi tinh ngcác nữ thần đã rất tức giận n dâng nưc để đòi lại bạc mà
ngưi đã ăn trộm, gây ra nạn hồng thủy cho vùng đất hai bên bờ sông.
cũng trong thần thoại Thái, thần a cũng đưc coi một vnữ thần, trong
các bài ca nghi lễ cầu mưa ngưi Thái đã hát xin Nữ thần a (Bà Chủ
a) cho mưa xuống để lấy c cấy trồng:
chù tri, chù Mưa hi!
... Đến xin mưa cày rung m
Xin nưc Tri tưi cánh đồng
lOMoARcPSD|197044 94
N thn trong thn thoại Vit Nam...
22
1
Theo tài liệu của nhà Thái học cầm Trọng thì ngưi Thái trắng
ng Muỗm, Bảo Lạc, Cao Bằng gọi thần c của họ đưc gọi Già
Vài Khao (Bà thần trâu trắng) và cho rằng bà trú ng khúc suối k Miều.
Hiện ng này cũng thấy ngưi Tày Khao sống tập trung vùng tả
ngạn sông Hồng như Lào Cai, Cao Bằng, Giang và họ cũng dùng danh
ng Gìa Vài Khao để chỉ Nữ thần c
Thần thoại Việt trong nguyên mẫu cổ a coi các thần tự nhiên trong
đó Thần c đều nữ thần, như Tri, Đất, c. Điều này
xuất phát từ từ điều kiện của nền nông nghiệp lúa c lâu đời của Việt Nam
và vùng Đông Nam Á nói chung. Với nghề chính trồng trọt canh tác lúa,
nguời phụ nữ vốn đưc coi trọng trong vai trò phát hiện và tìm thấy giống
cây ơng thực quý báu này, hệ quả dẫn đến truyền thống đề cao nữ giới
in sâu đậm trong m thức dân gian của nhiều dân tộc. Do vậy trong hệ thống
các thần của ngưi Việt và cùa một số các dân tộc khác, Nữ thần đã chiếm
ưu thể tục thờ nữ thần đã trở thành một tín ngưng Việt Nam điển hình.
Khi Phật giáo vào Việt Nam đã diễn ra quá trình bản địa hóa Phật giáo,
Man ơng đã trờ thành Phật Mau vi công lao tỉm nưc chống hạn cho cả
vùng dân sinh sống vùng Dâu thuộc đồng bằng Bắc Bộ, i nền nông
nghiệp lúa c phát triển sớm nhất của Việt Nam. các nữ thần tự nhiên
cùa vùng Dâu đã đã tr thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (bà Mây), Pháp
(bà a), Pháp Lôi (bà sấm), Pháp Điện (bà Chóp). Đó các vnữ thần
khả năng đem c đến cho con ngưi, những vphúc thần bảo tr cho
cuộc sống ngưi dân nơi đây. Sự tôn vinh phụng thờ các vị thần Tứ Pháp
đã ảnh ng và lan tỏa khắp vùng Bắc Bộ mang ý nghĩa thể hiện ưc
vọng điều hòa và chế ng nguồn c cho những ngưi nông dân nông
nghiệp Việt Nam.
Trong m linh nguời Việt dần dần đã những biến đổi vý niệm và
tín ngưng vvthần này để ngày càng phù hợp và đáp ng nhu cầu của con
ngưi v c trong từng môi trưng và trong tng thời điểm cụ thể, bên
cạnh việc bảo u và duy trì những nguyên mẫu và n ngưng v N thần
c cổ a. Bằng truyện kcũng như thông qua tín ngưng dân gian, các
vN thần liên quan đến c đưc u truyền vi nhiều câu chuyện kc
nhau và tồn tại i nhiều lễ thức thờ cúng.Trong đó nổi trội'và sức hấp
dẫn lôi cuốn tâm thức dân gian thần thoại và tín ngưng vNữ thần c
đưc kể đưc thờ cúng i tên Mau Thủy (Mầu Thoải), đưc dân gian
coi vị Nữ thần duy nhất chuyên cai quản về sông c.
lOMoARcPSD|197044 94
2 2 2
Van h ó a th Nữth á N - MU Vit NAM CHẢU Á
Theo dân gian, Mẩu Thoải mặt khắp mọi i để giúp đỡ mọi
ngưi mỗi khi đi qua các vùng sông c. Cũng truyện kể Mầu Thoải
v của vua Thủy Tề, v vua i Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các
việc biển, còn Mẩu Thoải trông coi các việc sông, suối. Do sông suối
khắp i nên Mầu cũng mặt khắp i, nhất tại các bến sông lớn.
Cũng vì vậy, Mau Thoải đưc thờ nhiều i, nơi đưc thờ Thành
hoàng và sắc phong đề "Nhữ ơng Nam nữ Nam Hải Đại ơng" như
làng Viêm Xá, Yên Phong, Bắc Ninh - một làng thuần vnông nghiệp của
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong quá trình phát triển đã những thay đổi trong tín ngưng v
c, Nữ thần c đã đưc thay thể bằng những nam thần. Thần thoại
Việt - ng vc s biến đổi khi coi các vthần liên quan đến Thần
c như Thần a, Vua Thùy Tề, Thần Bá, ông Pồng Pêu, Vua Khú -
Vua c Nam thần. Ngày nay hầu như chúng ta thấy, trong các thiên
thần thoại về c của ngưi Việt, các nhân vật thưng những nam thẩn
và dấu ấn ảnh ng cùa thần thoại Trung Hoa, một quốc gia láng giềng
chế độ phụ quyền và ơng quyền phát triển sớm. Truyện Thần Mưa của
ngưi Việt hình đung v Thần Mua và Thần c đều cùng hình rồng,
cùng một tộc nhưng mỗi thần nhận nhiệm vụ khác nhau. Thần a đưc
Ngọc Hoàng ủy thác cho việc làm mưa. Thân Thần hình rồng, thưng xuống
hạ giới hút c biển, c sông vào bụng rồi bay lên trời cao phun c
làm ra a cho thế gian c uống và cày cấy, cây cỏ trên mặt đất đưc
tốt ơi. Thần a thưng theo lệnh Trời đi phân phát c các i. Thần
a tính hay quên, vùng cả m không đến, sinh ra hạn hán hạ giới,
vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội’”. Truyện Thần c lại kể: Thế
giới sông biển ao hồ, Ngọc Hoàng đều giao cho Thần c. Cũng như Thần
a, Thần c một hình thù rồng rất vĩ đại. Tất cả các giống thủy tộc
như cá, rắn, sấu, thuồng luồng... đều bộ hạ của thần và chia nhau quản
cai trị mọi khu vc.
Một biến ng nữa cùa Thần c của ngưi Việt đó thần Bá,
vthủy thần cai quản sông ngòi đưc nhắc tới trong câu tục ng kquen
thuộc Đất Thổ công, sông Bá” cũng trong một hình dạng nam
thần. Lcúng thần sông để cầu một năm a thuận g hoà - phong
tục đặc trưng của nhiều vùng gắn vi đời sống sông c của đồng bằng
Bắc Bộ, diễn ra khoảng trung tuần tháng 3 âm lịch, đã trở thành một tập tục
từ lâu đời của ngưi dân Việt Nam.
lOMoARcPSD|197044 94
N thn toong thn thoại Vit Nam...
223
Thần thoại ng gọi vthần cai quản vc ông Pồng Pêu và k
trong Đè đất đè ớc-. Khi a Trời làm đại hạn 12 năm, nhờ ông Pồng
Pêu gọi mưa nên mi c, đất đai ngấm c mi mọc đưc cây si, rồi
mi đẻ ra mưng, ngưi muôn vật ngày nay”. Ngưi ng kính
trọng ông Pồng Pêu và thờ ông bờ sông, hàng m vào ngày xuống đồng
đưc mùa m mi ngày tết, đều đặt cỗ cúng ông. Trong tín ngưng của
ngưi ng còn tục thờ ông Vua Khú - c, tức thờ i nguồn
c chảy từ các khe núi. Khi gặp hạn hán hay vào dịp đầu m mi ngưi
dân thưng lên đầu nguồn c làm lễ cúng c và làm lễ cầu mua.
Ngưi ng quan niệm Vua Khú hay c v thần c thưng
sống vc c sâu, hình dạng rắn nhưng cũng lúc mang hình dạng
ngưi. Vị thần này va gây họa vừa mang phúc lại cho con ngưi nên họ
va kính trọng vừa nể sợ và luôn thờ cúng để thần mang lại bình yên cho
mọi nhà.
