



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601299
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức +Vật chất:
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận,
không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể
nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì
vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói
chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại,
cận đại đã làm. Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận
biết vật chất chính là thuộc tính khách quan.
Tựu chung lại có thể thấy nội dung cơ bản vật chất theo quan điểm của Lenin là:
Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động
lên giác quan của con người.
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết quả của việc tổng kết từ những
thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về
phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy có những nội dung được đề cập như sau:
Thông thường chúng ta nhắc đến và hình dung về vật chất như một vật dụng, một tài
sản của con người… Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin là kết
quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn
có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh
ra, không mất đi; do đó không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu
hiện cụ thể của vật chất.
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ
thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật
chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật
chất, cái gì không phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận
thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp
hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản
ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh. –
Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc khách quan
của cảm giác, ý thức con người. Ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách
quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới. –
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật
chất vớisự phát hiện cật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý
thức là nguồn gốc khách quan của cảm giác. –
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về
vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác –
Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của CNDV tầmthường về
vật chất, coi ý thức là một dạng vật chất. –
Định nghĩa vật chất của Lênin đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch
sử thành một thể thống nhất (vật chất trong TN, vật chất trong xã hội đều là những
dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).
Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin có những ý nghĩa sau:
Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách
quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất
với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được
hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa
học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Với định nghĩa vật chất, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó
là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con
người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, lOMoAR cPSD| 61601299
phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin
đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
-Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật chất
biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, không gian, thời gian. 2
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự thay
đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo
nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Theo Triết học Mác – Lê-nin vận
động là mọi sự biến đổi (biến hóa) nói chung của các sự vật và hiện tượng trong
giới tự nhiên và đời sống xã hội. Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng luôn luôn vận
động. Bằng vận động và thông qua vận động mà sự vật hiện tượng tồn tại và thể
hiện đặc tính của mình. Vận động là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của
các sự vật và hiện tượng.
Thứ hai là phương thức tồn tại của vật chất qua không gian và thời gian. Mọi dạng
cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao,
chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước
hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái, v.v.) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của
sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển
hóa, v.v.. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất, là phương
thức tồn tại của vật chất. Không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không
gian và thời gian. Ngược lại, cũng không thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
Là hình thức tồn tại của vật chất, không gian và thời gian tồn tại khách quan, bị vật
chất quy định; trong đó, không gian có ba chiều: chiều cao, chiều rộng, chiều dài;
thời gian có một chiều: chiều từ quá khứ đến tương lai. Tính thống nhất vật chất của
thế giới được các nhà triết học hủ nghĩa duy vật biện chứng đưa ra như sau:
Một là trong thế giới chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất.
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai là mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của
những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không
được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác
ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc,
nguyên nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi khoa học và bởi chính cuộc
sống hiện thực của con người.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng
có cơ sở khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất.
Cụ thể khoa học hiện đại đã đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất và đã
phân chia ra các dạng vật chất khác nhau, trong đó:
Trong giới tự nhiên vô sinh có hai dạng vật chất cơ bản là chất và trường. Chất là
cái gián đoạn và được tạo ra từ các hạt, có khối lượng, có cấu trúc thứ bậc từ nguyên
tử cho đến các thiên thể cực kỳ lớn.
Còn trường là môi trường vật chất liên tục, không có khối lượng tĩnh. Trường làm
cho các hạt của nguyên tử liên kết với nhau, tác động với nhau và nhờ đó mà tồn
tại được. Ranh giới giữa chất và trường là tương đối, có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Sự phát hiện ra dạng chất và trường của vật chất và sự chuyển hóa của chúng càng
chứng tỏ không có không gian không có vật chất, không có vật chất dưới dạng này
thì lại có vật chất dưới dạng khác, không thể có thế giới không phải vật chất nằm
bên cạnh thế giới vật chất. Và cũng không chỉ hình dung thế giới vật chất gồm quả
đất, hệ mặt trời, hay một số thiên hà mà phải là toàn bộ các quá trình tổ chức vật
chất từ các hệ thống thiên hà đến các vật thể vi mô. lOMoAR cPSD| 61601299
Tựu chung lại có thể thấy bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở
tính vật chất. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô
số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ.
-Ví dụ vật chất:
+ Các phương tiện giao thông như xe máy, xe ô tô, tàu hỏa, tàu điện ngầm…
+ Các vật dụng trong gia đình như: Bàn ghế, điều hòa, giường tủ…
+ Các vật phục vụ cho công việc của con người như: máy tính, điện thoại, máy in…
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức
là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Chúng ta có thể
lấy 1 ví dụ như sau: Đối với những đứa trẻ sinh có điều kiện học tập bằng các
phương tiện như máy chiếu, máy tính bảng… thì những đứa trẻ này có nhiều kiến
thức và hiểu biết hơn, còn những đứa trẻ sinh ta trong hoàn cảnh điều kiện còn thiếu
thốn nhiều về vật chất thì sẽ hạn chế hơn. +Ý thức:
-Định nghĩa: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
đầu óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là toàn bộ
sản phẩm những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm những tri thức, kinh
nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, ... của con
người trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và
lịch sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong
đầu óc của con người. Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một
phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức
có mối quan hệ biện chức với vật chất.
Theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con
người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong
quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
Tóm lại, ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý
thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. -Nguồn gốc:
.Nguồn gốc tự nhiên: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình
thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa
con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ
óc con người tạo ra quá trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức
năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn
thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người
càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người
cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống
tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người không bình
thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh
năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất
yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan, thông qua hoạt động
của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo
ở dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác
động. Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh và
cái được phản ánh không tách rời nhau những không đồng nhất với nhau. Cái được
phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa
đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất khác
(dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện
dưới nhiều hình thức. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa vật chất.
.Nguồn gốc xã hội: Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác
biệt về chất so với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý
thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng
của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào thế lOMoAR cPSD| 61601299
giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người;
là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi
vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Đây cũng là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ
thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát
triển bộ não, ... của con người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế
giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết
cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định
mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của
các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não người, tạo
ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới
khách quan thông qua quá trình lao động. 6
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải
có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay
trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi
mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời
và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn
ngữ, đó là hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành
bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần chuyển hóa thành ý thức.
-Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm - sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn
lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có
nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp
nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá
trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại, ... trong đời sống
tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô
hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung, lẫn hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên
như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con
người. Theo Mác thì ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật
sinh học mà chủ yếu là các quy luật
xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội
quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Theo triết học duy tâm quan niệm: ” Ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy
nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất
chứ không phải là sự phản ánh của vật chất”.
Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức
là sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản
ánh: “về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. lOMoAR cPSD| 61601299
-Kết cấu của ý thức: Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều
ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Ở đây chỉ
tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp
cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong
đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức,
là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu
hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. theo Mác: “phương thức mà theo đó
ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo
đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của
ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được
mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích
đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều
khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó
cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động
theo quan điểm và niềm tin của mình.
Giá trị chân chính của ý chí không 8
chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý
nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những
yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố
định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố
khác. -Ví dụ ý thức:
Khi con người tham gia vào quá trình lao động sản xuất thì thay như giai đoạn trước
con người sử dụng cày cuốc để cày ruộng, đào mương, xây cầu, làm đường,… thì
ngày nay, con người đã ý thức được việc tăng năng suất lao động bằng việt đưa máy
móc vào hoạt động để tạo ra năng suất công việc như mình mong muốn.
+Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
-Định nghĩa: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà
trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết
định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem
đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại,
phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác. -Mối quan hệ:
Thứ nhất: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất có vai trò quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi
có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất
thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm
của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu
dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan
điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người,
thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động,
ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn lOMoAR cPSD| 61601299
tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng
định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên
nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và
sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật
chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu
hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò
của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức
không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề
ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ,
phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác
động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật
khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực
hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực cúa ý
thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan,
bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã
đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với
hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của
ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, 10
quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực
hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không
phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con
người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh
của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ
chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con
người hành động theo định hướng của ý thức. -Ví dụ vật chất ý thức:
Ví dụ như trong ca dao tục ngữ của Việt Nam có câu "Có thực mới vực được đạo" -
Nghĩa là vật chất có quyết định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não của con người
sẽ có trách nhiệm phản ánh những hiện thực cuộc sống một cách thụ thể. Từ mối quan
hệ vật chất và ý thức thì con người sẽ biết cư xử và hành động cho đúng chuẩn mực.
Bên cạnh đó việc ý thức của con người quyết định vật chất còn được thể hiện rõ trong
việc lựa chọn vật chất, ví dụ như khi con người có một nhu cầu sử dụng vật chất thì
sẽ lựa chọn vật chất phù hợp với nhu cầu của mình, như con người muốn mua một
chiếc xe để tải hàng hoá đi bán thì sẽ lựa chọn mua một chiếc xe tải thay vì lựa chọn một chiếc xe oto con,..
-Liên hệ bản thân với mối quan hệ vật chất và ý thức:
Thứ nhất: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc
sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được
những vật chất của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan.
Thứ hai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày.
Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng
phát triển tri thức của bản thân.
Thứ ba: Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống.
Thứ tư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần,
cả yếu tố khách quan và điều kiện khách quan.
