lOMoARcPSD| 61432759
NỘI DUNG ÔN TẬP
Đề thi làm trong 90 phút, gồm 2 câu (câu 1 – 3 điểm; câu 2 – 7 điểm).
Nội dung 1 (3 điểm):
1. Trình bày ngắn gọn một số tiền đề (chính trị hội, văn hóa lịch sử, văn
học, đời tư tác giả) của cảm hứng (tôn giáo, nhân đạo, yêu nước…) trong một tác
giả cụ thể (Trần Nhân Tông, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu …).
1.1 Trần Nhân Tông: hoàng đế, triết gia, anh hùng dân tộc, một nhà
tưởng, tác gia văn học lỗi lạc
- Tên húy là Trần Khâm, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và là vị vua
thứ 3 của triều Trần
- Trị từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó truyền ngôi cho thái tử Trần
Thuyên và lên làm thái thượng hoàng
-Trần Nhân Tông xuất gia tu hành vào năm 1294 nhưng vẫn tham gia điều hành
chính sự. Năm 1299 ông lên núi Yên Tử tu phật
- Trần nhân tông được đánh giá là vị vua anh minh, có nhiều đóng góp cho sự
phát triển của quốc gia Đại Việt cuối TK XIII, từ bảo vệ thành công nền độc lập
dân tộc, phát triển kinh tế và văn hóa cho đến mở rộng biên giới, lãnh thổ đất nước
1.1.1 Trình bày ngắn gọn một số tiền đề của cảm hứng yêu nước trong tác giả
Trần Nhân Tông
* Tiền đề lịch sử: hoàn cảnh lịch sử cụ thể
- Ông sinh ra trong thời đại găn liền với hào k đông A- hào khí anh hùng,
hào khí của tinh thần tự lực tự cường, hào khí của chiến thắng. ơng triều nhà
Trần (1225-1400) trải qua nhiều thử thách gian nan và lập được nhiều chiến công,
thành tưu hiển hách trên các lĩnh vực tkinh tế chính trị cho đến văn hóa, giáo
dục, văn học, nghệ thuật
* Tiền đề văn hóa văn học: yêu nước là truyền thống lâu đời của dân tộc.
* Tiền đề cá nhân tác giả:
- Truyền thống gia đình vị thế nhân: con trưởng của vua Trần Thánh
Tông và là vị vua thứ 3 của triều Trần.
- Cùng với thượng hoàng Trần Thánh Tông lãnh đạo quân dân nTrần chiến
đấu chiến thắng trong 2 lần đọ sức với quân Nguyên ghi mốc son rực rỡ cho
lịch sử nhà Trần cũng như lịch sử dân tộc
Cảm hứng yêu nước thể hiện qua
mảng thơ bang giao
(văn kiện, thư từ, thơ gửi vua quan, s
thần nhà Nguyên)
Cảm hứng yêu nước thể hiện qua
mảng thơ trữ tình
lOMoARcPSD| 61432759
- tố cáo tội ác của giặc Nguyên
Môngkhi xâm lược chúng ta
thức gìn giữ bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ của đất nước
- tự hào với truyền thống phong
tục quốc gia Đại Việt
-khát vọng hòa bình, mong ước nỗ lực
xây dựng mối quan hệ hữu hảo
với phương Bắc
- thể hiện bản lĩnh, uy lực của vị hoàng
đế nắm trong tay cả giang sơn xã tắc
vừa chứa đựng chiuef sâu những suy
của một trí tuệ minh triết QK-HT-
TL
-Niềm tin vào sức mạnh của dân tộc,
niềm tự hào về quá khứ hào hùng của
đất nước, về chiến công của thời đại
1.1.2 Trình bày ngắn gọn một số tiền đề của cảm hứng tôn giáo (cảm hứng
thiền) trong tác giảTrần Nhân Tông
* Tiền đề văn hóa lịch sử: vai trò vị thế của tôn giáo trong đời sống xã hội. Thời
đại đa tôn giáo hòa đồng: Phật-Đạo-Nho giáo đều được coi trọng. Do yêu nước,
nhiệm vụ thời đại đặc biệt của nhà nước phong kiến, nho học cũng phát triển, tầng
lớp nho sĩ ngày càng đông đảo
*Tiền đề chính trị xã hội: thời Trần phật giáo được coi là quốc giáo, đóng vai trò
củng cố triều đại, kiến tạo khối đại đoàn kết dân tộc.
*Tiền đề văn học: cảm hứng tôn giáo từng xuất hiện trong thơ văn trước đó=>khơi
dậy cảm xúc
*Tiền đề nhân tác giả: trần nhân tông rất am hiểu đạo phật, xuất gia, lập trường
phái
- Trần Nhân Tông là người sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm, được gọi là Phật
Hoàng là tổ thứ nhất. Thiền phái trúc lâm đề cao sự tự giác ngộ nỗ lực rèn luyện
của mỗi cá nhân mang đậm tinh thần nhập thế
-Nét nổi bật của tưởng thiền trần nhân tông tinh thần thiền nhập thế. Tiêu
biểu: quan niệm Phật tại tâm, hướng nội vào bản tâm để truy cầu sự giải thoát=>
tin vào nội lực tuân theo tự nhiên, không phân biệt sang hèn trong đục, an nhiên tự
lạc, tìm lạc thú giữa cõi trần, bất kể thành thị-sơn lâm, con đường thành phật
không chỉ là tu hành giải thoát mà còn cả tu nhân tích đức, tu dưỡng đạo đức
1.2 Nguyễn Du: Trình bày ngắn gọn một số tiền đề của cảm hứng nhân
đạo trong tác giả Nguyễn Du
* Tiền đề lịch chính trị xã hội:
-nửa cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ
dội. sự tranh chấp phân chia quyền lực, diện mạo hội hỗn loạn cuối thế kỷ
18 dưới triều vua chúa trịnh. Nguyễn Du đã sống và chứng kiến những
biến cố lịch sử trọng đại của thời đại
*Tiền đề cá nhân tác giả: Thiên tài Nguyễn Du là sự hun đúc nhiều yếu t
- taì năng xuất chúng, trái tim yêu thương rộng lớn
- xuất thân và truyền thống gia đình
-những trải nghiệm nhân sinh rộng lớn và sâu sắc
lOMoARcPSD| 61432759
1.3 Nguyễn Đình Chiểu
2. Trình bày ngắn gọn (có dụ minh họa) về sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng
cảm hứng (VD: cảm hứng nhân đạo cảm hứng thế sự, cảm hứng yêu nước
cảm hứng thiên nhiên; cảm hứng tôn giáo và cảm hứng nhân đạo...) trong văn học
trung đại Việt Nam.
2.1 Sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng cảm hứng: cảm hứng nhân đạo cảm
hứng thế sự
Văn học trung đại Vn ra đời, mở đầu cho thời kỳ văn học viết, kế thừa phát
huy những giá trị nhân văn của kho tàng văn học dân gian mà cha ông để lại. Chủ
nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại xuất phát từ những giá trị vốn từ
tưởng, lối sống của con người VN. Đó truyền thống thương người như thể
thương thân, lá lành đùm lá rách đã đi vào tiềm thức của người con đất Việt. Nhân
đạo, đơn giản lòng thương người, trân trọng giá trị cỉa con người. Với những
biểu hiện vô cùng phong phú, đa dạng, cảm hứng nhân đạo dần ăn sâu vào lối viết
của các nhà nho, tác giả trung đại, qua đó họ thể hiện sự cảm thông, trân trọng giá
trị, vẻ đẹp của con người, đề cao khát vọng chính nghĩa lên án những thế lực tối
tăm đã chà đạp lên số phận con người
Khác với nhân đạo, cảm hứng thế sự trong văn học đề cập đến các vấn đ
trong hội tính chất đời thường, thế tục thể hiện quan niệm thái độ, cách
phân tích, đánh giá, phê bình, lý giải của tác giả về những vấn đề ấy. Nói đến thế
sự là nói đến những sự việc xảy ra xung quanh, có ảnh hưởng và tác động đến đời
sống của con người để từ đó ta phải nhìn nhận và suy ngẫm. Cuộc sống muôn màu
muôn vẻ ngoài kia luôn nguồn cảm hứng bận tận cho văn chương. Cảm hứng
thế sự chính là yếu tố quan trọng giúp tác giả khẳng định giá trị thẩm mỹ của cái
đời thường, đi sâu khám phá những biến đổi phức tạp, éo le của cuộc sống muôn
màu muôn sắc nhằm tình kiếm hạnh phúc khẳng định nhân cách, bản thân con
người
Trong cuộc đời cầm bút của mình các tác giả không bao giờ đóng khung
bản thân trong một cảm hứng sáng tác nhất định. Bởi vốn các cảm hứng sáng
tác luôn có sự gặp gỡ, giao thoa nhau, bệ đỡ cho nhau và cùng nhau gây dựng lên
ý nghĩa cho tác phẩm. Một cách cụ thể ta thbắt gặp sự giao thoa giữa cảm
hứng thế sự cảm hứng nhân đạo khi đặt điểm nhìn nơi cách tác giả văn học trung
đại. Họ lấy chât liệu từ đời sống dân gian, cuộc sống thường nhật của nhân dân hay
những chuyện chốn kinh thành xa xôi, nơi cung cấm của vua chúa, quan lại...từ đó
thể hiện quan điểm, thái độ của mình về sự việc y. Thế sự thể bàn đến những
bất cập trong đời sống, những câu chuyện nơi góc khuất mà lịch sử khó có thể đào
sâu. Từ những câu chuyện rất đời ấy, dưới cái nhìn tinh tế sự nhạy bén của mình
các tác giả văn học trung đại thể bóc tách lột trần lớp vỏ bọc bên ngoài để
thấy được những vấn đề thực sđằng sau nó, đồng thời nói lên tiếng nói của bản
thân, ng khi là nói thay cho nhân vật. Ta bắt gặp thái độ lên án, châm biếm
sâu cay trước những chuyện đời chướng tai gai mắt, sự cảm thông xót xa trước số
lOMoARcPSD| 61432759
phận bất hạnh của con người, cái nhìn trân trọng ngưỡng mộ nhân cách cao đẹp,
một con người tài hoa, hay những chiêm nghiệm,phân tích, lý giải về vấn đề xoay
quanh cuộ sống. Đó chính là cách một tác giả thể hiện tấm lòng nhân đạo của bản
thân trước một thế shọ trải qua hoặc chứng kiến, hay chỉ đơn giản là họ chiêm
nghiệm được thông qua các triết lý sống trong sách vở.
Đoạn trích “Chuyện trong phủ chúa Trịnh” trong “Vũ trung tùy bút”
của tác giả Phạm Đình Hổ chính là minh chứng rõ nét cho sự giao thoa giữa cảm
hứng nhân đạo và thế sự. Thông qua việc phản ánh đời sống xa hoa, hưởng lạc của
vua chúa, sự nhiễu nhương, chuyên quyền, lộng hành của quan lại thời vua -
chúa Trịnh, Phạm Đình Hổ đã thể hiện một góc nhìn cùng chân thực về thực
trạng đen tối, thối nát của hội phong kiến VN thời bấy giờ. Qua đó ông thầm
kín bày tỏ nỗi xót thương cảm thông trước cuộc sống lm than của người dân
sự bất lực của kẻ trí thức lúc vận nước đang suy yếu dần. Giữa cảm hứng nhân đạo
và thế sự luôn tồn tại một sợi dây vô hình móc nối nhau, đan xen nhau và gắn liền
với nhau. Từ những câu chuyện vthế sự tác githể hiện cái nhìn nhân đạo của
mình một cách công khai hoặc thầm kín.
*Nguyễn Du
Nguyễn Du là cái tên vô cùng nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ trung
đại. Tên tuổi Nguyễn Du gắn liền với cá tác phẩm mang đậm cảm hứng nhân đạo,
bày tỏ nỗi xót xa, cảm thông, trân trọng những kiếp người tài hoa bạc mệnh, thể
hiện cái nhìn mới lạ của ông về cái đẹp, về sự hoàn mỹ của con người trong hội
phong kiến, đặc biệt là về người phụ nữ. Các sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả
chữ Nôm chữ Hán thể kể đến như Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều); Văn
tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn); Thanh Hiên thi tập,...
Có thể nói các tác phẩm của Nguyễn Du thiên về cảm hứng nhân đạo. Tuy
nhiên trong một tác phẩm văn học luôn chứa những yếu tố đan xen giữa các khuynh
hướng cảm hứng nhằm bộc lộ tính sáng tạo ng như nội dung tưởng, tình
cảm tác giả muốn truyền đạt. Sự xuất hiện đan xen giữa nhân đạo thế sự
luôn hiện hữu trong các tác phẩm của Nguyễn Du. Điều đó được thể hiện nét
trong tác phẩm chữ Hán “Điệp tử thư trung” (Con bướm chết trong sách) trích
trong Thanh Hiên thi tập của đại thi hào Nguyễn Du. Bài thơ được đánh giá là một
tác phẩm vừa llùng vừa tuyệt diệu mang theo những tâm tư chiêm nghiệm của
tác giả về cuộc đời, con người về cõi nhân sinh. Nguyễn Du hướng điểm nhìn tới
một đối tượng: con bướm, từ hình ảnh mang đầy tính trừu tượng ấy tác giả thhiện
cảm xúc, tâm sự thầm kín trong lòng bày tỏ thái độ, những chiêm nghiệm về
cuộc đời, kiếp người, cõi nhân sinh. Bài thơ kể về câu chuyện con bướm chết trong
sách, thi nhân tình cờ nhìn thấy, từ đó ngẫm về mình, mượn thơ để ký thác tâm tư,
gửi tiếng lòng vào muôn thuở.
Xuyên suốt “Điệp tử thư trung” là yếu tố thế sự và nhân đạo đan xen nhau.
Từ những câu chuyện thế sự tác giả thể hiện tấm ng nhân đạo của mình.
lOMoARcPSD| 61432759
hai câu đề, nhìn con bướm chết khô nằm trên trang sách trong thư phòng,
Nguyễn Du chợt ngộ ra triết lý sống, ngẫm về đời, nghĩ về mình:
“Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương (Thư phòng nay nhiễm hương thơm
của sách)
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng (Từ bỏ vị phong lưu không thể cho là dại)
Hai câu đề nhuốm màu thế sự, thể hiện suy tư, triết lý về nhân tình thế thái
của Nguyễn Du trong mối quan hệ giữa vật chất , danh vọng và những giá trị đích
thực nơi cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh thư phòng “nhiễm thư hương”-
nhiễm hương thơm của sách vở. Từ bỏ đi thói phong lưu, rong chơi để được cuộc
sống tận hưởng “hương thơm sách vở” nơi không gian ấy thì quả là điều sáng
suốt chứ nào là dại. Câu thơ mượn hình ảnh con bướm cốt để răn dạy con người:
so với tiền tài, địa vị xã hội thì những kiến thức trong sách vở, giáo lý thành hiền
mới thứ qúy giá hơn. Đây xu hướng đối lập giữa “nghĩa” (lý tưởng nhân nghĩa)
với “lợi” (lợi ích vật chất, tiền tài, danh vọng) trong quan niệm vgiá trị của các
nhà nho
Từ quan niệm triết nhuốm màu thế sự, hai câu thực kế thừa, phát triển
và truyền tải cái nhìn nhân đạo đầy xót xa:
“Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch” (Mệnh bach có duyên lưu lại với sách
vở)
“Tàn hồn lệ khốc văn chương” (Hồn tàn không nước mắt khóc văn
chương)
Nguyễn Du bày tỏ lòng xót thương xen lẫn ngưỡng mộ: nơi con bướm chết
trên một trang sách. “Con bướm thực may mắn khi được lưu cùng trang sách-
cũng có nghĩa lưu cùng những giá trị bất hủ nằm trong sách”. Câu thơ thứ hai
trong phần thực mang hình ảnh trừu tượng độc đáo: hồn tàn; không nước mắt
khi khóc văn chương. Có lẽ khi chết đi hồn rời khỏi nơi thể xác chỉ còn lại cái xác
khô đang khóc cho văn chương một cách bất lực; mà cái hồn thứ linh khí kia mới
chính là thứ cần để giao lưu hòa nhập với những tinh hoa của văn chương.