Như vậy, thần c của ngưi Việt các dân tộc Việt Nam khác rất
đá dạng phong phú, cũng như đưc hình dung, quan niệm rất khác nhau,
thậm chí đối lập nhau trong sự biến đổi và phát triển của lịch sử hội. Song
sâu đậm nhất vẫn hình ảnh Nữ thần c vi diện mạo ngưi phụ nữ
trong nguyên mẫu cổ a và trong tín ngưng dân gian ngày nay hình ảnh
Mầu Thoải - Mầu Thủy - Mẹ c. Nếu như thần thoại La vi ảnh
ng của thần thoại Hy Lạp và các nền tôn giáo kc như Ai Cập, Ba
các đức tin đối vi ngưi La cổ đại, thì thần thoại Việt Nam vi tính chất
bản địa lâu đời cùng vi sự tiếp thu ảnh ng từ hai nền thần thoại lớn
Trung Hoa Án Độ, cũng niềm tin đối vi ngưi dân các dân tộc Việt
Ham thời cổ niềm tin ấy đưc nuôi ng cho đến tận ngày nay.
| 1/18

Preview text:

lOMoARcPSD|197 044 94
Nữ THAN TRONG THÂN THOẠI VIỄT NAM:
GIÓ TRÌ vn BỂN SÁC § Nguyễn Thị Huế*
V [ ữ thần là một hệ thống nhân vật độc đáo trong thần thoại, nữ thần
^ có nhiều địa vị và thân phận khác nhau. Ngày Iiay, khi tiếp cận
một số thần thoại về nữ thần, chúng ta thường thấy nữ thần xuất hiện với
thân phận là vợ, con gái hoặc thuộc hạ của nam thần. Song đầy không hoàn
toàn là diện mạo nguyên thủy của thần thoại về nữ thần.Trong những câu
chuyện thần thoại cổ xưa nhất của thế giới, song song bên cạnh các nam thần
là những vị nữ thần đảm nhiệm các chức vụ khác nhau như: Sinh ra con
người (thần Nữ Oa, Tây Vương Mầu - thần thoại Trung Hoa); Bảo hộ hôn
nhân và sinh đẻ (nữ thần Hera - thần thoại Hy Lạp, nữ thần Frigg - thần thoại
Bắc Âu); Nữ thần tình yêu và sắc đẹp (nữ thần Aphrodite - thần thoại Hy
Lạp, nữ thần Freyja - thần thoại Bắc Âu); nữ thần chiến tranh (nữ thần
Athena - thần thoại Hy Lạp)...
Chính đông đảo các vị nữ thần này đã cùng với nam thần tạo nên một
thế giới thần thoại hoàn chỉnh. Hình ảnh các nữ thần thường xuất hiện bên
cạnh những nam thần nhằm tôn vinh tầm quan trọng của người phụ nữ trong
xã hội cổ xưa và làm phong phú thêm cho các câu chuyện thần thoại. Xét từ
diện mạo nguyên thủy đến những diễn biến của thần thoại nữ thần, chúng ta
sẽ thấy sự phản ánh tiến trình văn minh lịch sử của nhân loại. Bởi xã hội loài
người đã trải qua quá trình diễn tiến từ xã hội mẫu hệ sang xã hội phụ hệ, lOMoARcPSD|197 044 94
thần thoại cũng trải qua quá trình từ kiểu thần thoại nữ thần sang kiểu thần
thoại nam thần. Vì vậy, nghiên cứu thần thoại về nữ thần - một bộ phận đặc
* PGS. TS, Viện Vãn học.
Downloaded by Ng?c Hoài (hoaingoc2962003@gmail.com) lOMoARcPSD|197 044 94 208
Van h ó a th ờ Nữth ẩ N - MẴU ở VlỆTNAM VÀ CHÂU Á
biệt trong thần thoại là một công việc cần thiết và có ý nghĩa khi nghiên cứu
về thần thoại nói chung.
Tham luận trên cơ sở khảo sát 3 hệ thống thần thoại tiêu biểu về nữ
thần của Việt Nam: Thần thoại về Nữ thần Lúa, thần thoại về Nữ thần Lửa,
thần thoại về Nữ thần Nước, để từ đó hình dung về diện mạo của nữ thần
trong thần thoại Việt Nam. Đồng thời cũng từ đó đi sâu tìm hiểu quá trình
diễn biến của thần thoại nữ thần, sự chuyển hóa của vị trí trung tâm từ nữ
thần sang nam thần, khuynh hướng thế tục hóa và ý thức tự ngã ở những vị nữ thần này.
1. Lúa - Nữ thần trong thần thoại về nguồn gốc cây lúa
Nếu như ừong thần thoại Hy Lạp có thần Demeter (hay Ceres trong
thần thoại La Mã) là Nữ thần Nông nghiệp, hiện thân của sự tnàu mỡ, thì
trong thần thoại của Việt Nam - vị thần Lúa, vị thần cùa nền văn minh nông
nghiệp lúa nước cũng là một vị Nữ thần.
Thần thoại về cây lúa và Nữ thần Lúa có ở hầu hết các dân tộc Việt
Nam, thần có tên gọi Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa (Mường), Mẹ Lúa (Khơ
Mú) hay Nữ thần Jang Xri (Xơ Đăng)... Thần thoại các dân tộc coi sứ mệnh
tạo trồng, sản sinh giống lúa thuộc về Nữ thần Lúa và những người phụ nữ.
Thần thoại về lúa và Nữ thần Lúa có sự biến đổi khi (thần thoại Kinh, Tày,
H'mông, Cao Lan) coi sứ mệnh bảo vệ, chăm lo nghề nông, nghề trồng lúa
nước thuộc về vị Nam thần là Thần Nông.
Chúng ta có thể thấy những thần thoại về lúa, phàn ánh tính chất chung
của các yếu tố văn hoá, xã hội, tinh thần của cư dân nông nghiệp Việt Nam
trên con đường dài phát hiện, tìm tòi và thuần hóa cây lúa, làm cho nó trở
thành nguồn lương thực chính nuôi sống con người. Đồng thời chúng ta
cũng có thể thấy những thần thoại về lúa có những biến đổi qua tiến ứình
lịch sử, vì vậy vị thần liên quan tới nguồn gốc, sự sản sinh ra cây lúa đỏ là vị
Nữ thần Lúa cũng có những biến đổi liên quan, một quá trình biến đổi không đon tuyến mà đa tuyến.
Các câu chuyện thần thoại cồ xưa về cây lúa của hầu hết các dân tộc
Việt Nam đều kể rằng khi đó việc đi lại giữa trời và đất còn dễ dàng, con
người đã phải lên trời xin giống lúa, giống ngô. Và ở hầu hết các câu
chuyện, người cho giống lúa giống ngô không phải ai khác mà chính là do
Nữ thần Lúa hoặc dưới dạng một vị thần linh hoặc dưới dạng những người
phụ nữ, bà già, hay cô gái trẻ. lOMoARcPSD|197 044 94
N ữ thần trong thần thoại Việt Nam.. 209
Truyện Mẹ Lúa, Mẹ Ngô cùa người Pu Péo, truyện Sự tích cây lúa của
người Xơ Đăng và người Chu Ru đều kể “ Trên trời có bà Ngọc Huyệt giả
làm bà lão ăn xin, xuống mặt đất thấy người đói khổ đã cho hai anh em ăn
thử com gạo, thấy ngon” và “Nữ thần Lúa từ trên trời thấy con người vất vả
kiếm ăn nên đã giả dạng thành người phụ nữ đem đến cho con người một thứ
hạt vàng óng”. Hoặc “Bà lão (Nữ thần Lúa) cho giống lúa và bắp, bày cách
trỉa lồ, gieo trồng. Lúa, bắp sinh sôi ngày càng nhiều,...”. Hoặc theo người
Khơ Mú thì “Xưa người chỉ biết bẫy thú để kiếm sống. Có một cái hang
trong đó bay ra những hạt màu vàng, ăn thử thấy ngon, nhưng người không
sao vào hang lấy được...Có con vắt xin được ăn máu người con gái trẻ,
hứa sẽ vào hang mang những hạt màu vàng về cho người. Cô gái nhận lời,
nhờ đó dân làng có được hạt giống đem gieo trồng để làm lương thực. Khi
lúa chín, chim hay chuột ra ruộng hoặc ra nương ăn trước, chó được ăn
cơm, vắt được hút máu người, còn dân làng lấy tên cô gái đặt cho hạt vàng ấy gọi là Lúa”.
