Dấu ấn Việt Nam trên “đại lộ” hội nhập
kinh tế quốc tế
I. Khái quát chung về Hội nhập kinh tế quốc tế
1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn
kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng
thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
- Do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là
các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
3. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
- Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả, thành công
- Thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
II. Vài nét về quá trình Hộp nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Việt Nam từng bước chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
- Thực tế cho thấy, suốt chặng đường 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã chủ động
và tích vực tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương và khu vực như gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995; là thành viên
sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á-Âu (ASEM) năm 1998; trở thành thành
viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Đặc
biệt, việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đánh
dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
- Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới. Độ mở của nền kinh tế của Việt Nam được đánh giácao trên thế
giới với tỷ trọng xuất, nhập khẩu trên tổng sản phẩm nội địa (GDP) hơn
200%.
- Bên cạnh đó, Việt Nam một trong quốc gia mức hội nhập kinh tế
mức rất cao, khi tham gia kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA).
Trong đó, nổi bật như: Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP), FTA giữa Việt Nam Liên minh châu Âu
(EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) mới đây
là FTA giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ireland (UKVFTA).
- Để tham gia mạng lưới FTA rộng lớn như vậy, Việt Nam đã căn bản hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu, chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Thực
tế hơn 35 năm đổi mới cũng thể hiện, việc mở cửa, hội nhập quốc tế sâu
rộng cũng tạo áp lực để Việt Nam cải cách thành công. Song song với đó,
mở cửa, hội nhập quốc tế cũng góp phần quan trọng vào những thành tựu to
lớn mà đất nước đã đạt được. Điều này cũng đã khẳng định được vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như ghi dấu mốc lịch sử quan trọng
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt thời gian qua.
- Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) Lương
Hoàng Thái nhận định, đến nay, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ
thương mại tự do với hầu hết các nước đối tác quan trọng nhất trên thế
giới, tạo cơ sở vững chắc cho việc tăng cường và thúc đẩy trao đổi thương
mại-đầu song phương cũng như tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế
trong khu vực và trên toàn cầu.
- Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng
trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh
tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố... Việt Nam đã
được đánh giá một trong những thành viên năng động, đã nhiều sự
đóng góp tích cực cho Diễn đàn APEC.
- Trong hai năm (2010-2011), Việt Nam đã tích cực đề xuất triển khai
nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ chức thành công
nhiều hội thảo quan trọng như "Hội thảo về tăng cường hình ảnh ASEM
thông qua các hoạt động văn hóa", "Hội thảo ASEM về vượt qua khủng
hoảng- định hình sự phát triển bền vững", "Diễn đàn ASEM về an ninh
lương thực", "Diễn đàn ASEM về biến đổi khí hậu", "Diễn đàn ASEM về
lưới an toàn hội", Diễn đàn Á Âu (ASEM) về tăng trưởng xanh với
chủ đề: “Cùng hành động hướng tới các nền kinh tế xanh tăng”…
- Với hàng loạt các FTA đang thực thi và đàm phán, Việt Nam đã trở thành
tâm điểm của mạng lưới khu vực thương mại tự do rộng lớn, chiếm 59%
dân số thế giới 68% thương mại toàn cầu, góp phần gia tăng đan xen
lợi ích của Việt Nam với hầu hết các đối tác hàng đầu khu vực và thế giới.
- Bên cạnh tham gia vào các FTA, trong quá trình hội nhập kinh tế ASEAN,
Việt Nam cũng đã ghi nhiều dấu ấn quan trọng khi hoàn thành vai trò Chủ
tịch ASEAN trong các năm 1998, 2010 mới đây năm 2020. Năm
1998, chỉ 3 năm sau khi Việt Nam trở thành thành viên của khối, Việt
Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6. Kế hoạch
hành động Nội được đưa ra tại Hội nghị đã giúp duy trì sự hợp tác
tăng cường vị thế của hiệp hội trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á 1997-1998. trong năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công
vai trò Chủ tịch ASEAN, đặc biệt trong việc thúc đẩy tiến trình thực hiện
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
2. Việt Nam được đánh giá có nền tảng kinh tế mạnh, ngày càng phát triển
- Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải
cũng đánh giá, việc khai thác các FTA của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng, góp phần phát triển xuất khẩu nhanh bền vững,
giảm dần phụ thuộc vào một hay một vài thị trường.