Nguyễn Du mượn hình ảnh con bướm để nói về mình, cũng là nói về người trong
thiên hạ. Cái khốc này chính là của Nguyễn Du dành cho văn chương, đúng hơn là
cho những khát vọng ông chưa thực hiện được cho văn chương đến giây phút ấy.
Thương thay một kiếp phong lưu, suốt đời phiêu bạt, lênh đênh tới khi hiểu rằng
mọi thứ phồn hoa phù phiếm trên đời chẳng thể đổi lấy một lần thanh thản, an yên
nơi đạo thì đã muộn
*Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến cái tên cùng nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ
trung đại. Nguyễn Khuyến nổi danh khắp vùng được mệnh danh là nhà thơ của
làng cảnh VN với các tác phẩm mang đậm cảm hứng thế sự, xuất phát từ những
câu chuyện rất đời, rất thực, thể hiện một tâm hồn rộng mở, khoáng đạt, giàu cảm
xúc, suy trước cuộc sống nông thôn, trước quang cảnh thiên nhiên núi rừng và
con người nơi thôn qdân dã. Thơ Nguyễn Khuyến cùng đa dạng, viết bằng
lOMoARcPSD| 61432759
cả chữ Nôm chữ Hán dụ như chùm thơ thu nổi tiếng: “Thu vịnh, thu điếu, thu
ẩm”, các tập thơ “Quế sơn thi tập”, “Yên Đổ thi tập”,...
thể nói các tác phẩm của Nguyễn Khuyến luôn ẩn chứa câu chuyện,
mang đặc trưng của cảm hứng thế sự. Tuy nhiên trong một tác phẩm văn học luôn
chứa những yếu tố đan xen giữa các khuynh hướng cảm hứng nhằm bộc lộ cá tính
sáng tạo cũng như nội dung tưởng, tình cảm tác giả muốn truyền đạt. Sự xuất
hiện đan xen giữa nhân đạo thế sự luôn hiện hữu trong các tác phẩm của Nguyễn
Khuyến. Điều đó được thể hiện rõ nét trong tác phẩm chữ Hán “Xuân dạ liên nga”
(Nguyến Khuyến). Nguyễn Khuyến hướng điểm nhìn tới một đối tượng: con thiêu
thân, từ hình ảnh mang đầy tính trừu tượng ấy tác giả thể hiện cảm xúc, tâm sự
thầm kín trong lòng bày tỏ thái độ, những chiêm nghiệm về cuộc đời, kiếp
người, cõi nhân sinh.
Lấy hình ảnh con thiêu thân như một hình ảnh thực tế thay thế cho điển
tích, điển cố Trung Quốc, giúp cho bài thơ dễ hiểu và gần gũi hơn rất nhiều. Con
thiêu thân vốn có đặc tính bị thu hút bởi ánh sáng và thường lao đầu vào ánh sáng
ấy. Nguyễn Khuyến mượn hình ảnh con thiêu thân để ca ngợi về chí khí của bậc
quân tử, dám hy sinh thân mình, từ bỏ tất cả để bảo toàn khí tiết, giữ tâm trong
sạch. Nguyễn Khuyến sinh sống trong thời loạn , nước nhà trong cảnh lầm than
nên không thiếu những câu chuyện nhà Nho, tướng lãnh đạo cầm quân, đánh
đuổi giặc. Dẫu kết cục có phải đầu rơi máu chảy, họ vẫn cam lòng. Đến cách chết
của người trí sĩ cũng là điều đáng nói đến:
“Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị” (Nếu thảng thốt xông vào chỗ chết
thì còn dễ)
“Đáo đắc thuân tuần biện diệc nan” (Nhưng dùng dằng quyết chết
được, thực khó)
Nếu thảng thốt lao đầu vào chỗ chết, không chút dằn vặt hay day dứt
nào thì chưa phải cái chết được người đời ca tụng, cũng không phải khí tiết một
nhà nho nên có. Bởi thế Nguyễn Khuyến mới cho đó là cái chết dễ dàng, sẵn sàng
bỏ lại tất cả đgiải thoát bản thân khỏi guồng xích, gông kìm. Còn khi vẫn dùng
dằng giữa sống và chết, giữa hy sinh và bảo toàn mạng sống, nhưng suy tính thiệt
hơn, việc bản thân chết sẽ giúp được cho nhiều người sống, thì đó là cái chết đáng
lưu danh thiên cổ. Thái độ dùng dằng trước đó cho thấy sự không nỡ xa rời nhân
thế, bản thân còn nhiều tâm nguyện ấp ủ, mong muốn cống hiến nhiều hơn, hay
đơn giản là chỉ mong được nhìn thấy người thân yêu lần cuối. Nhưng đến cuối cùn
họ vẫn quyết chết, hy vọng sự hy sinh của bản thân cứu được nheiuef người phía
sau. Bởi thế cái chết thực là khó. Câu thơ nhuốm màu tang thương chết chóc: phải
chăng chính tác giả đang day dứt, dằn vặt, xót xa, đau đớn cho cái chết ấy của
người tử sĩ. Thông qua hình ảnh đau xót ấy, nhà thơ muốn phản ánh hiện thực
hội lúc bấy giờ , từ đó thể hiện thái độ lên án chế độ phong kiến, căm giận giặc
Pháp, xót thương cho những người trí yêu nước hy sinh nơi chiến trường
lOMoARcPSD| 61432759
người dân sống trong leo lắt, đói khổ. Đó chính là sự giao thoa giữa thế sự nhân
đạo nơi hồn thơ Nguyễn Khuyến.
2.2 Sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng cảm hứng: cảm hứng yêu nước và cảm
hứng thiên nhiên
- Ca ngợi, thể hiện niềm yêu mến tự hào với cảnh trí non sông đất nước
- miêu tả vẻ đẹp của thắng cảnh thiên nhiên, các địa danh gắn liền với lịchsử dân
tộc (Bạch đằng giang phú)
-ca ngợi thiên nhiên đca tụng, tán dương triều đại, biểu đạt tình cảm với
quê hương xứ sở
Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Phú sông Bạch Đằngmột trong những tác phẩm
nổi bật của Trương Hán Siêu, qua đó, tác giả thể hiện tình yêu nước, cảm hứng yêu
nước qua tình yêu với thiên nhiên, lịch sử và những giá trị tinh thần không bao giờ
mai một trên con sông huyền thoại.
- Khái quát về thể loại phú: Phú là một thể loại văn học cổ của Việt Nam, chủyếu
là văn tả cảnh, từ ngoại cảnh liên kết với nội tâm để tả tình.
- Tình yêu quê hương bộc lộ qua cách miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên trên sông
BạchĐằng được tác giả khái quát qua vài câu thơ chấm phá, thể hiện nét đẹp vừa
mềm mại, tha thướt, vừa mạnh mẽ, cuộn trào.
- Cảm hứng yêu nước bộc lộ qua skính nể, hoài tưởng những chiến công vangdội
của bậc cha ông, nhữngức vẻ vang, hào hùng của dân tộc và thất bại thảm hại
của quân thù.
- Nỗi tiếc thương cho những vị anh hùng đã nằm xuống vì tổ quốc, độc lậpdân
tộc, đồng thời cảm thấy hổ thẹn, bẽ bàng hậu thế chưa thể làm được đáng tự
hào cho tổ quốc.
2.3 Sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng cảm hứng: cảm hứng tôn giáo và cảm
hứng nhân đạo
- Tư tưởng bác ái, từ bi, hỉ xả
- sự nâng đỡ, quan tâm, dành cho con người bé nhỏ, bất hạnh
- niềm tin vào khả năng, giá trị của con người
3. Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu một khuynh hướng cảm hứng trong văn
học trung đại Việt Nam (yêu nước, nhân đạo, thế sự...); vận dụng để nhận diện
những biểu hiện của cảm hứng đó trong một tác phẩm cụ thể/ hoặc minh họa bằng
ví dụ cụ thể.
3.1 Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng yêu
nước
Lòng yêu nước tồn tại một cách tự nhiên, sâu sắc trong tiềm thức của người Việt.
Tutheo từng hoàn cảnh xã hội khác nhau tình cảm ấy được thể hiện bằng
lOMoARcPSD| 61432759
những hành động, việc làm khác nhau chứ không bao giờ mất đi. Trong hoà bình,
lòng yêuớc ấy được ẩn sau những việc làm dựng xây đất nước thêm giàu, thêm
mạnh. Trong thời chiến, tình cảm ấy được bộc lộ một cách sôi nổi, nh liệt, s
lăn xả, sẵn sàng hi sinh thân mình vì đất nước.
Đi suốt chiều dọc lịch sử đất nước, ta thấy điều đó hầu như không thay đổi dẫu
biết bao nhiêu biến cố, bao cuộc xoay vần thời thế xảy ra trong đời sống dân tộc.
Văn học, với vai trò tự thân phản ánh đời sống, phản ánh xã hội đã ghi lại một
cách trung thành, đầy đủ đa dạng những biểu hiện tình cảm y của người dân.
Có thể nói một trong những cảm hứng chủ đạo của văn học Việt Nam trong nhiều
giai đoạn chính là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Cảm hứng ấy càng rõ nét hơn
trong các cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước. Văn học trung đại- một trong hai
loại hình văn học của văn học Việt Nam, càng thể hiện rõ điều đó.
Các tác phẩm như Vận nước (Quốc lộ) của Pháp Thuận, Chiếu dời đô (Thiên đô
chiếu) của Công Uẩn, bài thơ Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà) đã mở
đầu cho dòng văn học yêu nước. Những tác phârm như Hịch tướng (Dchư
tướng hịch văn) của Trần Quốc Tuấn, Phò giá về kinh (Tụng ghoàn kinh sư) của
Trần Quang Khải, Tỏ lòng (Thuận hoài) của Phạm Ngũ Lão, Phú sông Bạch Đằng
(Bạch Đằng giang phú) của Trương Hán Siêu... tiêu biểu cho nội dung yêu nước
mang hào khí Đông A
1.1. Khái niệm
- “Khuynh hướng” (trend, tendency, movement): những sáng tác cùng
mục tiêu, đối tượng, hoặc phương thức nghệ thuật...
- “Cảm hứng(inspiration): trạng thái tình cảm/cảm xúc mãnh liệt gắn với
tưởng xác định, sự đánh giá nhất định tác động đến cảm xúc của người tiếp
nhận; thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm.
- “Yêu nước” (ái quốc patriotic, ch nghĩa yêu nước/lòng yêu
nướcpatriotism): tình yêu quê hương, đất nước tinh thần sẵn sàng đem hết
khả năng của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Yêu nước gắn liền tưởng
“trung quân ái quốc” (trung với vua là yêu nước, yêu nước trung với vua); thể
hiện ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc; nghĩa rộng: yêu gia đình, quê
hương, giang sơn đất nước, dân tộc, đồng bào
1.2. Biểu hiện
- Đặc điểm của khuynh hướng cảm hứng yêu nước
+ đây là cảm hứng xuyên suốt trong văn học trung đại Việt Nam do đặc thù của
lịch sử đất nước thường xuyên phải chống lại những kẻ thù xâm lược + đây
cảm hứng chủ đạo trong những giai đoạn nhất định, những chặng đường khi
nền độc lập của đất nước bị đe dọa
lOMoARcPSD| 61432759
+ cảm hứng yêu nước thời kỳ chống ngoại xâm sẽ có biểu hiện khác biệt rõ nét
so với thời kỳ xây dựng triều đại phong kiến Nội dung cảm hứng yêu nước/ái
quốc:
* Phản ánh quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước: (niềm tự hào, những i
học lịch sử...) Nam quốc sơn hà, bình ngô đại cáo, lời phủ dụ của vua Quang
Trung trước khi tiến quân
+ khẳng định độc lập chủ quyền đất nước
- Yêu nước thể hiện trước hết ở lòng tự hào dân tộc.
Bài thơ Nam Quốc Sơn của Thường Kiệt tiếng nói thào dân tộc của một
con người giàu lòng yêu nước tinh thần tự chủ. tiếng nói đầu tiên như âm
vang từ khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm chủ. Nước
là của vua, vua là tượng trưng cho chủ quyền của nước: “Sông núi nước Nam vua
Nam ở”. đây, ý thức tinh thần độc lập, tự chkhá nét. Bài thơ xứng đáng là
một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Nếu không lòng tự hào dân
tộc thì khó có thể viết ra được những câu thơ đầy xúc cảm như thế.
* Kiến tạo truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục của đất nước (tự tôn,
khẳng định...); Tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc về những
chiến công vang dội của thời đại, về thành tựu của quốc gia dân tộc, về sức
mạnh của con người
- khát vọng hòa bình cho đất nước, khát vọng xây dựng quốc gia phồn thịnh,
vững bền: quốc tộ, thiên đô chiếu, bạch đằng giang phú, thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu,...
Yêu nước là tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc. Trong thơ
Trung đại Việt Nam dường như vẫn còn văng vẳng tiếng mài giáo dưới ánh trăng
của Đặng Dung. Yêu nước còn là ca ngợi những người hi sinh vì đất nước. Không
thể cầm gươm tham gia nghĩa quân như các sĩ phu yêu nước khác, Nguyễn Đình
Chiểu đã đánh giặc bằng ngòi bút:
“…Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà…”
Nỗi lo lắng và niềm đau xót cho ách nước, nạn dân ngày càng trở nên sâu sắc hơn.
Mỗi bữa thấy, mỗi ngày trông kẻ thù trước mắt lấn thêm một bước, Đồ Chiểu đau
đớn như bị cắt đi một phần máu thịt. Cảm hứng bao trùm bài Chạy Tây là sự xửng
sốt, nỗi bàng hoàng, lo lắng cho vận nước nạn dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một
bàn cờ thế phút sa tay….”
* Ca ngợi thiên nhiên con người đất nước (địa danh lịch sử, danh lam thắng
cảnh, phẩm chất tốt đẹp...);
lOMoARcPSD| 61432759
Yêu nước là thể hiện tình yêu thiết tha đối với cảnh trí thiên nhiên đất nước. Trong
thơ, thiên nhiên đất nước Việt Nam hiện lên thật đẹp đẽ, tráng lệ giàu đường nét,
màu sắc. Với thơ thời Trần, qua cảnh trí thiên nhiên c thi đã gửi vào đó tình
yêu quê hương đất nước của mình. Nguyễn Trung Ngạn khi đi sứ cũng đã viết nên
những vần thơ xúc động về tình yêu quê hương đất nước với những phong vị riêng
của một vùng đồng bằng Bắc Bộ:
“Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về ”
(Quy Hứng)
Còn Nguyễn Trãi, cảnh đẹp thiên nhiên, khí trời lúc sang xuân thật huyền hồ đầy
âm thanh, màu sắc. Xuân về mang theo stươi tốt với những làn a. Cỏ bến
xanh như màu khói bao la bát ngát:
“…Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời…”
(Bến đò xuân đầu trại)
Như vậy cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam đã thể hiện nhiều
khía cạnh phong phú và sâu sắc. Đất nước, dân tộc là nỗi niềm khắc khoải không
nguôi trong tâm hồn con người Việt Nam nói chung và các thi nhân nói riêng.
Vậy nên, ở mỗi nhà thơ có cách khai thác, cảm nhận khác nhau song lại là vẫn sự
thống nhất làm nên một cảm hứng yêu nước lớn. Chính cảm hứng ấy đã làm
nên cái độc đáo riêng và giá trị của thơ ca Việt Nam thời Trung đại.
* Căm giận, tố cáo, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm... căm thù giặc, quyết
tâm chống lại giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước: văn tế nghĩa cần giuộc, nam quốc
sơn hà, cảm hoài,...
- Yêu nước thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược. Chúng
ta thể nhận thấy điều này qua thơ các thi thời Trần. Một trong những
thành tựu quan trọng của thơ thời Trần đã thể hiện được chủ nghĩa yêu nước,
ý chí quật cường chống quân xâm lược của n tộc ta. Chính cảm hứng này đã
tạo ra “Hào khí Đông A” trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc. Hào khí ấy
vang lên hùng tráng tha thiết qua khúc ca khải hoàn “Tụng giá hoàng kinh
” của Trần Quang Khải:
“Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm
Tử bắt quân t.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.”
