-
Thông tin
-
Quiz
Phạm trù cái thiện cái ác. Ý nghĩa của nói đối với việc xây dựng đạo đức ở Việt Nam | Tiểu luận đạo đức học
Thế giới xung quanh chúng ta chuyển động hàng ngày với vô vàn sự vật, hiện tượng phong phú, đa dạng. Trong quá trình đó cuộc sống của chúng ta luôn tồn tại những mặt đối lập nhau để từ đó hình thành những sự đấu tranh nhằm hướng tới sự phát triển và tiến hóa không ngừng cũng như trong Triết học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Đạo đức học 5 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Phạm trù cái thiện cái ác. Ý nghĩa của nói đối với việc xây dựng đạo đức ở Việt Nam | Tiểu luận đạo đức học
Thế giới xung quanh chúng ta chuyển động hàng ngày với vô vàn sự vật, hiện tượng phong phú, đa dạng. Trong quá trình đó cuộc sống của chúng ta luôn tồn tại những mặt đối lập nhau để từ đó hình thành những sự đấu tranh nhằm hướng tới sự phát triển và tiến hóa không ngừng cũng như trong Triết học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Đạo đức học 5 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:


















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
PHẠM TRÙ CÁI THIỆN, ÁC. Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM
Sinh viên: Lê Ngọc Thùy Linh Mã số: 2050100034
Lớp: Lịch sử Đảng
Hà Nội, tháng 05 năm 2022
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG TIỂU LUẬN
PHẠM TRÙ CÁI THIỆN, ÁC. Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM
Sinh viên: Lê Ngọc Thùy Linh Mã số: 2050100034
Lớp: Lịch sử Đảng Hà Nội Mục lục
chương 1 : khái quát chung về phạm trù thiện ác 1.1 khái niệm thiện , ác 1.2 vai trò.... 1.3
chương 2 : là tên mà tiểu luận em làm 2.1 2.2
chương 3: liên hệ + giải pháp nâng cao MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới xung quanh chúng ta chuyển động hàng ngày với vô vàn sự vật,
hiện tượng phong phú, đa dạng. Trong quá trình đó cuộc sống của chúng ta luôn
tồn tại những mặt đối lập nhau để từ đó hình thành những sự đấu tranh nhằm
hướng tới sự phát triển và tiến hóa không ngừng cũng như trong Triết học.
Trong quá trình đó, con người luôn đặt ra vấn đề “Con người bản chất thiện hay
ác” cũng có nhiều quan điểm trái chiều, giữa các triết gia và các nhà tư tưởng
đặt ra dấu hỏi giữa bản chất con người đang còn nhiều tranh cãi.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các tư tưởng đạo đức từ xa xưa đến nay
vẫn được áp dụng vào thực tiễn với những câu chuyện giáo dục con người đấu
tranh giữa cái thiện – ác và ngày càng hoàn thiên để phù hợp với những giai
đoạn hiện nay. Đáng chú ý là học thuyết “tính ác” của Tuân Tử tương phản với
học thuyết “tính thiện” của Mạnh Tử trên cơ sở những quan niệm của Khổng
Tử. Như vậy làm cho tư tưởng triết học Trung Hoa thêm phong phú và sâu sắc,
nói lên nhiều khía cạnh tồn tại trong mỗi con người. Nó có ý nghĩa vô cùng to
lớn về việc giáo dục đạo đức con người luôn sống hướng hiện tránh xa điều xấu
định hướng cho chúng ta dể dẫn đến sự hoàn thiện về cả tâm hồn lẫn hành động
bên ngoài. Cho dù những quan niệm đó đã trải qua hơn 2000 năm. Đi theo tiến
trình lịch sử đa dạng. Song những tư tưởng giáo huấn đạo đức con người về cái
thiện và cái ác luôn tồn tại nhưng đâu đó vẫn còn một số hạn chết cần khắc phục
để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Là một sinh viên đang theo học học viện Báo chí và Tuyên truyền nói
chung khoa Lịch sử Đảng nói riêng việc tìm hiểu và tích lũy những tư tưởng
đạo đức theo những tiến trình lịch sử cho đến ngày nay có vai trò vô cùng to lớn
không chỉ riêng em và còn những bạn sinh viên khác. Những điều ấy sẽ tích lũy
thêm vào bản thân để tương lai sẽ vận dụng tốt đúng với ngành nghề mình đang theo đuổi.