Người Mường trong sử thi Đẻ đất đẻ nước kể có Bà Rấp Bà Rú đi đào
củ mài gặp chuột ỉông đỏ, chuột mách bà về nói với Lang Cun cần cử Nàng
Dặt Cái Dành lên trời xin lúa. Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa cho nàng đem về
trần 40 giống lúa ruộng, 30 giống lúa nương. Từ khi trần gian có lúa, người
Mường nhớ ơn hàng năm đến mùa cơm mới lại làm lễ cúng Nàng Dặt Cái
Dành và Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa. Nhớ ơn, con người gọi Mẹ Lúa Mẹ
Ngô, hay khi lúa chín người ra nương rẫy làm lễ ẹúng các vị thần đã cho lúa,
cho ngô và lập đền thờ Nữ thần Lúa theo lời mách bảo cùa con trăn.
Ở truyện của các dân tộc Tây Nguyên, lúa cũng được coi là một vị Nữ
thần, là hiện thân của mối quan hệ giữa con người với thần trời, có hình dạng
một bà già tốt bụng đã cho con người giống lúa... Trong truyện Đẻ đất đẻ
người của người Mạ kể rằng vị thần tối cao N'Đu của người Mạ thấy loài
người nghèo khổ, phải vào rừng đào củ hái quả kiếm ăn bèn sai Nữ thần Lúa
hiện hình thành hai con chim Phí, chim Tek. Chim theo thần bay đi lấy lúa
trời rồi đậu trên cành đa (Jri), trên dây leo (klác) nhả hạt, người Mạ đem hạt
gieo xuống đất và từ đó có lúa ăn. Truyện của người Chu Ru còn kể vì con
người bắn nhầm phải con gái thần Lúa dưới dạng một con chim nên bà ta đã
nổi giận làm trời sập đè chết mọi người, còn sót hai đứa trẻ, Nữ thần lại dạy
chúng cách làm vợ chồng, cách trồng lúa, săn thú.
Trong các câu chuyện trên, hạt lúa luôn được nhắc tới với đặc tính ban
đầu “Hạt lúa ban đầu rất to, to như quả bí xanh hoặc to như quả bầu (Thái). lOMoARcPSD|197 044 94 2 1 0
V a N h ó a t h ờ Nữt h ắ N - MẪU ở V lỆT NAM VÀc h a u á
Con người không cần gieo gặt mà cứ mùa xuân đến “Các hạt lúa tự mọc lên
xanh, cuối vụ lại tự động lăn về nhà, người ta chì việc dọn sạch nhà để đón
lúa mà thôi” (Cao Lan) và “Lúa gặt xong lại trổ lại và chín tiếp, không sao
gặt hết” (Kinh). Hay “Ngày xưa khi lúa, ngô, cây cỏ bị loài người phạt đến
đâu, nó liền mọc đến đó. Mọi người chỉ cần làm một đám ruộng bé tẹo, chỉ
to bằng “cái dạng háng chân chim” là gặt mãi không hết” (Tày). Tương tự,
truyện của người Mạ cũng kể “Hạt giống lúa, bắp, cà, ớt, chi cần nấu bảy hạt
là tự nhiên nồi cơm sẽ đầy lên” và.“Lúa là những chiếc lá dài, to bằng bàn
tay mọc khắp nơi. Chỉ cần hái bỏ vào nồi nấu là có cơm ăn”.
Song cũng chính những người phụ nữ đã là người làm thay đổi đặc
tính của Lúa. Truyện của người Cao Lan, người Kinh, người Thái, người
Tày, người Khơ Me đều nói về hành động bất cẩn của người phụ nữ khiến
cho đặc tính ban đầu của lúa bị thay đổi. Một người đàn bà lười biếng để
nhà cửa bẩn thiu hay mải gội đầu chải tóc, khi lúa chín kéo nhau về bà ta
dùng gậy, dùng chổi đập, vụt vào lúa khiến nó vỡ tan thành những hạt nhỏ,
miệng luôn chửi rủa rằng: “Bao giờ có vòi tre, lưỡi sắt cắt cổ hãy về!” và
cấm chúng không được tự ý bò về nhà” (Cao Lan). Hay “Hạt gạo to như quả
bí đỏ, ngày ngày từ trên nương rẫy bò về nhà theo ý muốn của con người.
Hôm ấy, nghe tiếng người đàn bà góa gọi, lúa bảo nhau bò về đầy bịch, nằm
ở góc nhà, rồi chất đầy nhà. Vì có một mình nên mỗi bữa bà phải vất vả đập
cho hạt gạo vỡ ra từng hạt nhỏ để nấu ăn. Bực mình vì gạo nằm la liệt trong
nhà, đi lại vướng víu, bà góa đập vụn hạt gạo và nói từ nay hạt gạo phải nhỏ
đi và không được ý bò về” (Thái). Truyện của người Khơ Me kể có cô gái
đang đứng bên bồ lúa tâm sự với bạn ừai thì lúa tự ý kéo nhau về gây ồn ào
làm cô không nghe được tiếng nói của bạn tình, bực mình cô gái đập mạnh
vào bồ khiến hồn lúa (là nàng Pờrô Lungsờrâu vốn tính nhút nhát giật mình
sợ hãi bay đi trốn vào một khe đá hẹp tận ngoài biển sâu. Người không có
lúa ăn phải nhờ cá thác lác đi tìm lúa. Hay có cô bé mồ côi (Kinh) hay thằng
bé mồ côi (Tày) không gặt hết được lúa, vì cứ gặt hết lúa lại mọc và chín tiếp
ờ đằng sau, nó mệt khóc, xin tiên ông (hay các nàng tiên) bày cách lấy giấy
bản (hay lấy dáy tai) nút vào đầu cọng lúa, không cho lúa mọc lại và chín
tiếp nữa.Truyện của người Mảng, người Thái kể có bầy chó chặn đường đi
của lúa, hay hai chị em lười nhác không dọn nhà, hay người đàn bà bụng
chửa đi đứng nặng nề, để lúa về bị lũ gà mổ làm cho lúa sợ...
Tất cả những nguyên cớ nói trên, dẫn đến hậu quả là ngày nay hạt lúa
trở nên bé nhỏ, lúa không tự mọc và lăn về nhà nữa, lúa chín người phải đi
gặt lúa. Loài người không chỉ gieo hạt một lần được gặt ăn đời đời như trước lOMoARcPSD|197 044 94
N ư thần trong thần thoại Việt Nam. 211
mà phải cấy cày hàng vụ hàng năm. Là những sáng tạo tài tình của con
người thời xưa về lúa, các câu chuyện trên ẩn chứa sâu xa nhiều ý nghĩa về
sự phản ánh bước đường con người tiếp cận cây lúa, từ việc tìm ra giống lúa,
thuần hóa cây lúa và các con vật, chuyển đổi từ hái luợm sang trồng trọt,
chăm sóc cây lúa, đến việc thu hoạch lúa và vai trò người phụ nữ. Trong ký
ức xa xưa của nhiều dân tộc, họ tin rằng giống lúa (giống ngô) là do những
vị Nữ thần ở trên trời ban phát cho con người. Ký ức này có ở nhiều dân tộc
như trong truyện của người Pu Péo, Mường, Xơ Đăng và Chu Ru...
Như vậy, lúa gạo có nguồn gốc thật thiêng liêng. Câu chuyện mang tới
ý nghĩa biểu tượng sâu xa, chuyển tải thông điệp của người xưa về một phát
hiện có ý nghĩa to lớn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, đó là việc con người
tìm ra cây lúa. Ở đây có sự gặp gỡ chung giữa phương Đông và phương Tây
trong sự khẳng định giá trị của loài cây được coi là “nguyên sơ và thanh
khiết” này: “Không những người ta đã biết truyền thuyết về quả bầu
nguyên thủy ữong đó có cây lúa và cả các giống người nữa, mà cây lúa còn
giống như thứ thức ăn trời cho, mọc lên và làm đầy các vựa thóc một cách
tự nhiên. Tất cả các truyền thuyết Á Đông đều nói đến điều này. Việc trồng
lúa công phu, khó nhọc là quan hệ giữa trời và đất bị cắt đứt... Người Nhật
coi lúa gạo là biểu tượng cùa sự sung túc nhờ trời mà có...Ngay cả ở
phương Tây, lúa gạo cũng là biểu tượng của hạnh phúc và khả năng sinh sản dồi dào”.