-Ý nghĩa mối quan hệ vật chất và ý thức: lOMoAR cPSD| 61601299 -
Phải biết dựa vào những quy luật khách quan để có thể xác định đúng đắn mục
tiêu, kếhoạch, biết tìm và vận dụng phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt
được mục tiêu đề ra một cách tối ưu. -
Khắc phục được bệnh chủ quan duy ý chí; bệnh bảo thủ, trì trệ, tháiđộ tiêu
cực...đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay. -
Con người muốn ngày càng phát triển, tài năng, xã hội ngày càng phát triển
thì mới phải luôn chủ động, phát huy khả năng của mình trong việc tìm tòi, sáng
tạo cái mới, bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng
cao năng lực và không bao giờ bỏ cuộc giữa chừng;
+Ý nghĩa phương pháp luận với con người hiện nay
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn trọng tính khách
quan, đồng thời phát huy tính năng động, chủ quan của mình. Nếu không tôn trọng
tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh chủ quan.
– Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có
thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế
giới khách quan. Nếu quá coi trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh bi quan.
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ
bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
– Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan
Đối với hoạt động thựctiễn của bản thân:
– Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và côngtác
– Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác.
2. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
.Phép biện chứng duy vật:
-Định nghĩa: Ăngghen đã đưa ra định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật
với nội dung: phép biện chứng duy vật là môn khoa học về những quy luật phổ biến
về sự vận đọng và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy con người.
Trong quá trình nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
Ăngghen đã nhắc đến: "phép biện chứng về mối quan hệ 12
phổ biến". Hay khi nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về sự phát triển, Lênin cũng
đã khẳng định phép biện chứng là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn
thiện nhất, sâu sắc nhất và không có sự phiến diện, học thuyết về tính tương đối của
nhận thức con người, nhận thức con người cũng sẽ phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng.
-Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Từ định nghĩa về phép duy vật biện chứng đã được nêu ở bên trên ta thấy phép biện
chứng duy vật có hai đặc trung cơ bản như sau:
- Phép biện chứng duy vật của Mac - Lenin thực chất là phép biện chứng được xác
lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mac -Lenin là sự khác biệt về trình độ phát triển so với các tư
tưởng biện chứng trong các thời kỳ trước đây.
- Trong phép biện chứng, ta nhận thấy rằng có sự thông nhất giữa nội dung thế
giới quan ( duy vật biện chứng ) và phương pháp luận ( biện chứng duy vật ).
Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật của Mác - Lênin không dừng ở sự giải
thích thế giới mà còn là công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. -Hai nguyên lý: lOMoAR cPSD| 61601299
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật Nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật.
-Ba quy luật cơ bản:
- Quy luật thứ nhất: quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành thay
đổi về chất và ngược lại
- Quy luật thứ hai: quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
- Quy luật thứ ba: quy luật phủ định của phủ định
-Các cặp phạm trù:
1 Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
2 Nguyên nhân và kết quả
3 Tất nhiên và ngẫu nhiên 4 Nội dung và hình thức
5 Bản chất và hiện tượng6 Khả năng và hiện thực
2.1. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến -Định nghĩa:
Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt,
các yếu tố, các bộ phận của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Ví dụ: Mối liên
hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người hay con người với xã hội.
Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật và hiện tượng của thế giới.
Ví dụ: Trong tư duy con người có những mối liên hệ kiến thức cũ và kiến thức mới;
cây tơ hồng; cây tầm gửi sống nhờ; muốn chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
=> Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ
đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng
thời, cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc
thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn
bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa
dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới
tự nhiên, xã hội và tư duy. LIÊN HỆ :
-Thực vật và động vật có mối liên hệ với nhau trong quá trình trao đổi chất.
-Giữa các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể người, các địa phương trong 1 nước liên hệ nhau.
-Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
Ví dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ phát triển.
-Mối liên hệ có tính nhiều bề vô cùng phong phú đa dạng. Cụ thể là liên hệ bên trong,
liên hệ bên ngoài, liên hệ gián tiếp, liên hệ cơ bản, không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
-Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động, suy cho đến cùng, đều là sự phản
ánh mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
Liên hệ là tất yếu, khách quan, vốn có của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với môi trường tự nhiên và xã hội
dù họ có ý thức được hay không. Đó là điều khách quan và không thể thay đổi bởi ý chí con người. -Tính phổ biến:
Tính phổ biến: Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn
ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra
đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 61601299 14
Ví dụ: Sự liên hệ qua lại bên trong cơ thể người có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ
giữa người với người.
-Tính quanh co, phức tạp:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những
mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới
khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích
được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
-Liên hệ bên trong và bên ngoài.
-Liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên.
-Liên hệ chủ yếu và thứ yếu; liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
-Liên hệ bản chất và không bản chất; liên hệ cơ bản và không cơ bản.
-Liên hệ bao quát toàn bộ thế giới và liên hệ bao quát một số hạowc một lĩnh vực. Ví dụ:
- Mỗi người khác nhau thì có mối liên hệ với cha, mẹ, anh em, bạn
bè khác nhau.Hay, cùng là mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi
giai đoạn khác nhau có tính chất và biểu hiện khác nhau.
