


Preview text:
Phân tích bài ca dao "Thân em như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?"
1. Bài phân tích câu ca dao "Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?" (Mẫu số 1)
Chế độ phong kiến hà khắc, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dần dồn người phụ nữ vào ngõ
cụt, họ phải sống dưới áp lực, bị đánh đập, khinh miệt nhưng không thể chống lại được chúng
bởi họ bị tước đi cái quyền này. Khi người ta đề cao vai trò của đàn ông thì phụ nữ ngày càng
trở nên rẻ rúng bấy nhiêu phần. Đã có biết bao người phụ nữ đau khổ, ngậm đắng nuốt cay,
ngậm ngùi cho qua đời, đã từng có nàng Kiều lưu lạc, đã có bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương
tuy tài sắc vẹn toàn, cuộc đời cũng lắm truân chuyên. Rồi bao nhiêu đắng cay tủi nhục, người
đàn bà ấy đã có những câu hát, câu hát thật sâu lắng, bi ai cay đắng.
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai."
Từ “em” chỉ những người phụ nữ xưa, họ như “tấm lụa đào”, ở đây có hai nghĩa. Đầu tiên
là để thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa, đó là lụa, cũng là lụa đào, đỏ hồng như
đôi má đào của người thiếu nữ. Vẻ đẹp này không chỉ là vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển, cao
sang mà còn là vẻ đẹp của phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn người phụ nữ, lòng thủy chung,
đức hi sinh cao cả, dũng cảm đảm đang, tam tòng tứ đức. Bốn đức tính của thời phong kiến
này, người phụ nữ nào cũng có không có đủ. Ở một khía cạnh khác, tấm “lụa đào” này tuy đẹp
nhưng lại vô cùng mong manh, yếu ớt và dễ bị tổn thương, dễ khiến người ta liên tưởng đến số
phận dài đằng đẵng, nhạt nhòa của người phụ nữ. Đó là thân phận mà tiếng nói không có giá
trị, địa vị không có giá trị, bị người đời coi thường, có khi cho là không khác gì một vật đẹp
mà nhẹ, bỏ ra ít tiền là đã có được.
Câu nói “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” càng đau xót, đáng thương cho thân phận người
phụ nữ. Sao mềm mại, đẹp đẽ, bay bổng như vậy tấm lụa là mà họ lại không quyết định được
số phận của mình. “Phất phơ giữa chợ”, người phụ nữ so sánh mình chẳng khác gì món hàng
đặt giữa chợ để người ta lựa chọn, tung tăng lên xuống, mặc cả, tiếc hùi hụi nếu không “bán”
được họ sẽ phải chịu số phận bị bỏ đi. Bốn chữ “biết vào tay ai” càng làm cho người ta hiểu số
chìm nổi của kiếp hồng nhan xưa, sống mà không thể lựa chọn hạnh phúc cho mình. Ngay cả
người tài hoa và dũng cảm như nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng không thoát khỏi kiếp sống xô bồ.
Bà bất hạnh lấy hai đời chồng để rồi cả hai lần bà đều phải chịu kiếp oan, ngày đêm sống trong
cay đắng thiếu thốn tình cảm, phải thốt lên cay đắng “ chém cha cái kiếp chồng chung ”. Không
chỉ Hồ Xuân Hương mà có lẽ hàng nghìn người phụ nữ thời ấy cũng cùng chung một nỗi đau,
niềm tiếc nuối. Thời phong kiến, lệnh cha mẹ là lệnh trời, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, không
có quyền phản đối, lựa chọn, biết đâu sẽ gặp được người chung thủy, biết chí làm ăn, biết yêu
thương vợ con, hay gặp họ bần hàn, trác táng, làm khổ vợ con. Ôi, kiếp hồng nhan thuở ấy chỉ
trông chờ vào may rủi, như hạt mưa sa, trời thương thì về căn gác tía, không thương thì lạc vào
ruộng cày vô tình chẳng ai hay.
Cả bài thơ nhìn có vẻ trang nhã nhưng nếu đọc kỹ chỉ thấy phảng phất lời than thở tinh tế,
kín đáo mà người xưa gửi gắm. Thân phận của một người phụ nữ là lụa là mịn màng và quý
giá, nhưng nếu không ai hiểu được vẻ đẹp tiềm ẩn, nó sẽ trở nên vô nghĩa và vô giá trị. Đó là
lời than thở, than vãn nhẹ nhàng nhưng rất xót xa, tiêu biểu cho tiếng nói, sự phản kháng yếu
ớt, tế nhị của người phụ nữ xưa trước những bất công mà họ phải gánh chịu. Là phụ nữ đã chịu
thiệt thòi, chịu nhiều đắng cay tủi nhục thì làm sao mà không chạnh lòng cho được.
Với rất nhiều ý nghĩa nội dung ẩn sau hai câu thơ ngắn gọn, hàm súc, cách phân loại khác
nhau, ca dao dân ca thường được gieo vần, truyền miệng từ đời này qua đời khác nhằm mục
đích thể hiện quan điểm, giáo dục của ông cha và giáo dục thể hệ sau. Câu ca dao thương thân
nổi tiếng này được coi là tượng đài tiêu biểu được nhắc đến nhiều khi người ta tiếc thương cho
thân phận người phụ nữ thời phong kiến lúc bấy giờ.
