Ôn tập Chương 4: Vật chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
1- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại kháchquan, có trước và độc lập với ý thức của con người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Chương 4. TRIẾT HỌC MARX - LENIN 1. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. VẬT CHẤT VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1.1.1. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất:
1- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách
quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
2- Mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau (đều là những dạng
cụ thể của thế giới vật chất, là kết cấu vật chất hoặc do vật chất sinh ra, chịu sự chi phối của những quy
luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất…)
3- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và cũng không bị
mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Vì thế giới thống nhất ở tính vật chất nên phải tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới vật chất ở
ngay trong bản thân nó chứ không phải trong “ý niệm tuyệt đối” hoặc trong ý thức con người như quan
niệm của chủ nghĩa duy tâm - tôn giáo. 1.1.2. Vật chất
* Lược khảo các quan điểm trước Marx về vật chất
- Quan điểm của các nhà duy vật thời cổ đại: Các nhà duy vật thời kỳ này có khuynh hướng
chung là đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của nó. Dạng cụ thể của vật chất là ngũ hành, là khí
(Triết học Trung Hoa); là đất, nước, lửa, gió (Triết học Ấn Độ); là nước, không khí, nguyên tử (Triết học Hy Lạp)...
- Quan điểm của các nhà duy vật thời cận đại: Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên phát triển mạnh
mẽ. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất đã có bước phát triển mới với nhiều yếu tố biện
chứng. Francis Bacon coi thế giới vật chất tồn tại khách quan, vật chất là tổng hợp các hạt, tự nhiên là
tổng hợp các vật thể có chất lượng, vận động là một thuộc tính gắn liền với vật chất. Descartes cho rằng
thế giới vật chất là vô tận, vật chất bao gồm những hạt có thể phân chia đến vô tận… Tuy nhiên do ảnh
hưởng của cơ học cổ điển, triết học duy vật thời kỳ này vẫn còn ở trình độ siêu hình, máy móc. Các nhà
triết học vẫn đồng nhất vật chất với khối lượng, tìm nguồn gốc của vận động nằm ngoài vật chất, coi
nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được… 1
* Nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc của những quan điểm trước Marx về vật chất
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ với một số phát
minh quan trọng trong vật lý học. Những phát hiện trên là bước tiến mới nhất của loài người trong việc
nhận thức và làm chủ tự nhiên, bác bỏ quan điểm siêu hình về vật chất. Tuy nhiên, việc phát hiện ra
điện tử và trường điện tử bị coi là những cái “phi vật chất” đã khiến cho chủ nghĩa duy tâm tấn công
vào chủ nghĩa duy vật, cho rằng vật chất đã biến mất, nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã sụp đổ.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất
Trong hoàn cảnh đó, Lenin đã kế thừa tư tưởng Marx - Engels, khái quát những thành tựu của
khoa học tự nhiên, cho rằng vật chất không bị tiêu tan mà cái bị tiêu tan chính là giới hạn hiểu biết chật
hẹp về vật chất. Từ đó Lenin đã đưa ra định nghĩa mới về vật chất.
* Định nghĩa vật chất của Lenin
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. (V.I. Lenin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1980, t18; tr 172) * Phân tích định nghĩa - Về nội dung:
Trong định nghĩa Lenin đã phân tích hai vấn đề quan trọng:
1- Phân biệt vật chất với tư cách một phạm trù triết học (vật chất nói chung: vô hạn, vô tận,
không sinh ra, không mất đi) và vật chất với tư cách là đối tượng của các khoa học cụ thể (vật chất cụ
thể: có sinh, có diệt để chuyển hóa thành dạng khác).
2- Nêu lên thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với ý thức, đó là thuộc tính khách quan.
Tóm lại, định nghĩa của Lenin bao gồm ba nội dung cơ bản:
1- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức con người, không phụ thuộc vào ý thức,
dù con người biết hay không biết về nó thì nó vẫn tồn tại
2- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người.
3- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất.
- Về phương pháp định nghĩa:
Lenin sử dụng một phương pháp định nghĩa độc đáo: Không quy vật chất vào vật thể cụ thể như
cách của các nhà triết học trước đó; cũng không quy vật chất vào một phạm trù lớn hơn (như cách định
nghĩa thông thường) vì cho đến nay chưa có một phạm trù nào lớn hơn phạm trù vật chất. Lenin đã
định nghĩa phạm trù vật chất trong mối quan hệ với phạm trù ý thức (phạm trù đối lập với nó). Trong
quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Tuy nhiên sự đối lập này chỉ là tương đối.
Trong lĩnh vực xã hội, vật chất và ý thức hòa quyện, đan xen vào nhau mà không có đường ranh giới tuyệt đối. 2
* Ý nghĩa của định nghĩa
- Định nghĩa đã cùng một lúc giải quyết triệt để hai mặt trong một vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy vật. Khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác”, Lenin đã thừa nhận vật chất là cái có trước, là nguồn gốc của cảm giác, ý thức. Khi
khẳng định vật chất là cái “được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh”, Lenin muốn nhấn mạnh rằng
con người có thể nhận thức được thế giới.
Như vậy, định nghĩa đã bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, khắc phục được những
khiếm khuyết trong những quan điểm duy vật siêu hình, máy móc về vật chất.
- Với tính chất khái quát cao (vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan), định nghĩa có tác
dụng định hướng cho các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm, phát hiện những dạng mới của vật chất.