Bài thơ làm sống dậy một không gian trận mạc chiến trường, đao kiếm với ngựa
thét quân reo ngất trời tráng khí. Một trong hai trận ấy do đích thân Trần Quang
Khải chỉ huy. Chương Dương, Hàm Tử nằm trong hệ thống chiến thắng mở màn
lOMoARcPSD| 61432759
ý nghĩa chiến lược cho cuộc phản công thắng lợi, mạnh và nhanh, cường độ lớn
và tốc độ phi thường đã tạo cho lời thơ khí thế hùng tráng, thiêng liêng.
Khi đất nước đã sạch lòng giặc, lòng yêu nước thể hiện trong ý chí gìn yên bờ cõi,
khát vọng lập công trạng lớn, sống xứng đáng với thời đại. Khát vọng ấy được
Phạm Ngũ Lão, một vị dũng tướng đời Trần thể hiện ràng trong bài thơ Thuật
hoài (Tỏ lòng):
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu, Tam
quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Qua bài thơ, hiện lên hình nh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát
vọng thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững
vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí
của thời đại nhà Trần. Bài thơ cũng nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát
vọng tưởng, về chí làm trai nhân cách lỗi lạc của con người phải được giữ
gìn.
- Đặc thù cảm hứng yêu nước” Việt Nam thời trung đại: Diễn biến quan
niệm về “nước/quốc”:
* nước = triều đại/đế + lãnh thổ
- Yêu nước trong thời trung đại gắn liền với lí tưởng trung quân. Ái quốc
trung quân, trung quân là ái quốc. Hai tình cảm đó không thể tách rời nhau mà h
quyện vào nhau, làm nên lí tưởng của mt công dân tốt thời kì phong kiến. Chính
vì thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã kêu gọi quân sĩ chiến đấu, học tập
không chỉ bản thân cơm no áo ấm, vinh hiển của mình còn cao hơn nữa là
thể hiện sự tận trung với chủ tướng, với triều đình, với vua. Điều này được thể hiện
trên nhiều dạng thức và cung bậc cảm xúc : vừa đau xót, phẫn uất, căm tức vì gót
giày xâm lược của quân giặc chà đạp lên Tổ quốc chưa làm được “…Ta
thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ
căm tức chưa lột da nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu trăm thân này phơi ngoài
nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng nguyện vui lòng…”; lại vừa trách
móc quân sĩ vô tâm không chú ý đến việc quân cơ đại sự : “…Nay các ngươi nhìn
chủ nhục không biết lo, thấy nước nhục không biết thẹn, m tướng triều
đình phải hầu quân giặc không biết tức, nghe nhạc Thái thường để đãi yến
nguỵ sứ mà không biết căm…”. Tất cả dạng thức và cung bậc tình cảm ấy thực ra
đều bắt nguồn từ một cảm hứng chủ đạo cũng duy nhất : cảm hứng yêu nước.
- Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt là tiếng nói tự hào dân tộc
của một con người giàu lòng yêu nước tinh thần tự chủ. tiếng nói đầu tiên
lOMoARcPSD| 61432759
như âm vang từ khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm
chủ. Nước của vua, vua tượng trưng cho chủ quyền của nước: “Sông núi nước
Nam vua Nam ở”.
* nước = quốc hiệu + văn hiến + lãnh thổ + phong tục + triều đại/đế + hào kiệt/nhân
tài (BNĐC – tầm tư tưởng vượt thời đại của Ức Trai);
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, với sự ra đời muộn hơn và là sự đúc kết nhận
thức của một đầu óc thiên tài cộng với sự thừa kế tinh hoa của cha anh đi trước, đã
cái nhìn toàn diện hơn về quyền tự chủ, độc lập của dân tộc so với Nam quốc
sơn hà của Lí Thường Kiệt.
Trong tác phẩm, bằng sự nhận thức sâu sắc về chủ quyền đất nước độc lập tự
do dân tộc, Nguyễn Trãi đã khẳng định quyền tự do, độc lập của nước ta trên nhiều
phương diện:
“…Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
Những cụm từ như : văn hiến, phong tục, hào kiệt không xuất hiện trong tư tưởng,
ý thức về chủ quyền dân tộc trong Nam quốc sơn các tác giả trước đó. Nguyễn
Trãi cũng khẳng định, không chỉ núi sông bờ cõi đã chia, mà còn khẳng định mỗi
quốc gia đều lịch sử dựng nước và giữ nước. Sự tồn vong của Đại Việt không
phải ngẫu nhiên và dễ dàng xoá bỏ hoặc thay đổi theo ý kẻ khác, bởi đất nước ấy,
dân tộc ấy đã tồn tại từ lâu đời và được xây đắp, gìn giữ bằng nước mắt, mồ hôi và
máu xương của bao triều đại phong kiến và nhân dân Đại Việt.
→ “Yêu nước” gắn với “trung quân”/tôn quân – gắn với một triều đại/ông vua
cụ thể; gắn với thân dân/thương dân; tư tưởng Đức trị, Nhân nghĩa...
1.3. Tiến trình
1.3.1. Giai đoạn thế kỉ X-XIV: cảm hứng yêu nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện,
phản ánh quá trình kiến thiết và bảo vệ đất nước giai đoạn đầu tiên của thời tự
chủ:
+/ khẳng định độc lập, chủ quyền, chống giặc ngoại xâm: nhóm thơ văn Lí Trần
+/ tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa: VĐULT, LNCQL: thần linh dựng nước
(Tản Viên, Rùa vàng, thần Long Đỗ/Tô Lịch...); thần linh đánh giặc giữ nước (Lý
lOMoARcPSD| 61432759
Nam Đế, Bố Cái đại vương, Mai Hắc Đế, Nhị Trưng phu nhân, Triệu Ẩu/Lệ
Hải Vương...); các phong tục văn hóa người Việt (Truyện Trầu cau, Truyện
bánh chưng bánh dày, Truyện dưa hấu...)
1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV-XVII: cảm hứng yêu nước chống giặc ngoại xâm ầu
XV), khẳng định truyền thống, ca tụng triều đại quân chủ Nho giáo (giữa - cuối
XV):
+/ hồi tưởng sự nghiệp chống Minh oanh liệt
+/ khẳng định triều đại quân chủ thái bình
1.3.3. Giai đoạn thế kỉ XVIII-giữa XIX: cảm hứng yêu nước thiên về chống
giặc ngoại xâm, khẳng định truyền thống: + văn học chống ngoại xâm thời Tây
Sơn
+ thơ đi sứ thời Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn sơ
1.3.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX: cảm hứng yêu nước thiên về chống giặc
ngoại xâm, khát vọng canh tân đất nước
+/ bài bi tráng ca của người anh hùng nga sĩ thất bại
+/ khát vọng canh tân đất nước
3.2 Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng thế sự
Cảm hứng thế sự Cảm hứng thế sự biểu hiện khá nét từ văn học cuối thờ
Trần (thế kỉ XIV). Khi triều đại nhà Trần có những biểu hiện suy thoái lúc văn
học hướng tới phản ánh hiện thực hội, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân
dân, Cảm hứng thế sự trở thành một nội dung lớn trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua những bài thơ viết về nhân tình thế thái.
Văn học viết về thế sự bước phát triển trong hai thế kXVIII và XIX; nhiều
tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, hiện thực hội đương thời đghi lại
“những điều trông thấy”. Lê Hữu Trác viết Thượng kinh kí sự, Phạm Đình Hổ viết
trung tuỳ bút. thể nói hội thành thị trong thơ Xương. Cảm hứng thế
sự trong văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện
thực trong thời kì sau.
3.1. Một số vấn đề chung
a. Khái niệm
- Thế sự (世事) là việc đời, chuyện đời, những vấn đề thuộc về đời sống con
người và xã hội.
- Cảm hứng thế sự chỉ những tác phẩm đề cập đến các vấn đề nhân sinh,
hội có tính chất đời thường, thế tục và thể hiện quan niệm, thái độ, cách phân tích,
đánh giá, phê bình, lí giải của tác giả.
lOMoARcPSD| 61432759
b. Cảm hứng thế sự trong tương quan với các khuynh hướng cảm hứng khác +
Cảm hứng thế sự: khai thác những vấn đề thuộc về cuộc sống đời thường, thế tục;
xu hướng nghiêng về luận bàn, đánh giá.
+ Cảm hứng yêu nước: đề cập đến những vấn đề chính sự, quốc gia đại sự; sắc thái
chủ đạo: tự hào, ngợi ca, khẳng định.
+ Cảm hứng nhân đạo: quan tâm đến nỗi khổ đau và niềm hạnh phúc, vẻ đẹp, giá
trị của con người; tình cảm chủ đạo: cảm thông, thương xót, trân trọng, đề cao.
+ Cảm hứng đạo lí: ca ngợi đạo đức, giáo huấn đạo lí.
+ Cảm hứng tôn giáo: giải thích, ca tụng, truyền các triết lí, tưởng tôn giáo
(Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo,…).
+ Cảm hứng thiên nhiên: lấy thiên nhiên làm đối tượng thẩm mĩ, viết về thiên nhiên
với niềm hứng thú, say mê.
c. Vị trí của cảm hứng thế sự trong nền văn học trung đại Việt Nam
- Là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo, có mặt ở tất cả các giai đoạn của
văn học trung đại Việt Nam. Vai trò của cảm hứng thế sự đặc biệt được khẳng
định trong văn chương của các nhà nho.
- sở xuất hiện khuynh hướng cảm hứng thế sự trong văn học trung đại: + Mối
quan tâm đến các vấn đề nhân sinh xã hội, nỗi lo đời, thương đời của nhà nho
- chủ thể sáng tác trung tâm của văn học trung đại.
+ Sự coi trọng chức ng giáo huấn, gắn văn chương với nhiệm vụ chính trị thời
trung đại.
+ Xu hướng đối lập "nghĩa" (lí tưởng nhân nghĩa) với "lợi" (lợi ích vật chất, tiền
tài, danh vọng) trong quan niệm về giá trị của các nhà nho. 3.2. Đặc điểm
a. Nội dung
- Suy tư, triết về nhân tình thế thái (tình người, thói đời): sự phức tạp của các
mối quan hệ nhân sinh; stha hóa đạo đức của con người; đồng tiền chi phối
quan hệ giữa con người với con người; các giá trị bị đảo lộn;…
- Phản ánh bức tranh đời sống hội, chính trđương thời: giai cấp thống trị suy
đồi; chiến tranh loạn lạc; cuộc sống của người dân đói khổ, bế tắc,… Truyền kì
mạn lục (Nguyễn Dữ), thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô
gia văn phái), thơ chữ Hán Nguyễn Du, thơ Cao Quát, Nguyễn Văn Siêu,
Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương,...
- Phản ánh cuộc sống sinh hoạt thường nhật của con người: những phong tục tập
quán, những sinh hoạt đời thường: thi cử, lễ hội, hôn nhân,...; những mối quan
hệ gia đình, hội: quan hệ quân thần, phụ tử, bằng hữu, huynh đệ, phu thê, quan
hệ giữa giai cấp thống trị và người bị trị, giữa kẻ giàu người nghèo;...Ví dụ:
các truyện m, các truyện/kí trong trung tùy bút (Phạm Đình Hổ) b) Hình
thức:
- Thể loại: Cảm hứng thế smặt ở nhiều thể loại văn học trung đại, hầu hết
thể loại văn học nghệ thuật: Thơ chữ Hán, thơ Nôm Đường luật, truyện Nôm,
ngâm khúc, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi;...
lOMoARcPSD| 61432759
- Ngôn ngữ: khuynh hướng sử dụng ngôn ngữ đời thường.
- Hình tượng: bên cạnh những hình tượng mang tính tượng trưng, ước lệ, xuất hiện
nhiều hình tượng có nguồn gốc từ đời sống.
3.3. Khuynh hướng cảm hứng thế sự trong tiến trình văn học trung đại Việt
Nam
a. Giai đoạn thế kỉ X XIV: giai đoạn manh nha. Cảm hứng thế sự không phải
nguồn cảm hứng chủ đạo. mặt trong những truyện kể phản ánh cuộc sống
con người trong các mối quan hệ gia đình, xã hội ở Lĩnh Nam chích quái lục, Nam
Ông mộng lục; trong những sáng tác phơi bày sự suy đồi của giai cấp cầm quyền,
cuộc sống đói rách, khốn khó của người dân của các tác giả thời cuối Trần như
Nguyễn Sưởng, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh,…
b. Giai đoạn thế kỉ XV XVII: giai đoạn phát triển. Những bất cập của thực
tại hội khiến các nhà văn mang tâm thế hoài nghi, bất mãn, phủ nhận. Tiếng nói
phê phán thực tại xuất hiện nhiều trong thơ Nôm Đường luật truyện truyền kì.
Lập trường chủ đạo của các tác giả vẫn là lập trường đạo đức, bảo vệ những giá trị
đạo đức Nho giáo. Các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Dữ,...
c. Giai đoạn thế kỉ XVIII-XIX: giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Chế độ phong
kiến bộc lộ những khủng hoảng, rạn nứt, tầng lớp lãnh đạo tha hóa, sự đối lập giữa
thống trị và bị trị ngày càng gay gắt, cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái
thống trị dẫn cảnh loạn li, bất ổn triền miên. Nhu cầu nhận thức lại thực tại, phơi
bày những mặt tối của hiện thực được thể hiện rõ nét trong cả tác phẩm quy
trường thiên lẫn quy nhỏ, văn xuôi văn vần, chữ Hán chNôm, thuộc
hầu hết các thể loại phi chức năng như Ngâm khúc, truyện Nôm, thơ chữ Hán, thơ
Nôm Đường luật, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi. Các tác giả tiêu biểu: Phạm
Nguyễn Du, Ngô Thế Lân, Bùi Huy Bích, Nguyễn Du, Văn Phức, Cao Quát,
Nguyễn Văn Siêu,... (thơ); Ngô gia văn phái, Hữu Trác, Phạm Đình Hổ,
Trinh,... (Văn xuôi).
d. Nửa cuối XIX: giai đoạn cảm hứng thế sự tiếp tục có những thành tựu mới.
Xã hội buổi giao thời với nhiều điều lố lăng, kệch cỡm là chất liệu sinh động cho
thơ trào phúng Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Thiện Kế, Kép Trà,... Các tác
giả đã xây dựng được hàng loạt những hình tượng trào phúng điển hình như ông
tiến sĩ giấy, kẻ hỏng thi, vua chèo, quan chèo, ông phỗng đá, con người thừa, con
người tha hóa,... phản ánh sự sụp đổ của những giá trị chính thống. Cùng với mảng
sáng tác về nông thôn, khai thác hiện thực cuộc sống của người nông dân, bức
tranh giàu u sắc hiện thực trong thơ văn trào phúng đã đánh dấu bước chuyển
mới của văn học theo hướng nghiêng về thực tại đời sống.
3.4. Tìm hiểu cảm hứng thế sự trong Quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi
tập, Vũ trung tùy bút, thơ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương.
lOMoARcPSD| 61432759
3.3 Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng tôn
giáo
1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của cảm hứng tôn giáo
a. Khái niệm: Khuynh hướng tôn giáo: những tác phẩm viết với mục đích luận
giải, truyền bá, ca tụng các triết lí, lí tưởng tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo, Thiên
Chúa giáo,…). b. Đặc điểm:
Nội dung:
- Trực tiếp ca tụng, giải thích, luận giải, hoằng dương/phát triển các tư tưởng
tôn giáo. VD: các bài kệ, thơ thiền, các bài văn luận thuyết Phật giáo,…
- Thể hiện sự cảm mộ, sùng bái đối với các tôn giáo, các nhân vật nổi tiếng
trong tôn giáo đó của. VD: các bài tụng tán, truyện về các danh tăng, đạo sĩ,
truyện/ghi chép về các vị thần, tiên (thần tích, thần phả, tiên phả…)…
- Dùng các tư tưởng, quan niệm, hình tượng, tích truyện… tôn giáo để lí giải,
phản ánh cuộc sống trong tác phẩm. VD: thơ có ý vị thiền, thơ truyện có các nhân
vật, môtip tôn giáo,… Hình thức:
- Thể loại: các thể loại văn chức năng lễ nghi tôn giáo (thơ kệ, văn luận thuyết,
thơ Thiền, thần tích, Phật thoại, tiên thoại, truyện các thánh, truyện thần quái, chí
quái…); có sự pha trộn nhiều thể loại trong một tác phẩm.