2. Bài phân tích câu ca dao "Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?" (Mẫu số 2)
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi. Đã có rất
nhiều ví dụ về sự bất hạnh như vậy. Một nàng Kiều vất vả, ngậm đắng nuốt cay và âm thầm
khóc thương cho cuộc đời. Một Vũ Nương chịu nỗi oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết.
Và bao nhiêu kiếp đời phụ nữ trong xã hội phong kiến chưa được biết tới. Nhiều đến mức nó
đã trở thành thông lệ khiến cho phụ nữ bị lạm dụng và bị gán cái mác yếu đuối, là đối tượng
dễ dàng bị chà đạp trong xã hội. Còn những người phụ nữ thì không còn sức chiến đấu hoặc
sức phản kháng đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời tố cáo biến thành lời than thở xót xa:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Lời phàn nàn này đẫm nước mắt và mỏng manh như làn khói trong không gian, như thân
phận của một người phụ nữ. Dân ca là một hình thức sinh hoạt dân gian rất phổ biến, trong đó
chứa đựng rất nhiều cảm xúc và cũng là lời than thở tự trách mình. Các tác giả dân gian có lẽ
thấu hiểu nỗi đau này, đồng cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu bài thơ là một lời
xưng hô nhỏ ngọt ngào; “Thân em”, từ “thân em” gợi cảm giác bé nhỏ, yếu ớt. Cô gái giới
thiệu bản thân cũng ngại ngùng và khiêm tốn nói hai từ "thân em". Thân phận người phụ nữ đã
được đề cập trong văn học viết. Hồ Xuân Hương thương cảm cho số phận “bảy nổi ba chìm”
của “thân em vừa trắng vừa tròn”. Nguyễn Du đã thốt lên một cách tàn nhẫn “ Đau đớn thay
phận đàn bà ” và Tú Xương cũng đã từng thổn thức khi viết về bà Tú “ Lặn lội thân cò khi
quãng vắng ”. Còn ca dao kể về cuộc đời người con gái qua hình ảnh như dải “lụa đào”. Biện
pháp so sánh ở đây ngọt ngào, tao nhã thấm vào lòng người đọc, người nghe. Lụa đào có vẻ
ngoài đẹp, mềm mại như tâm hồn người phụ nữ và phẩm chất, là chất liệu mềm mại dùng để
may vá, trang trí người hoặc khung tranh. Và có lẽ người phụ nữ của cuộc đời xưa cũng vậy,
họ là một viên ngọc quý, một chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Tấm lụa đào
là một hình ảnh so sánh thật tao nhã, thật mềm mại nhưng lại nặng trĩu bao bọc. Vì vậy, câu
tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ toát ra từ đó: "Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai".
Dải lụa được đào giữa chợ, giữa sự tấp nập kẻ bán người mua. Ai có mắt xanh mới biết giá
trị của lụa đào? Từ “ phất phơ ” không có nghĩa cố định cũng như “hoa trôi man mác biết là về
đâu”. Bị số phận đẩy đến bước đường cùng, cô gái không đủ mạnh mẽ, không thể chủ động
xác định hướng đi cho mình để rồi ngày đêm trăn trở không biết yêu cầu của mình sẽ “vào tay
ai”. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỷ hay một Kim
Trọng hào hoa, nho nhã? Họ ý thức khá rõ về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm này
không biết mình có được người bạn tâm giao để lựa chọn hay không? Trong suốt cuộc đời,
người phụ nữ xưa bị đẩy vào thế bị động, chỉ quanh quẩn trong nhà thờ chồng thờ cha, theo
con. Dải lụa nhẹ nhàng tung bay trong gió, phó mặc để gió mang đến bàn tay bất kỳ. Câu hỏi
“vào tay ai” thật tế nhị, tài tình gợi cho người đọc một cảm giác ngậm ngùi. Câu hỏi này có lẽ
vẫn còn mãi trong cuộc sống của phụ nữ thời phong kiến.
Toàn bộ câu thơ là một lời than thở. Câu ca dao sinh ra từ số phận hẩm hiu của một người
phụ nữ thời phong kiến. Không ai trong số những tác giả ẩn danh sáng tác đoạn thơ trên có thể
thoải mái khi nghĩ đến đứa con tinh thần của mình. Câu tục ngữ là sản phẩm của quá trình đông
lại của những giọt nước mắt trong tim. Từng lời của câu thơ toát lên sự ngậm ngùi. Nước mắt
chảy dài. Ca dao là tiếng nói của lòng người, là lời than thở của nhiều thân phận!
Ca dao sử dụng phép so sánh rất linh hoạt và rất gần gũi với cuộc sống đời thường đã tạo
nên một hình ảnh gợi nhiều cảm xúc. Nó như len lỏi dần vào từng ngóc ngách của dải lụa đào
phất phơ. Tất cả tạo nên những dòng cảm xúc buồn vui chảy từ người này sang người khác, từ
kiếp này sang kiếp khác, trong một không gian muôn thuở của âm vang. Phụ nữ thời phong
kiến phải chịu nhiều đau khổ và chấp nhận làm vinh quang cho những người xung quanh. Số
phận của nàng như dải lụa tung bay trong gió, không biết sẽ đi về đâu. Nhan đề bài thơ là một
lời than thở yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng đã ao ước: "Ví đây đổi phận làm trai
được". Những mong muốn này sẽ kéo dài bao lâu, hay chúng ta phải trở về với tiếng than khóc bất lực?