- Định nghĩa cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội, từ đó các nhà khoa học
có cơ sở lý luận để giải thích nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội (nguyên nhân thuộc về sự
vận động của phương thức sản xuất) trên cơ sở đó tìm ra phương án tối ưu để hành động.
1.1.3. Những phương thức tồn tại của vật chất Vận động * Vận động là gì? F. Engels viết:
“Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất … bao gồm mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí giản đơn cho đến tư duy”. (Karl Marx - Friedrich Engels Toàn tập,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; t 20; tr 89)
Như vậy, vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
- Vận động là “thuộc tính cố hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”. Vật chất
tồn tại bằng cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện nó là cái gì.
- Vận động của vật chất là tự thân vận động, có nguyên nhân từ sự tác động lẫn nhau của các
thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất.
- Vận động không mất đi và cũng không do ai sáng tạo ra mà chỉ chuyển hóa từ hình thức này
sang hình thức khác. Bản thân vận động được bảo toàn cả về lượng lẫn về chất. Nếu một hình thức vận
động nào đó của vật chất mất đi, tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế.
* Các hình thức vận động
F. Engels chia vận động thành 5 hình thức cơ bản:
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật lý (vận động của phân tử, nguyên tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt điện…).
- Vận động hóa học (vận động của phân tử, nguyên tử, quá trình hóa hợp - phân giải chất…).
- Vận động sinh học (quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường).
- Vận động xã hội (sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội). 3
Các hình thức vận động có sự khác nhau về chất nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình thức vận động thấp, bao hàm trong đó tất cả các hình thức
vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình
thức vận động ở trình độ cao hơn.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau;
nhưng bao giờ cũng có một hình thức vận động đặc trưng cho bản chất của sự vật. * Vận động và đứng im
Vận động của thế giới vật chất là tuyệt đối còn đứng im là tương đối.
Đứng im là tương đối bởi vì:
1- Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
VD: Hành khách ngồi im so với toa tàu nhưng vận động so với cây cối, nhà cửa hai bên đường.
2- Đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động chứ không phải với mọi hình thái vận động.
VD: Hành khách chỉ ngồi im về mặt cơ học còn vẫn vận động ở các hình thức khác.
3- Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, vận động trong thăng bằng, khi nó chưa
bị phân hóa thành cái khác.
4- Đứng im là một hiện tượng tạm thời trong một thời gian nhất định. Trong thời gian đứng im,
sự vật đã nảy sinh những nhân tố mới phá vỡ sự đứng im ấy. Không gian và thời gian * Khái niệm
- Không gian là khái niệm chỉ sự tồn tại của một khách thể vật chất chiếm một vị trí nhất định, ở
vào một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với các khách thể khác.
VD: Một hình hộp chữ nhật 4
- Thời gian là khái niệm chỉ sự tồn tại của khách thể vật chất ở mức độ lâu hay mau, ở sự kế
tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động.
VD: Tuổi thọ của con người
* Tính chất của không gian và thời gian
1- Tính khách quan: Không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất. Vật chất tồn tại khách
quan nên không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
2- Tính vĩnh cửu và vô tận: Không gian và thời gian không có tận cùng về một phía nào cả, cả
về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, bên phải hay bên trái, phía trên hay phía dưới.
3- Không gian có ba chiều, còn thời gian chỉ có một chiều.
1.2. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức Nguồn gốc tự nhiên
- Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là
cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc con người. Óc bị tổn thương thì ý thức sẽ bị
rối loạn. Óc người là một tổ chức sống có kết cấu phức tạp gồm 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh, là sản
phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài trong thế giới vật chất. Óc thu nhận, điều khiển hoạt động của cơ
thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua phản xạ có điều kiện và không có điều kiện. Quá
trình ý thức và quá trình sinh lý trong óc là hai mặt của một quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức.
- Ý thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan bởi bộ óc con người.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác
trong sự tác động qua lại giữa hai hệ thống vật chất.
VD: Thanh kim loại bị han gỉ do sự tác động của môi trường.
Phản ánh là thuộc tính chung của thế giới vật chất nhưng ở trình độ cao thấp khác nhau. Vật
thể càng ở trình độ cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh càng phức tạp bấy nhiêu.
+ Phản ánh vật lý, hóa học đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh, còn mang tính chất thụ động,
chưa có định hướng, lựa chọn.
+ Phản ánh sinh học đặc trưng cho giới tự nhiên sống, là bước phát triển mới về chất trong sự
tiến hóa của các hình thức phản ánh, đơn giản nhất là tính kích thích tức là phản ứng trả lời tác động
của môi trường bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của sinh vật, Tính cảm ứng là
sự nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường (xuất hiện ở động vật chưa có hệ thần kinh). Cao hơn
là các phản xạ, xuất hiện ở động vật đã có hệ thần kinh. Tâm lý động vật xuất hiện ở động vật đã có hệ thần kinh trung ương.
Phản ánh sinh học đã có sự lựa chọn, sự định hướng. Nhờ đó sinh vật thích nghi với môi trường
để duy trì sự tồn tại của mình. Tuy nhiên, phản ánh sinh học, kể cả tâm lý động vật chưa phải là ý thức
mà chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu sinh lý cơ thể và quy luật sinh học chi phối. 5
+ Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh, nảy sinh cùng sự xuất hiện của con người. Ý
thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Bộ óc con người cùng với
thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Nguồn gốc xã hội
Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
- Lao động là hoạt động đặc thù của con người, là quá trình sáng tạo và sử dụng công cụ lao
động tác động, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên, tạo ra của cải vật chất cho con người.