- Ngôn ngữ: nhiều thuật ngữ, khái niệm tôn giáo, ẩn ngữ; nhiều môtip, chi tiết
huyền bí, hoang đường – kì ảo; cách nói ẩn dụ - tượng trưng, ngôn ngữ đối thoại
(dấu ấn khẩu ngữ, thuyết xướng, diễn xướng)...
2. Khuynh hướng cảm hứng tôn giáo trong tiến trình văn học trung đại Việt
Nam
a- Giai đoạn thế kỉ X-XIV:
- Giai đoạn phát triển rực rỡ cả Phật giáo Đạo giáo.Trong đó Phật giáo (Thiền
tông) phát triển huy hoàng với sáng tác của nhiều thiền sư, Phật tử thuộc 3 dòng
thiền (Tì ni đa lưu chi; Vô Ngôn Thông; Trúc Lâm) như: Pháp Thuận,Viên
Chiếu, Đạo Hạnh, Giác Hải, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Huyền
Quang, Pháp Loa,Sáng tác nổi bật của văn học Phật giáo giai đoạn này các
bài kệ thơ thiền (Cáo tật thị chúng, Thiên Trường vãn vọng,…), các bài ca ngâm,
truyện các thiền , các bài văn luận thuyết Phật giáo (Khóa ngữ lục Trần
Thái Tông, trần lạc đạo phú Trần Nhân Tông,...). Văn học chịu ảnh hưởng
tưởng Đạo giáo cũng dấu ấn nhất định trong một số bài thơ (của Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh,…), truyện kí .
- Một số tác phẩm phản ánh tín ngưỡng dân gian, hỗn dung, đặc biệt tưởng
sùng bái, kính sợ quthần ( Lĩnh Nam chích quái lục Trần Thế Pháp,…), b -
Giai đoạn thế kỉ XV-XVII:
- Do sự phát triển mạnh mẽ của Nho giáo, Phật giáo có phần lắng xuống (xem
Cái chùa hoang Đông Triều, Nghiệp oan Đào thị trong Truyền mạn lục
Nguyễn Dữ). . Vì vậy, văn học Phật giáo cũng trầm lắng nhưng vẫn được duy trì
trong một số tác phẩm thuần túy văn học Phật giáo; ảnh hưởng của Đạo gia-Đạo
lOMoARcPSD| 61432759
giáo tăng lên (một số truyện trong Thánh Tông di thảo; Truyền mạn lục với hình
tượng Đạo sĩ, tiên nhân, thần nhân,…). Các tác phẩm phản ánh tín ngưỡng dân
gian tiếp tục tồn tại và phát triển (hiện tượng “tục bổ”, “tăng bổ”, “tục biên” Lĩnh
Nam chích quái; một số tác phẩm trong Thánh Tông di thảo; Truyền kì mạn lục;
Thập giới hồn quốc ngữ văn Thánh Tông?, các bản thần tích của trung
ương và địa phương). c - Giai đoạn thế kỉ XVIII-giữa XIX:
- Văn học Phật giáo khởi sắc lại với một số tác phẩm của Chân Nguyên, Chuyết
Chuyết, Tính Nhu, Hải Lượng thiền Ngô Thì Nhậm (Trúc Lâm tông chỉ
nguyên thanh), truyện thơ Nôm Phật giáo (Quan Âm Thị KínhKhuyết danh,
Nam Hải Quán thế âm Bồ tát tân truyện,…)…
- Văn học mang cảm hứng của Đạo giáo phát triển khá mạnh, nổi bật các tác
phẩm viết về tiên nhân, Đạo sĩ
- Bắt đầu xuất hiện các sách luận thuyết hay “truyện các thánh” của Thiên chúa
giáo d - Giai đoạn cuối thế kỉ XIX:
- Duy trì phần nào truyền thống của giai đoạn trước (kệ, thơ thiền, tiên thoại, truyện
các thánh, thần tích, truyện Nôm Phật giáo).
- Các tác phẩm mang tưởng hỗn dung tam giáo, mang tưởng “khuyến
thiện”phát triển mạnh (các loại “thiện thư”, “thơ giáng bút”… ở các thiện đàn) 3.
Phân tích, thuyết trình một tác phẩm hoặc một cụm tác phẩm thuộc khuynh
hướng cảm hứng tôn giáo.
- Phân tích một số bài t-kệ và thơ Thiền: Cáo tật thị chúng, Tâm không, Cư trần
lạc đạo, Thiên Trường vãn vọng.
- Phân tích một “tiên thoại”: Từ Thức lấy vợ tiên hoặc Bích Câu kì ngộ
CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG “THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG” CỦA
TRẦN NHÂN TÔNG.
I/ Vài nét về Trần Nhân Tông.
- Trần Nhân Tông một trong những ông vua sáng thời nhà Trần. Tên tuổicủa ông
không chỉ gắn với sự nghiệp bình Nguyên, giữ yên bờ cõi.
- Sau khi đưa đất nước thoát khỏi hiểm họa Nguyên Mông, Trần Nhân Tông đã
“nhường ngôi cho Anh Tông, khoảng tháng 10 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long
thứ 7, Điều Ngự Trần Nhân Tông đã vào thẳng núi Yên Tử, tinh cần tu 12 hạnh
đầu đà, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà”.
- Ông sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Tâm thức thiền của Trần
Nhân Tông được hình thành trong một quá trình kế thừa và sáng tạo từ Thiền
phái Nam Tông Huệ Năng đồng thời trực tiếp thừa truyền của Thiền Việt
trong thực tiễn văn hóa Đại Việt.
- Thơ Trần Nhân Tông sự hòa điệu giữa thơ và Thiền, dùng thơ để nói Thiền,
gửi Thiền vào thơ (dĩ thi thuyết Thiền, dĩ Thiền ngụ thi). Thơ ông cũng thể hiện
một tâm hồn thuần phác hồn hậu đầy cảm xúc sâu lắng trước thiên nhiên tạo vật
Việt Nam. Tất cả những vđẹp của cảnh vật con người trong thơ Trần Nhân
Tông đều sự tương thông với tâm Thiền nên sắc thái bình đạm, tĩnh lặng và
lOMoARcPSD| 61432759
không phân biệt giữa thực hư, khả năng, giữa ta vật của Thiền vị, lại
càng khó tách bạch với cảm quan hiện thực và cảm quan tôn giáo Thiền.
II/ Cảm hứng tôn giáo trong bài thơ “Thiên trường vãn vọng”.
Bài thơ tả cảnh thôn quê thuần phác tự nhiên đạm bạc Thiên Trường như muôn
vàn cảnh thôn quê ở vùng đồng bằng Bắc bộ khi chiều buông, song lại
có sức khái quát cao về hiện thực cuộc sống và triết lý Thiền
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán bán hữu tịch dương biên Mục
đồng địch ngưu quy tận Bạch lộ
song song phi hạ điền.
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có, dường không
Mục đồng o vẳng trâu về hết
trắng từng đôi liệng xuống đồng.) 1.
Nhan đề.
- Nhan đề bài thơ ngắm cảnh chiều Thiên Trường, nơi ngựa xe tấp nập,
nhiều lầu son gác tía của nhà Trần đặt tại phủ Thiên Trường (Nam Định). - Đối
tượng ngắm cảnh Trần Nhân Tông hướng đến đây một vùng quê nghèo,
đơn sơ thanh tĩnh ở đồng bằng Bắc Bộ dưới con mắt Thiền.
2. Phân tích bài thơ.
a. 2 câu đầu.
- Mở ra là bức tranh thôn xóm bình dị, nhạt nhòa trong cảnh bảng lảng
hoànghôn. Cặp từ trái nghĩa “tiền hậu” sự mở rộng biên độ hai chiều về
hai phía trước và sau của một làng quê yên tĩnh. Bức tranh thôn này lại được
quan sát từ trên cao, khoảng cách xa nên độ “nhòe”, nhạt nhòa như khói phủ.
- Tính chất “bán vô” “bán hữu” là tính chất của cảnh vật (đã bị tỉnh lược)
chứ không phải là tính chất của bóng chiều. Miêu tả cảnh chiều hôm khó thể
nói trực tiếp, thêm nữa lại là nhà thơ Thiền, dùng cảnh để nói Thiền thì tốt nhất
là “dùng hư nói thực” và “dùng thực nói hư”
- Nhà thơ Thiền Trần Nhân Tông đã “vong ngã” hòa nhập vào trạng
thái“đạm” (mờ nhạt) giữa vô hữu của sương khói, và tan luôn vào cái “bán
vô” “bán hữu”_nửa như có, nửa như không bên ánh dương. Như vậy cảnh
vật ở đây dường như là “vô” có cái “hữu” trong cái “hữu”, lại có cái “vô”. b. 2
câu cuối.
- “Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết”, theo cấu trúc câu thơ nguyên
tác, câu thơ trên nên dịch là “Trong tiếng sáo của trẻ chăn trâu, trâu đã về hết”.
Bởi lẽ Đạo Thiền coi trọng “tư tính thanh tịnh”, hồn thuần tự nhiên. Cho nên
trong tiếng sáo tự nhiên hồn thuần của mục đồng thì đàn trâu cũng theo thói
quen chiều tà tự nhiên thanh thản về chuồng. Còn dịch là mục đồng dẫn (hoặc
dắt) trâu về là việc làm bị điều khiển thì còn gì là tự nhiên, thanh thản nữa.
lOMoARcPSD| 61432759
- Song cảnh vật thiên nhiên được tả trong thơ Thiền không phải
mụcđích mà chỉ cái cớ để c nhà thơ Thiền gitriết lý. Thiên nhiên trong
thơ Thiền chỉ là cài mã với những biểu tượng để Thiền gia chuyển tải tư tưởng
Thiền.
- Nếu như tiếp cận hai câu thơ trên dưới góc độ cảm hứng Thiền thì
nhiều ývị cùng các lớp nghĩa khác. đây có các biểu tượng “Tiếng sáo mục
đồng” “trâu” sau “cánh cò” mang nhiều nét nghĩa mang đậm triết Thiền.
+ Tiếng sáo hiện thân của cuộc sống mục đồng, âm điệu của nó gợi lên sự
trở về với trạng thái hồn nhiên, thanh thản. + Trâu là biểu tượng của chân tâm
hồn thuần.
+ Cánh cò bay từ cao xuống thấp thể hiện sự kết nối giữa trời và đất, giữa âm
dương. thể hiện sự nhẹ nhàng của các thần tiên siêu thoát trút bỏ sức
nặng của cõi trần. Cánh cò hay cánh chim đột nhiên xuất hiện hay bay đi tạo
ra sự bừng ngộ về những cái chưa biết, giúp trí tuệ nắm bắt những gì thấy và
nghe được, ngoài ra nó còn biểu trưng cho sức mạnh sự sống… + Chiều
đến là quy luật tự nhiên, người và vật đều tìm nơi trú ngụ, các chú mục đồng
thổi sáo trên đường vxóm, đàn trâu no cỏ cũng trên đường về chuồng
từng đôi cò cũng nhẹ nhàng hạ cánh xuống cánh đồng
Bài thơ đã tạo dựng bức tranh nông thôn Việt Nam thấm đẫm tình đời, tình
người bằng nhãn quan của Thiền giả - thi nhân. Thơ Trần Nhân Tông vừa thể
hiện tâm thức đạt tới cảnh giới diệu ngộ của Thiền phái Trúc Lâm, vừa thể hiện
tâm hồn khát khao hòa nhập vào thiên nhiên, vào cuộc sống đời thường và gửi
gắm vào đó những triết bình dị sâu xa. Đó sự trở về với chốn nương
thân về với cuộc sống thường nhật “vô ngã vô thường”, với “tự tính thanh tịnh”
“chân tâm hồn thuần”. Đó tâm thức Thiền của Điều Ngự Trần Nhân Tông.
Ông đã đạt tới đỉnh cao của sự đốn ngộ, sống tùy duyên.
Thiền phái Trúc Lâm không hướng con người vào một cõi tồn tại khác sau
cái chết mà là khuyên bảo con người hãy chấp nhận hiện thực như nó đang tồn
tại
3.4. Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng nhân
đạo
Chủ nghĩa nhân đạo cũng là nội dung lớn, xuyên suốt văn học trung đại Việt
Nam. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại vừa bắt nguồn từ truyền thống
nhân đạo của con người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, vừa chịu ảnh
hưởng tưởng nhân văn ch cực vốn của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.
Truyền thống nhân đạo của người Việt Nam biểu hiện qua lối sống “thương người
như thể thương thân”, qua những nguyên tắc đạo lí, những thái độ ứng xử tốt đẹp
giữa người với người,... Tư tưởng nhân văn của Phật giáo là từ bi, bác ái; của Nho
giáo là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân; của Đạo giáo là sống thuận theo
tự nhiên, hoà hợp với thiên nhiên. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại
lOMoARcPSD| 61432759
cũng rất phong p, đa dạng, biểu hiện ở lòng thương người; lên án, tố cáo những
thế lực tàn bạo chà đạp lên con người; khẳng định, đề cao con người về các mặt
phẩm chất, tài năng, những khát vọng chân chính như khát vọng về quyền sống,
quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa; đề cao những
quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người với người.
thể thấy những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo nói trên qua các tác
phẩm văn học Phật giáo thời Lí (Có bệnh, bảo mọi người của Mãn Giác, Tỏ lòng
của Không Lộ...), sáng tác của Nguyễn Trãi (Đại cáo bình Ngô, Tùng, Cảnh ngày
hè,...), Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ghét chuột, Nhàn,...), Nguyễn Dữ (Chuyện người con
gái Nam Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên,...). Cảm hứng nhân đạo đặc
biệt nổi bật ở các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học thế kỉ XVIII – giữa thế kỉ XIX
như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương (Bánh trôi nước,
Mời trầu, chùm thơ Tự tình). Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu...
2.1. Tìm hiểu khái niệm
- Nhân đạo: lòng thương người, sự thấu hiểu, đồng cảm với những nỗi đau khổ của
con người; hướng tới con người bình thường, nghèo khổ; nạn nhân của tầng lớp
thống trị suy đồi hoặc tệ nạn xã hội.
- Nhân văn: đề cao vẻ đẹp, quyền sống của con người tất cả những bẩm tính/thiên
tính (đời sống trần thế, lạc thú vật chất, nhu cầu thể xác; khát vọng tự do, trí tuệ,
tài năng, tâm hồn, tình cảm, cá tính...).
2.2. Nội dung cơ bản của cảm hứng nhân đạo - nhân văn:
2.2.1. Quan tâm đến con người bé nhỏ, thiệt thòi, bất hạnh:
- Xót thương những thân phận nghèo khổ, khốn cùng: thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Miên Thẩm, Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)
- Đồng cảm, thương xót cho số phận bất hạnh của người phụ nữ: Truyền kỳ mạn
lục (Nguyễn Dữ), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ
Trinh).
2.2.2. Đề cao g trị, vẻ đẹp con người:
- Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của hình thể, thân thể : Truyện Nôm, Thơ Nôm Hồ
Xuân Hương,…
- Ca ngợi tài năng, trí tuệ, phẩm hạnh, tính,…: Truyện truyền kì, Truyện
Nôm,thơ chữ Hán Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Cao Bá Quát; Hát nói,… 2.2.3.
Đồng tình với những khát vọng táo bạo, chính đáng:
- Khát vọng tình yêu, hạnh phúc: Truyện truyền kì, Truyện Nôm,…
- Khát vọng công lý: Truyện Nôm
- Khát khao hạnh phúc trần thế (nhu cầu sắc dục lứa đôi, tình yêu nam nữ: truyện
truyền kì, truyện Nôm, ngâm khúc,…
2.2. Khuynh hướng cảm hứng nhân đạo - nhân văn trong tiến trình văn học trung
đại Việt Nam:
2.2.1. Giai đoạn 1 (X – XIV):

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61432759 NỘI DUNG ÔN TẬP
Đề thi làm trong 90 phút, gồm 2 câu (câu 1 – 3 điểm; câu 2 – 7 điểm).
