Phạm trù lý luận - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Vấn đề số 08: Tại sao trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựatrên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? Hãy vận dụng nguyên tắc nàytrong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Vấn đề số 08: Tại sao trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa
trên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? Hãy vận dụng nguyên tắc này
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay?
* Phạm trù lý luận - Khái niệm lý luận
là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh mối liên hệ
bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống
nguyên lý, quy luật, phạm trù
- Đặc điểm của lý luận;
Lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao và tính lô gíc chặt chẽ. Bản thân của lý luận là
hệ thống tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn; thu được từ kinh nghiệm, từ quan
sát và thực nghiệm khoa học.
Cơ sở của lý luận là những trí thức kinh nghiệm thực tiễn, không có kinh nghiệm thực tiễn
thì không có cơ sở để khái quát lý luận.
Lý luận phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng; nó phản ánh được mối liên hệ bản
chất, tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Cấu trúc của lý luận
* Phạm trù thực tiễn - Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn, theo quan niệm của Triết học Mác - Lênin, là hoạt động vật chất - cảm tính,
mang tính lịch sử, có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Thực tiễn biểu
hiện rất đa dạng với nhiều hình thức. Trong đó, có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất
vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, lý luận và là tiêu chuẩn
kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận.
- Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
gồm những hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và
hoạt động thực nghiệm khoa học.Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn
có sớm nhất,cơ bản nhất, quan trọng nhất. Bởi lẽ, ngay từ khi con người mới xuất hiện trên
trái đất với tư cách là người, con người đã phải tiến hành sản xuất vật chất dù là giản đơn để
đáp ứng nhu cầu tồn tại. Sản xuất vật chất biểu thị mối quan hệ của con người với tự nhiên và
là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Không có sản xuất vật chất,
con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất còn là cơ sở
cho sự tồn tại của các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của
con người.Hoạt động chính trị-xã hội là hình thức thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của con
người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội,v.v..
Hoạt động chính trị - xã hội bao gồmcác hoạt động, như: đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải
phóng dân tộc; đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải tạo các quan hệ
chính trị-xã hội, nhằm tạo ra môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận lợi cho con người
và xã hội phát triển. Thiếu hình thức thực tiễn này, con người và xã hội loài người cũng không
thể phát triển bình thường.Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực
tiễn.Bởi lẽ, trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện
không có sẵn trong tự nhiên, xã hội để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục đích mà
mình đã đề ra. Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào
sản xuất vật chất, vào cải tạo chính trị-xã hội, cải tạo các quan hệ chính trị-xã hội.Ngày nay,
khi cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, “tri thức xã hội phổ biến [wissen,
knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp”5 thì hình thức
thực tiễn này ngày càng đóng vai trò quan trọng
* Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa trên nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý
luận nào, có khoa học hay không. Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều
đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy
luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và
phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ
nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng
túng như người nhằm mắt mà đi”[2]; “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong
đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”[3].
a). Xuất phát từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức (Lý luận). Nhận thức (lý
luận) cần phải có thực tiễn
- Thực tiễn là cơ sở,cơ sở đề ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi con người trong đời sống của
mình phải giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển. Thực tiễn còn quy
định khuynh hướng phát triển của lý luận. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát
triển, luôn đòi hỏi phải được khái quát, tổng kết để làm giàu kinh nghiệm, phát triển lý luận,
định hướng cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Vì thế, thực tiễn luôn thúc đẩy cho sự ra đời của
các ngành khoa học mới, của các lý luận mới
- Thực tiễn là động lực của nhận thức: Các hình thức thực tiễn của con người, ngay từ đầu,
đã bị quy định bởi nhu cầu sống,nhu cầu tồn tại. Muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản
xuất vật chất, cải tạo tự nhiên và xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Như Vậy, con
người quan hệ với thế giới xung quanh bắt đầu bằng và thông qua thực tiễn. Cũng chính bằng
và thông qua thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho chứng bộc lộ thuộc tính, tính
chất, quy luật của mình. Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu biết (tri thức) về sự vật và dần
dần có cơ sở để khái quát những hiểu biết (tri thức) này thành lý luận.Như vậy, chính thực tiễn
đã cung cấp “vật liệu” cho nhận thức, cho lý luận. Có thể nói, mọi tri thức của con người xét
đến cùng đều bắt nguồn từthực tiễn. Nói khác đi, thực tiễn là cơ sở của nhận thức, của lý luận.