- Năm 2020, khi đại dịch Covid-19 bùng phát tại nhiều quốc gia, làm đứt
gãy chuỗi cung ứng, kinh tế Việt Nam vẫn trụ vững thành công. Đại diện
Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết kể từ năm 2006 trở lại
đây giai đoạn “Hội nhập kinh tế” sâu rộng bởi Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của WTO.
Thống kê cho thấy, nếu như năm 2006 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước
chỉ mức 84,7 tỷ USD; trong đó kim ngạch xuất khẩu 39,8 tỷ USD nhập
khẩu 44,9 tỷ USD thì đến năm 2020 tổng kim ngạch đã lên tớixuất nhập khẩu
545,3 tỷ USD, tăng 5,3% so với năm 2006; trong đó xuất khẩu đạt 282,6 tỷ USD
và nhập khẩu đạt 262,7 tỷ USD. Riêng năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
đã đạt 668,55 tỷ USD; trong đó xuất khẩu đạt 336,31 tỷ USD nhập khẩu đạt
332,23 tỷ USD.
Đó chính nguồn lực lớn để kinh tế Việt Nam tiếp đà trong những giai đoạn tiếp
theo.
- Đặc biệt, cán cân thương mại được cải thiện nét, từ mức 14,2 tỷ USD
năm 2007 3,7 tỷ USD năm 2015. Từ năm 2016 đến nay, cán cân
thương mại luôn đạt thặng với mức xuất siêu tăng dần qua các năm từ
1,77 tỷ USD năm 2016; 2,1 tỷ USD năm 2017; 6,8 tỷ USD năm 2018;
10,9 tỷ USD năm 2019. Năm 2020, tiếp tục ghi nhận xuất siêu kỷ lục trên
19 tỷ USD. (Vẽ biểu đồ thể hiện)
- Đáng chú ý, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng
tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tăng từ 80,3% kim ngạch
xuất khẩu năm 2016 lên mức 85,1% năm 2019 và 85,2% trong năm 2020.
(Vẽ biểu đồ thể hiện)
- Trong khi đó, tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 2% tổng
kim ngạch xuất khẩu năm 2016 xuống còn 1% năm 2020. Số mặt hàng
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD tăng dần, từ 28 mặt hàng năm
2016 lên 31 mặt hàng năm 2020.
- Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên
230 thị trường. cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã sự chuyển dịch
theo hướng giảm dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á.
- Hơn nữa, việc khai thác các Hiệp định thương mại tự do cũng góp phần
phát triển xuất khẩu nhanh và bền vững, giảm dần phụ thuộc vào một hay
một vài thị trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng các loại C/O ưu
đãi theo FTA trung bình đạt 32%-34%/năm. Kết quả này phản ánh doanh
nghiệp hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam đang dần nâng cao tỷ lệ tận
dụng ưu đãi thuế quan tại các thị trường có FTA với Việt Nam.
- Nhận định về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh
nhấn mạnh báo cáo soát thống thương mại thế giới năm 2020 của
WTO đã ghi nhận trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất
thế giới, Việt Nam mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí
thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019. Điều này cho thấy
Việt Nam là đất nước “mở” sau khi gia nhập WTO và thực thi nghiêm túc
các cam kết gia nhập.
- Hơn nữa, việc ký kết và thực thi một loạt các FTA, Việt Nam đã đạt được
những kết quả rất tích cực về thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài
(FDI), tạo động lực cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Theo đánh giá xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), trong
10 năm, chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã cải
thiện được 13 bậc, từ thứ hạng 68/131 vào năm 2007 đã lên 55/137 vào
năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn
cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019, WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam
tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp thứ 67/141 nền kinh tế.
- Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát đánh giá của Liên hợp
quốc, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng
từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020. Tỷ lệ
hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020,
với mức giảm trung bình là trên 1,4% mỗi năm.
3. Phá được thế bao vây cấm vận; tạo lập giữ vững môi trường hòa bình,
thuận lợi cho phát triển đất nước.
-Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước lớn và hầu hết các
nước trên thế giới; gia nhập nhiều tổ chức quốc tế đồng thời lần đầu tiên
đảm nhiệm thành công vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an
Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009). Do vậy, vị trí của nước ta trong chính
sách khu vực của các đối tác cũng ngày càng được coi trọng hơn.
- Củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng; kiên quyết và kiên
trì đấu tranh giữ vững chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ
đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố, mở
rộng, đi vào chiều sâu từ đó đạt được những bước phát triển tốt đẹp, đặc biệt
trong hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư. Quan hệ Việt Nam -
Campuchia tiếp tục được củng cố, phát triển về mọi mặt. Hai bên đã nhất trí
phương châm phát triển quan hệ đối ngoại trong thời kỳ mới theo hướng
“láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu
dài”. Với Trung Quốc, quan hệ hai nước nhiều bước phát triển kể từ khi
bình thường hóa; hợp tác kinh tế - thương mại phát triển nhanh chóng.
- Bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước, nhất là các
nước lớn, tiếp tục đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu Việt Nam đã .
những bước phát triển quan trọng trong quan hệ với Hoa Kỳ kể từ sau bình
thường hóa quan hệ (1995); cụ thể, quan hệ kinh tế phát triển nhanh; quan hệ
an ninh, quân sự từng bước được thiết lập; hợp tác về khoa học kỹ thuật,
giáo dục, y tế, lao động, văn hóa v.v.. không ngừng được mở rộng. Đồng
thời, Việt Nam cũng ưu tiên phát triển quan hệ với các nước, các trung tâm
chính trị - kinh tế lớn của thế giới theo các khuôn khổ phù hợp.

Preview text:

Dấu ấn Việt Nam trên “đại lộ” hội nhập kinh tế quốc tế
I. Khái quát chung về Hội nhập kinh tế quốc tế 1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn
kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng
thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
- Do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là
các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
3. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
- Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả, thành công
- Thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
II. Vài nét về quá trình Hộp nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Việt Nam từng bước chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
- Thực tế cho thấy, suốt chặng đường 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã chủ động
và tích vực tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương và khu vực như gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995; là thành viên
sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á-Âu (ASEM) năm 1998; trở thành thành
viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Đặc
biệt, việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đánh
dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
- Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới. Độ mở của nền kinh tế của Việt Nam được đánh giá là cao trên thế
giới với tỷ trọng xuất, nhập khẩu trên tổng sản phẩm nội địa (GDP) là hơn 200%.
- Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong quốc gia có mức hội nhập kinh tế ở
mức rất cao, khi tham gia và ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA).
Trong đó, nổi bật như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP), FTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và mới đây
là FTA giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ireland (UKVFTA).
- Để tham gia mạng lưới FTA rộng lớn như vậy, Việt Nam đã căn bản hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu, chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Thực
tế hơn 35 năm đổi mới cũng thể hiện, việc mở cửa, hội nhập quốc tế sâu
rộng cũng tạo áp lực để Việt Nam cải cách thành công. Song song với đó,
mở cửa, hội nhập quốc tế cũng góp phần quan trọng vào những thành tựu to
lớn mà đất nước đã đạt được. Điều này cũng đã khẳng định được vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như ghi dấu mốc lịch sử quan trọng
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt thời gian qua.
- Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) Lương
Hoàng Thái nhận định, đến nay, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ
thương mại tự do với hầu hết các nước đối tác quan trọng nhất trên thế
giới, tạo cơ sở vững chắc cho việc tăng cường và thúc đẩy trao đổi thương
mại-đầu tư song phương cũng như tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế
trong khu vực và trên toàn cầu.
- Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng
trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh
tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố... Việt Nam đã
được đánh giá là một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự
đóng góp tích cực cho Diễn đàn APEC.
- Trong hai năm (2010-2011), Việt Nam đã tích cực đề xuất và triển khai
nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ chức thành công
nhiều hội thảo quan trọng như "Hội thảo về tăng cường hình ảnh ASEM
thông qua các hoạt động văn hóa", "Hội thảo ASEM về vượt qua khủng
hoảng- định hình sự phát triển bền vững", "Diễn đàn ASEM về an ninh
lương thực", "Diễn đàn ASEM về biến đổi khí hậu", "Diễn đàn ASEM về
lưới an toàn xã hội", Diễn đàn Á – Âu (ASEM) về tăng trưởng xanh với
chủ đề: “Cùng hành động hướng tới các nền kinh tế xanh tăng”…
- Với hàng loạt các FTA đang thực thi và đàm phán, Việt Nam đã trở thành
tâm điểm của mạng lưới khu vực thương mại tự do rộng lớn, chiếm 59%
dân số thế giới và 68% thương mại toàn cầu, góp phần gia tăng đan xen
lợi ích của Việt Nam với hầu hết các đối tác hàng đầu khu vực và thế giới.
- Bên cạnh tham gia vào các FTA, trong quá trình hội nhập kinh tế ASEAN,
Việt Nam cũng đã ghi nhiều dấu ấn quan trọng khi hoàn thành vai trò Chủ
tịch ASEAN trong các năm 1998, 2010 và mới đây là năm 2020. Năm
1998, chỉ 3 năm sau khi Việt Nam trở thành thành viên của khối, Việt
Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6. Kế hoạch
hành động Hà Nội được đưa ra tại Hội nghị đã giúp duy trì sự hợp tác và
tăng cường vị thế của hiệp hội trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á 1997-1998. Và trong năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công
vai trò Chủ tịch ASEAN, đặc biệt trong việc thúc đẩy tiến trình thực hiện
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
2. Việt Nam được đánh giá có nền tảng kinh tế mạnh, ngày càng phát triển
- Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải
cũng đánh giá, việc khai thác các FTA của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng, góp phần phát triển xuất khẩu nhanh và bền vững,
giảm dần phụ thuộc vào một hay một vài thị trường.
- Năm 2020, khi đại dịch Covid-19 bùng phát tại nhiều quốc gia, làm đứt
gãy chuỗi cung ứng, kinh tế Việt Nam vẫn trụ vững thành công. Đại diện
Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết kể từ năm 2006 trở lại
đây là giai đoạn “Hội nhập kinh tế” sâu rộng bởi Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của WTO.
Thống kê cho thấy, nếu như năm 2006 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước
chỉ ở mức 84,7 tỷ USD; trong đó kim ngạch xuất khẩu là 39,8 tỷ USD và nhập
khẩu là 44,9 tỷ USD thì đến năm 2020 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã lên tới
545,3 tỷ USD, tăng 5,3% so với năm 2006; trong đó xuất khẩu đạt 282,6 tỷ USD
và nhập khẩu đạt 262,7 tỷ USD. Riêng năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
đã đạt 668,55 tỷ USD; trong đó xuất khẩu đạt 336,31 tỷ USD và nhập khẩu đạt 332,23 tỷ USD.
Đó chính là nguồn lực lớn để kinh tế Việt Nam tiếp đà trong những giai đoạn tiếp theo.