Lao động cung cấp cho con người những phương tiện để sống đồng thời lao động cũng sáng tạo
ra con người. Lao động làm biến đổi cả hình thể lẫn trí tuệ con người. Lao động giải phóng đôi tay, tạo
dáng đứng thẳng và tầm nhìn xa rộng cho con người. Quá trình lao động cũng là quá trình con người
tác động vào thế giới khách quan, buộc thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để
con người nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Đó chính là quá trình hình thành những tri thức về
tự nhiên và xã hội của con người. Như vậy, nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế
giới khách quan vào đầu óc con người thông qua quá trình lao động.
- Ngôn ngữ: Lao động là hoạt động mang tính xã hội. Vì vậy, việc trao đổi thông tin, kinh
nghiệm cho nhau là tất yếu. Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu giao tiếp giữa các thành viên trong xã hội bởi
một mục đích chung. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái “vỏ vật chất” của tư tưởng. 6 Vai trò của ngôn ngữ:
+ Nhờ ngôn ngữ, con người giao tiếp, trao đổi tư tưởng, tình cảm cho nhau.
+ Ngôn ngữ là phương tiện tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực.
+ Nhờ ngôn ngữ, con người tổng kết thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền những kinh nghiệm,
hiểu biết từ thế hệ này sang thế hệ khác.
* Tóm lại: Ý thức ra đời từ hai nguồn gốc - nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
1- Về nguồn gốc tự nhiên: Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi bộ óc con người thông qua các giác quan.
2- Về nguồn gốc xã hội: Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc nhờ lao động và
ngôn ngữ. Trong đó, nguồn gốc xã hội là trực tiếp và quan trọng nhất cho sự hình thành ý thức con người.
Thế giới khách quan → Óc người Tự nhiên Ý thức
Lao động + Ngôn ngữ Xã hội
1.2.2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Cả vật chất và ý thức đều tồn tại, đều là hiện thực. Song vật chất là hiện thực khách quan, là cái
được phản ánh còn ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh tinh thần, không có tính vật chất, bị hiện
thực khách quan quy định. Nó không giống với hình ảnh vật lý bởi vì nó chỉ tồn tại trong bộ óc con
người. Vì vậy, không được lẫn lộn ý thức với vật chất, làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Ý thức là sự phản ánh hiện thức khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng
tạo. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú:
+ Bằng sự sáng tạo của ý thức, con người có thể cải biến thế giới vật chất, tạo ra những dạng vật
chất mới ngày càng phong phú, đa dạng và hoàn thiện hơn.
+ Trên cơ sở những tri thức đã có, con người có thể suy luận ra những tri thức mới, có thể vượt
trước hiện tại để dự báo tương lai hoặc suy đoán về quá khứ.
+ Ý thức có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những lý thuyết khoa học trừu tượng.
Quá trình phản ánh của ý thức là quá trình năng động, sáng tạo, thống nhất ba mặt sau:
1- Trao đổi thông tin có định hướng, có chọn lọc giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.
2- Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng một hình ảnh tinh thần.
3- Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình biến tư tưởng thành hiện thực.
Sự sáng tạo của ý thức là sáng tạo trong khuôn khổ của sự phản ánh. 7
- Ý thức là một hiện tượng mang tính xã hội: Sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn của lịch sử, chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và quy luật xã hội, do
nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. Vì vậy, ý thức là
của cá nhân mỗi con người song lại mang dấu khá đậm nét của đời sống xã hội, cộng đồng.
1.2.3. Kết cấu của ý thức
Theo các yếu tố tạo thành
Ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí … trong đó tri
thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
- Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện
trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn
ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.
Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức thông thường và tri thức khoa học. Trong tri
thức khoa học lại có tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Ngày nay, trong xu thế phát triển kinh tế
tri thức, tri thức giữ vai trò ngày càng to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
- Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh và
đối với bản thân mình. Tình cảm tích cực là một trong những động lực nâng cao năng lực hoạt động
sống của con người. Tri thức kết hợp với tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý chí tích cực,
biến thành hành động thực tế thì mới phát huy được sức mạnh.
Theo chiều sâu của nội tâm
Theo chiều sâu nội tâm, có: Tự ý thức - Tiềm thức - Vô thức.
- Tự ý thức là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Tự ý
thức giúp con người nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
- Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có từ trước những đã gần như trở thành bản năng,
thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới một dạng tiềm tàng. Tiềm thức có
thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà không cần kiểm soát một cách trực tiếp.
Tiềm thức góp phần giảm đi sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý các tài liệu, dữ kiện lặp đi, lặp lại
mà vẫn đảm bảo được độ chặt chẽ của tư duy khoa học.
- Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử
của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Vô thức biểu hiện thành những hiện tượng như: bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc
cảm, sự lỡ lời, nói nhịu …
Vô thức có vai trò làm giảm đi sự căng thẳng khi làm việc quá tải, giải tỏa những ức chế thần
kinh, góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá
mức. Tuy nhiên, không nên cường điệu đến mức thần bí vô thức. Vô thức nằm trong con người có ý
thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vụ thức. 8
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Đây là vấn đề cơ bản của triết học. Xung quanh vấn đề này có nhiều quan điểm triết học khác
nhau, thậm chí đối lập nhau như:
- Chủ nghĩa duy tâm: Tách ý thức ra khỏi vật chất, biến ý thức thành vị thần sáng tạo ra hiện
thực, cho rằng ý thức sinh ra và quyết định vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật tầm thường: Cho rằng vật chất sinh ra và quyết định ý thức song ý thức giữ
vị trí thụ động trước vật chất, không có tính năng động tích cực đối với thế giới khách quan.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Vật chất sinh ra và quyết định ý thức song ý thức có tính năng
động, tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
1.3.1. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
- Vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức: Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất cao là bộ óc
con người. Không có óc người và thế giới khách quan cùng lao động, ngôn ngữ thì không có ý thức.
- Hoàn cảnh vật chất quyết định nội dung của ý thức: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất nên
hoàn cảnh vật chất sẽ in dấu ấn trong ý thức của con người. Người sống trong hoàn cảnh khác nhau sẽ
có tâm tư, tình cảm, suy nghĩ khác nhau.
- Sự biến đổi trong hoàn cảnh vật chất sẽ kéo theo sự biến đổi trong ý thức con người. Vì vậy,
trong những thời đại khác nhau, con người sẽ có những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ khác nhau.
- Vật chất là điều kiện khách quan để biến ý thức, tư tưởng thành hiện thực. Những mong muốn,
nguyện vọng của con người cũng như những đường lối chính sách của một Đảng, một nhà nước muốn
trở thành hiện thực thì phải xuất phát từ những tiền đề vật chất, nếu không sẽ rơi vào ảo tưởng.
1.3.2. Tính năng động, tính độc lập tương đối của ý thức
- Ý thức do vật chất quyết định song nó có tính độc lập tương đối, có tác động trở lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Ý thức, tư tưởng tiên tiến, cách mạng có tác dụng thúc đẩy hiện thực khách quan phát triển.
VD: Những phát minh trong khoa học tự nhiên có tác dụng cải tạo cuộc sống, nâng cao chất
lượng cuộc sống con người; những học thuyết khoa học xã hội có tác dụng định hướng cho nhận thức
và hành động của con người …
Tuy nhiên, bản thân ý thức, tư tưởng dẫu tiên tiến cũng không trực tiếp thay đổi được gì trong
hiện thực nếu nó không được con người tổ chức hoạt động trong thực tiễn. Con người phải nhận thức,
vận dụng đúng quy luật khách quan. Từ những tri thức về quy luật khách quan, con người xác định
mục tiêu, phương hướng hành động, có biện pháp hành động và ý chí đạt được mục tiêu đã đề ra.
+ Ngược lại, ý thức, tư tưởng lạc hậu, phản động phản ánh sai lệch hiện thực khách quan lại
kìm hãm sự phát triển của hiện thực khách quan.
VD: Tư tưởng mê tín dị đoan; tư tưởng trọng nam khinh nữ … 9
Tuy nhiên, tác động kìm hãm này không phải là vĩnh viễn. Theo tiến trình phát triển của lịch sử,
dần dần chúng sẽ bị đào thải.
- Điều kiện để ý thức phát huy vai trò tích cực đối với hiện thực:
+ Sự sáng tạo của ý thức phải trong khuôn khổ của sự phản ánh, không được bóp méo, xuyên tạc hiện thực khách quan.
+ Phải có điều kiện vật chất để biến ý thức thành hiện thực.
+ Phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
1.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho
mọi hành động của mình. Trong công tác giáo dục, phải xuất phát từ đối tượng học trò, từ hoàn cảnh
thực tế để xác định nội dung, phương pháp giáo dục cho phù hợp.
- Vì ý thức có tính năng động, tính độc lập tương đối nên phải phát huy sức mạnh của ý thức tiên
tiến (Giáo dục chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục tri thức khoa học, nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài …); đấu tranh chống tư tưởng tiêu cực, phản động (thái độ bi quan, thờ ơ,
vô cảm trước cuộc đời, bệnh thành tích trong giáo dục, chủ nghĩa bình quân, chống diễn biến hòa bình
trên mặt trận tâm lý của các thế lực thù địch …).
- Kết hợp hài hòa những giá trị vật chất và giá trị tinh thần, chống hai khuynh hướng:
1- Quá đề cao vật chất mà xem nhẹ những giá trị tinh thần (duy vật tầm thường).
2- Quá đề cao tinh thần mà xem nhẹ vật chất (duy tâm, chủ quan duy ý chí). 2.
HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
2.1. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
2.1.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến
- Những quan điểm khác nhau trong việc xem xét các sự vật hiện tượng: Có hai câu hỏi:
1. Các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới có mối liên hệ hay biệt lập, tách rời nhau?
2. Nếu chúng có liên hệ thì cái gì quy định mối liên hệ ấy?
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, có hai quan điểm trái ngược nhau:
+ Quan điểm siêu hình cho rằng: Sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại
bên cạnh cái kia. Nếu có quy định thì chưa là những quy định bên ngoài, ngẫu nhiên. Nếu có liên hệ thì
các hình thức liên hệ khác nhau cũng không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau.