Từ những lý do trên, em chọn đề tài: “Phạm trù cái thiện cái ác. Ý nghĩa
của nói đối với việc xây dựng đạo đức ở Việt Nam” làm đề tài kết thúc học phần.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu\
Đề tài nghiên cứu thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản
Nhiệm vụ thứ nhất: chỉ ra quan niệm về cặp phạm trù thiện ác của các nhà tư tưởng
trước Mác và quan niệm của Mác đối với con người từ đó dẫn đến thực tiễn đối với con người.
Nhiệm vụ thứ hai, nêu ra ý nghĩa của cặp phạm trù thiện ác đối với việc xây dựng đạo đức ở Việt Nam.
Nhiệm vụ thứ ba, biết vận dụng liên hệ bản thân thông qua những gì đã bình luận ở hai nhiệm vụ trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu về cặp phạm trù cái thiện và cái ác và các tư tưởng thiện ác qua
các thời kỳ từ đó rút ra bài học cho bản thân. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu khái niệm cái thiện và cái ác và ý nghĩa của thiện và ác đối với việc
xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay trong thời đại hiện đại hóa đất nước.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của tiểu luận này được thể hiện qua 3 chương chính:
CHƯƠNG I: QUAN NIỆM CỦA CẶP PHẠM TRÙ THIỆN - ÁC
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA CỦA THIỆN – ÁC ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ BẢN THÂN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN NIỆM VỀ CẶP PHẠM TRÙ THIỆN – ÁC 1.1.
Khái niệm cặp phạm trù thiện – ác
1.1.1. Khái niệm chung
Phạm trù đạo đức học là những khái niệm đạo đức cơ bản phản ánh
những đặc tính cơ bản, những phương diện và những quan hệ phổ biến nhất của
những hiện tượng đạo đức trong xã hội, là phạm trù lịch sử có quá trình phát
triển lâu dài. Trong từng thời đại cụ thể, các phạm trù đạo đức được khái quát
hoá từ những hiện tượng và nhu cầu đạo đức của đời sống hiện thực gắn liền với
sự phát triển của những điều kiện kinh tế - xã hội tương ứng. Cùng với sự vận
động và phát triển của lịch sử, nội dung khái niệm, phạm trù đạo đức học không
ngừng được bổ sung, phát triển, nó phản ánh một cách khái quát nhất sự hình
thành và phát triển tư tưởng đạo đức qua các thời đại.
Nói đến đạo đức trước hết phải đề cập đến cái thiện, cái ác vì đây là phạm
trù trung tâm, cơ bản làm ranh giới hay thước đo đời sống đạo đức của mọi cá
nhân cũng như đời sống đạo đức của con người trong cộng đồng xã hội. Thiện
và Ác là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, chẳng hạn nhận diện
cái ác là làm đẹp thêm cái thiện, làm cho cái thiện ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong bài viết này, tôi tìm hiểu phạm trù Thiện và Ác theo cặp, tức là nghiên
cứu các mặt đối lập của hiện tượng xã hội, nhằm xác định giá trị chuẩn mực đạo
đức xã hội để thực hiện và cái lệch chuẩn để tránh.
Thiện là cái tốt, đẹp, lành, cái có lợi, có ích, mang lại điều tốt đẹp cho con
người, cộng đồng, xã hội, vì sự tiến bộ của xã hội. Cái thiện là cái tốt đẹp biểu
hiện lòng nhân ái của con người trong đời sống hàng ngày. Đó chính là hành vi
thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu xã hội, lịch sử, giai cấp và sự
tiến bộ xã hội. Cái thiện cơ bản nhất là giải phóng con người khỏi chế độ người
bóc lột người, xây dựng xã hội không còn giai cấp và chế độ áp bức bất công.