Nội dung 1 (3 điểm): 1.
Trình bày ngắn gọn một số tiền đề (chính trị xã hội, văn hóa lịch sử, văn
học, đời tư tác giả) của cảm hứng (tôn giáo, nhân đạo, yêu nước…) trong một tác
giả cụ thể (Trần Nhân Tông, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu …).
1.1 Trần Nhân Tông: hoàng đế, triết gia, anh hùng dân tộc, một nhà tư
tưởng, tác gia văn học lỗi lạc -
Tên húy là Trần Khâm, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và là vị vua thứ 3 của triều Trần -
Trị vì từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó truyền ngôi cho thái tử Trần
Thuyên và lên làm thái thượng hoàng
-Trần Nhân Tông xuất gia tu hành vào năm 1294 nhưng vẫn tham gia điều hành
chính sự. Năm 1299 ông lên núi Yên Tử tu phật -
Trần nhân tông được đánh giá là vị vua anh minh, có nhiều đóng góp cho sự
phát triển của quốc gia Đại Việt cuối TK XIII, từ bảo vệ thành công nền độc lập
dân tộc, phát triển kinh tế và văn hóa cho đến mở rộng biên giới, lãnh thổ đất nước
1.1.1 Trình bày ngắn gọn một số tiền đề của cảm hứng yêu nước trong tác giả Trần Nhân Tông
* Tiền đề lịch sử:
hoàn cảnh lịch sử cụ thể
- Ông sinh ra trong thời đại găn liền với hào khí đông A- hào khí anh hùng,
hào khí của tinh thần tự lực tự cường, hào khí của chiến thắng. Vương triều nhà
Trần (1225-1400) trải qua nhiều thử thách gian nan và lập được nhiều chiến công,
thành tưu hiển hách trên các lĩnh vực từ kinh tế chính trị cho đến văn hóa, giáo
dục, văn học, nghệ thuật
* Tiền đề văn hóa văn học: yêu nước là truyền thống lâu đời của dân tộc.
* Tiền đề cá nhân tác giả: -
Truyền thống gia đình vị thế cá nhân: là con trưởng của vua Trần Thánh
Tông và là vị vua thứ 3 của triều Trần. -
Cùng với thượng hoàng Trần Thánh Tông lãnh đạo quân dân nhà Trần chiến
đấu và chiến thắng trong 2 lần đọ sức với quân Nguyên ghi mốc son rực rỡ cho
lịch sử nhà Trần cũng như lịch sử dân tộc
Cảm hứng yêu nước thể hiện qua Cảm hứng yêu nước thể hiện qua mảng thơ bang giao
mảng thơ trữ tình
(văn kiện, thư từ, thơ gửi vua quan, sứ thần nhà Nguyên) lOMoAR cPSD| 61432759 -
tố cáo tội ác của giặc Nguyên - thể hiện bản lĩnh, uy lực của vị hoàng
Môngkhi xâm lược chúng ta
đế nắm trong tay cả giang sơn xã tắc
-ý thức gìn giữ và bảo vệ chủ quyền vừa chứa đựng chiuef sâu những suy
lãnh thổ của đất nước
tư của một trí tuệ minh triết QK-HT- -
tự hào với truyền thống phong TL
tục quốc gia Đại Việt
-Niềm tin vào sức mạnh của dân tộc,
-khát vọng hòa bình, mong ước nỗ lực niềm tự hào về quá khứ hào hùng của
xây dựng mối quan hệ hữu hảo
đất nước, về chiến công của thời đại với phương Bắc
1.1.2 Trình bày ngắn gọn một số tiền đề của cảm hứng tôn giáo (cảm hứng
thiền) trong tác giảTrần Nhân Tông
* Tiền đề văn hóa lịch sử: vai trò vị thế của tôn giáo trong đời sống xã hội. Thời
đại đa tôn giáo hòa đồng: Phật-Đạo-Nho giáo đều được coi trọng. Do yêu nước,
nhiệm vụ thời đại đặc biệt của nhà nước phong kiến, nho học cũng phát triển, tầng
lớp nho sĩ ngày càng đông đảo
*Tiền đề chính trị xã hội: thời Trần phật giáo được coi là quốc giáo, đóng vai trò
củng cố triều đại, kiến tạo khối đại đoàn kết dân tộc.
*Tiền đề văn học: cảm hứng tôn giáo từng xuất hiện trong thơ văn trước đó=>khơi dậy cảm xúc
*Tiền đề cá nhân tác giả: trần nhân tông rất am hiểu đạo phật, xuất gia, lập trường phái
- Trần Nhân Tông là người sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm, được gọi là Phật
Hoàng là tổ thứ nhất. Thiền phái trúc lâm đề cao sự tự giác ngộ và nỗ lực rèn luyện
của mỗi cá nhân mang đậm tinh thần nhập thế
-Nét nổi bật của tư tưởng thiền trần nhân tông là tinh thần thiền nhập thế. Tiêu
biểu: quan niệm Phật tại tâm, hướng nội vào bản tâm để truy cầu sự giải thoát=>
tin vào nội lực tuân theo tự nhiên, không phân biệt sang hèn trong đục, an nhiên tự
lạc, tìm lạc thú giữa cõi trần, bất kể ở thành thị-sơn lâm, con đường thành phật
không chỉ là tu hành giải thoát mà còn cả tu nhân tích đức, tu dưỡng đạo đức
1.2 Nguyễn Du: Trình bày ngắn gọn một số tiền đề của cảm hứng nhân
đạo trong tác giả Nguyễn Du
* Tiền đề lịch chính trị xã hội:
-nửa cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ
dội. sự tranh chấp phân chia quyền lực, diện mạo xã hội hỗn loạn cuối thế kỷ
18 dưới triều vua lê chúa trịnh. Nguyễn Du đã sống và chứng kiến những
biến cố lịch sử trọng đại của thời đại
*Tiền đề cá nhân tác giả: Thiên tài Nguyễn Du là sự hun đúc nhiều yếu tố
- taì năng xuất chúng, trái tim yêu thương rộng lớn
- xuất thân và truyền thống gia đình
-những trải nghiệm nhân sinh rộng lớn và sâu sắc lOMoAR cPSD| 61432759
1.3 Nguyễn Đình Chiểu
2. Trình bày ngắn gọn (có ví dụ minh họa) về sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng
cảm hứng (VD: cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự, cảm hứng yêu nước và
cảm hứng thiên nhiên; cảm hứng tôn giáo và cảm hứng nhân đạo...) trong văn học trung đại Việt Nam.
2.1 Sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng cảm hứng: cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự
Văn học trung đại Vn ra đời, mở đầu cho thời kỳ văn học viết, kế thừa và phát
huy những giá trị nhân văn của kho tàng văn học dân gian mà cha ông để lại. Chủ
nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại xuất phát từ những giá trị vốn có từ tư
tưởng, lối sống của con người VN. Đó là truyền thống thương người như thể
thương thân, lá lành đùm lá rách đã đi vào tiềm thức của người con đất Việt. Nhân
đạo, đơn giản là lòng thương người, trân trọng giá trị cỉa con người. Với những
biểu hiện vô cùng phong phú, đa dạng, cảm hứng nhân đạo dần ăn sâu vào lối viết
của các nhà nho, tác giả trung đại, qua đó họ thể hiện sự cảm thông, trân trọng giá
trị, vẻ đẹp của con người, đề cao khát vọng chính nghĩa và lên án những thế lực tối
tăm đã chà đạp lên số phận con người
Khác với nhân đạo, cảm hứng thế sự trong văn học đề cập đến các vấn đề
trong xã hội có tính chất đời thường, thế tục và thể hiện quan niệm thái độ, cách
phân tích, đánh giá, phê bình, lý giải của tác giả về những vấn đề ấy. Nói đến thế
sự là nói đến những sự việc xảy ra xung quanh, có ảnh hưởng và tác động đến đời
sống của con người để từ đó ta phải nhìn nhận và suy ngẫm. Cuộc sống muôn màu
muôn vẻ ngoài kia luôn là nguồn cảm hứng bận tận cho văn chương. Cảm hứng
thế sự chính là yếu tố quan trọng giúp tác giả khẳng định giá trị thẩm mỹ của cái
đời thường, đi sâu khám phá những biến đổi phức tạp, éo le của cuộc sống muôn
màu muôn sắc nhằm tình kiếm hạnh phúc và khẳng định nhân cách, bản thân con người
Trong cuộc đời cầm bút của mình các tác giả không bao giờ đóng khung
bản thân trong một cảm hứng sáng tác nhất định. Bởi vốn dĩ các cảm hứng sáng
tác luôn có sự gặp gỡ, giao thoa nhau, bệ đỡ cho nhau và cùng nhau gây dựng lên
ý nghĩa cho tác phẩm. Một cách cụ thể ta có thể bắt gặp sự giao thoa giữa cảm
hứng thế sự và cảm hứng nhân đạo khi đặt điểm nhìn nơi cách tác giả văn học trung
đại. Họ lấy chât liệu từ đời sống dân gian, cuộc sống thường nhật của nhân dân hay
những chuyện chốn kinh thành xa xôi, nơi cung cấm của vua chúa, quan lại...từ đó
thể hiện quan điểm, thái độ của mình về sự việc ấy. Thế sự có thể bàn đến những
bất cập trong đời sống, những câu chuyện nơi góc khuất mà lịch sử khó có thể đào
sâu. Từ những câu chuyện rất đời ấy, dưới cái nhìn tinh tế và sự nhạy bén của mình
các tác giả văn học trung đại có thể bóc tách và lột trần lớp vỏ bọc bên ngoài để
thấy được những vấn đề thực sự đằng sau nó, đồng thời nói lên tiếng nói của bản
thân, cũng có khi là nói thay cho nhân vật. Ta bắt gặp thái độ lên án, châm biếm
sâu cay trước những chuyện đời chướng tai gai mắt, sự cảm thông xót xa trước số lOMoAR cPSD| 61432759
phận bất hạnh của con người, cái nhìn trân trọng ngưỡng mộ nhân cách cao đẹp,
một con người tài hoa, hay những chiêm nghiệm,phân tích, lý giải về vấn đề xoay
quanh cuộ sống. Đó chính là cách một tác giả thể hiện tấm lòng nhân đạo của bản
thân trước một thế sự họ trải qua hoặc chứng kiến, hay chỉ đơn giản là họ chiêm
nghiệm được thông qua các triết lý sống trong sách vở.
Đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” trong “Vũ trung tùy bút”
của tác giả Phạm Đình Hổ chính là minh chứng rõ nét cho sự giao thoa giữa cảm
hứng nhân đạo và thế sự. Thông qua việc phản ánh đời sống xa hoa, hưởng lạc của
vua chúa, sự nhiễu nhương, chuyên quyền, lộng hành của quan lại thời vua Lê-
chúa Trịnh, Phạm Đình Hổ đã thể hiện một góc nhìn vô cùng chân thực về thực
trạng đen tối, thối nát của xã hội phong kiến VN thời bấy giờ. Qua đó ông thầm
kín bày tỏ nỗi xót thương cảm thông trước cuộc sống lầm than của người dân và
sự bất lực của kẻ trí thức lúc vận nước đang suy yếu dần. Giữa cảm hứng nhân đạo
và thế sự luôn tồn tại một sợi dây vô hình móc nối nhau, đan xen nhau và gắn liền
với nhau. Từ những câu chuyện về thế sự tác giả thể hiện cái nhìn nhân đạo của
mình một cách công khai hoặc thầm kín. *Nguyễn Du
Nguyễn Du là cái tên vô cùng nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ trung
đại. Tên tuổi Nguyễn Du gắn liền với cá tác phẩm mang đậm cảm hứng nhân đạo,
bày tỏ nỗi xót xa, cảm thông, trân trọng những kiếp người tài hoa bạc mệnh, thể
hiện cái nhìn mới lạ của ông về cái đẹp, về sự hoàn mỹ của con người trong xã hội
phong kiến, đặc biệt là về người phụ nữ. Các sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả
chữ Nôm và chữ Hán có thể kể đến như Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều); Văn
tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn); Thanh Hiên thi tập,...
Có thể nói các tác phẩm của Nguyễn Du thiên về cảm hứng nhân đạo. Tuy
nhiên trong một tác phẩm văn học luôn chứa những yếu tố đan xen giữa các khuynh
hướng cảm hứng nhằm bộc lộ cá tính sáng tạo cũng như nội dung tư tưởng, tình
cảm mà tác giả muốn truyền đạt. Sự xuất hiện đan xen giữa nhân đạo và thế sự
luôn hiện hữu trong các tác phẩm của Nguyễn Du. Điều đó được thể hiện rõ nét
trong tác phẩm chữ Hán “Điệp tử thư trung” (Con bướm chết trong sách) trích
trong Thanh Hiên thi tập của đại thi hào Nguyễn Du. Bài thơ được đánh giá là một
tác phẩm vừa lạ lùng vừa tuyệt diệu mang theo những tâm tư chiêm nghiệm của
tác giả về cuộc đời, con người về cõi nhân sinh. Nguyễn Du hướng điểm nhìn tới
một đối tượng: con bướm, từ hình ảnh mang đầy tính trừu tượng ấy tác giả thể hiện
cảm xúc, tâm sự thầm kín trong lòng và bày tỏ thái độ, những chiêm nghiệm về
cuộc đời, kiếp người, cõi nhân sinh. Bài thơ kể về câu chuyện con bướm chết trong
sách, thi nhân tình cờ nhìn thấy, từ đó ngẫm về mình, mượn thơ để ký thác tâm tư,
gửi tiếng lòng vào muôn thuở.
Xuyên suốt “Điệp tử thư trung” là yếu tố thế sự và nhân đạo đan xen nhau.
Từ những câu chuyện thế sự mà tác giả thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình. Ở lOMoAR cPSD| 61432759
hai câu đề, nhìn con bướm chết khô nằm trên trang sách cũ trong thư phòng,
Nguyễn Du chợt ngộ ra triết lý sống, ngẫm về đời, nghĩ về mình:
“Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương (Thư phòng nay nhiễm hương thơm của sách)
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng (Từ bỏ vị phong lưu không thể cho là dại)
Hai câu đề nhuốm màu thế sự, thể hiện suy tư, triết lý về nhân tình thế thái
của Nguyễn Du trong mối quan hệ giữa vật chất , danh vọng và những giá trị đích
thực nơi cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh thư phòng “nhiễm thư hương”-
nhiễm hương thơm của sách vở. Từ bỏ đi thói phong lưu, rong chơi để được cuộc
sống và tận hưởng “hương thơm sách vở” nơi không gian ấy thì quả là điều sáng
suốt chứ lý nào là dại. Câu thơ mượn hình ảnh con bướm cốt để răn dạy con người:
so với tiền tài, địa vị xã hội thì những kiến thức trong sách vở, giáo lý thành hiền
mới là thứ qúy giá hơn. Đây là xu hướng đối lập giữa “nghĩa” (lý tưởng nhân nghĩa)
với “lợi” (lợi ích vật chất, tiền tài, danh vọng) trong quan niệm về giá trị của các nhà nho
Từ quan niệm triết lý nhuốm màu thế sự, hai câu thực kế thừa, phát triển
và truyền tải cái nhìn nhân đạo đầy xót xa:
“Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch” (Mệnh bach có duyên lưu lại với sách vở)
“Tàn hồn vô lệ khốc văn chương” (Hồn tàn không nước mắt khóc văn chương)
Nguyễn Du bày tỏ lòng xót thương xen lẫn ngưỡng mộ: nơi con bướm chết
là trên một trang sách. “Con bướm thực may mắn khi được lưu cùng trang sách-
cũng có nghĩa là lưu cùng những giá trị bất hủ nằm trong sách”. Câu thơ thứ hai
trong phần thực mang hình ảnh trừu tượng và độc đáo: hồn tàn; không nước mắt
khi khóc văn chương. Có lẽ khi chết đi hồn rời khỏi nơi thể xác chỉ còn lại cái xác
khô đang khóc cho văn chương một cách bất lực; mà cái hồn thứ linh khí kia mới
chính là thứ cần có để giao lưu hòa nhập với những tinh hoa của văn chương.