thực tiễn là mục đích của lý luận. Hoạt động nhận thức,lý luận của con người ngay từ khi
con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người đã bị quy định bởi nhu cầu tồn tại,
nhu cầu sống,nhu cầu thực tiễn của mình. Để tồn tại, để sống, con người phải tìm hiểu thế giới
xung quanh để có những hiểu biết nhất định về thế giới, trên cơ sở đó phải khái quát những
hiểu biết của mình thành lý luận để định hướng cho những nhu cầu này cũng như hoạt động
của mình. Như vậy,chính nhu cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, xã hội
buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh.Nghĩa là, nhận thức
của con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cầu thực tiễn. Nổi cách khác, thực tiễn
chỉnh là mục đích của nhận thức,của lý luận
- Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, saí của lý luận.Tri thức của con người
là kết quả của quá trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện
thực khách quan. Theo triết học Mác-Lênin, chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về số
đông.Chân lý cũng không phải là cái gì đó hiển nhiên. Chân lý cũng không phải chỉ là cái có ích, có lợi
b). Xuất phát từ vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Thực tiễn cần thiết phải có lý luận.
- Lý luận có vai trò hướng dẫn chỉ đường, dẫn dắt cho các hoạt động thực tiễn: Bởi vì
lý luận nắm bắt được quy luật vận động và phát triển của hiện thực. Do đó, lý luận giúp cho
việc xác định được mục tiêu, phương hướng, làm cho hoạt động trở nên chủ động, tự giác, hạn
chế tình trạng mò mẫm, tự phát và điều chỉnh hoạt động theo đúng mục tiêu đã xác định và
vạch ra phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn.
- Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng:
+ được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con
người càng kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Lý
luận làm rõ vị trí, vai trò, lợi ích của chủ thể. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong
sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ và phong phú và sâu sắc
hơn. Từ đó, lý luận không chỉ là sự giải thích thế giới ngày một rõ hơn mà còn giúp
con người hiểu thêm về ý nghĩa của thế giới đem lại mà không ngừng cải tạo thế giới.
Lý luận không chỉ mở rộng khả năng nhìn thấy trước, dự báo tương lai, mà lý luận
khoa học còn bao hàm cả ý nghĩa tự giác hình thành cái tương lai đó. Khi lý luận thâm
nhập vào quần chúng, thông qua phong trào của quần chúng trở thành sức mạnh vật chất.
+ Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, xác định phương pháp, biện pháp thực
hiện, liên kết, tập hợp lực lượng tạo thành sức mạnh to lớn cải tạo tự nhiên, xã hội vì
sự phát triển của các cá nhân và xã hội. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong việc
giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức, tập hợp quần chúng khi đã thâm nhập vào
quần chúng trở thành lực lượng vật chất to lớn, cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển
của con người và xã hội
- Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn: Bởi vì lý luận
được tóm tắt trong phương pháp. Từ một hệ thống lý luận rút ra các nguyên tắc chỉ đạo và
điều chỉnh hoạt động thực tiễn. Lý luận khoa học sẽ cho phương pháp khoa học có hiệu quả.
Xuất phát từ khả năng tư duy ưu việt của con người mà bản chất, tính quy luật trong sự vận
động, phát triển của thực tiễn được con người nắm bắt. Nắm quy luật thực chất là nắm các mối
quan hệ bản chất, tất yếu, quyết định chiều hướng vận động, phát triển của thực tiễn. Khi thực
tiễn đang vận động, đang phát triển đến một giai đoạn nhất định, bằng việc sử dụng lý luận mà
con người có khả năng dự báo trước được sự vận động, phát triển của thực tiễn trong tương
lai. Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai,
từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển
c). Xuất phát từ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- Giữa lý luận và thực tiễn không tách rời nhau
- Giữa lý luận và thực tiễn có sự tương thích, tương ứng
- Giữa lý luận và thực tiễn có sự chuyển hoá cho nhau
d). Xuất phát từ yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- Lý luận phải được xuất phát từ thực tiễn
.- Lý luận phải phản ánh trung thực đối tượng như vốn có
- Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn
- Lý luận phải đóng vai trò chỉ đạo, dẫn đường cho thực tiễn
- Lý luận phải không ngừng được bổ sung đổi mới, phát triển hơn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễm
*. Vận dụng nguyên tắc này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
- Đối với hoạt động thực tiễn
Trong quá trình hoạt động để phát triển và tồn tại thì để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết
của mình về thế giới con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu đó để nhằm
mục đích cải biến thế giới. Các nhà khoa học đã phân sự hiểu biết của con người dựa
trên các cấp độ khác nhau để đo lường chúng.