- Các loại cá, chim, thú đều có quan hệ với nước nhưng cá quan hệvới nước
khác với chim và thú. Cá không thể sống thiếu nước, không có nước thường xuyên
cá không sống được, nhưng các loài chim thú thì lại không sống trong nước thường xuyên được.
-Ý nghĩa phương pháp luận: Quan điểm toàn diện
Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau:
– Trong nhận thức, trong học tập:
+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
– Trong hoạt động thực tiễn
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải dùng hoạt động
thực tiễn để biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật và những mối liên hệ qua
lại giữa sự vật đó với những sự vật khác.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện
khác nhau để tác động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách
dàn đều” và “chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển
khai chính sách Đổi Mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, vừa nhấn mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Ví dụ: trong đánh giá một con người với những mặt khác nhau phản ánh trong con
người họ; không thể chỉ thực hiện quan sát phiến diện từ những thể hiện bên ngoài
để đánh giá tính cách, thái độ và năng lực của họ. Cũng không thể chỉ dựa trên một
một hành động để phán xét con người hay phán xét cách sống của họ. Khi đánh giá
cần có thời gian cho quá trình quan sát tổng thể từ những phản ánh trong bản chất
con người; các mối quan hệ của người này với người khác; cách cư xử cũng như
việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những nhìn nhận và đánh gia trên từng khía
cạnh và kết hợp với nhau sẽ tạo ra những quan điểm toàn diện từ đó mà cách nhìn
nhận một người được thực hiện hiệu quả với các căn cứ rõ ràng; chứ không phải
chỉ là phù phiếm, giả định của nhận định.
Quan điểm lịch sử - cụ thể lOMoAR cPSD| 61601299
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn
của không – thời gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể
khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh
lịch sử – cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan
và chủ quan, của sự ra đời và phát triển của vấn đề.
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ
trở nên sai lầm. Vì chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.
-Ví dụ: Công tác chống dịch của nước ta luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ
quan tâm, chỉ đạo rất mạnh mẽ. Do đó Nhà nước cũng đã đưa ra những chính sách
phù hợp, linh hoạt, mạnh mẽ theo hướng đổi mới, sáng tạo vận dụng theo quan
điểm lịch sử - cụ thể như kim chỉ nam để phù hợp với từng thời điểm diễn ra trên
thực tế. Công tác phòng chống dịch COVID 19 ở nước ta đạt được những kết quả,
cũng có những hạn chế trong công tác này.
2.2. Nguyên lý về sự phát triển
-Khái niệm: Trong lịch sử phát triển của triết học, có hai phương
pháp nhận thức đối lập nhau là phương pháp biện chứng và phương 16
pháp siêu hình. Do đó, khái niệm phát triển theo hai trường phái này
cũng có quan điểm khác nhau, cụ thể:
- Quan điểm siêu hình:
·Phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng
· Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về mặt lượng, không có sự thay đổi
về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới.
- Quan điểm biện chứng:
· Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật.
· Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh
co phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi.
Tựu chung lại, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động
của sự vật theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Khuynh hướng chung là đi lên, điều đó không có nghĩa là sự phát triển của sự vật
theo con đường thẳng mà nó là một con đường quanh co phức tạp theo đường xoáy ốc.
Ví dụ : Chúng ta thừa nhận kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua, đặc biệt
là từ công cuộc đổi mới đất nước có đi lên, khuynh hướng chung là đi lên. Nhưng
điều đó không có nghĩa nó là con đường thẳng. Không phải là tất cả mọi thành phần
kinh tế đều đi lên, không phải mọi tất cả các doanh nghiệp đều thành công, mà trong
sự phát triển đó, khuynh hướng chúng là nền kinh tế Việt Nam đi lên là điều chính
xác, nhưng không phải là mọi thành phần kinh tế, có doanh nghiệp hoạt động bị
chững lại, bị phá sản. Nhưng điều đó lại không phủ nhận kinh tế Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay và từ đổi mới đến nay là đi lên với con đường rất quanh co, phức
tạp theo đường xoáy ốc.
-Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển do các quy luật
khách quan chi phối mà cơ bản nhất là quy luật mâu thuẫn. Thực chất là giải quyết
hàng loạt mâu thuẫn trong quá trình phát triển.
Ví dụ: Muốn phát triển về năng lực, trình độ, bằng cấp... thực chất là giải quyết
hàng loạt các mâu thuẫn trong chính sự vật, trong chính quá trình nhận thức chứ
không thể trông chờ, cầu mong vào bất cứ ai, không thể cầu mong vào một thế lực
siêu nhiên nào đó ban phát cho... Phải giải quyết hàng loạt mâu
thuẫn, xem trong bản thân có bao nhiêu mâu thuẫn, có giải quyết được cái
đó thì mới phát triển.