+ Quan điểm biện chứng cho rằng: Các sự vật, hiện tượng, quá trình vừa độc lập, vừa ràng buộc,
quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
VD: Mối quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị… 10
Để trả lời câu hỏi thứ hai, cũng có hai quan điểm trái ngược nhau:
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng là một lực lượng siêu nhiên hay ý thức, cảm giác của con người.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là ở
tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Định nghĩa: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
VD: Mối liên hệ giữa cung và cầu trong nền kinh tế; mối liên hệ giữa người với người trong xã hội…
2.1.2. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
- Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới là vốn có trong mọi
bản thân sự vật, hiện tượng, xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. - Tính phổ biến:
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có quan hệ với sự vật, hiện tượng khác. VD:
1- Trong tự nhiên: Mối liên hệ giữa các loài tạo thành sự cân bằng hệ sinh thái.
2- Trong xã hội: Mối liên hệ giữa người với người tạo thành sự đa dạng phức tạp của xã hội.
+ Các mặt, các yếu tố, các quá trình trong bản thân mọi sự vật, hiện tượng cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau. VD:
1- Mối liên hệ giữa đồng hóa và dị hóa trong cơ thể sinh vật.
2- Mối liên hệ giữa kinh tế và chính trị trong xã hội.
3- Mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính trong tư duy …
- Tính đa dạng: Có thể phân chia các mối liên hệ thành từng cặp:
+ Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài:
Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu
tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật.
VD: Mối liên hệ giữa cực bắc và cực nam của một thanh nam châm. 11
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
VD: Mối liên hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới:
+ Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu.
+ Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất.
+ Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng …
Lưu ý: Trong bản thân mọi sự vật đã có thể có nhiều mối liên hệ. Ranh giới giữa các mối hệ
cũng chưa là tương đối, tùy thuộc góc độ và thời điểm xem xét.
VD: Mối liên hệ giữa các loài là mọi liên hệ bên ngoài nếu đứng dưới góc độ từng loài để xem
xét, song nếu xét trong phạm vi một hệ sinh thái thì đó lại là mối liên hệ bên trong.
2.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận * Quan điểm toàn diện
- Khi nhận thức về mối liên hệ phải đặt trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố,
các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với sự vật khác.
VD: Khi xem xét, đánh giá về một con người phải đánh giá toàn diện các mặt đức, trí, lao, thể,
mỹ trong mối quan hệ biện chứng với nhau.
- Phải phân biệt từng mối liên hệ, thấy vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ trong chỉnh thể. Tuy
nhiên cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định.
- Trong hoạt động thực tế, khi tác động vào sự vật, cần chú ý tới những mối liên hệ của sự vật
với sự vật khác. Phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau tác động vào sự
vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, cần phải đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa, trong đó đổi mới tư duy về kinh tế là khâu then chốt.
Trong công tác giáo dục, phải giáo dục con người một cách toàn diện về đức và tài; dạy học phải
dạy đủ các môn nhưng vẫn chú trọng hơn tới các môn cơ bản.
* Quan điểm lịch sử cá thể
Khi nhận thức và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cá thể trong đó sự
vật sinh ra, tồn tại và phát triển. VD:
1- Muốn đánh giá đúng về một con người phải đặt con người đó trong hoàn cảnh cá thể bởi vì có
những phẩm chất, tính cách phù hợp với thời kỳ này lại không phù hợp với thời kỳ khác.
2- Đường lối của Đảng phải được xây dựng trên cơ sở phân tích tình hình cá thể của đất nước và thế giới.
3- Biện pháp giáo dục phải phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh cá thể. 12
2.2. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
2.2.1. Khái niệm về sự phát triển
- Những quan điểm khác nhau về sự phát triển:
+ Quan điểm siêu hình: xem sự phát triển chưa là sự tăng hay giảm đơn thuần về mặt lượng,
không có sự thay đổi về chất của sự vật; phát triển chưa là quá trình tiến lên liên tục, không có những
bước quanh co, thăng trầm phức tạp.
+ Quan điểm biện chứng: xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến ca, vừa dần
dần vừa nhảy vọt, cái mới thay thế cái cũ. Đó là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc mà nguồn gốc
nằm trong việc giải quyết những mâu thuẫn của bản thân sự vật.
- Khái niệm phát triển: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
VD: Tiến trình phát triển của xã hội loài người
Sự phát triển chưa là một trường hợp của vận động, đó là vận động đi lên, có sự ra đời của cái
mới cao hơn thay thế cái cũ. Trong quá trình phát triển, sự vật sẽ hình thành dần những quy định mới
cao hơn về chất theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
2.2.2. Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình
giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Vì thế sự phát
triển là một tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy; ở bất kỳ sự vật
nào của thế giới khách quan. VD:
1- Trong tự nhiên: Thế giới vật chất đã phát triển từ vô cơ đến hữu cơ, từ đơn bào đến đa bào, từ
thực vật đến động vật, từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao mà con người là kết quả của quá trình
tiến hóa lâu dài trong thế giới.
2- Trong xã hội: Xã hội loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội, xã hội sau
hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn xã hội trước … - Tính đa dạng:
+ Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới song mọi sự vật, hiện tượng lại có quá trình
phát triển không giống nhau. 13 VD:
1- Trong giới vô vơ: Sự phát triển thể hiện đa dạng ở sự biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất,
sự tác động qua lại giữa chúng và sự nảy sinh các hợp chất phức tạp.