Nguyễn Du mượn hình ảnh con bướm để nói về mình, cũng là nói về người trong
thiên hạ. Cái khốc này chính là của Nguyễn Du dành cho văn chương, đúng hơn là
cho những khát vọng ông chưa thực hiện được cho văn chương đến giây phút ấy.
Thương thay một kiếp phong lưu, suốt đời phiêu bạt, lênh đênh tới khi hiểu rằng
mọi thứ phồn hoa phù phiếm trên đời chẳng thể đổi lấy một lần thanh thản, an yên nơi đạo thì đã muộn *Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến là cái tên vô cùng nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ
trung đại. Nguyễn Khuyến nổi danh khắp vùng được mệnh danh là nhà thơ của
làng cảnh VN với các tác phẩm mang đậm cảm hứng thế sự, xuất phát từ những
câu chuyện rất đời, rất thực, thể hiện một tâm hồn rộng mở, khoáng đạt, giàu cảm
xúc, suy tư trước cuộc sống nông thôn, trước quang cảnh thiên nhiên núi rừng và
con người nơi thôn quê dân dã. Thơ Nguyễn Khuyến vô cùng đa dạng, viết bằng lOMoAR cPSD| 61432759
cả chữ Nôm và chữ Hán ví dụ như chùm thơ thu nổi tiếng: “Thu vịnh, thu điếu, thu
ẩm”, các tập thơ “Quế sơn thi tập”, “Yên Đổ thi tập”,...
Có thể nói các tác phẩm của Nguyễn Khuyến luôn ẩn chứa câu chuyện,
mang đặc trưng của cảm hứng thế sự. Tuy nhiên trong một tác phẩm văn học luôn
chứa những yếu tố đan xen giữa các khuynh hướng cảm hứng nhằm bộc lộ cá tính
sáng tạo cũng như nội dung tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn truyền đạt. Sự xuất
hiện đan xen giữa nhân đạo và thế sự luôn hiện hữu trong các tác phẩm của Nguyễn
Khuyến. Điều đó được thể hiện rõ nét trong tác phẩm chữ Hán “Xuân dạ liên nga”
(Nguyến Khuyến). Nguyễn Khuyến hướng điểm nhìn tới một đối tượng: con thiêu
thân, từ hình ảnh mang đầy tính trừu tượng ấy tác giả thể hiện cảm xúc, tâm sự
thầm kín trong lòng và bày tỏ thái độ, những chiêm nghiệm về cuộc đời, kiếp người, cõi nhân sinh.
Lấy hình ảnh con thiêu thân như một hình ảnh thực tế thay thế cho điển
tích, điển cố Trung Quốc, giúp cho bài thơ dễ hiểu và gần gũi hơn rất nhiều. Con
thiêu thân vốn có đặc tính bị thu hút bởi ánh sáng và thường lao đầu vào ánh sáng
ấy. Nguyễn Khuyến mượn hình ảnh con thiêu thân để ca ngợi về chí khí của bậc
quân tử, dám hy sinh thân mình, từ bỏ tất cả để bảo toàn khí tiết, giữ tâm trong
sạch. Nguyễn Khuyến sinh sống trong thời loạn , nước nhà trong cảnh lầm than
nên không thiếu những câu chuyện nhà Nho, tướng sĩ lãnh đạo cầm quân, đánh
đuổi giặc. Dẫu kết cục có phải đầu rơi máu chảy, họ vẫn cam lòng. Đến cách chết
của người trí sĩ cũng là điều đáng nói đến:
“Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị” (Nếu là thảng thốt mà xông vào chỗ chết thì còn dễ)
“Đáo đắc thuân tuần biện diệc nan” (Nhưng dùng dằng mà quyết chết được, thực khó)
Nếu thảng thốt lao đầu vào chỗ chết, không có chút dằn vặt hay day dứt
nào thì chưa phải cái chết được người đời ca tụng, cũng không phải khí tiết một
nhà nho nên có. Bởi thế Nguyễn Khuyến mới cho đó là cái chết dễ dàng, sẵn sàng
bỏ lại tất cả để giải thoát bản thân khỏi guồng xích, gông kìm. Còn khi vẫn dùng
dằng giữa sống và chết, giữa hy sinh và bảo toàn mạng sống, nhưng suy tính thiệt
hơn, việc bản thân chết sẽ giúp được cho nhiều người sống, thì đó là cái chết đáng
lưu danh thiên cổ. Thái độ dùng dằng trước đó cho thấy sự không nỡ xa rời nhân
thế, bản thân còn nhiều tâm nguyện ấp ủ, mong muốn cống hiến nhiều hơn, hay
đơn giản là chỉ mong được nhìn thấy người thân yêu lần cuối. Nhưng đến cuối cùn
họ vẫn quyết chết, hy vọng sự hy sinh của bản thân cứu được nheiuef người phía
sau. Bởi thế cái chết thực là khó. Câu thơ nhuốm màu tang thương chết chóc: phải
chăng chính tác giả đang day dứt, dằn vặt, xót xa, đau đớn cho cái chết ấy của
người tử sĩ. Thông qua hình ảnh đau xót ấy, nhà thơ muốn phản ánh hiện thực xã
hội lúc bấy giờ , từ đó thể hiện thái độ lên án chế độ phong kiến, căm giận giặc
Pháp, xót thương cho những người trí sĩ yêu nước hy sinh nơi chiến trường và lOMoAR cPSD| 61432759
người dân sống trong leo lắt, đói khổ. Đó chính là sự giao thoa giữa thế sự và nhân
đạo nơi hồn thơ Nguyễn Khuyến.
2.2 Sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng cảm hứng: cảm hứng yêu nước và cảm hứng thiên nhiên
- Ca ngợi, thể hiện niềm yêu mến tự hào với cảnh trí non sông đất nước
- miêu tả vẻ đẹp của thắng cảnh thiên nhiên, các địa danh gắn liền với lịchsử dân
tộc (Bạch đằng giang phú)
-ca ngợi thiên nhiên để ca tụng, tán dương triều đại, biểu đạt tình cảm với quê hương xứ sở
Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Phú sông Bạch Đằng là một trong những tác phẩm
nổi bật của Trương Hán Siêu, qua đó, tác giả thể hiện tình yêu nước, cảm hứng yêu
nước qua tình yêu với thiên nhiên, lịch sử và những giá trị tinh thần không bao giờ
mai một trên con sông huyền thoại.
- Khái quát về thể loại phú: Phú là một thể loại văn học cổ của Việt Nam, chủyếu
là văn tả cảnh, từ ngoại cảnh liên kết với nội tâm để tả tình.
- Tình yêu quê hương bộc lộ qua cách miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên trên sông
BạchĐằng được tác giả khái quát qua vài câu thơ chấm phá, thể hiện nét đẹp vừa
mềm mại, tha thướt, vừa mạnh mẽ, cuộn trào.
- Cảm hứng yêu nước bộc lộ qua sự kính nể, hoài tưởng những chiến công vangdội
của bậc cha ông, những kí ức vẻ vang, hào hùng của dân tộc và thất bại thảm hại của quân thù.
- Nỗi tiếc thương cho những vị anh hùng đã nằm xuống vì tổ quốc, vì độc lậpdân
tộc, đồng thời cảm thấy hổ thẹn, bẽ bàng vì hậu thế chưa thể làm được gì đáng tự hào cho tổ quốc.
2.3 Sự giao thoa giữa 2 khuynh hướng cảm hứng: cảm hứng tôn giáo và cảm hứng nhân đạo
- Tư tưởng bác ái, từ bi, hỉ xả
- sự nâng đỡ, quan tâm, dành cho con người bé nhỏ, bất hạnh
- niềm tin vào khả năng, giá trị của con người
3. Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu một khuynh hướng cảm hứng trong văn
học trung đại Việt Nam (yêu nước, nhân đạo, thế sự...); vận dụng để nhận diện
những biểu hiện của cảm hứng đó trong một tác phẩm cụ thể/ hoặc minh họa bằng ví dụ cụ thể.
3.1 Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng yêu nước
Lòng yêu nước tồn tại một cách tự nhiên, sâu sắc trong tiềm thức của người Việt.
Tuỳ theo từng hoàn cảnh xã hội khác nhau mà tình cảm ấy được thể hiện bằng lOMoAR cPSD| 61432759
những hành động, việc làm khác nhau chứ không bao giờ mất đi. Trong hoà bình,
lòng yêu nước ấy được ẩn sau những việc làm dựng xây đất nước thêm giàu, thêm
mạnh. Trong thời chiến, tình cảm ấy được bộc lộ một cách sôi nổi, mãnh liệt, sự
lăn xả, sẵn sàng hi sinh thân mình vì đất nước.
Đi suốt chiều dọc lịch sử đất nước, ta thấy điều đó hầu như không thay đổi dẫu
biết bao nhiêu biến cố, bao cuộc xoay vần thời thế xảy ra trong đời sống dân tộc.
Văn học, với vai trò tự thân là phản ánh đời sống, phản ánh xã hội đã ghi lại một
cách trung thành, đầy đủ và đa dạng những biểu hiện tình cảm ấy của người dân.
Có thể nói một trong những cảm hứng chủ đạo của văn học Việt Nam trong nhiều
giai đoạn chính là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Cảm hứng ấy càng rõ nét hơn
trong các cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước. Văn học trung đại- một trong hai
loại hình văn học của văn học Việt Nam, càng thể hiện rõ điều đó.
Các tác phẩm như Vận nước (Quốc lộ) của Pháp Thuận, Chiếu dời đô (Thiên đô
chiếu) của Lí Công Uẩn, bài thơ Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà) đã mở
đầu cho dòng văn học yêu nước. Những tác phârm như Hịch tướng sĩ (Dụ chư tì
tướng hịch văn) của Trần Quốc Tuấn,
Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) của
Trần Quang Khải, Tỏ lòng (Thuận hoài) của Phạm Ngũ Lão, Phú sông Bạch Đằng
(Bạch Đằng giang phú) của Trương Hán Siêu...
tiêu biểu cho nội dung yêu nước mang hào khí Đông A
1.1. Khái niệm -
“Khuynh hướng” (trend, tendency, movement): những sáng tác có cùng
mục tiêu, đối tượng, hoặc phương thức nghệ thuật... -
“Cảm hứng” (inspiration): trạng thái tình cảm/cảm xúc mãnh liệt gắn với
tư tưởng xác định, sự đánh giá nhất định tác động đến cảm xúc của người tiếp
nhận; thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm. -
“Yêu nước” (ái quốc – patriotic, chủ nghĩa yêu nước/lòng yêu
nướcpatriotism): là tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần sẵn sàng đem hết
khả năng của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Yêu nước là gắn liền lí tưởng
“trung quân ái quốc” (trung với vua là yêu nước, yêu nước là trung với vua); thể
hiện ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc; nghĩa rộng: yêu gia đình, quê
hương, giang sơn đất nước, dân tộc, đồng bào…
1.2. Biểu hiện
- Đặc điểm của khuynh hướng cảm hứng yêu nước

+ đây là cảm hứng xuyên suốt trong văn học trung đại Việt Nam do đặc thù của
lịch sử đất nước thường xuyên phải chống lại những kẻ thù xâm lược + đây là
cảm hứng chủ đạo trong những giai đoạn nhất định, ở những chặng đường khi
nền độc lập của đất nước bị đe dọa lOMoAR cPSD| 61432759
+ cảm hứng yêu nước thời kỳ chống ngoại xâm sẽ có biểu hiện khác biệt rõ nét
so với thời kỳ xây dựng triều đại phong kiến Nội dung cảm hứng yêu nước/ái quốc:
* Phản ánh quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước: (niềm tự hào, những bài
học lịch sử...) Nam quốc sơn hà, bình ngô đại cáo, lời phủ dụ của vua Quang
Trung trước khi tiến quân

+ khẳng định độc lập chủ quyền đất nước
- Yêu nước thể hiện trước hết ở lòng tự hào dân tộc.
Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt là tiếng nói tự hào dân tộc của một
con người giàu lòng yêu nước và tinh thần tự chủ. Là tiếng nói đầu tiên như âm
vang từ khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm chủ. Nước
là của vua, vua là tượng trưng cho chủ quyền của nước: “Sông núi nước Nam vua
Nam ở”.
Ở đây, ý thức tinh thần độc lập, tự chủ khá rõ nét. Bài thơ xứng đáng là
một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Nếu không có lòng tự hào dân
tộc thì khó có thể viết ra được những câu thơ đầy xúc cảm như thế.
* Kiến tạo truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục của đất nước (tự tôn,
khẳng định...); Tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc về những
chiến công vang dội của thời đại, về thành tựu của quốc gia dân tộc, về sức
mạnh của con người

- khát vọng hòa bình cho đất nước, khát vọng xây dựng quốc gia phồn thịnh,
vững bền: quốc tộ, thiên đô chiếu, bạch đằng giang phú, thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu,...

Yêu nước là tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc. Trong thơ
Trung đại Việt Nam dường như vẫn còn văng vẳng tiếng mài giáo dưới ánh trăng
của Đặng Dung. Yêu nước còn là ca ngợi những người hi sinh vì đất nước. Không
thể cầm gươm tham gia nghĩa quân như các sĩ phu yêu nước khác, Nguyễn Đình
Chiểu
đã đánh giặc bằng ngòi bút:
“…Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà…”
Nỗi lo lắng và niềm đau xót cho ách nước, nạn dân ngày càng trở nên sâu sắc hơn.
Mỗi bữa thấy, mỗi ngày trông kẻ thù trước mắt lấn thêm một bước, Đồ Chiểu đau
đớn như bị cắt đi một phần máu thịt. Cảm hứng bao trùm bài Chạy Tây là sự xửng
sốt, nỗi bàng hoàng, lo lắng cho vận nước nạn dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một
bàn cờ thế phút sa tay….”
* Ca ngợi thiên nhiên và con người đất nước (địa danh lịch sử, danh lam thắng
cảnh, phẩm chất tốt đẹp...); lOMoAR cPSD| 61432759
Yêu nước là thể hiện tình yêu thiết tha đối với cảnh trí thiên nhiên đất nước. Trong
thơ, thiên nhiên đất nước Việt Nam hiện lên thật đẹp đẽ, tráng lệ giàu đường nét,
màu sắc. Với thơ thời Trần, qua cảnh trí thiên nhiên các thi sĩ đã gửi vào đó tình
yêu quê hương đất nước của mình. Nguyễn Trung Ngạn khi đi sứ cũng đã viết nên
những vần thơ xúc động về tình yêu quê hương đất nước với những phong vị riêng
của một vùng đồng bằng Bắc Bộ:
“Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về ” (Quy Hứng)
Còn Nguyễn Trãi, cảnh đẹp thiên nhiên, khí trời lúc sang xuân thật huyền hồ đầy
âm thanh, màu sắc. Xuân về mang theo sự tươi tốt với những làn mưa. Cỏ ở bến
xanh như màu khói bao la bát ngát:
“…Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời…”
(Bến đò xuân đầu trại)
Như vậy cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam đã thể hiện ở nhiều
khía cạnh phong phú và sâu sắc. Đất nước, dân tộc là nỗi niềm khắc khoải không
nguôi trong tâm hồn con người Việt Nam nói chung và các thi nhân nói riêng.
Vậy nên, ở mỗi nhà thơ có cách khai thác, cảm nhận khác nhau song lại là vẫn sự
thống nhất và làm nên một cảm hứng yêu nước lớn. Chính cảm hứng ấy đã làm
nên cái độc đáo riêng và giá trị của thơ ca Việt Nam thời Trung đại.
* Căm giận, tố cáo, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm... căm thù giặc, quyết
tâm chống lại giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước: văn tế nghĩa sĩ cần giuộc, nam quốc sơn hà, cảm hoài,...
- Yêu nước thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược. Chúng
ta có thể nhận thấy rõ điều này qua thơ các thi sĩ thời Trần. Một trong những
thành tựu quan trọng của thơ thời Trần là đã thể hiện được chủ nghĩa yêu nước,
ý chí quật cường chống quân xâm lược của dân tộc ta. Chính cảm hứng này đã
tạo ra “Hào khí Đông A” trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc. Hào khí ấy
vang lên hùng tráng mà tha thiết qua khúc ca khải hoàn “Tụng giá hoàng kinh
” của Trần Quang Khải:
“Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.”
