-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Ôn kết thúc môn KTCT
Ôn kết thúc môn KTCT
Kinh tế chính trị (KTCT-kết thúc môn)) 2 tài liệu
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 95 tài liệu
Ôn kết thúc môn KTCT
Ôn kết thúc môn KTCT
Môn: Kinh tế chính trị (KTCT-kết thúc môn)) 2 tài liệu
Trường: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 95 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
ÔN KẾT THÚC MÔN KTCT
Chủ nghĩa xã hội khoa học (Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh)
ÔN TẬP KẾT THÚC MÔN
CÂU 1: PHÂN TÍCH THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HOÁ? VÌ SAO
HÀNG HOÁ CÓ HAI THUỘC TÍNH ?
- Khái niệm hàng hoá: Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả
mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
- Mọi thứ hàng hoá đều có 2 thuộc tính: + giá trị sử dụng + giá trị
1. Giá trị sử dụng: giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng
của sản phẩm, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con
người, do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành
nên hàng hóa đó quy định. Giá trị sử dụng nhằm đáp ứng
yêu cầu ( vật chất hay tinh thần… ) của người mua.
+ Đặc điểm của giá trị sử dụng của hàng hoá:
• Giá trị sử dụng của vật phẩm chỉ được bộc lộ ra khi người ta tiêu dùng nó.
Khoa học kĩ thuật càng phát triển, người ta sẽ tìm thấy thêm
nhiều giá trị sử dụng của sản phẩm
• Giá trị sử dụng của hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu của người
mua, vì vậy nó rất phong phú, người sản xuất phải chú ý hoàn
thiện GTSD của hàng hoá do mình sản xuất ra sao cho ngày càng
đáp ứng được nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người
2. Giá trị của hàng hoá: Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá,
ta cần xét chúng trong mối quan hệ trao đổi và hiểu
được”giá trị trao đổi”. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số
lượng, một tỷ lệ trao đổi giữa những GTSD khác nhau. Được
biểu hiện bằng các phương trình như: 1m vải = 5 kg thóc. Tỉ
lệ trao đổi này thường được trao đổi theo thời gian địa điểm,
nên nó mang tính ngẫu nhiên tương đối.
Mọi hàng hoá đều là sản phẩm của lao động con người và nhờ có cơ
sở chung này mà mọi hàng hoá đều được trao đổi với nhau.
Thông qua việc nghiên cứu giá trị trao đổi hàng hoá, ta thấy được
thuộc tính thứ hai của giá trị hàng hoá.
Ta có thể kết luận rằng : Giá trị hàng hoá là lao động xã hội của
người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ
là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị. Giá trị là nội dung, là cơ
sở của giá trị trao đổi
Vậy thực thể giá trị hàng hoá (chất giá trị) đó chính là lao động của
con người sản xuất hàng hoá kết tinh ở trong hàng hoá và giá trị đã
biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá hay giá trị sản xuất.
- Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính đó là do lao động sản xuất hàng hoá
có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Chính tính
hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản chất hàng hoá.
- Lao động cụ thể: là loại lao động được tiến hành dưới một hình thức
cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Nó có mục
đích, phương pháp hoạt động, có đối tượng, công cụ và có kết quả
riêng biệt. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá
- Lao động trừu tượng: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá
không kể tới hình thức cụ thể của nó. Đó là sự hao phí “ sức lao
động” nói chung của người sản xuất hàng hoá về thần kinh, cơ bắp,
trí óc. Lao động cụ thể tạo ra giá trị hàng hoá.
CÂU 2: LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HOÁ VÀ THƯỚC ĐO LƯỢNG
GIÁ TRỊ HÀNG HOÁ? PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HOÁ?
- Lượng giá trị của hàng hoá là do lượng lao động hao phí để sản xuất
ra hàng hoá đó. Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị
hàng hoá bao gồm: hao phí lao động quá khứ
(chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã tiêu dùng để sản
xuất ra hàng hoá đó) + hao phí lao động mới kết tinh thêm.
- Lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá được đo bằng thời
gian lao động. Thời gian lao động này phải được xã hội chấp nhận,
không phải là thời gian lao động của đơn vị sản xuất cá biệt, mà là
thời gian lao động xã hội cần thiết (là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã
hội với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung
bình). Hay nói rõ hơn, lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá là lượng
thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hoá đó.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá:
• Năng suất lao động (NSLĐ):
+ Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động
+ Năng suất lao động được tính bằng số sản phẩm sản xuất ra
trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian hao phí để sản
xuất ra một đơn vị sản phẩm
+ Khi tăng NSLĐ sẽ làm tăng hiệu quả, năng lực sản xuất của lao
động vì: khi tăng NSLĐ số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian sẽ tăng lên, số lượng lao động hao phí để sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm sẽ giảm. Do vậy, năng suất lao động tăng
lên sẽ làm cho lượng giá trị trong một đơn vị hàng hoá giảm xuống.
+ Như vậy đại lượng giá trị của một hàng hoá thay đổi theo tỷ lệ
thuận với lượng lao động thể hiện trong hàng hoá đó và tỷ lệ
nghịch với sức sản xuất của lao động đó.
Các nhân tố như: trình độ khéo léo trung bình của người lao động,
sự phát triển và ứng dụng KHCN, sự kết hợp xã hội của sản xuất
và các điều kiện tự nhiên đều là những nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ.
+ Khi xem xét mối quan hệ giữa tăng năng suất lao động với
lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá, cần chú ý thêm mối quan
hệ giữa tăng cường độ lao động với lượng giá trị của một đơn vị
hàng hoá. Cũng như phân biệt giữa năng suất lao động và cường độ lao động.
+ Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt
động lao động trong sản xuất. khi cường độ lao động tăng lên thì
lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng
lên và lượng sản phẩm tạo ra cũng tăng lên tương ứng. Song,
lượng thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra
một đơn vị hàng hoá không thay đổi, vì vậy tăng cường độ lao
động thì giá trị một đơn vị sản phẩm không đổi.
+ Tính chất phức tạp của lao động
+ Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia lao động
thành lao động giản đơn và lao động phức tạp
+ Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào
tạo một cách hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kĩ năng,
nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
+ Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải
trải qua một quá trình đào tạo về kĩ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu
của những nghề nghệp chuyên môn nhất định
+ Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động
phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Hay nói
cách khác, lao động phức tạp là lao động giản đơn nhân gấp bội lên.
+ Đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng để áp dụng trong hoạt
động lao động khi tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội, cả
nhà quản trị và người lao động sẽ dựa vào cơ sở này để xác định
mức thù lao phù hợp với tính chất của hoạt động.
CÂU 3: NỘI DUNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ? TRÌNH BÀY NHỮNG
TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có
sản xuất hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. - Về nội dung:
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải được
tiến hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo yêu
cầu của quy luật giá trị, người sản xuất muốn bán được hàng hoá trên
thị trường, muốn được xã hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị
của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội
cần thiết. Trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc
ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau:
+ Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá:
• Trong sản xuất, nếu giá cả hàng hoá bằng hoặc lớn hơn giá trị thì
việc sản xuất nên được tiếp tục, mở rộng. Tư liệu sản xuất, sức lao
động sẽ được tự phát dịch chuyển vào ngành đang có giá cả cao.
• Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hoá từ nơi có giá cả
thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung
nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng
hoá ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao
hơn, góp phần làm cho cung – cầu hàng hoá giữa các vùng được
cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh
sức mua của thị trường
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất nhằm
tăng năng suất lao động.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ
thể sản xuất có tính độc lập trong quá trình sản xuất và vì vậy nên sự
hảo tổn lao động của các chủ thể cũng sẽ khác nhau, người sản xuất
nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của
hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Nhà sản xuất nào có hao
phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thua
lỗ. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá
sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ
hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, nhà sản
xuất phải dùng các biện pháp để tối đa hoa hóa chi phí sản xuất, áp
dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, tạo ra cho
mình những lợi thế cạnh tranh.