Trong đó con người có điều kiện phát huy mọi năng lực, trí tuệ, cống hiến cho
xã hội và thực hiện tốt mọi nghĩa vụ của mình, sống hoà thuận, hạnh phúc bên
nhau.Và cũng trong xã hội đó mọi phẩm giá, mọi giá trị của con người mới
được thực sự trân trọng, lẽ sống thực sự công bằng và nhân ái, mình vì mọi
người, mọi người vì mình. Đó là cái thiện thiêng liêng cao cả, chân chính nhất,
từ tâm nhất và vì con người nhất. Cái thiện được biểu hiện thông qua hành
động, việc làm cụ thể trong đời sống hiện thực góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội, đem lại lợi ích chung cho mọi người và cho bản thân cũng như cộng đồng xã hội.
Cái ác là xấu xa, có hại, mang lại điều đau khổ, bất hạnh cho con người,
có khi còn gây ra sự bất ổn cho cộng đồng xã hội, chống lại sự tiến bộ xã hội,
chống lại loài người. Cái ác không chỉ biểu hiện qua hành vi cụ thể, mà có khi
còn biểu hiện qua suy nghĩ, ý nghĩ, động cơ xấu xa ích kỉ, hèn hạ. Những biểu
hiện của cái ác cũng rất khác nhau, như trộm cắp, đánh đập người khác, giết
người, bỏ rơi người khác trong hoạn nạn, tham lam cá nhân, vì lợi ích cá nhân
mà triệt hạ lợi ích người khác, lợi ích cộng đồng xã hội. . Tuy nhiên, cái ác
không phải là cái đối lập tuyệt đối của cái thiện trong những hoàn cảnh lịch sử
cụ thể. Trong tiến trình lịch sử xã hội loài người nói chung, trong nền văn hoá
của các tôn giáo, truyền thống của các dân tộc quan niệm thiện ác nhiều khi
hoàn toàn trái ngược nhau. “Bộ tộc Hô-ten-hốt ( Tây Châu phi) có tục lệ giết
cha mẹ lúc già yếu để tránh sự đau ốm dai dẳng hoặc bộ tộc Pâylar (Trung Phi)
coi việc “thực táng” chia nhau ăn thịt người chết là việc làm thiêng liêng của
điều thiện”[2, 36]. Nhưng các dân tộc khác lại coi đó là điều ác không thể chấp
nhận được. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể quan điểm thiện ác cũng có thể
hoán đổi cho nhau.Thời đại công xã nguyên thuỷ, khi con người sống theo kiểu
bầy đàn, nam nữ quan hệ tình dục quần hôn (không phân biệt huyết thống) được
xem là hợp đạo đức, là cái thiện được mọi người chấp nhận. Ngày nay, xã hội
văn minh quan hệ tình dục bừa bãi, không tuân theo chế độ một vợ một chồng,
đặc biệt là tình dục trực hệ không những bị xã hội lên án là ác, phi đạo đức mà
còn bị pháp luật trừng trị. Cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có
thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người.
Ở nước ta, trong các giai đoạn lịch sử nói chung và trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc nói riêng, quan điểm thiện ác thể hiện
đa dạng, phong phú và không ngừng bổ sung phát triển. Theo quan điểm truyền
thống của dân tộc Việt Nam, cái thiện thể hiện trong đời sống đạo đức như biết
quan tâm giúp đỡ người khác, kính già, yêu trẻ, hy sinh vì Tổ quốc...và cuộc
sống con người chỉ có ý nghĩa, nhân bản khi họ biết hướng thiện - biết khắc
phục, đẩy lùi sự cám dỗ của điều ác mà có lợi cho mình (ích kỉ hại nhân) và tích
thiện tức là cố gắng làm những điều thiện từ nhỏ nhất có thể thiệt cho mình mà
ích cho người khác, trong Ca Huấn của Nguyễn Trãi viết:
Thấy người đói rách thì thương
Rét nhường cho mặc, đói nhường cho ăn.