Bài thơ làm sống dậy một không gian trận mạc chiến trường, đao kiếm với ngựa
thét quân reo ngất trời tráng khí. Một trong hai trận ấy do đích thân Trần Quang
Khải chỉ huy. Chương Dương, Hàm Tử nằm trong hệ thống chiến thắng mở màn lOMoAR cPSD| 61432759
có ý nghĩa chiến lược cho cuộc phản công thắng lợi, mạnh và nhanh, cường độ lớn
và tốc độ phi thường đã tạo cho lời thơ khí thế hùng tráng, thiêng liêng.
Khi đất nước đã sạch lòng giặc, lòng yêu nước thể hiện trong ý chí gìn yên bờ cõi,
khát vọng lập công trạng lớn, sống xứng đáng với thời đại. Khát vọng ấy được
Phạm Ngũ Lão, một vị dũng tướng đời Trần thể hiện rõ ràng trong bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng):
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu, Tam
quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát
vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững
vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí
của thời đại nhà Trần. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát
vọng lí tưởng, về chí làm trai và nhân cách lỗi lạc của con người phải được giữ gìn.
- Đặc thù “cảm hứng yêu nước” ở Việt Nam thời trung đại: Diễn biến quan
niệm về “nước/quốc”:
* nước = triều đại/đế + lãnh thổ -
Yêu nước trong thời trung đại gắn liền với lí tưởng trung quân. Ái quốc là
trung quân, trung quân là ái quốc. Hai tình cảm đó không thể tách rời nhau mà hoà
quyện vào nhau, làm nên lí tưởng của một công dân tốt thời kì phong kiến. Chính
vì thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã kêu gọi quân sĩ chiến đấu, học tập
không chỉ vì bản thân cơm no áo ấm, vinh hiển của mình mà còn cao hơn nữa là
thể hiện sự tận trung với chủ tướng, với triều đình, với vua. Điều này được thể hiện
trên nhiều dạng thức và cung bậc cảm xúc : vừa đau xót, phẫn uất, căm tức vì gót
giày xâm lược của quân giặc chà đạp lên Tổ quốc mà chưa làm được gì “…Ta
thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ
căm tức chưa lột da nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu trăm thân này phơi ngoài
nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng nguyện vui lòng…”;
lại vừa trách
móc quân sĩ vô tâm không chú ý đến việc quân cơ đại sự : “…Nay các ngươi nhìn
chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều
đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc Thái thường để đãi yến
nguỵ sứ mà không biết căm…”
. Tất cả dạng thức và cung bậc tình cảm ấy thực ra
đều bắt nguồn từ một cảm hứng chủ đạo và cũng là duy nhất : cảm hứng yêu nước. -
Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt là tiếng nói tự hào dân tộc
của một con người giàu lòng yêu nước và tinh thần tự chủ. Là tiếng nói đầu tiên lOMoAR cPSD| 61432759
như âm vang từ khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm
chủ. Nước là của vua, vua là tượng trưng cho chủ quyền của nước: “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.
* nước = quốc hiệu + văn hiến + lãnh thổ + phong tục + triều đại/đế + hào kiệt/nhân
tài (BNĐC – tầm tư tưởng vượt thời đại của Ức Trai);
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, với sự ra đời muộn hơn và là sự đúc kết nhận
thức của một đầu óc thiên tài cộng với sự thừa kế tinh hoa của cha anh đi trước, đã
có cái nhìn toàn diện hơn về quyền tự chủ, độc lập của dân tộc so với Nam quốc
sơn hà của Lí Thường Kiệt.
Trong tác phẩm, bằng sự nhận thức sâu sắc về chủ quyền đất nước và độc lập tự
do dân tộc, Nguyễn Trãi đã khẳng định quyền tự do, độc lập của nước ta trên nhiều phương diện:
“…Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
Những cụm từ như : văn hiến, phong tục, hào kiệt không xuất hiện trong tư tưởng,
ý thức về chủ quyền dân tộc trong Nam quốc sơn hà và các tác giả trước đó. Nguyễn
Trãi cũng khẳng định, không chỉ núi sông bờ cõi đã chia, mà còn khẳng định mỗi
quốc gia đều có lịch sử dựng nước và giữ nước. Sự tồn vong của Đại Việt không
phải ngẫu nhiên và dễ dàng xoá bỏ hoặc thay đổi theo ý kẻ khác, bởi đất nước ấy,
dân tộc ấy đã tồn tại từ lâu đời và được xây đắp, gìn giữ bằng nước mắt, mồ hôi và
máu xương của bao triều đại phong kiến và nhân dân Đại Việt.
→ “Yêu nước” gắn với “trung quân”/tôn quân – gắn với một triều đại/ông vua
cụ thể; gắn với thân dân/thương dân; tư tưởng Đức trị, Nhân nghĩa...
1.3. Tiến trình
1.3.1. Giai đoạn thế kỉ X-XIV
: cảm hứng yêu nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện,
phản ánh quá trình kiến thiết và bảo vệ đất nước giai đoạn đầu tiên của thời tự chủ:
+/ khẳng định độc lập, chủ quyền, chống giặc ngoại xâm: nhóm thơ văn Lí – Trần
+/ tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa: VĐULT, LNCQL: thần linh dựng nước
(Tản Viên, Rùa vàng, thần Long Đỗ/Tô Lịch...); thần linh đánh giặc giữ nước (Lý lOMoAR cPSD| 61432759
Nam Đế, Bố Cái đại vương, Mai Hắc Đế, Nhị Trưng phu nhân, Bà Triệu Ẩu/Lệ
Hải Bà Vương...); các phong tục văn hóa người Việt (Truyện Trầu cau, Truyện
bánh chưng bánh dày, Truyện dưa hấu...)
1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV-XVII: cảm hứng yêu nước chống giặc ngoại xâm (đầu
XV), khẳng định truyền thống, ca tụng triều đại quân chủ Nho giáo (giữa - cuối XV):
+/ hồi tưởng sự nghiệp chống Minh oanh liệt
+/ khẳng định triều đại quân chủ thái bình
1.3.3. Giai đoạn thế kỉ XVIII-giữa XIX: cảm hứng yêu nước thiên về chống
giặc ngoại xâm, khẳng định truyền thống: + văn học chống ngoại xâm thời Tây Sơn
+ thơ đi sứ thời Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn sơ
1.3.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX: cảm hứng yêu nước thiên về chống giặc
ngoại xâm, khát vọng canh tân đất nước
+/ bài bi tráng ca của người anh hùng nghĩa sĩ thất bại
+/ khát vọng canh tân đất nước
3.2 Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng thế sự
Cảm hứng thế sự Cảm hứng thế sự biểu hiện khá rõ nét từ văn học cuối thờ
Trần (thế kỉ XIV). Khi triều đại nhà Trần có những biểu hiện suy thoái là lúc văn
học hướng tới phản ánh hiện thực xã hội, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân
dân, Cảm hứng thế sự trở thành một nội dung lớn trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua những bài thơ viết về nhân tình thế thái.
Văn học viết về thế sự có bước phát triển trong hai thế kỉ XVIII và XIX; nhiều
tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, hiện thực xã hội đương thời để ghi lại
“những điều trông thấy”. Lê Hữu Trác viết Thượng kinh kí sự, Phạm Đình Hổ viết
Vũ trung tuỳ bút. Có thể nói xã hội thành thị trong thơ Tú Xương. Cảm hứng thế
sự trong văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực trong thời kì sau.
3.1. Một số vấn đề chung
a. Khái niệm -
Thế sự (世事) là việc đời, chuyện đời, những vấn đề thuộc về đời sống con người và xã hội. -
Cảm hứng thế sự chỉ những tác phẩm đề cập đến các vấn đề nhân sinh, xã
hội có tính chất đời thường, thế tục và thể hiện quan niệm, thái độ, cách phân tích,
đánh giá, phê bình, lí giải của tác giả. lOMoAR cPSD| 61432759
b. Cảm hứng thế sự trong tương quan với các khuynh hướng cảm hứng khác +
Cảm hứng thế sự: khai thác những vấn đề thuộc về cuộc sống đời thường, thế tục;
xu hướng nghiêng về luận bàn, đánh giá.
+ Cảm hứng yêu nước: đề cập đến những vấn đề chính sự, quốc gia đại sự; sắc thái
chủ đạo: tự hào, ngợi ca, khẳng định.
+ Cảm hứng nhân đạo: quan tâm đến nỗi khổ đau và niềm hạnh phúc, vẻ đẹp, giá
trị của con người; tình cảm chủ đạo: cảm thông, thương xót, trân trọng, đề cao.
+ Cảm hứng đạo lí: ca ngợi đạo đức, giáo huấn đạo lí.
+ Cảm hứng tôn giáo: giải thích, ca tụng, truyền bá các triết lí, lí tưởng tôn giáo
(Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo,…).
+ Cảm hứng thiên nhiên: lấy thiên nhiên làm đối tượng thẩm mĩ, viết về thiên nhiên
với niềm hứng thú, say mê.
c. Vị trí của cảm hứng thế sự trong nền văn học trung đại Việt Nam
- Là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo, có mặt ở tất cả các giai đoạn của
văn học trung đại Việt Nam. Vai trò của cảm hứng thế sự đặc biệt được khẳng
định trong văn chương của các nhà nho.
- Cơ sở xuất hiện khuynh hướng cảm hứng thế sự trong văn học trung đại: + Mối
quan tâm đến các vấn đề nhân sinh xã hội, nỗi lo đời, thương đời của nhà nho
- chủ thể sáng tác trung tâm của văn học trung đại.
+ Sự coi trọng chức năng giáo huấn, gắn văn chương với nhiệm vụ chính trị thời trung đại.
+ Xu hướng đối lập "nghĩa" (lí tưởng nhân nghĩa) với "lợi" (lợi ích vật chất, tiền
tài, danh vọng) trong quan niệm về giá trị của các nhà nho. 3.2. Đặc điểm
a. Nội dung
- Suy tư, triết lí về nhân tình thế thái (tình người, thói đời): sự phức tạp của các
mối quan hệ nhân sinh; sự tha hóa đạo đức của con người; đồng tiền chi phối
quan hệ giữa con người với con người; các giá trị bị đảo lộn;…
- Phản ánh bức tranh đời sống xã hội, chính trị đương thời: giai cấp thống trị suy
đồi; chiến tranh loạn lạc; cuộc sống của người dân đói khổ, bế tắc,… Truyền kì
mạn lục
(Nguyễn Dữ), thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô
gia văn phái), thơ chữ Hán Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,
Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương,...
- Phản ánh cuộc sống sinh hoạt thường nhật của con người: những phong tục tập
quán, những sinh hoạt đời thường: thi cử, lễ hội, hôn nhân,...; những mối quan
hệ gia đình, xã hội: quan hệ quân thần, phụ tử, bằng hữu, huynh đệ, phu thê, quan
hệ giữa giai cấp thống trị và người bị trị, giữa kẻ giàu và người nghèo;...Ví dụ:
các truyện Nôm, các truyện/kí trong Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ) b) Hình thức:
- Thể loại: Cảm hứng thế sự có mặt ở nhiều thể loại văn học trung đại, hầu hết là
thể loại văn học nghệ thuật: Thơ chữ Hán, thơ Nôm Đường luật, truyện Nôm,
ngâm khúc, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi;... lOMoAR cPSD| 61432759
- Ngôn ngữ: khuynh hướng sử dụng ngôn ngữ đời thường.
- Hình tượng: bên cạnh những hình tượng mang tính tượng trưng, ước lệ, xuất hiện
nhiều hình tượng có nguồn gốc từ đời sống.
3.3. Khuynh hướng cảm hứng thế sự trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam a.
Giai đoạn thế kỉ X – XIV: giai đoạn manh nha. Cảm hứng thế sự không phải
nguồn cảm hứng chủ đạo. Nó có mặt trong những truyện kể phản ánh cuộc sống
con người trong các mối quan hệ gia đình, xã hội ở Lĩnh Nam chích quái lục, Nam
Ông mộng lục
; trong những sáng tác phơi bày sự suy đồi của giai cấp cầm quyền,
cuộc sống đói rách, khốn khó của người dân của các tác giả thời cuối Trần như
Nguyễn Sưởng, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh,… b.
Giai đoạn thế kỉ XV – XVII: giai đoạn phát triển. Những bất cập của thực
tại xã hội khiến các nhà văn mang tâm thế hoài nghi, bất mãn, phủ nhận. Tiếng nói
phê phán thực tại xuất hiện nhiều trong thơ Nôm Đường luật và truyện truyền kì.
Lập trường chủ đạo của các tác giả vẫn là lập trường đạo đức, bảo vệ những giá trị
đạo đức Nho giáo. Các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ,... c.
Giai đoạn thế kỉ XVIII-XIX: giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Chế độ phong
kiến bộc lộ những khủng hoảng, rạn nứt, tầng lớp lãnh đạo tha hóa, sự đối lập giữa
thống trị và bị trị ngày càng gay gắt, cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái
thống trị dẫn cảnh loạn li, bất ổn triền miên. Nhu cầu nhận thức lại thực tại, phơi
bày những mặt tối của hiện thực được thể hiện rõ nét trong cả tác phẩm có quy mô
trường thiên lẫn quy mô nhỏ, văn xuôi và văn vần, chữ Hán và chữ Nôm, thuộc
hầu hết các thể loại phi chức năng như Ngâm khúc, truyện Nôm, thơ chữ Hán, thơ
Nôm Đường luật, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi. Các tác giả tiêu biểu: Phạm
Nguyễn Du, Ngô Thế Lân, Bùi Huy Bích, Nguyễn Du, Lý Văn Phức, Cao Bá Quát,
Nguyễn Văn Siêu,... (thơ); Ngô gia văn phái, Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, Vũ Trinh,... (Văn xuôi). d.
Nửa cuối XIX: giai đoạn cảm hứng thế sự tiếp tục có những thành tựu mới.
Xã hội buổi giao thời với nhiều điều lố lăng, kệch cỡm là chất liệu sinh động cho
thơ trào phúng Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Thiện Kế, Kép Trà,... Các tác
giả đã xây dựng được hàng loạt những hình tượng trào phúng điển hình như ông
tiến sĩ giấy, kẻ hỏng thi, vua chèo, quan chèo, ông phỗng đá, con người thừa, con
người tha hóa,... phản ánh sự sụp đổ của những giá trị chính thống. Cùng với mảng
sáng tác về nông thôn, khai thác hiện thực cuộc sống của người nông dân, bức
tranh giàu màu sắc hiện thực trong thơ văn trào phúng đã đánh dấu bước chuyển
mới của văn học theo hướng nghiêng về thực tại đời sống.
3.4. Tìm hiểu cảm hứng thế sự trong Quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi
tập, Vũ trung tùy bút, thơ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương. lOMoAR cPSD| 61432759
3.3 Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng tôn giáo
1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của cảm hứng tôn giáo
a. Khái niệm: Khuynh hướng tôn giáo: những tác phẩm viết với mục đích luận
giải, truyền bá, ca tụng các triết lí, lí tưởng tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo, Thiên
Chúa giáo,…). b. Đặc điểm: Nội dung: -
Trực tiếp ca tụng, giải thích, luận giải, hoằng dương/phát triển các tư tưởng
tôn giáo. VD: các bài kệ, thơ thiền, các bài văn luận thuyết Phật giáo,… -
Thể hiện sự cảm mộ, sùng bái đối với các tôn giáo, các nhân vật nổi tiếng
trong tôn giáo đó của. VD: các bài tụng tán, truyện về các danh tăng, đạo sĩ,
truyện/ghi chép về các vị thần, tiên (thần tích, thần phả, tiên phả…)… -
Dùng các tư tưởng, quan niệm, hình tượng, tích truyện… tôn giáo để lí giải,
phản ánh cuộc sống trong tác phẩm. VD: thơ có ý vị thiền, thơ truyện có các nhân
vật, môtip tôn giáo,… Hình thức: -
Thể loại: các thể loại văn chức năng lễ nghi tôn giáo (thơ kệ, văn luận thuyết,
thơ Thiền, thần tích, Phật thoại, tiên thoại, truyện các thánh, truyện thần quái, chí
quái…); có sự pha trộn nhiều thể loại trong một tác phẩm. -
Ngôn ngữ: nhiều thuật ngữ, khái niệm tôn giáo, ẩn ngữ; nhiều môtip, chi tiết
huyền bí, hoang đường – kì ảo; cách nói ẩn dụ - tượng trưng, ngôn ngữ đối thoại
(dấu ấn khẩu ngữ, thuyết xướng, diễn xướng)...