2- Trong giới hữu cơ: Sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể sinh vật với môi
trường, từ đó xuất hiện ngày càng nhiều giống mới, loài mới.
3- Trong xã hội: Sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải biến xã hội cũng như bản thân con người.
4- Trong tư duy: Sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng đầy đủ, chính xác hơn về hiện thực.
+ Tồn tại trong không gian khác nhau, thời gian khác nhau, sự vật sẽ phát triển khác nhau.
VD: Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các quốc gia đi sau sẽ
ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đi trước.
- Tính kế thừa: Cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ, và cải biến
chúng đi để vào trong thành phần của cái mới, gia nhập vào cái mới như là bộ phận của cái mới.
2.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải tôn trọng quan điểm phát triển:
- Khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, phát triển,
vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng, đặc biệt là thấy được khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
- Phân chia quá trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn, từ đó tìm ra phương pháp nhận
thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn nữa hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật.
- Phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta.
2.3. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
2.3.1. Khái lược về phạm trù triết học
Định nghĩa về phạm trù và phạm trù triết học
- Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối
liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực bất kỳ.
VD: “Hàng hóa” là một phạm trù của kinh tế - chính trị dùng để chỉ những sản phẩm của lao
động được đem mua bán, trao đổi trên thị trường.
- Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Vật chất, ý thức, vận động … 14
Mỗi môn khoa học có một hệ thống phạm trù riêng.
VD: Tâm lý học có phạm trù tình cảm, tư duy, tư tưởng …; vật lý học có phạm trù vận tốc, gia tốc, lực …
⇨ Mối quan hệ giữa phạm trù triết học và phạm trù của các khoa học cụ thể là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Bản chất của phạm trù
- Hình thức của phạm trù là chủ quan nhưng nội dung của nó lại mang tính khách quan, bị thế
giới khách quan quy định.
- Phạm trù có tính biện chứng. Mỗi phạm trù xuất hiện là kết quả của quá trình nhận thức trước
đó đồng thời là bậc thang cho quá trình nhận thức tiếp theo. Hệ thống phạm trù thường xuyên được bổ
sung bằng những phạm trù mới.
2.3.2. Cái riêng, cái chung, cái đơn nhất * Định nghĩa
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá trình nhất định.
VD: Một con người, một cuộc cách mạng, hiện tượng sóng thần, sự kiện ngày 11/9 ở Mỹ …
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
VD: Thuộc tính của một con người nhất định là có ngôn ngữ, có tư duy …
- Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính … chỉ có ở một
sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
VD: Giai cấp công nhân Việt Nam ngoài những đặc điểm chung giống giai cấp công nhân thế
giới thì còn có những đặc điểm như: ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, có liên minh chặt chẽ với giai
cấp nông dân, có truyền thống yêu nước …
* Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Không
có cái chung tồn tại thuần túy bên ngoài cái riêng.
VD: Cá mè, cá trắm, cá chép… đều sống ở nước ngọt, bơi bằng vây, thở bằng mang… nên được
gọi là cá nước ngọt. Những thuộc tính chung của loài cá nước ngọt tồn tại trong từng con cá cụ thể.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng nào tuyệt đối độc lập,
không liên hệ với cái chung.
VD: Mỗi con người là một cái riêng những không thể tồn tại ngoài các mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. 15
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc
hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.
VD: Mỗi sinh viên là một cái riêng, ngoài những đặc điểm chung như: học trong trường cao
đẳng hoặc đại học còn có những đặc điểm riêng như: hoàn cảnh gia đình, tính cách, sở thích …
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ tất
nhiên, ổn định giữa những cái riêng cùng loại.
- Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động và phát triển
của sự vật. Cái mới xuất hiện lúc đầu dưới dạng cái đơn nhất, sau đó hoàn thiện dần và trở thành cái chung.
VD: Do sự thay đổi của môi trường sống, ở một cá thể có xuất hiện một đặc tính mới, về sau đặc
tính đó dần trở thành đặc tính của loài.
Ngược lại, cái cũ lỗi thời bị phủ định dần dần trở thành cái đơn nhất.
VD: Những tư tưởng bảo thủ của xã hội phong kiến nay chỉ rơi rớt lại trong xã hội mới.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì cái chung tồn tại trong cái riêng nên phải tìm cái chung trong cái riêng chứ không phải từ ý
muốn chủ quan của con người.
VD: Đường lối của Đảng ta phải xuất phát từ thực tế phát triển của đất nước.
- Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng, lấy lý luận để chỉ đạo
thực tiễn. Mặt khác, vì cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng nên phải tùy tình hình cụ thể để áp
dụng cái riêng vào cái chung một cách linh hoạt, sáng tạo, tránh giáo điều, máy móc.
- Cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất có lợi trở thành cái chung và cái chung bất lợi
trở thành cái đơn nhất.
2.3.3. Nguyên nhân và kết quả Khái niệm
- Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một biến đổi nào đó. VD:
1- Hiện tượng mặt trời mọc và lặn có nguyên nhân từ sự quay của trái đất xung quanh trục của
nó và xung quanh mặt trời.
2- Tương tác giữa dòng điện và dây dẫn là nguyên nhân làm bóng đèn sáng.
- Kết quả là một phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
VD: Đạt điểm cao là kết quả của quá trình nỗ lực học tập của sinh viên. 16
Tính chất của mối liên hệ nhân quả
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là cái vốn có trong mỗi bản thân sự vật, không phụ
thuộc vào ý thức con người.