Các câu chuyện đã cho thấy rằng việc tìm ra cây lúa không chi là một
phát hiện vĩ đại của con người, mà nó còn tạo ra một bước chuyển biến
mang ý nghĩa xã hội quan trọng. Đó là đưa con người từ nền kinh tế săn bắt
hái lượm hoang dại khi “chi biết ăn rau rừng và quả dại” hay “ chỉ biết bẫy
thú để kiếm sống”, chuyển sang giai đoạn đầu cùa kinh tế nông nghiệp trồng
lúa. v ề hiện tượng này, nhà nghiên cứu Hoàng Bé trong bài “Những huyền
thoại lúa nước và một số nét về kinh tế - xã hội truyền thống ở người Tày ”,
với quan điểm dân tộc học và thông qua một số truyện kể về lúa của người
Tày cũng đã có những nhận xét rất xác đáng như sau: “Các huyền thoại đã
cho chúng ta ý niệm về một cuộc sống hoang dã của người xưa, về quá trình
tìm biết đến cây lúa và nghề trồng lúa ngay từ thời nguyên thủy của loài
người... Chính ở đây, trong khi tập thể những người đàn ông thường bận rộn
với công việc săn bắn, thì những người đàn bà, trong công việc hái lượm của
mình, đã phát hiện những đám lúa mọc hoang dại tự nhiên - nguồn lương
thực sẵn có, thật như là “tự lăn về nhà” vậy”. lOMoARcPSD|197 044 94 r 212
V a n hó a th ờ Nữthắn - MẪU ở VlỆTNAM VÀ CHÂU A
Việc con người lấy tên cô gái đặt tên cho hạt Lúa, hoặc đặt ra Tục cúng
Nữ thần Lúa (Mường), Tục cúng hồn Lúa (Khơ Mú)... đã hàm chứa ý nghĩa
một thông điệp của người xưa trong việc không quên ơn người có công tìm
ra lúa, ban phát giống lúa đem gieo trồng để làm lương thực. Điều này nói
tới sự đóng góp quan trọng của người phụ nữ trong giai đoạn đầu kiếm tìm
giống lúa. Mặt khác đây cũng chính là những tình tiết phản ánh sự xuất hiện
nền nông nghiệp trồng lúa và cũng là giai đoạn con người đang tiến vào một
giai đoạn mới - từ kinh tế chiếm đoạt các sản phẩm có sẵn (chữ dùng cùa
Ăng ghen) của thiên nhiên sang kinh tế sản xuất - để đảm bảo đời sống ổn định hơn.
Một điều đáng lưu ý nữa là ờ việc Tại sao người phải gặt lúa mang về
là hình ảnh người đàn bà, trong đó có hình ảnh người đàn bà góa (người đàn
bà không chồng, người đàn bà ở một mình...). Hình ảnh người đàn bà góa
này cũng từng xuất hiện trong những thần thoại chất phác thô sơ của người
Thái kể về thuở khai sinh vũ trụ trời đất, nhiều sự việc đã được gán do chính
bàn tay người đàn bà góa tạo nên. Có truyện kể ngày xưa trời đất còn ở gần
nhau, người ta lên trài xuống đất một cách dễ dàng vì lúc đó ở hồ Uva
(Mường Thanh) có dây leo mọc lên gọi là “chựa khâu cát”. Vì trời đất gần
nhau nên con người ở mặt đất “giã gạo trời vướng chày, phơi thóc mây
vướng cót, quay sợi trời vướng guồng”. Có người đàn bà góa, thấy người
trần khổ cực quá, nên sinh bực tức, đem dao chặt “chựa khâu cát”, thế là từ
đó trời lên cao, lên cao mãi... Một truyện khác lại kể có một bà góa giã gạo,
vô ý để chày đụng phải trời, nên trời giật mình vụt lên cao. Chỗ chày đụng
phải lên cao nhất, còn xung quanh thấp dần nên trời mới có hình thù như
ngày nay... Hình ảnh người đàn bà góa cũng tiếp tục xuất hiện trong những
ừang thần thoại kể về việc kiếm tìm lương thực, trong đó có củ mài và lúa.
Củ mài xưa được người Thái hình dung giống như một loại quả sống ờ trên
cao, một hôm có một bà góa vào rững lấy củ mài, bà không có cách nào để
trèo lên lấy củ ờ trên cây cao được. Bực mình, bà ta đem dao chặt cây và còn
lấy tay dúi sâu củ mài xuống đất, miệng nói “Từ rày trở đi chúng mày phải
sống ở dưới đất này, nghe chưa...”. Từ đấy họ hàng nhà củ mài sợ hãi không
dám ở trên cây nữa mà phải chui sâu xuổng đất, làm cho ngày nay người
phải khó nhọc mới đào chúng lên được.
Người đàn bà góa cũng hiện diện trong truyện kể về nguồn gốc của lúa
ở người Thái và nhiều dân tộc khác như Kinh, Tày, H'mông, Cao Lan, Khơ
Me... Người đàn bà góa đã vì sự bất cẩn của mình gây nên hậu quả làm cho
hạt lúa xưa vốn to như quả bí đỏ, khi chín tự bò về nhà, thì nay trờ nên nhỏ lOMoARcPSD|197 044 94
N ữ thần ữong thần thoại Việt Nam.. 213
bé và con người phải vất vả đi gặt lúa mang về. Bởi những nguyên nhân như
bà lười biếng không dọn dẹp nhà cửa, mải gội đầu chải tóc, lấy chổi hay lấy
gậy đánh đập lúa, v.v... Ngoài các bà góa, những người phụ nữ khác cũng
góp phần làm cho lúa thay đổi đặc tính như người vợ lười, cô gái mải tâm sự
với bạn tình, gõ đập bồ lúa làm hồn lúa hoảng sợ, hai chị em lười nhác
không dọn nhà, hay người đàn bà bụng chửa đi đứng nặng nề...
Có thể nói trong hầu hết các truyện kể về lúa, hình ảnh người phụ nữ
xuất hiện gần như xuyên suốt. Từ những người phụ nữ đầu tiên góp phần
quan trọng vào việc cho giống lúa giống ngô, phát hiện và tìm ra cây lúa
trong giai đoạn sơ khai, được tôn vinh là Nữ thần Lúa, cũng như họ đã tiếp
tục góp phần vào công việc gieo trồng và chăm sóc lúa, đến những người
đàn bà xua đuổi, đánh đập lúa... Ở đây có lẽ không phải là sự hạ thấp dần về
địa vị vai trò của người phụ nữ, mà dường như chính là sự thay đổi về nhân
tố con người, nhân tố lao động trong quá trình tìm ra cây lúa và thuần hóa
giống lúa đã tạo nên hình ảnh những người phụ nữ đó. Thực tế cho thấy càng
về sau, vai trò của người đàn ông trong quá trình sản xuất đã ngày càng được
khẳng định, bởi khả năng lao động vượt trội, khả năng kỹ thuật và tổ chức
sản xuất của họ. Hình ảnh người đàn bà “lười biếng” sau này, có thể giải
thích theo nhận xét của nhà nghiên cứu Hoàng Bé thì “nếu như trước đây, vị
trí kinh tế hái lượm đã đưa người đàn bà lên vị trí xã hội chủ đạo (mẫu hệ),
thì nay kinh tế nông nghiệp dùng cày lại khẳng định vị trí xã hội thuộc về
đàn ông (phụ hệ)”. Dau sao thì dấu ấn bàn tay của người phụ nữ tác động
vào lúa đã in đậm trong mọi câu chuyện về lúa và trải qua hàng ngàn vạn
năm vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
Sự tôn vinh những người phụ nữ gắn với sự tôn vinh cây lúa đến nay
còn thấy rõ ở một số dân tộc khi phụ nữ trong vai trò mẹ Lúa, như người
Khơ Mú chẳng hạn, họ quan niệm hồn lúa là mẹ Lúa và thường hay nhập
vào bà chủ gia đình trong lễ củng hồn lúa hàng năm trong mùa nương rẫy.