2. Khuynh hướng cảm hứng tôn giáo trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam
a- Giai đoạn thế kỉ X-XIV:
- Giai đoạn phát triển rực rỡ cả Phật giáo và Đạo giáo.Trong đó Phật giáo (Thiền
tông) phát triển huy hoàng với sáng tác của nhiều thiền sư, Phật tử thuộc 3 dòng
thiền (Tì ni đa lưu chi; Vô Ngôn Thông; Trúc Lâm) như: Pháp Thuận,Viên
Chiếu, Đạo Hạnh, Giác Hải, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Huyền
Quang, Pháp Loa,… Sáng tác nổi bật của văn học Phật giáo giai đoạn này là các
bài kệ và thơ thiền (Cáo tật thị chúng, Thiên Trường vãn vọng,…), các bài ca ngâm,
truyện các thiền sư , các bài văn luận thuyết Phật giáo (Khóa hư ngữ lục – Trần
Thái Tông, Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân Tông,...). Văn học chịu ảnh hưởng
tư tưởng Đạo giáo cũng có có dấu ấn nhất định trong một số bài thơ (của Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh,…), truyện kí .
- Một số tác phẩm phản ánh tín ngưỡng dân gian, hỗn dung, đặc biệt là tư tưởng
sùng bái, kính sợ quỷ thần ( Lĩnh Nam chích quái lục – Trần Thế Pháp,…), b -
Giai đoạn thế kỉ XV-XVII:
- Do sự phát triển mạnh mẽ của Nho giáo, Phật giáo có phần lắng xuống (xem
Cái chùa hoang ở Đông Triều, Nghiệp oan Đào thị trong Truyền kì mạn lục –
Nguyễn Dữ). . Vì vậy, văn học Phật giáo cũng trầm lắng nhưng vẫn được duy trì
trong một số tác phẩm thuần túy văn học Phật giáo; ảnh hưởng của Đạo gia-Đạo lOMoAR cPSD| 61432759
giáo tăng lên (một số truyện trong Thánh Tông di thảo; Truyền kì mạn lục với hình
tượng Đạo sĩ, tiên nhân, thần nhân,…). Các tác phẩm phản ánh tín ngưỡng dân
gian tiếp tục tồn tại và phát triển (hiện tượng “tục bổ”, “tăng bổ”, “tục biên” Lĩnh
Nam chích quái;
một số tác phẩm trong Thánh Tông di thảo; Truyền kì mạn lục;
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn –
Lê Thánh Tông?, các bản thần tích của trung
ương và địa phương). c - Giai đoạn thế kỉ XVIII-giữa XIX:
- Văn học Phật giáo khởi sắc lại với một số tác phẩm của Chân Nguyên, Chuyết
Chuyết, Tính Nhu, Hải Lượng thiền sư – Ngô Thì Nhậm (Trúc Lâm tông chỉ
nguyên thanh
), truyện thơ Nôm Phật giáo (Quan Âm Thị Kính – Khuyết danh,
Nam Hải Quán thế âm Bồ tát tân truyện,…)…
- Văn học mang cảm hứng của Đạo giáo phát triển khá mạnh, nổi bật là các tác
phẩm viết về tiên nhân, Đạo sĩ
- Bắt đầu xuất hiện các sách luận thuyết hay “truyện các thánh” của Thiên chúa
giáo d - Giai đoạn cuối thế kỉ XIX:
- Duy trì phần nào truyền thống của giai đoạn trước (kệ, thơ thiền, tiên thoại, truyện
các thánh, thần tích, truyện Nôm Phật giáo).
- Các tác phẩm mang tư tưởng hỗn dung tam giáo, mang tư tưởng “khuyến
thiện”phát triển mạnh (các loại “thiện thư”, “thơ giáng bút”… ở các thiện đàn) 3.
Phân tích, thuyết trình một tác phẩm hoặc một cụm tác phẩm thuộc khuynh
hướng cảm hứng tôn giáo.

- Phân tích một số bài thơ-kệ và thơ Thiền: Cáo tật thị chúng, Tâm không, Cư trần
lạc đạo, Thiên Trường vãn vọng.
- Phân tích một “tiên thoại”: Từ Thức lấy vợ tiên hoặc Bích Câu kì ngộ
CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG “THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG” CỦA TRẦN NHÂN TÔNG.
I/ Vài nét về Trần Nhân Tông.
- Trần Nhân Tông là một trong những ông vua sáng thời nhà Trần. Tên tuổicủa ông
không chỉ gắn với sự nghiệp bình Nguyên, giữ yên bờ cõi.
- Sau khi đưa đất nước thoát khỏi hiểm họa Nguyên Mông, Trần Nhân Tông đã
“nhường ngôi cho Anh Tông, khoảng tháng 10 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long
thứ 7, Điều Ngự Trần Nhân Tông đã vào thẳng núi Yên Tử, tinh cần tu 12 hạnh
đầu đà, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà”.
- Ông sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Tâm thức thiền của Trần
Nhân Tông được hình thành trong một quá trình kế thừa và sáng tạo từ Thiền
phái Nam Tông Huệ Năng đồng thời trực tiếp thừa truyền của Thiền Việt và
trong thực tiễn văn hóa Đại Việt.
- Thơ Trần Nhân Tông là sự hòa điệu giữa thơ và Thiền, dùng thơ để nói Thiền,
gửi Thiền vào thơ (dĩ thi thuyết Thiền, dĩ Thiền ngụ thi). Thơ ông cũng thể hiện
một tâm hồn thuần phác hồn hậu đầy cảm xúc sâu lắng trước thiên nhiên tạo vật
Việt Nam. Tất cả những vẻ đẹp của cảnh vật và con người trong thơ Trần Nhân
Tông đều có sự tương thông với tâm Thiền nên sắc thái bình đạm, tĩnh lặng và lOMoAR cPSD| 61432759
không phân biệt giữa thực và hư, có khả năng, giữa ta và vật của Thiền vị, lại
càng khó tách bạch với cảm quan hiện thực và cảm quan tôn giáo Thiền.
II/ Cảm hứng tôn giáo trong bài thơ “Thiên trường vãn vọng”.
Bài thơ tả cảnh thôn quê thuần phác tự nhiên và đạm bạc ở Thiên Trường như muôn
vàn cảnh thôn quê ở vùng đồng bằng Bắc bộ khi chiều buông, song lại
có sức khái quát cao về hiện thực cuộc sống và triết lý Thiền
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục
đồng địch lý ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có, dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò
trắng từng đôi liệng xuống đồng.) 1. Nhan đề.
- Nhan đề bài thơ là ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường, nơi ngựa xe tấp nập,
nhiều lầu son gác tía của nhà Trần đặt tại phủ Thiên Trường (Nam Định). - Đối
tượng ngắm cảnh mà Trần Nhân Tông hướng đến ở đây là một vùng quê nghèo,
đơn sơ thanh tĩnh ở đồng bằng Bắc Bộ dưới con mắt Thiền. 2. Phân tích bài thơ. a. 2 câu đầu. -
Mở ra là bức tranh thôn xóm bình dị, nhạt nhòa trong cảnh bảng lảng
hoànghôn. Cặp từ trái nghĩa “tiền – hậu” có sự mở rộng biên độ hai chiều về
hai phía trước và sau của một làng quê yên tĩnh. Bức tranh thôn dã này lại được
quan sát từ trên cao, khoảng cách xa nên có độ “nhòe”, nhạt nhòa như khói phủ. -
Tính chất “bán vô” “bán hữu” là tính chất của cảnh vật (đã bị tỉnh lược)
chứ không phải là tính chất của bóng chiều. Miêu tả cảnh chiều hôm khó có thể
nói trực tiếp, thêm nữa lại là nhà thơ Thiền, dùng cảnh để nói Thiền thì tốt nhất
là “dùng hư nói thực” và “dùng thực nói hư” -
Nhà thơ Thiền Trần Nhân Tông đã “vong ngã” hòa nhập vào trạng
thái“đạm” (mờ nhạt) giữa vô và hữu của sương khói, và tan luôn vào cái “bán
vô” “bán hữu”_nửa như có, nửa như không bên ánh tà dương. Như vậy cảnh
vật ở đây dường như là “vô” có cái “hữu” trong cái “hữu”, lại có cái “vô”. b. 2 câu cuối. -
“Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết”, theo cấu trúc câu thơ nguyên
tác, câu thơ trên nên dịch là “Trong tiếng sáo của trẻ chăn trâu, trâu đã về hết”.
Bởi lẽ Đạo Thiền coi trọng “tư tính thanh tịnh”, hồn thuần tự nhiên. Cho nên
trong tiếng sáo tự nhiên hồn thuần của mục đồng thì đàn trâu cũng theo thói
quen chiều tà tự nhiên thanh thản về chuồng. Còn dịch là mục đồng dẫn (hoặc
dắt) trâu về là việc làm bị điều khiển thì còn gì là tự nhiên, thanh thản nữa. lOMoAR cPSD| 61432759 -
Song cảnh vật thiên nhiên được mô tả trong thơ Thiền không phải là
mụcđích mà chỉ là cái cớ để các nhà thơ Thiền giử triết lý. Thiên nhiên trong
thơ Thiền chỉ là cài mã với những biểu tượng để Thiền gia chuyển tải tư tưởng Thiền. -
Nếu như tiếp cận hai câu thơ trên dưới góc độ cảm hứng Thiền thì có
nhiều ývị cùng các lớp nghĩa khác. Ở đây có các biểu tượng “Tiếng sáo mục
đồng” và “trâu” sau là “cánh cò” mang nhiều nét nghĩa mang đậm triết lý Thiền.
+ Tiếng sáo là hiện thân của cuộc sống mục đồng, âm điệu của nó gợi lên sự
trở về với trạng thái hồn nhiên, thanh thản. + Trâu là biểu tượng của chân tâm hồn thuần.
+ Cánh cò bay từ cao xuống thấp thể hiện sự kết nối giữa trời và đất, giữa âm
và dương. Nó thể hiện sự nhẹ nhàng của các thần tiên siêu thoát trút bỏ sức
nặng của cõi trần. Cánh cò hay cánh chim đột nhiên xuất hiện hay bay đi tạo
ra sự bừng ngộ về những cái chưa biết, giúp trí tuệ nắm bắt những gì thấy và
nghe được, ngoài ra nó còn biểu trưng cho sức mạnh và sự sống… + Chiều
đến là quy luật tự nhiên, người và vật đều tìm nơi trú ngụ, các chú mục đồng
thổi sáo trên đường về xóm, đàn trâu no cỏ cũng trên đường về chuồng và
từng đôi cò cũng nhẹ nhàng hạ cánh xuống cánh đồng
Bài thơ đã tạo dựng bức tranh nông thôn Việt Nam thấm đẫm tình đời, tình
người bằng nhãn quan của Thiền giả - thi nhân. Thơ Trần Nhân Tông vừa thể
hiện tâm thức đạt tới cảnh giới diệu ngộ của Thiền phái Trúc Lâm, vừa thể hiện
tâm hồn khát khao hòa nhập vào thiên nhiên, vào cuộc sống đời thường và gửi
gắm vào đó những triết lý bình dị mà sâu xa. Đó là sự trở về với chốn nương
thân về với cuộc sống thường nhật “vô ngã vô thường”, với “tự tính thanh tịnh”
“chân tâm hồn thuần”. Đó là tâm thức Thiền của Điều Ngự Trần Nhân Tông.
Ông đã đạt tới đỉnh cao của sự đốn ngộ, sống tùy duyên.
Thiền phái Trúc Lâm không hướng con người vào một cõi tồn tại khác sau
cái chết mà là khuyên bảo con người hãy chấp nhận hiện thực như nó đang tồn tại
3.4. Khái niệm, những biểu hiện tiêu biểu của khuynh hướng cảm hứng nhân đạo
Chủ nghĩa nhân đạo cũng là nội dung lớn, xuyên suốt văn học trung đại Việt
Nam. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại vừa bắt nguồn từ truyền thống
nhân đạo của con người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, vừa chịu ảnh
hưởng tư tưởng nhân văn tích cực vốn có của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.
Truyền thống nhân đạo của người Việt Nam biểu hiện qua lối sống “thương người
như thể thương thân”, qua những nguyên tắc đạo lí, những thái độ ứng xử tốt đẹp
giữa người với người,... Tư tưởng nhân văn của Phật giáo là từ bi, bác ái; của Nho
giáo là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân; của Đạo giáo là sống thuận theo
tự nhiên, hoà hợp với thiên nhiên. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại lOMoAR cPSD| 61432759
cũng rất phong phú, đa dạng, biểu hiện ở lòng thương người; lên án, tố cáo những
thế lực tàn bạo chà đạp lên con người; khẳng định, đề cao con người về các mặt
phẩm chất, tài năng, những khát vọng chân chính như khát vọng về quyền sống,
quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa; đề cao những
quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người với người.
Có thể thấy những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo nói trên qua các tác
phẩm văn học Phật giáo thời Lí (Có bệnh, bảo mọi người của Mãn Giác, Tỏ lòng
của Không Lộ...)
, sáng tác của Nguyễn Trãi (Đại cáo bình Ngô, Tùng, Cảnh ngày
hè,...), Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ghét chuột, Nhàn,...), Nguyễn Dữ (Chuyện người con
gái Nam Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên,...).
Cảm hứng nhân đạo đặc
biệt nổi bật ở các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học thế kỉ XVIII – giữa thế kỉ XIX
như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương (Bánh trôi nước,
Mời trầu, chùm thơ Tự tình). Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu...

2.1. Tìm hiểu khái niệm
- Nhân đạo: lòng thương người, sự thấu hiểu, đồng cảm với những nỗi đau khổ của
con người; hướng tới con người bình thường, nghèo khổ; nạn nhân của tầng lớp
thống trị suy đồi hoặc tệ nạn xã hội.
- Nhân văn: đề cao vẻ đẹp, quyền sống của con người ở tất cả những bẩm tính/thiên
tính (đời sống trần thế, lạc thú vật chất, nhu cầu thể xác; khát vọng tự do, trí tuệ,
tài năng, tâm hồn, tình cảm, cá tính...).
2.2. Nội dung cơ bản của cảm hứng nhân đạo - nhân văn:
2.2.1. Quan tâm đến con người bé nhỏ, thiệt thòi, bất hạnh:
- Xót thương những thân phận nghèo khổ, khốn cùng: thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Miên Thẩm, Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)
- Đồng cảm, thương xót cho số phận bất hạnh của người phụ nữ: Truyền kỳ mạn
lục (Nguyễn Dữ), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh).
2.2.2. Đề cao giá trị, vẻ đẹp con người:
- Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của hình thể, thân thể : Truyện Nôm, Thơ Nôm Hồ Xuân Hương,…
- Ca ngợi tài năng, trí tuệ, phẩm hạnh, cá tính,…: Truyện truyền kì, Truyện
Nôm,thơ chữ Hán Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Cao Bá Quát; Hát nói,… 2.2.3.
Đồng tình với những khát vọng táo bạo, chính đáng:

- Khát vọng tình yêu, hạnh phúc: Truyện truyền kì, Truyện Nôm,…
- Khát vọng công lý: Truyện Nôm
- Khát khao hạnh phúc trần thế (nhu cầu sắc dục lứa đôi, tình yêu nam nữ: truyện
truyền kì, truyện Nôm, ngâm khúc,…
2.2. Khuynh hướng cảm hứng nhân đạo - nhân văn trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam:
2.2.1. Giai đoạn 1 (X – XIV):