đến các việc lớn mà thế hệ cha anh, tiêu biểu là các anh hùng liệt sĩ đã
quên mình vì đại nghĩa, sẵn sàng cống hiến tính mạng của mình cho cái thiện: tự
do hạnh phúc cho dân tộc. Ngày nay, chúng ta đang phấn đấu để có một xã hội
trong đó: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” đó là cái thiện
lớn lao nhất. Và chính trong xã hội đó, mỗi con người Việt Nam là một chủ thể
đạo đức đang phấn đấu sáng tạo nên cái thiện chân chính nhất, tốt đẹp nhất,
bằng hành vi, hành động phục vụ cho lợi ích dân tộc, nhân dân, thực hiện lời
dạy của Bác Hồ: “Việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh”
1.1.2. Quan niệm thiện ác trong lịch sử
Tư tưởng về thiện (cái thiện) đã có từ lâu trong lịch sử tinh thần, nhận
thức nhân loài. Nhà triết cổ đại Đêcôcrit cho rằng cần phải xây dựng một xã hội
mà trong đó cái thiện ngự trị, tức là tổ chức xã hội theo nguyên tắc hướng thiện.
Với tư tưởng này, thiện được hiểu là cái có nội dung và ý nghĩa bao trùm đời
sống đạo đức và chi phối đời sống xã hội, định hướng cho toàn bộ đời sống xã
hội, đạo đức. Arixtot đã nêu quan niệm về thiện với nội dung rất sâu sắc, thể
hiện trong cuốn sách Đạo đức học của Nicomaque của ông. Arixot xem xét cái
thiện gắn liền với hạnh phúc. Ông hiểu hạnh phúc chính là cái thiện, nhưng
cũng đồng thời xem thiện là điều kiện, tiền đề của hạnh phúc. Trong quan niệm
của Arixot, điều thiện có rất nhiều nội dung. Đó là lạc thú, hạnh phúc, sự giàu
có, danh vọng, sức khỏe, hiểu biết, kể cả sự chừng mực (tiết độ), là ích lợi, cơ
hội (xét về thời gian), là miền mỹ tục (xét về không gian)…Quan niệm của
Arixot về đạo đức nói chung, thiện nói riêng không tách rời học thuyết chính trị
của ông. Ddeiefu này được thể hiện rõ khi ông nói về “cái thiện tối thượng”.
Theo ông, có điều thiện của cá nhân và đó là ước muốn chính đáng của con
người, nhưng nó sẽ tốt đẹp hơn và thậm chí thần bí hơn, khi nó hòa với điều
thiện của quốc gia. Arixtot coi điều thiện của quốc gia chính là “điều thiện tối
thượng”. Điều thiện này được Arixtot xem là mục tiêu phấn đấu cáo nhất của
con người và đó là điều kiện tốt nhất bảo đảm cho hạnh phúc của họ. Mặt khác,
Aritxtot cũng quan niệm điều thiện của tối thượng liên quan đến Thượng đế.
Nói về tầm quan trọng, ý nghĩa của cái thiện trong đời sống con người, Arxtot
coi thiện là cứu cánh, hơn nữa là cứu cánh hoàn toàn nhất. Đặc biệt trong hệ
thống lý luận đạo đưucs của mình Arixtot đã lấy phạm trù thiện (cùng với phạm
trù hạnh phúc) đặt tên cho “Quyền thứ nhất” trong số 10 quyển trong toàn bộ
tập sách của ông, nghĩa là ông xem thiện và hạnh phúc là những khái niệm
(phạm trù) cơ bản, xuất phát của toàn bộ hệ thống lý luận về đạo đức.
Trong Tứ Thư, bộ sách nổi tiếng trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ
đại, thiện được hiểu với nhiều nội dung. Trước hết, nó được hiểu là cái căn bản,
bản chát vốn có, bẩm sinh của con người. Mạnh Tử nói: “Bản tính người ta vốn
thiện, cũng như nước phải chảy xuống thấp vậy. Người ta chẳng ai là bất thiện,
như nước luôn luôn chảy xuống thấp vậy”. “Con người có thể khiến làm việc
bất thiện, khi tính bản thiện của hẳn” cũng như với một đức hạnh, quy tắc,
chuẩn mực đạo đức nào đó, chẳng hạn thiện là nhân, cũng là nghĩa, là khiêm…
Đồng thời, thiện nói chung chỉ những gì tốt đẹp của con người, kể cả ở việc làm
và ý nghĩ hoặc được hiểu là cái tiêu biểu cho đức hạnh cao của con người.