Người Khơ Me gọi Nữ thần Lúa là Peirap và còn có các tên gọi khác như
Nàng Đen (Neang Khman), Nàng Lép (Neang Sơn). Trên những bức tranh
dân gian ở nhà người Khơ Me, thần Lúa thường được biểu hiện bằng hình
phụ nữ cưỡi trên lưng cá, tay cầm nhánh lúa. Nữ thần Lúa giữ hồn Lúa. Theo
người Khơ Me quan niệm thì Lúa có 19 hồn (Prahui Srâu). Trước khi gặt
lúa, người ta phâi làm lễ gọi hồn lúa về, lễ gọi hồn lúa này gọi là lễ
Xompralưng Srâu. Sau khi gặt lúa rồi, người ta phải đặt một vật nặng lên
trên các bó lúa để hồn Lúa khỏi bay đi. Hay như ở người Xơ Đăng họ gọi vị
thần của các loại lúa là Jang Xri, thần có hình dạng một bà già rách rưới, xấu lOMoARcPSD|197 044 94 214
Văn hó a th ờ Nữth á N - MẪU ở Việt NAM VÀ CHAU Á
xí nhưng tốt bụng, do nguyên hình của bà là con cóc bởi cóc cũng giống như
hạt thóc có vỏ xù xì, nhưng bên trong lại là hạt gạo trắng muốt nuôi sống con
người. Người phụ nữ này được người Xơ Đăng hết sức coi trọng. Thần có
quan hệ thân thiết với thần sấm sét, vậy nên mỗi khi có hạn hán người Xơ
Đăng hay lấy cóc ra, tức thần Lúa để cầu xin thần sấm sét cho mưa, V . V . . .
Ở các thiên thần thoại kể về nguồn gốc của lúa và nghề trồng lúa nước
của một số dân tộc như Kinh, Tày, H'mông, Cao Lan... ngoài hình ảnh
người phụ nữ gắn với cây lúa như trên còn phải kể tới hình ảnh vị nam thần
dưới hình dạng một ông già được gọi là Thần Nông, với các truyện như Ông
Thần Nông cùa người H ’mông (H'mông), Công việc bỏ dở của Thần Nông
(Tày), Thần Lúa (Kinh). Thần Nông là một nhân vật thần linh, được trời sai
xuống trần để dạy loài người ăn ở, khai phá đất đai cày bừa và gieo cấy
giống lúa, vì vậy con người đời đời biết ơn và tôn thờ là vị thần của nông
nghiệp. Từ khi con người chưa biết trồng trọt, cấy lúa, thần đã đem các hạt
giống lúa và ngô đến giao cho con người. Thần làm mưa cho nhà nông cày
cấy. Thần dạy cách gieo trồng, dạy cách cất giữ lương thực lên gác bếp, cách
xay giã nấu ăn. Thần dạy cho người H'mông cách lấy sợi lanh dệt vải may
quần áo mặc, cách lấy thuốc khi ốm đau, lại dạy cách làm nhà. Từ đó người
H'mông biết tra lúa tra ngô, không phải lang thang đói rét.
Người Tày kể Thần Nông đã cùng vợ tạo nên cánh đồng Thất Khê bao
la bằng phẳng. Núi đồi vây lấy cánh đồng này, từng dãy nhấp nhô chạy từ
phía Bắc xuống phía Nam là dấu tích công việc bỏ dở của Thần Nông.
Người Cao Lan gọi Thần Nông là sằn Nông, vị thần đã gặp lúa trên đường
đi săn thú và đem về gieo ừồng, do giận người vợ lười đánh đập lúa khi lúa
chín bò về nhà, ông mang lúa lên sông Ngân Hà cày cấy. Vào tháng năm
tháng sáu đêm nào người trần nhìn lên trời cũng thấy dòng sông sáng rực vỉ
đó là mùa cày cấy của ông. Người Kinh cũng gọi thần Lúa là Thần Nông, là
một vị thần rất khó tính, ai không biết chiều chuộng thì thần sẽ bỏ đi. Khi
nào thần xuất hiện với vẻ mệt nhọc lam lũ và thần chịu khó trông nom mùa
màng thì vụ đỏ sẽ được bội thu, khi thần ăn mặc chỉnh tề thì mùa màng sẽ
thất bát, vì thần thờ ơ với công việc.
Như vậy, trong thần điện của Lúa, theo quan niệm dân gian, sứ mệnh
tạo trồng, sản sinh ra giống lúa thuộc về Nữ thần Lúa và những người phụ
nữ, còn mang sứ mệnh bảo vệ, chăm lo nghề nông, nghề trồng lúa chính là vị
Thần Nông, trong bóng dáng của người đàn ông. lOMoARcPSD|197 044 94
N ữ thần trong thần thoại Việt Nam.. 215
2. Lửa - Nữ thần trong những thần thoại về nguồn gốc của lửa
Trong thời kỳ hoang sơ viễn cổ, con người chưa biết đến lửa, cũng
chưa biết dùng lửa và do không có lửa, con người phải chịu cảnh sống tối
tăm, lạnh giá và thường xuyên bị bệnh tật, thú dữ và thời tiết đe dọa. Chiến
công vĩ đại của Promete trong thần thoại Hy Lạp khi lấy được ngọn lửa cùa
Thần Trời (Thần Dơz, Thần Juypiter) đem xuống cho loài người, đã phản
ánh quá trình gian truân vất vả mà con người phải trải qua để tìm ra lửa và
biết sử dụng lửa như một thứ năng lượng thần diệu. Người Hy Lạp cũng kính
trọng và tôn vinh vị thần Thợ rèn hay vị thần Lửa cùa họ là Hephaistos và là
vị thần tâm linh có ảnh hưởng hết sức sâu rộng khi vị thần này còn được coi
là ông tổ của nhiều ngành công nghệ cùa người Hy lạp xưa.
Ở thần thoại của các dân tộc Việt Nam cũng có nhiều câu chuyện kể về
nguồn gốc cùa lửa, về quá trình con người phải trải qua khi đi tìm lửa, lấy
lửa cũng như giữ lửa để phục vụ cho đời sống của mình. Đó là những truyện
như Người biết dùng lừa (Dao), Ruồi trâu đi xin lừa (Thái), Nạn hồng thủy
và ruồi trâu đi tìm lừa (Thái), Người cỏ lừa dừng (Xơ Đăng). Những truyện
đó kể rằng người được sưởi lửa Trời ấm áp, xin Trời cho lửa mang về. Trời
cho lửa nhưng dấu cách làm ra lửa. Người xin lửa nhiều lần nhưng bị Trời
bịt mắt nên không biết cách giữ lửa, để lửa bay về trời mất. Người không có
lửa nên thường phải ăn sống nuốt tươi, có con chuột có lửa nhưng lại đem
giấu rất kín. Người tìm học cách làm ra lửa bằng việc cử các con vật đi xin
lừa của Trời và chủ yếu là tìm hiểu xem cách thức làm ra lửa nhưng đều bị
thất bại. Chim cũng bị Trời bịt mắt bằng bông khi cho lửa, chỉ có ruồi trâu
(hay con ve) có mắt ở dưới cánh nên biết được bí mật làm ra lửa. Nhờ đó,
con người biết cách làm ra lửa và giữ lửa để lúc nào cũng có lửa dùng.
Trong các truyện Nguồn gốc loài người, Sự tích nước lụt của người
Mảng lại kể con người đầu tiên có cánh, con vật đầu tiên có lửa là con giơi.
Vì giơi bắt muỗi ăn nên không cần lửa, do đó người đã đổi cánh cho giơi để
lấy lửa sưởi và nấu chín thức ăn.
Nếu so với việc Promete tìm ra lửa và lấy lửa của thần Trời trong thần
thoại Hy Lạp - La Mã, thì nhũng truyện về nguồn gốc cùa lửa, về việc tìm ra
lửa và giữ gìn ngọn lửa kể trên của các dân tộc Việt Nam mang vẻ cổ xưa
hơn. Tính chất cổ xưa thể hiện ở những nhân vật tìm ra lửa chỉ là những con
vật thuần túy như chuột, chim, ruồi trâu, ve, giơi... và với những cách thức
làm ra lửa hết sức giản đơn như “cọ thanh giang cho tóe lửa vào đống bùi
nhùi”. Tương tự, nếu Thần Lửa trong thần thoại Hy Lạp là vị Nam thần lOMoARcPSD|197 044 94 216
Văn hóa th ờ Nữthá N - MẢU ở VlỆTNAM VÀ CHẢU Á
Hephaistos, thì trong thần thoại của nhiều dân tộc Việt Nam vị thần Lửa lại là một Nữ thần.