- Thứ ba Làm cho sự phân hoá người sản xuất hàng hoá thành
người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là:
những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức
cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn
hao phí lao động xã hội cần thiết, từ đó mà thu được nhiều lợi nhuận,
họ trở thành người giàu. Họ mở rộng thêm sản xuất, quy mô. Ngược
lại những người không có được các lợi thế cạnh tranh sẽ dần thua lỗ, trở thành người nghèo.
CÂU 4: PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ VÀ NHỮNG KẾT LUẬN RÚT RA?
Để có được giá trị thặng dư, nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ nhất định.
Người lao động chỉ phải hao phí một phần thời gian lao động là có
thể bù đắp được giá trị hàng hoá sức lao động -> bộ phận này là thời gian lao động tất yếu.
Ngoài thời gian tất yếu đó, người lao động vẫn phải làm việc trong
sự quản lý của người mua sức lao động, và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu
của người mua sức lao động. Bộ phần này là thời gian lao động thặng dư.
Ví dụ: Để sản xuất 50kg sợi:
+ Mua 50 kí bông giá 50 đô
+ Hao mòn máy móc là 3 đô
+ Mua hàng hoá sức lao động trong 1 ngày ( 8 giờ) là 15 đô
⇨ Nhà tư bản ứng ra 68 đô
Giả sử trong 4h lao động công nhân đã chuyển toàn bộ 50kg bông
thành sợi. Giá trị sợi bao gồm:
+ Giá trị bông 50kg chuyển vào: 50 đô + Hao mòn máy móc: 3 đô
+ Giá trị mới bằng giá trị sức lao động : 15 đô ⇨ Tổng cộng: 68 đô
Công nhân tiếp tục làm việc trong 4h nữa. Khi đó nhà tư bản bỏ thêm
+ Tiền mua 50kg bông: 50 đô + Hao mòn máy móc: 3 đô
⇨ Tổng cộng nhà tư bản đã ứng ra 100đô + 6 đô + 15 đô = 121 đô
⇨ Sau khi sợi bán hết, giá trị thu về sau 8h lao động của công nhân là :
68 đô + 68 đô = 136 đô => nhà tư bản thu được giá trị thặng dư là
136đô – 121 đô = 15 đô
Phần chênh lệch này là giá trị thặng dư. Đây là giá trị mới do người
lao động tạo ra ngoài hao phí lao động tất yếu. Những kết luận rút ra:
- Giá trị thặng dư là một bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động không công của
công nhân cho nhà tư bản.
- Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư
- Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị
CÂU 5: PHÂN TÍCH CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT RA GIÁ
TRỊ THẶNG DƯ?
Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C. Mác
đã chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư: sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: là giá trị thặng dư thu được do
kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi
năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Để có nhiều giá trị thặng dự, người mua hàng hoá sức lao động phải
tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động.
Nhưng sự kéo dài ấy không thể vô tận vì sẽ gặp phải giới hạn về mặt
sinh lý, thể chất và tinh thần của người lao động ( thời gian ăn, ngủ,
nghỉ..), cũng như giới hạn về thời gian lao động tất yếu ( cường độ
lao động không thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con người).
Hơn nữa, công nhân còn đấu tranh rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi
hai bên có mâu thuẫn => tuỳ giai đoạn lịch sử cụ thể có quy định độ
dài nhất định của ngày lao động.
⇨ Như vậy, nhà tư bản luôn muốn kéo dài thời gian lao động của người
công nhân, còn công nhân thì đấu tranh muốn giảm giờ làm. Do đó,
điểm dừng của độ dài ngày lao động là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế
của nhà tư bản và người lao động được thực hiện dựa vào một thoả hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động đã được thoả hiệp, nhà tư bản không thể
bắt buộc công nhân làm việc thêm giờ, thì họ lại tìm mọi cách bắt
người công nhân tăng cường độ lao động lên. Thực chất của tăng
cường độ lao động chính là kéo dài thời gian lao động của công nhân một cách tinh vi hơn.