Chẳng hạn, Khổng Tử nói: “Thấy người thiện như sợ chẳng theo kịp, thấy
người bát thiện như mó phải nước sôi”. Đặc biệt trong tư tưởng đạo đức học
Trung Quốc cổ đại tồn tại quan niệm về “điều chí thiện”, có thể xem nó tương
ứng với quan niệm của Arxtot về “Điều thiện tối thượng”. Chẳng hạn, trong
Chương I sách Đại học có viết: “Biết ngừng (ở chỗ chí thiện) thì sau tâm mới ổn
định, ổn định thì sau tâm mới tĩnh…”. Có thể thấy ở đây cái chí thiện được hiểu
là mục đích cao nhất của đạo đức tu dưỡng, học tập (đạo đại học). Nếu như
Arxtot hiểu điều hiện tối thượng gắn với lợi ích quốc gia, thì ở Trung Quốc cổ
đại điều chí thiện được hiểu liên quan đến việc chăm lo cho đời sống của toàn
bộ dân chúng, làm cho thiên hạ thái bình.
Các nhà tư tưởng tôn giáo nói chung cho rằng thiện là ý muốn của Đấng
tối cao (Chúa trời). Chúa Trời tượng trung cho cái thiện, hơn nữa là cái thiện tối
cao, tuyệt đối và thiên đường là nơi ngự trị cái thiện, vì thế hướng thiện là
hướng tới Chúa, hướng về thiên đường. Nơi đây cái thiện nói chung và cái thiện
tối cao tồn tại như những gì có sẵn. Trên phàm trần những người tu dưỡng, phấn
đấu tốt đều là biểu hiện của việc hướng đến Chúa với lòng ngưỡng mộ, thành kính thiêng liêng.
“Chủ nghĩa duy tâm nhìn thiện và ác trong ý chí của Thượng đế hoặc
trong tinh thần tuyệt đối”. “ Những đại diện của chủ nghĩa duy vật trước chủ
nghĩa Mác thường tìm kiếm nguồn gốc của cái thiện và cái ác trong bản tính
trừu tượng của con người, trong khát vọng của con người đi tìm hưởng lạc và
hạnh phúc. Ngay trong số những kẻ gắn liền đạo đức với điều kiện sinh hoạt và
giáo dục của con người, cũng tuyên bố những quan niệm về thiện và ác là
những quan niệm vĩnh viễn và bất biến”.
Mặc dù mỗi nhà tư tưởng, mỗi trường phái, khuynh hướng trong lịch sử
tư tưởng đạo đức có những quan niệm khác nhau về cái thiện và cái ác, nhưng
nhìn chung đều xem xét thiện ác trong mối liên hệ mật thiết với nhau, đều cho
rằng thiện là cái tốt, cái hay cái đẹp, còn ác lại là cái đối lập với thiện, là cái
không tốt, là xấu. Trong những quan niệm của họ thiện và ác vừa có tính khách
quan, vừa có tính chủ quan, vừa là cái chung, phổ biến, vừa có tính chất cụ thể -
lịch sử. Với những quan niệm khác nhau về thiện và ác, đặc biệt với ba quan
niệm về cái thiện: cái thiện tối thượng, cái chí thiện, cái thiện tối cao trong lịch
sử tư tưởng đạo đức học nhân loại, chúng ta thấy những quan niệm này có thể
bổ sung cho nhau trong việc xây dựng một quan niệm lý luận về thiện và ác.
1.1.3. Quan niệm thiện ác của đạo đức học Mác – xít
Theo quan điểm của đạo đức học Mác-Lênin thì ý thức của con người về Thiện, Ác
không phải là sản phẩm trừu tượng thuần tuý có tính chất tiên thiên hoặc mầm mống di
truyền mà nó là sản phẩm của lịch sử, là kết quả phản ánh những điều kiện kinh tế- xã hội của
một thời đại, một hoàn cảnh cụ thể. Ăngghen chỉ ra rằng: “Tự giác hay không tự giác, rút
cuộc người ta đều lấy những quan điểm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tế đã tạo
thành cơ sở địa vị cho giai cấp của mình tức là từ mối quan hệ kinh tế, trong đó người ta tiến
hành sản xuất và trao đổi”. Không có quan niệm Thiện, Ác nào là vĩnh viễn đối với mọi hoàn
cảnh cụ thể. Thiện là cái tốt, đẹp, lành, cái có lợi, có ích, mang lại điều tốt đẹp cho con người,
cộng đồng, xã hội, vì sự tiến bộ của xã hội.