Nữ thần Lửa trong thần thoại người Việt (hay còn có tên gọi là Bà
Hỏa), được Trời giao cho một trọng trách lớn là giữ lửa. Truyện Nữ thần
Lửa của người Việt kể:
“Dưới hình dạng một bà già mặt mũi cau có, khô khan, Nữ thần Lửa
giữ ngọn lửa màu nhiệm, giúp nấu chín và tạo ra thức ăn. Lửa của Nữ thần
này có rất nhiều loại, có loại lửa xanh chì thần Sét mới được dùng, có thứ lừa
màu nhiệm có thể giúp người ta chi cần đặt nồi không mà nấu ra đù những
thức ăn ngon lành. Nhưng thứ lửa này chì nhà Trời mới được dùng, còn
người thường thì không bao giờ được biết đến. Loài người ở hạ giới đều biết
đến thứ lửa đó, nhưng chưa ai có thể lấy được vì Nữ thần Lửa là một người
khó tính và hung dữ. Nữ thần có một bảo bối dùng làm vũ khí luôn ngậm
trong miệng. Đó lắ chiếc lưỡi đỏ lòm, có thể liếm cháy trụi cả cánh đồng,
hàng dãy núi và làm khô cạn hết nước của các ao hồ. Thần có lúc hung dữ
sai bộ hạ đi tàn phá cây cối, nhà cửa. Lửa đốt nhà của Thần là thứ lửa liếm từ trên nóc liếm xuống”.
Truyện còn kể rằng con người đã phải tìm rất nhiều cách để khám phá
ra bí mật làm lửa và giữ lửa của Nữ thần, kể cả cách lấy trộm hay nhặt lấy
mẩu tàn tro bọc vào khố mang về ủ trong bếp cho thành ngọn lửa. Nhưng Nữ
thần Lửa hay bà Hỏa khi nhìn thấy con người (lão tiều phu) khám phá ra
ngọn lửa màu nhiệm của mình bà đã lấy bầu nước dập tắt và bỏ đi. Hoặc khi
con người đã lấy được lửa của thần thì chính sự bất cẩn của họ đã làm cho
ngọn lửa bị tắt hoặc làm Nữ thần giận dữ khiến ngọn lửa bốc cháy, gây ra
những đám hỏa hoạn, thiêu rụi tất cả. Từ đó con người đã phải hết sức cẩn
thận giữ không để mất lửa, cũng như người ta rất sợ những cơn giận của Nữ
thần Lửa nên họ hết sức chiều chuộng ngọn lửa và kính trọng, thờ cúng vị Nữ thần này”.
Trong thần thoại Tậy, Nữ thần Lửa thường nằm im trong khúc gỗ to,
Thần ăn rồi ỉa ra tro. Loài người biết ơn thần, nhưng khi cuồng nộ, thần đốt
cháy nhà cửa, cây rừng, nên mỗi nhà đều phải thờ thần Lửa.
Thần thoại các dân tộc Tây Nguyên cũng phổ biến coi thần Lửa là một
vị nữ thần. Và Nữ thần Lửa được kể như sau: “Vào thuở xa xưa, có một vị
nữ thần khổng lồ đã phả sức nóng của thân mình thiêu cháy tất cả các loài
quỷ dữ và ác thú cùa rừng núi Tây Nguyên. Sau đó nữ thần trụ mình, gò lưng
đẩy trời lên cao và uốn mình thành con rồng lửa. Đầu rồng hạ xuống phía lOMoARcPSD|197 044 94
N ữ thần trong thần thoại Việt Nam.. 217
bắc Tây Nguyên, nay là cao nguyên Công Tum, địa bàn cư trú cùa người Xơ
Đăng, Ba Na. Thân rồng gò lưng lên cao ià vùng Gia Lai, quê hương của
người Gia Rai. Đuôi rồng là Đắc Lắc, Lâm Đồng, nơi cư trú của đồng bào Mơ Nông”.
Như vậy trong thần thoại các dân tộc Việt Nam, Nữ thần Lửa vừa là
người giữ ngọn lửa thiêng màu nhiệm, vừa là người có quyền năng sai
ngọn lửa đi tàn phá, hủy diệt. Điều này thể hiện tính chất hai mặt của Lửa -
vừa hữu ích thiêng liêng vừa mang sức mạnh hủy diệt - như S.Freud đã
nói: “Lửa là hiện tượng duy nhất có thể tiếp nhận rõ rệt cả hai mặt giá trị
đối lập cái tốt và cái xấu. Nó sáng long lanh trên thiên đường và cháy rực
đò dưới địa ngục”.
Nhìn chung, hình ảnh Nữ thần Lửa trong thần thoại Việt cũng như hình
ảnh Thần Lửa trong thần thoại cùa nhiều nước đều là sự hình dung và nhân
tính hóa sức mạnh của một thực thể vật chất theo dạng thức của con người.
Theo Thần thoại Ân Độ, thần Agni - thần Lửa của người An cũng được hình
dung là “một ông thần cầm một cái lao phóng bằng lửa, có hơi thờ đen ngòm
(khói), có tiếng kêu răng rắc (tiếng nổ của vật cháy, có nước da và râu tóc đỏ
rực, lưỡi dài vàng chói. Vị thần này vừa “dữ tợn... liếm sạch cả cây rừng,
chim muông hoa cỏ trong phút chốc và để lại những vết bánh xe đen ngòm
ghê rợn”, vừa được người Ấn xem là “người bạn tốt nhất, người chúa của
cải, con đẻ của Angira - thị tộc đã tìm ra lửa đầu tiên”.
Thần thoại về Nữ thần Lửa của người Việt có sự biến đổi khi gán cho
thần có bộ hạ là Bợ (ông, thằng) - một nam nhân vật với tính tình hunng ác,
ăn cắp lừa của Thần gây cháy nhà, chết người. Những câu chuyện về nhân
vật này phổ biến ở vùng Nghệ Tĩnh, nơi khí hậu khắc nghiệt và hàng năm có
gió Lào thổi gây nạn hỏa hoạn cho người dân.
Truyện cố Bợ thường được kể tóm tắt như sau: “Trong sổ bộ hạ của
Thần Lửa có thằng Bợ que thói hung ác. Nó ờ với thần lửa lâu năm, một
hôm ăn cắp lửa của thần rồi trốn đi. Nó là kẻ thù của loài người”. Hoặc được
người dân vùng Nghệ Tĩnh kể lại với những tình tiết như: “Tại một vùng có
một chàng trai khỏe mạnh tên là Bợ. Nhìn mặt trời Bợ nghĩ lửa đó mà để
người và vật bị chết rét sao. Bợ liền đi về phía đông, lật ngửa cái nón mê,
ngả xuống biển làm thuyền rồi lấy cành cây làm chèo, chèo mãi đến chỗ mặt
trời mọc, lấy trộm lửa của mặt trời, đem về cho con người”, v ề sau nhân vật
này được gắn với hiện tượng thiên nhiên cụ thể, đó là hiện tượng gió Lào với
những cơn gió như những cơn bão lửa gây cháy nhà hàng loạt vào mùa hè lOMoARcPSD|197 044 94 218
Văn h ó a th ờ N ữ THẮN - MẪU ở VlỆT NAM VÀCHÂU Á
hàng năm, phản ánh nét khí hậu đặc trưng của vùng Nghệ Tĩnh: “Cố Bợ sẵn
lửa trong người, nên đến mùa nam nắng thường hay đốt nhà để xem cho
thích. Khi ngọn lửa xanh bốc lên, từ đâu đó có tiếng cười ròn rã, tiếng vỗ tay
đôm đốp. Vũ khí của thần là lửa và có cả gió nữa vì thế thần đi đến đâu là
cháy nhà đến đó. Đặc biệt thần thường về đốt nhà vào mùa hè - mùa gió nam
Lào. Mỗi lần có đám cháy, người dân đều cho là cố Bợ đốt, họ bảo nhau: Lại thằng Bợ rồi
Truyện kể và nhân vật cố Bợ - thần Lửa của dân gian vùng Nghệ Tĩnh
rõ ràng là xu hướng thế tục hóa của thần thoại suy nguyên về nguồn gốc cùa
lửa. Là thần Lửa, sản phẩm của tư duy thần thoại nhưng cố Bợ cũng là nhân
vật của truyện trạng, truyện cười, truyện tiếu lâm của dân gian Nghệ Tĩnh.
Liên quan tới thần Lửa, trong truyện kể dân gian cũng như trong văn
hóa tâm linh người Việt với câu chuyện Ba ông đầu rau và tín ngưỡng thờ
thần Bếp với tục lệ Tết ông Công ông Táo vào 23 tháng Chạp hàng năm.
Thần Bếp có nhiệm vụ trông nom củi lửa bếp núc cho trần thế, gồm một
bộ ba, một bà và hai ông. Tín ngưỡng này cũng cổ ở người Mường, một
dân tộc có quan hệ gần gũi, gắn bó lâu đời với người Việt. Ở đây người
phụ nữ được đặt bên cạnh những người đàn ông bởi chính những hành
động, việc làm của người phụ nữ này đối với hai người đàn ông (một là
chồng cũ và một là chồng mới) đã làm cho thần Trời (Ngọc Hoàng) cảm
động mà phong cho họ làm Thần Bếp.