Phương pháp này nhà tư bản áp dụng trong giai đoạn đầu của sản
xuất tư bản chủ nghĩa, khi năng suất lao động còn thấp.
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối: là giá trị thặng dư thu được
nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu, do đó kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không đổi, thậm chí rút ngắn
Ví dụ: Ngày lao động 8h, với 4h lao động tất yếu, 4h lao động thặng dư => × 100% = 100%
Nếu độ dài ngày lao động giữ nguyên nhưng thời gian lao động
tất yếu rút xuống còn 2h => thời gian lao động thặng dư là 6h => × 100% = 300%
Nếu độ dài ngày lao động giảm xuống 6h nhưng giá trị sức lao
động giảm khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 1h => thời
gian lao động thặng dư là 5h => × 100% = 500%
+ Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh
hoạt và dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Do đó phải
tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt
vả các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó
+ Việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động làm cho một số xí
nghiệp sản xuất ra hàng hoá có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội
=> sẽ thu được môỵ số giá trị thặng dư vượt trội hơn các xí nghiệp
khác gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất, thúc đẩy các
nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt
động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng
năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch
là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
CÂU 6: TỶ SUẤT LỢI NHUẬN LÀ GÌ? PHÂN TÍCH CÁC NHÂN
TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỶ SUẤT LỢI NHUẬN? CHO VÍ DỤ?
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị
của tư bản ứng trước ( kí hiệu là p’)
Tỷ suất lợi nhuận được tính theo công thức:
Tỷ suất lợi nhuận phản ánh mức doanh lợi đầu tư tư bản. Như vậy, tỷ
suất lợi nhuận là phạm trù thể hiện lợi ích kinh tế của nhà tư bản trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó các nhà tư bản muốn làm giàu và
làm giàu nhanh cần phải tìm ra cách thức để có được tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận:
+ Thứ nhất, tỷ suất giá trị thặng dư: sự gia tăng của tỷ suất giá trị
thặng dư sẽ có tác động trực tiếp làm tăng tỷ suất lợi nhuận
Ví dụ: Ta có công thức tỉ suất giá trị thặng dư:
Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là: 800c + 200v + 200m thì m’ = 100% và p’= 20%
Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là: 800c + 200v + 400m thì m’ = 200% và p’ = 40%
Do đó, tất cả những thủ đoạn nhằm nâng cao trình độ bóc lột
giá trị thặng dư, cũng chính là những thủ đoạn nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
+ Thứ hai, cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v): cấu tạo hữu cơ tư bản
tác động tới chi phí sản xuất, do đó sẽ tác động tới lợi nhuận và tỷ
suất lợi nhuận (c/v tăng -> p’ giảm)
Ví dụ: Giả sử tỷ suất giá trị thặng dư không đổi
• Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 7/3 thì
cơ cấu giá trị hàng hoá = 70c + 30v + 30m và p’ =
• Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 8/2 thì
cơ cấu giá trị hàng hoá = 80c + 20v + 20m và p’ =
⇨ Vậy, trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo
hữu cơ càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
+ Thứ ba, tốc độ chu chuyển của tư bản: tốc độ chu chuyển của tư
bản càng lớn -> giá trị thặng dư tăng lên -> tỷ suất lợi nhuận tăng theo
Ví dụ: + Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 1 vòng: 80c + 20v + 20m thì p’= 20%
+ Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 2 vòng: 80c +
20v + ( 20 + 20)m thì p’ = 40%
Như vậy, khi tỷ suất lợi nhuận tăng thì số vòng chu chuyển của tư bản
cũng tăng và sẽ tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản.
+ Thứ tư, tiết kiệm tư bản bất biến (c ): Nếu tư bản khả biến không
đổi, giá trị thặng dư giữ nguyên, tiết kiệm tư bản bất biến làm tăng tỷ suất lợi nhuận Vì theo công thức
Nếu m và v không đổi, nếu c càng nhỏ thì p’ càng lớn.