VD: Cây lúa mọc lên từ hạt lúa.
- Tính phổ biến: Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện
tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều nguyên nhân ấy đã được nhận thức ra hay chưa mà thôi.
- Tính tất yếu: Cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau.
VD: Vật trong chân không rơi với gia tốc 9,8 m/s; nhân nào, quả nấy; ở hiền, gặp lành …
Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
a. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết quả chỉ
xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự nối tiếp nào về mặt thời gian thì cái có trước cũng là nguyên nhân của cái có sau.
VD: Sấm và chớp xuất hiện đồng thời và có cùng một nguyên nhân là do hai đám mây tích điện
trái dấu sinh ra. Song vì vận tốc ánh sáng truyền nhanh hơn vận tốc âm thanh nên ta nhìn thấy ảnh chớp
trước khi nghe thấy tiếng sấm.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, có
nguyên nhân khách quan - nguyên nhân chủ quan; nguyên nhân bên trong - nguyên nhân bên ngoài;
nguyên nhân chủ yếu - nguyên nhân thứ yếu … VD:
1- Nghiện hút gây: a- Tan vỡ hạnh phúc gia đình; b- Tốn tiền suy yếu sức khỏe; d- Tệ nạn xã hội
2- Việt Nam thắng Mỹ do nhiều nguyên nhân: a- Sự giúp đỡ của phe XHCN, sự ủng hộ của
nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; b- Sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của ĐCSVN; c- Tinh
thần yêu nước, đoàn kết, ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam …
3- Tai nạn giao thông do: a- Ý thức; b- Phương tiện; c- Giáo dục
Ngược lại, một nguyên nhân có thể dẫn tới nhiều kết quả.
VD: Chặt phá rừng bừa bãi là nguyên nhân của lũ lụt, hạn hán, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái …
- Nếu nguyên nhân tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều
đến sự hình thành kết quả.
VD: Chèo thuyền xuôi dòng nước, xuôi chiều gió thì thuyền sẽ đi nhanh hơn.
Ngược lại, nếu nguyên nhân tác động theo những hướng khác nhau thì sẽ cản trở tác dụng,
thậm chí triệt đệ tác dụng của nhau.
VD: Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay vừa tác động hỗ trợ nhau, vừa mâu thuẫn với
nhau, thậm chí còn cản trở nhau phát triển. Vì thế, cần phải phát huy vai trò quản lý của nhà nước đối
với sự tồn tại, phát triển của các thành phần kinh tế. 17
b. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Kết quả có thể thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực) hoặc cản trở sự hoạt
động của nguyên nhân (hướng tiêu cực).
VD: Chăm học sẽ đạt điểm cao, đạt điểm cao lại càng tích cực học tập hơn.
c. Nguyên nhân và kết có thể thay đổi vị trí cho nhau
Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác lại có
thể là kết quả và ngược lại. Chuỗi nhân quả là vô cùng vô tận, không có điểm bắt đầu và kết thúc.
VD: Điểm cao là kết quả của một quá trình học tập tích cực nhưng lại là nguyên nhân để sinh
viên có việc làm nhanh hơn, tốt hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải tìm nguyên nhân chưa được phát hiện để hiểu đúng được sự vật, hiện tượng. Nếu bất kỳ
sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân và do nguyên nhân quyết định, thì để nhận thức được sự
vật, hiện tượng ấy nhất thiết phải tìm ra nguyên nhân xuất hiện; muốn loại bỏ một sự vật hiện tượng
nào đó không cần thiết, thì phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó. Tìm nguyên nhân trong thế giới hiện
thực chứ không phải trong sự tưởng tượng của con người hoặc ở thần linh, Thượng đế. Tìm nguyên
nhân trong những hiện tượng xảy ra trước đó (có chú ý tới dấu hiệu sản sinh).
- Phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, bên trong, chủ yếu… đồng thời nắm được
chiều hướng tác động của các nguyên nhân để có biện pháp tác động thích hợp thúc đẩy sự vật phát
triển. Một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và quyết định, nên khi nghiên cứu sự
vật, hiện tượng đó không vội kết luận về nguyên nhân nào đã sinh ra nó; khi muốn gây ra một sự vật,
hiện tượng có ích trong thực tiễn cần phải lựa chọn phương pháp thích hợp nhất với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể chứ không nên rập khuôn theo phương pháp cũ. Trong số các nguyên nhân sinh ra một sự
vật, hiện tượng có nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong và nguyên
nhân bên ngoài, nên trong nhận thức và hành động cần dựa vào nguyên nhân chủ yếu và bên trong.
- Khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng theo
chiều hướng tích cực. Xét về mặt thời gian, nguyên nhân có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của
một sự vật, hiện tượng cần tìm ở các sự vật, hiện tượng mối liên hệ đã xảy ra trước khi sự vật, hiện
tượng xuất hiện. Trong thời gian hoặc trong mối quan hệ nào đó, vì nguyên nhân và kết quả có thể đổi
chỗ cho nhau, chuyển hóa lẫn nhau nên để nhận thức được tác dụng của một sự vật, hiện tượng và để
xác định phương hướng đúng cho hoạt động thực tiễn cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó trong mối
quan hệ mà nó giữ vai trò là kết quả, cũng như trong mối quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân, sản
sinh ra những kết quả nhất định.