Thần Bếp hay còn gọi là thần Táo (Ông Táo, Táo Quân) hay thần Núc
thực sự là một dạng chuyển đổi vai trò của thần Lửa khi xã hội đã xuất hiện
hình thức gia đình cá thể thay cho hình thức công xã thị tộc nguyên thủy. Ở
đây thần Lửa đã thu hẹp ý nghĩa của mình vào phạm vi gia đình, bằng việc
gắn với vai trò quan trọng của bếp lửa. Thần Bếp đã trở thành một vị thần
hết sức gần gũi, thân thiết và cũng là người có sứ mệnh điều tiết và dõi theo
hành vi, đạo đức, thành quả lao động của mọi gia đình trần thế. Cùng với Nữ
thần Lửa, Táo Quân ừong bộ ba thần Bếp là những vị thần tâm linh có vị trí
và ý nghĩa quan trọng trong đời sống người dân Việt Nam.
Tương tự, Trung Quốc cũng có tục lệ cúng Táo Quân như người Việt,
gọi là tết Tiểu niên. Nhà nghiên cứu Ngô Tổ Đức trong bài viết “Trong tiết
nhật truyền thống Trung Quốc có những tiết nhật tể tự nào? Tập tục rơ
sao?" đã cho biết; “Tiết nhật thờ cúng Táo Quân bắt nguồn từ sùng bái lửa,
ý nghĩa kỷ niệm về tác dụng quan trọng của việc dùng lừa nấu chín thức ăn
trong quá trình phát triển của nhân loại là cực kỳ rõ ràng, nhưng về sau sự lOMoARcPSD|197 044 94
N ữ thần trong thần thoại Việt Nam.. 219
hội tụ cùa những nội dung hoạt động khác đã dần dần nhấn chìm dấu ấn
sùng bái tín ngưỡng này”.
Vì vậy, từ thần Lửa, các vị Táo Quân đã trờ thành thần ữông coi bếp
lửa cùa gia đình, nơi trú ngụ cùa thần là bếp lửa. Bàn thờ và lễ thức thờ cúng
thần cũng được đặt ngay cạnh bếp lửa. Đặc biệt đối với đồng bào Mường,
bếp lò - nơi thể hiện tín ngưỡng thờ Vua Bếp được coi là nơi hết sức thiêng
liêng, gấn với sự thịnh vượng, vững chắc và khát vọng no ấm cùa mọi gia
đình. Với người Việt, những thói quen kiêng kị xung quanh lửa và bếp lửa
vẫn được bảo lưu như luôn giữ cho bếp lửa sạch sẽ, không dùng những thứ
uế tạp để nhóm lửa hay đun bếp, trong các ngày tết phải luôn giữ ngọn lửa
ấm nóng trong bếp, kiêng kị việc đi xin lửa láng giềng vì lửa tượng trưng
cho sự may mắn, cho vận đỏ của từng gia đình.
Từ Nữ thần Lửa - một vị thần tự nhiên, phản ánh tín ngưỡng nguyên
thủy của người xưa đến những nhân vật nam thần như cố Bợ hay bộ ba thần
Bếp... ngọn lửa đã chứa đựng thêm nhiều ý nghĩa mang nội dung xã hội phù
họp với tâm lý của từng thời đại. Song dù hình thức biểu hiện có thay đổi thì
tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng cổ xưa nhất về Nữ thần Lửa vẫn được bảo
lưu trong chiều sâu của tâm thức dân gian các dân tộc Việt Nam. Nữ thần
Lửa - một vị thần mang tính nữ, gắn với chế độ mẫu hệ của thời kỳ săn bắt
hái lượm, đó chính sự hình dung của con người trong việc thần kỳ hóa khả
năng đặc biệt của lửa, là sự đề cao sức mạnh kỳ diệu mà lửa đã đem đến cho
con người từ khi có lửa cho đến ngày nay. Nữ thần Lửa là một biểu tượng
của thần thoại cổ xưa về lửa, trải qua thời gian, Lửa đã được thiêng hóa và vị
Nữ thần này là người có vai trò trọng trách giữ thứ lửa thiêng liêng ấy, thứ
lửa màu nhiệm của Trời ban cho loài người và mãi mãi được người dân Việt
Nam tôn thờ, kính trọng.
3. Nước - Nữ thần trong những thần thoại về nước
Trong thần thoại Thái, các nữ thần liên quan đến Nước có khá nhiều và
với diện mạo hết sức phong phú. Người Thái gọi thần Nước với nhiều tên
gọi khác nhau, như Mẹ Nặm - Mẹ Nước, Luông Me (Rồng Mẹ), Bà chủ Mưa
(hay còn gọi là Thần Mưa), Già vài khao (Bà thần trâu trắng),... Trong áng
sử thi thần thoại cổ của người Thái Mở họng Trời, cỏ câu chuyện kể về các
nữ thần là các Nàng Ạc, Nàng An, Nàng Nè - các nữ thần này coi sóc về việc
làm mưa ở trên ữời, tức là thần sấm, thần Chớp, thần Sét. Truyện kể có lần lOMoARcPSD|197 044 94 r 2 2 0
V a n hóa th ờ N ữ th ắn - MẪU ở V iệ t NAM VẢ chAu A
dân Mường Bằng bị hạn hán lâu ngày, hỏi ra thì họng trời bị tắc. Họng trờii tắc là bởi:
“Nàng Ạc chưa cho trời gầm,
Nàng An chưa cho trời chớp,
Nàng Nè chưa cho trời sét,
Chưa có sấm sét thì chưa cỏ mưa
Sau phải nhờ Lang Cặp Lang Kè chặt rễ cây đa, cây si, họng trời mới
thông và các Nàng - tức các nữ thần đã cho trời gầm, trời chớp, trời sét. Dân
gian nghe sấm sét thì sợ, phải “hú vía” để hồn khỏi bay đi. Nhưng trước khi
ra lệnh cho sấm chớp, các Nàng cũng đã cho cây cỏ báo trước:
“Rau hác mọc, trời sẽ có bão,
Rau dang lên, trời sẽ cỏ sấm,
Măng lành - anh mọc, trời sẽ có sét
Chính vì vậy mà từ xưa dân các mường thường ra xem rau, xem măng
để đoán mưa bão. Truyện kể về dòng sông Mã cũng kể rằng các dòng sông
Đà sông Mã đều do các Nữ thần sông nước canh giữ với những mỏ vàng mỏ bạc dưới lòng sông.
Trong các thần thoại Thái của vùng Mường Then, người Thái quan
niệm các vị thần canh giữ nguồn nước của ba con sông Nặm u, Nặm Rốn,
Nặm Núa là các Nữ thần và được gọi là Luông Mẹ (Rồng Mẹ). Thần thoại
về sông Mã kể rằng các mò bạc, mỏ vàng dưới lòng sông Mã, sông Đà đều
do các Nữ thần sông canh giữ. Cũng trong thần thoại về sông Mã đã giải
thích hiện tượng lũ lụt hàng năm là do các Nữ thần cai quản dòng sông này
hay ngủ quên, nhân đó mà con người lấy đi nhiều bạc dưới lòng sông. Vì vậy
khi tinh ngủ các nữ thần đã rất tức giận bèn dâng nước để đòi lại bạc mà
người đã ăn trộm, gây ra nạn hồng thủy cho vùng đất hai bên bờ sông. Và
cũng trong thần thoại Thái, thần Mưa cũng được coi là một vị nữ thần, trong
các bài ca nghi lễ cầu mưa người Thái đã hát xin Nữ thần Mưa (Bà Chủ
Mưa) cho mưa xuống để lấy nước cấy trồng:
Bà chù trời, bà chù Mưa hỡi!
... Đến xin mưa cày ruộng mạ
Xin nước Trời tưới cánh đồng lOMoARcPSD|197 044 94
N ữ thần trong thần thoại Việt Nam... 22 1
Theo tài liệu của nhà Thái học cầm Trọng thì người Thái trắng ở
Mường Muỗm, Bảo Lạc, Cao Bằng gọi thần Nước của họ được gọi là Già
Vài Khao (Bà thần trâu trắng) và cho rằng bà trú ngụ ở khúc suối Pák Miều.