Cái thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong đời sống hàng
ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu xã hội, lịch sử,
giai cấp và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện cơ bản nhất là giải phóng con người khỏi chế độ người
bóc lột người, xây dựng xã hội không còn giai cấp và chế độ áp bức bất công. Trong đó con
người có điều kiện phát huy mọi năng lực, trí tuệ, cống hiến cho xã hội và thực hiện tốt mọi
nghĩa vụ của mình, sống hoà thuận, hạnh phúc bên nhau.Và cũng trong xã hội đó mọi phẩm
giá, mọi giá trị của con người mới được thực sự trân trọng, lẽ sống thực sự công bằng và nhân
ái, mình vì mọi người, mọi người vì mình. Đó là cái thiện thiêng liêng cao cả, chân chính
nhất, từ tâm nhất và vì con người nhất.
Theo quan điểm của đạo đức học Mác – Lênin thì ý thức của con người
về thiện và ác không phải là sản phẩm thuần túy có tính chất tiên thiên hoặc
“Mầm mống” di truyền. Ngược lại, nó là kết quả phản ánh những điều kiện kinh
tế xã hội của một thời đại, một hoàn cảnh cụ thể. Ăngghen chỉ ra rằng: “Tự giác
hay không tự giác, rút cuộc thì người ta đều lấy những quan điểm đạo đức của
mình từ những quan hệ thực tế đã tạo thành cơ sở cho địa vị giai cấp của mình
tức là những mối quan hệ kinh tế, trong đó người ta tiến hành sự sản xuất và trao đổi”.
Chính vì lẽ đó mà không có quan niệm thiện, ác nào là vĩnh viễn đúng
với mọi thời đại, đúng với mọi giai cấp, đúng với mọi hoàn cảnh cụ thể.
Cái thiện theo nghĩa tổng quát chính là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái
của con người trong đời sống hằng ngày. Đó cúng chính là những hành vi thể
hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yểu cầu và sự tiến bộ của xã hội. Vì thế cái
thiện cơ bản nhất là phải giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức bóc lột, mọi
sự đau khổ, bất hạnh trong cuộc sống chung của xã hội cũng như đời sống riêng
của cá nhân. Vì thế, cái thiện không phải là cái thiện của ý thức mà là cái thiện
của hiện thực. Hiện nay chúng ta đang phấn đấu để có một xã hội trong đó
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là cái thiện
lớn lao nhất. Nó đòi hỏi con người trong thực tiễn hoạt động đạo dức, tư duy,
phải lựa chọn đấu tranh để định hướng đúng, vượt qua moi cám dỗ, thử thách,
vươn tới những giá trị cao quý thấm đợm tinh thần nhân văn. Trong xã hôi chủ
nghĩa, vấn đề không phải chỉ là cổ vũ mọi cá nhân, tập thể sangs tạo ra cái thiện
với những giá trị ngày càng cao.
Cái thiện phải được thể hiện trong đời sống hiện thực hằng ngày góp
phần thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, đem lại lợi ích chung cho mọi người và cho
bản thân. Cuộc sống có ý nghĩa hơn, nhân bản của con người là phải hướng
thiện là phải khắc phục, đẩy lùi sự cám dỗ của điều ác mà có lợi cho mình (ích
kỷ hại nhân) và tính thiện từ nhỏ đến lớn có thể thiệt cho mình mà có ích cho người khác như:
“Thấy người đói rách thì thương
Rét nhường cho mặc, đói nhường cho ăn” Hoặc : “Con ai cô quạnh mẹ cha
Lớn khôn gả cưới, bé gìn giữ nuôi”
Đến những việc lướn mà thế hệ cha anh, tiêu biểu là các anh hùng liệt sỹ
đã quên mình vì đại nghĩa, sẵn sàng cống hiến cả tài năng tính mạng của mình
cho ái thiện: tự do hạnh phúc của dân tộc.