- Đặc biệt, cán cân thương mại được cải thiện rõ nét, từ mức 14,2 tỷ USD
năm 2007 và 3,7 tỷ USD năm 2015. Từ năm 2016 đến nay, cán cân
thương mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm từ
1,77 tỷ USD năm 2016; 2,1 tỷ USD năm 2017; 6,8 tỷ USD năm 2018;
10,9 tỷ USD năm 2019. Năm 2020, tiếp tục ghi nhận xuất siêu kỷ lục trên
19 tỷ USD. (Vẽ biểu đồ thể hiện)
- Đáng chú ý, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng
tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tăng từ 80,3% kim ngạch
xuất khẩu năm 2016 lên mức 85,1% năm 2019 và 85,2% trong năm 2020.
(Vẽ biểu đồ thể hiện)
- Trong khi đó, tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 2% tổng
kim ngạch xuất khẩu năm 2016 xuống còn 1% năm 2020. Số mặt hàng có
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD tăng dần, từ 28 mặt hàng năm
2016 lên 31 mặt hàng năm 2020.
- Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên
230 thị trường. Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch
theo hướng giảm dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á.
- Hơn nữa, việc khai thác các Hiệp định thương mại tự do cũng góp phần
phát triển xuất khẩu nhanh và bền vững, giảm dần phụ thuộc vào một hay
một vài thị trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng các loại C/O ưu
đãi theo FTA trung bình đạt 32%-34%/năm. Kết quả này phản ánh doanh
nghiệp và hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam đang dần nâng cao tỷ lệ tận
dụng ưu đãi thuế quan tại các thị trường có FTA với Việt Nam.
- Nhận định về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh
nhấn mạnh báo cáo Rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của
WTO đã ghi nhận trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất
thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí
thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019. Điều này cho thấy
Việt Nam là đất nước “mở” sau khi gia nhập WTO và thực thi nghiêm túc các cam kết gia nhập.
- Hơn nữa, việc ký kết và thực thi một loạt các FTA, Việt Nam đã đạt được
những kết quả rất tích cực về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), tạo động lực cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), trong
10 năm, chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã cải
thiện được 13 bậc, từ thứ hạng 68/131 vào năm 2007 đã lên 55/137 vào
năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn
cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019, WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam
tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp thứ 67/141 nền kinh tế.
- Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp
quốc, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng
từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020. Tỷ lệ
hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020,
với mức giảm trung bình là trên 1,4% mỗi năm.
3. Phá được thế bao vây cấm vận; tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình,
thuận lợi cho phát triển đất nước.
-Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước lớn và hầu hết các
nước trên thế giới; gia nhập nhiều tổ chức quốc tế đồng thời lần đầu tiên
đảm nhiệm thành công vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an
Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009). Do vậy, vị trí của nước ta trong chính
sách khu vực của các đối tác cũng ngày càng được coi trọng hơn.
- Củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng; kiên quyết và kiên
trì đấu tranh giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ
đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố, mở
rộng, đi vào chiều sâu từ đó đạt được những bước phát triển tốt đẹp, đặc biệt
là trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. Quan hệ Việt Nam -
Campuchia tiếp tục được củng cố, phát triển về mọi mặt. Hai bên đã nhất trí
phương châm phát triển quan hệ đối ngoại trong thời kỳ mới theo hướng
“láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu
dài”. Với Trung Quốc, quan hệ hai nước có nhiều bước phát triển kể từ khi
bình thường hóa; hợp tác kinh tế - thương mại phát triển nhanh chóng.
- Bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước, nhất là các
nước lớn, tiếp tục đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu .Việt Nam đã có
những bước phát triển quan trọng trong quan hệ với Hoa Kỳ kể từ sau bình
thường hóa quan hệ (1995); cụ thể, quan hệ kinh tế phát triển nhanh; quan hệ
an ninh, quân sự từng bước được thiết lập; hợp tác về khoa học kỹ thuật,
giáo dục, y tế, lao động, văn hóa v.v.. không ngừng được mở rộng. Đồng
thời, Việt Nam cũng ưu tiên phát triển quan hệ với các nước, các trung tâm
chính trị - kinh tế lớn của thế giới theo các khuôn khổ phù hợp.