Hiện tượng này cũng thấy có ở người Tày Khao sống tập trung ở vùng tả
ngạn sông Hồng như Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và họ cũng dùng danh
xưng Gìa Vài Khao để chỉ Nữ thần Nước
Thần thoại Việt trong nguyên mẫu cổ xưa coi các thần tự nhiên trong
đó có Thần Nước đều là nữ thần, như Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước. Điều này
xuất phát từ từ điều kiện của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời của Việt Nam
và vùng Đông Nam Á nói chung. Với nghề chính là trồng trọt canh tác lúa,
nguời phụ nữ vốn được coi trọng trong vai trò phát hiện và tìm thấy giống
cây lương thực quý báu này, hệ quả dẫn đến là truyền thống đề cao nữ giới
in sâu đậm trong tâm thức dân gian của nhiều dân tộc. Do vậy trong hệ thống
các thần của người Việt và cùa một số các dân tộc khác, Nữ thần đã chiếm
ưu thể và tục thờ nữ thần đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam điển hình.
Khi Phật giáo vào Việt Nam đã diễn ra quá trình bản địa hóa Phật giáo,
Man Nương đã trờ thành Phật Mau với công lao tỉm nước chống hạn cho cả
vùng dân cư sinh sống là vùng Dâu thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nơi nền nông
nghiệp lúa nước phát triển sớm nhất của Việt Nam. Và các nữ thần tự nhiên
cùa vùng Dâu đã đã trở thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (bà Mây), Pháp
Vũ (bà Mưa), Pháp Lôi (bà sấm), Pháp Điện (bà Chóp). Đó là các vị nữ thần
có khả năng đem nước đến cho con người, là những vị phúc thần bảo trợ cho
cuộc sống người dân nơi đây. Sự tôn vinh và phụng thờ các vị thần Tứ Pháp
đã có ảnh hưởng và lan tỏa khắp vùng Bắc Bộ mang ý nghĩa thể hiện ước
vọng điều hòa và chế ngự nguồn nước cho những người nông dân nông nghiệp Việt Nam.
Trong tâm linh nguời Việt dần dần đã có những biến đổi về ý niệm và
tín ngưỡng về vị thần này để ngày càng phù hợp và đáp ứng nhu cầu của con
người về Nước trong từng môi trường và trong từng thời điểm cụ thể, bên
cạnh việc bảo lưu và duy trì những nguyên mẫu và tín ngưỡng về Nữ thần
Nước cổ xưa. Bằng truyện kể cũng như thông qua tín ngưỡng dân gian, các
vị Nữ thần liên quan đến Nước được lưu truyền với nhiều câu chuyện khác
nhau và tồn tại dưới nhiều lễ thức thờ cúng.Trong đó nổi trội'và có sức hấp
dẫn lôi cuốn tâm thức dân gian là thần thoại và tín ngưỡng về Nữ thần Nước
được kể và được thờ cúng dưới tên Mau Thủy (Mầu Thoải), được dân gian
coi là vị Nữ thần duy nhất chuyên cai quản về sông nước. lOMoARcPSD|197 044 94 2 2 2
Van h ó a th ờ Nữth á N - MẪU ở Việt NAM VÀ CHẢU Á
Theo dân gian, Mẩu Thoải có mặt ở khắp mọi nơi để giúp đỡ mọi
người mỗi khi đi qua các vùng sông nước. Cũng có truyện kể Mầu Thoải là
vợ của vua Thủy Tề, vị vua ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các
việc ở biển, còn Mẩu Thoải trông coi các việc ở sông, suối. Do sông suối có
ở khắp nơi nên Mầu cũng có mặt ở khắp nơi, nhất là tại các bến sông lớn.
Cũng vì vậy, Mau Thoải được thờ ở nhiều nơi, có nơi được thờ là Thành
hoàng và có sắc phong đề "Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương" như ở
làng Viêm Xá, Yên Phong, Bắc Ninh - một làng thuần về nông nghiệp của
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong quá trình phát triển đã có những thay đổi trong tín ngưỡng về
Nước, Nữ thần Nước đã được thay thể bằng những nam thần. Thần thoại
Việt - Mường về Nước có sự biến đổi khi coi các vị thần liên quan đến Thần
Nước như Thần Mưa, Vua Thùy Tề, Thần Hà Bá, ông Pồng Pêu, Vua Khú -
Vua Nước là Nam thần. Ngày nay hầu như chúng ta thấy, trong các thiên
thần thoại về nước của người Việt, các nhân vật thường là những nam thẩn
và cô dấu ấn ảnh hường cùa thần thoại Trung Hoa, một quốc gia láng giềng
có chế độ phụ quyền và vương quyền phát triển sớm. Truyện Thần Mưa của
người Việt hình đung về “Thần Mua và Thần Nước đều cùng có hình rồng,
cùng một tộc nhưng mỗi thần nhận nhiệm vụ khác nhau. Thần Mưa được
Ngọc Hoàng ủy thác cho việc làm mưa. Thân Thần hình rồng, thường xuống
hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời cao phun nước
làm ra mưa cho thế gian có nước uống và cày cấy, cây cỏ trên mặt đất được
tốt tươi. Thần Mưa thường theo lệnh Trời đi phân phát nước ờ các nơi. Thần
Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới,
có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội’”. Truyện Thần Nước lại kể: “Thế
giới sông biển ao hồ, Ngọc Hoàng đều giao cho Thần Nước. Cũng như Thần
Mưa, Thần Nước có một hình thù rồng rất vĩ đại. Tất cả các giống thủy tộc
như cá, rắn, cá sấu, thuồng luồng... đều là bộ hạ của thần và chia nhau quản
lý cai trị mọi khu vực”.
Một biến tướng nữa cùa Thần Nước của người Việt đó là thần Hà Bá,
vị thủy thần cai quản sông ngòi được nhắc tới trong câu tục ngữ khá quen
thuộc “Đất có Thổ công, sông có Hà Bá” cũng trong một hình dạng nam
thần. Lễ cúng thần sông Hà Bá để cầu một năm mưa thuận gió hoà - phong
tục đặc trưng của nhiều vùng gắn bó với đời sống sông nước của đồng bằng
Bắc Bộ, diễn ra khoảng trung tuần tháng 3 âm lịch, đã trở thành một tập tục
có từ lâu đời của người dân Việt Nam. lOMoARcPSD|197 044 94
N ữ thần toong thần thoại Việt Nam... 223
Thần thoại Mường gọi vị thần cai quản về Nước là ông Pồng Pêu và kể
trong Đè đất đè nước-. “Khi xưa Trời làm đại hạn 12 năm, nhờ có ông Pồng
Pêu gọi mưa nên mới có nước, đất đai ngấm nước mới mọc được cây si, rồi
mới đẻ ra mường, có người và muôn vật ngày nay”. Người Mường kính
trọng ông Pồng Pêu và thờ ông ở bờ sông, hàng năm vào ngày xuống đồng
được mùa cơm mới ngày tết, đều đặt cỗ cúng ông. Trong tín ngưỡng của
người Mường còn có tục thờ ông Vua Khú - Mó Nước, tức thờ nơi nguồn
nước chảy từ các khe núi. Khi gặp hạn hán hay vào dịp đầu năm mới người
dân thường lên đầu nguồn nước làm lễ cúng Mó Nước và làm lễ cầu mua.
Người Mường quan niệm Vua Khú hay Mó Nước là vị thần Nước thường
sống ở vực nước sâu, có hình dạng rắn nhưng cũng có lúc mang hình dạng
người. Vị thần này vừa gây họa vừa mang phúc lại cho con người nên họ
vừa kính trọng vừa nể sợ và luôn thờ cúng để thần mang lại bình yên cho mọi nhà.
Như vậy, thần Nước của người Việt và các dân tộc Việt Nam khác rất
đá dạng phong phú, cũng như được hình dung, quan niệm rất khác nhau,
thậm chí đối lập nhau trong sự biến đổi và phát triển của lịch sử xã hội. Song
sâu đậm nhất vẫn là hình ảnh Nữ thần Nước với diện mạo người phụ nữ
trong nguyên mẫu cổ xưa và trong tín ngưỡng dân gian ngày nay là hình ảnh
Mầu Thoải - Mầu Thủy - Mẹ Nước. Nếu như thần thoại La Mã với ảnh
hường của thần thoại Hy Lạp và các nền tôn giáo khác như Ai Cập, Ba Tư là
các đức tin đối với người La Mã cổ đại, thì thần thoại Việt Nam với tính chất
bản địa lâu đời cùng với sự tiếp thu ảnh hường từ hai nền thần thoại lớn là
Trung Hoa và Án Độ, cũng là niềm tin đối với người dân các dân tộc Việt
Ham thời cổ và niềm tin ấy được nuôi dưỡng cho đến tận ngày nay.