Ngày nay, con người Việt Nam là chủ thể đạo đức đang phấn đấu sáng
tạo nên cái thiện chân chính, tốt đẹp bằng những hành vi, hành động phục vụ
cho lợi ích của đân tộc, của nhân dân, vì vậy Bác Hồ đã dạy: “Việc thiện dù nhỏ
đến mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ đến mấy cũng phải tránh”. Muốn làm được
như vậy thì phải thường xuyên rèn luyện, học tập để phân biệt được cái thiện và
cái ác phải xét từ bản chất của vấn đề, phải đặt dưới sự việc vào hoàn cảnh lịch
sử cụ thể để tránh sai lầm, ngộ nhận vì những hành vi, hình thức giống nhau.
Cái ác là phạm trù không tốt đẹp, cần gạt ra khỏi đời sống cá nhân và xã hội.
Tuy nhiên, cái ác không phải là cái đối lập tuyệt đối với cái thiện trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong tiến trình phát triển của lịch sử xá hội
loài người nói chung, trong văn hóa, tôn giáo, truyền thống của các dân tộc nối
riêng, quan niệm thiện, ác nhiều khi hoàn toàn trái ngược nhau. Chẳng hạn, bộ
tộc Hô – ten – tốt (Tây Phi) có tụ giết cha mẹ lúc già yếu để tránh sựu đau ốm
dai dẳng, hoặc bộ tộc Pâylar (Trung Phi) coi “thực táng” chia nhau ăn thịt người
chết là việc làm thiêng liêng của điều thiện. Nhưng đối với các dân tộc khác thì
đó là những điều ác không thể chấp nhận được.
Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, quan niệm việc thiện cũng có thể
chuyển hóa cho nhau. Thời đại cổ sơ, khi con người đang sống theo kiểu bầy
đàn, nam nữ quan hệ tình dục với nhau không phân biệt huyết thống, họ mạc
(quần hôn) vẫn được xem là hợp đạo đức là cái thiện, được mọi người chấp
nhận. Ngày nay, trong xã hộ văn minh, quan hệ tình dục bừa bãi, không tuân
theo chế độ một vọe một chồng, đạc biệt là tình dục trực hệ không những bị xã
hội lên án là phi đạo đức (điều ác) mà còn bị pháp luật trừng trị.
Cái thiện và cái ác được chúng ta đánh giá tùy theo chỗ nó có ý nghĩa
thúc đẩy hay cản trở, làm thỏa mãn hay không thỏa nãm yêu cầu phát triển của
xã hội, của giai cấp tiến bộ về những nhu cầu hạnh phúc của cả dân tộc. Cái
thiện mà chúng ta quan niệm bao hàm sự thống nhất của mục đích và động cơ
có mục đích và kết quả của suy nghĩ, hành động được nhìn nhận như sau:
-Động cơ tốt, kết quả tốt, đó là cái thiện.
-Động cơ tốt, kết quả xấu không coi đó là cái ác.
-Động cơ xấu, kết quả tốt, không coi đó là cái thiện.
-Động cơ xấu, kết quả xấu, đó là cái ác.
Cái tốt đẹp trong đời sống hằng ngày là cái đáng quý nhưng đó chỉ mới là
cái mà nhờ đó con người từng bước vươn lên cái thiện (tích thiện). Sự biến đổi
từ cái tốt đẹp sang cái thiện phải được coi là một quá trình chuyển biến tích tụ lượng thành chất.
Quá trình vươn tới cái thiện phải là một quá quá trình tu dưỡng, rèn
luyện, bồi đắp cho con người nhũng phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Đó chính là
những phẩm chất con người mà Đảng ta đang đòi hỏi trong sự nghiệp cách
mạng đổi mới đất nước. Chỉ trên cơ sở đó con người mới có khả năng sáng tạo
ra cái thiện góp phần làm cho gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng văn minh.
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA CỦA THIỆN – ÁC ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM
2.1. Ý nghĩa của thiện – ác đối với việc xây dựng đạo đức ở Việt Nam
Nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa đạo đức, chính trị và pháp
quyền, ngay từ ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác về vấn đề này vào
hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, do vậy, đã xây dựng và phát huy vai trò của pháp
luật và đạo đức mới như là những công cụ sắc bén để quản lý xã hội. Một vấn
đề cơ bản có tính nguyên tắc trong tư tưởng của Người là tất cả quyền lực của
Nhà nước đều thuộc về nhân dân, tôn trọng và bảo đảm trên thực tế các quyền
tự do cơ bản, các lợi ích chính đáng, danh dự và nhân phẩm con người. Mục
tiêu chung của nền đạo đức và pháp luật xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, là
nhằm xây dựng một xã hội đảm bảo cho mọi người có cuộc sống lương thiện,
yên vui, kẻ ác bị trừng trị. Nói cách khác, đạo đức góp phần phục vụ sự nghiệp
chính trị cao cả, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và
sự nghiệp đó thống nhất với những giá trị đạo đức chân chính.