2.3.4. Tất nhiên và ngẫu nhiên * Khái niệm
- Tất nhiên là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và
trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được. 18
- Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân
tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể
không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
VD: Mất mát, hy sinh trong chiến tranh là điều tất nhiên song điều đó rơi vào ai, biểu hiện như
thế nào lại là điều ngẫu nhiên.
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và đều có vị
trí nhất định đối với sự phát triển. Cái tất nhiên chi phối sự phát triển, còn cái ngẫu nhiên ảnh hưởng
tới sự phát triển, có thể làm cho sự phát triển diễn ra nhanh hơn hoặc chậm hơn.
VD: Gieo mạ, gặt lúa là điều tất nhiên. Giống lúa có vai trò quan trọng đối với năng suất, chất
lượng của lúa. Tuy vậy, sự bất thường của thời tiết là cái ngẫu nhiên ảnh hưởng tới kết quả thu hoạch.
- Không có cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên tồn tại thuần túy mà chúng thống nhất hữu cơ với
nhau. Cái tất nhiên thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số những điều ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu
nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung cho tất nhiên.
VD: Tung đồng xu lên, việc xuất hiện mặt sấp hay mặt ngửa là ngẫu nhiên, nhưng qua nhiều lần
tung thì tỷ lệ xuất hiện mặt sấp và mặt ngửa là tương đương. Đó là cái tất nhiên đã xuyên qua những
ngẫu nhiên mà bộc lộ ra.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau:
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở một trạng thái mà thay đổi cùng sự thay đổi của sự
vật và trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau.
VD: Việc trao đổi sản phẩm trong chế độ cộng sản nguyên thủy lúc đầu là ngẫu nhiên nhưng do
sự phát triển của lực lượng sản xuất, trao đổi sản phẩm ngày càng thường xuyên hơn là điều tất nhiên.
+ Ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ là tương đối. Xem xét trong mối quan hệ
này là ngẫu nhiên nhưng xem xét trong mối quan hệ khác lại là tất nhiên.
VD: Tai nạn sập cầu Cần Thơ (Tháng 9/2007) là cái ngẫu nhiên song do sự cố kỹ thuật mà dẫn
tới tai nạn thì lại là điều tất nhiên.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên chứ không phải là cái ngẫu nhiên bởi vì
cái tất nhiên là cái gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định phải xảy ra theo quy luật nội tại của sự
vật. Tuy nhiên, vẫn phải có phương án dự phòng cho cái ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện bởi vì cái ngẫu
nhiên có ảnh hưởng tới sự phát triển của sự vật.
VD: Muốn đạt điểm cao trong thi cử phải tích cực học tập chứ không phải trông chờ vào vận
may; muốn giàu có phải tích cực lao động và có phương pháp làm giàu …
- Để nhận thức cái tất nhiên, phải phân tích, so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên. Phải đi từ những
cái ngẫu nhiên để rút ra kết luận về cái tất nhiên. 19
2.3.5. Nội dung và hình thức * Khái niệm
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương
đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
VD: Nội dung của một cơ thể sống là toàn thể tế bào, khí quan, các quá trình hoạt động của các
hệ thống. Hình thức của nó là trình tự sắp xếp, liên kết các tế bào, các hệ thống.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
a. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
- Nội dung nào thì hình thức đó. Không có nội dung nào không chứa đựng trong một hình thức
nhất định và cũng không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung.
VD: Phim hành động thường phản ánh những nội dung ly kỳ, gay cấn.
- Một nội dung trong quá trình phát triển có nhiều hình thức thể hiện và ngược lại một hình thức
có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau.
VD: Có thể phản ánh một nội dung của cuộc sống hàng ngày bằng nhiều hình thức nghệ thuật
như: truyện, thơ, phim, ảnh … Hoặc cùng một điệu hát có thể mang nhiều nội dung khác nhau.
b. Nội dung quyết định hình thức
Nội dung có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi còn hình thức lại tương đối ổn định. Khi nội
dung và hình thức mâu thuẫn với nhau thì phải thay đổi hình thức cho phù hợp với nội dung.
VD: Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức của phương thức sản
xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi còn quan hệ sản xuất tương đối ổn định sẽ dẫn tới mâu
thuẫn, buộc phải cải tạo hoặc thay thế quan hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất.
c. Hình thức tác động trở lại nội dung
Hình thức có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại nội dung theo hai chiều hướng:
- Nếu hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung phát triển.
- Nếu hình thức không phù hợp với nội dung thì nó sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển nội dung.
VD: Nếu người giáo viên lựa chọn hình thức dạy học phù hợp thì sẽ truyền tải nội dung kiến
thức tới học sinh có hiệu quả cao và ngược lại.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Cần có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, không được tách rời, tuyệt đối hóa nội dung
hoặc hình thức. Đặc biệt cần chống chủ nghĩa hình thức. Tuy nhiên, cần phải chủ động sử dụng nhiều
hình thức khác nhau để phục vụ cho nhiệm vụ thực tiễn.
VD: Nhiều hình thức học tập; hình thức làm kinh tế, nhiều hình thức ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng mềm dẻo, linh hoạt …
- Vì nội dung quyết định hình thức nên để nhận thức và cải tạo được sự vật cần phải căn cứ vào
nội dung đồng thời làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển. 20