Kinh nghiệm được xem là cấp độ thấp của nhận thức. Vậy kinh nghiệm được hiểu
theo một cách đơn giản nhất đó chính là việc con người có nhận thức này sẽ hình
thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong
các thí nghiệm khoa học. Đến cuối cùng thì tri thức kinh nghiệm là kết quả đạt được
của nhận thức kinh nghiệm. Từ đó các nhà kho học đã phân chia tri thức kinh nghiệm
thành hai loại: tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
Sự không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau của thực tiễn và lý luận đã thể
hiện được sự tống nhất giữ chúng. Trong quá trình tác động lẫn nhau thì thực tiễn
đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lí luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như đã khẳng định ở trên là thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức. Tai sao lại được nhận định như vậy là vì:
Thực tiến được con người dùng để liên hệ vói thế giới bên ngoài, bởi bì thế giới khách
quan bên ngoài chỉ được nhận thức khi thông qua hoạt động thực tiễn. Bởi vì những
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức
đều được thực tiễn đề ra và nó được xác định là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức.
Những nhu cầu khách quan mà còn người tạo ra đó chính là cải tạo thế giới và phải
giải thích. Chính nhu cầu này mà bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các
sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời sẽ làm cho sự vật
biến đổi và vận động qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp
con người nhận thức được bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới. Dựa
vào đó để con người có thể hình thành các lý luận và lý thuyết kho học nhất định. Đó
chính là sự thống nhất giữ lý thuyết và thực tiễn.
Từ những điểm trên, chúng ta cần quán triệt những điểm vận dụng sau:
Một là, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
Hai là, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn.
Ba là, phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Trong thực tiễn thì hoạt động cơ bản, đầu tiên của nó đó chính là hoạt động sản xuất.
Trong hoạt động này con người sử dụng những phương tiện thích hợp tác động vào tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất. Từ đó, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Những hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm cải biến các mối
quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển thì được gọi chung lại thành hoạt động
chính trị xã hội. Đây là những hoạt động làm cải biến mối quan hệ xã hội, làm thay
đổi các chế độ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Vận dụng nguyên tắc này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm chủ
quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và phải
sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự giải
phóng và mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương đồng về
hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin” (NEP). Với
đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ thể, quan
điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
❖ Lý luận về thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới kinh tế hiện nay:
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một
tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hoà và
tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng
tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự
tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu
hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế,
giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học
về quán triệt quan điểm thực tiễn -nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin, quan
điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới
mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý
luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt
động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ
chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ
sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở
đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa
tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình
đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể
nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như
vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm...
Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết
điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan
trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu
rõ sự vật hơn nữa -đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại
xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý
luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận
của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển
của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong những
hoàn cảnh và điều kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xã hội (Nhà
nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triền
của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất... sang tư duy
mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu,
đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật
khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp . 2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá
tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa 3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương
thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội,
thực hiện dân chủ toàn diện. 4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một nước
phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác -Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận
thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nó cũng đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch
định đường lối chính sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những nhận thức
mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách
mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những
khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp
xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác -Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần
chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới
thực hiện vai trò tích cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải
đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu
tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác -Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận
không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội
nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có
thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự
khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt
động thực tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy
cần khắc phục ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc
phục để hạn chế sự sai sót và thiệt hại.