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc giáo dục, bồi dưỡng cho con người những
phẩm chất như nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; đặc biệt, coi đạo đức là cái gốc của
người cách mạng. Đồng thời, Người yêu cầu phải thường xuyên sửa sang và
hoàn thiện pháp luật; cho rằng, để giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống, cần
phải có sự kết hợp hài hoà giữa “pháp trị” và “đức trị”. Tuy nhiên, “pháp trị” và
“đức trị” trong quan niệm của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với “pháp trị”, “đức
trị” của các triều đại phong kiến và Nhà nước tư sản. Người khẳng định sự cần
thiết phải xây dựng một nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kết hợp với việc đẩy
mạnh giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, coi đạo đức là yếu tố bổ sung quan
trọng cho phương thức quản lý xã hội bằng pháp luật. KẾT LUẬN
Hiện nay, nhân loại đang bước vào nền công nghiệp 4.0 với nhiều thuận
lợi và thách thức khó khăn mà nhân loại đang đối mặt. Vì vậy, xây dựng và
hoàn thiện nhân cách con người đã và đang thực hiện là vô cùng cần thiết. Khi
mà xã hội đang phát triển, phấn đấu để thế giới trở thành “ngôi nhà chung” thì
chúng ta hãy cùng xích lại gần nhau, cùng rèn luyện để trở thành một người
công dân tốt, giúp ích cho gia đình, xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thiện nghĩa là cái tốt đẹp, vẻ vang mà
trong xã hội thì không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân
dân”. Mỗi con người nếu biết hết lòng hết sức phụng sự với Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, thế là thiện, thực hành chí công, vô tư, cần kiệm, liêm, chính, thế là
thiện. Ngược lại, nếu chỉ lo bóc lột nhân dân, thậm chí gây chiến tranh giết hại
nhân dân, để làm lợi cho một nhóm ít người. Thế là ác. Mỗi con người không
tránh khỏi cái ác (hoặc ít, hoặc nhiều) ví như tự đại, tự kiêu, tự tư, tự lợi nhưng
nếu có sự giúp đỡ của đoàn thể, của cộng đông với sự cố gắng học tập và cải tạo
của mọi người thì cái thì cái ác trong mỗi chúng ta ngày càng giảm đi, cái thiện
ngày càng tăng, Đó chính là con đường vươn tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân
để ngày càng tốt đẹp hơn, có ích hơn, cho xã hội mai sau của chúng ta đem lại
hạnh phúc ấm no, bình yên cho nhân dân.
Con người được sinh ra, còn nhân cách là một quá trình hình thành. Điều
đó khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục chính là con đường cơ bản và phổ
biến nhất để hình thành và phát triển nhân cách. Mặt khác, nhân cách được hình
thành và phát triển nhờ được đào tạo, tôi luyện trong mối quan hệ giữa các
thành viên từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội mà cá nhân đang tiếp xúc
và trưởng thành trong chính hoạt động sống của mình. Vì vậy, cần phải giáo dục
đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam một cách hệ thống bài bản, thông
qua môn Đạo đức học, nhằm trang bị kiến thức, thái độ, kĩ năng lựa chọn và
hành động theo hướng đảm bảo cái tốt, cái thiện, phù hợp với phẩm chất tinh
thần và lương tâm hướng thiện của thời đại, đó cũng chính là sự lựa chọn thể
hiện ở niềm tin bản thân, tin ở nhân dân và nhân loại tiến bộ. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hà, L. (2017). Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về Thiện và ác. Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
[2] Phạm Khắc Chương, 1998. Đạo đức học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3]Dương,Văn Duyên. (2013). Giáo trình đạo đức học đại cương. Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.137.
(2) Dẫn theo: Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo trình triết học Mác-Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.588.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996, tr.129.* chương 2 mục 1