Phân tích bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Kết nối tri thức
Phân tích bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Kết nối tri thức. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF bao gồm 128 trang tổng hợp các kiến thức chọn lọc giúp các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!
Chủ đề: Bài 6: Chân dung cuộc sống (KNTT)
Môn: Ngữ Văn 8
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Bếp Lửa
Dàn ý phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt Dàn ý 1 1. Mở bài
Giới thiệu về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. 2. Thân bài:
* Hoàn cảnh ra đời:
• Sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài.
• Là một trong những sáng tác đầu tay của ông.
• Được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. * Phân tích: 1 - Khổ thơ 1:
• Bài thơ mở ra bằng hình ảnh bếp lửa quen thuộc.
• Từ láy “chờn vờn” cùng hình ảnh “ấp iu” cảm giác về một ngọn lửa bập
bùng, ẩn hiện trong làm sương sớm vừa gợi đôi bàn tay khéo léo và tấm
lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa.
• Chữ “thương” tình cảm lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận
sâu thẳm trái tim người đọc.
- 4 khổ thơ tiếp: Ký ức về bà gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu.
• Kỷ niệm khi cháu lên 4 tuổi: với cái “đói mòn đói mỏi”, hình ảnh “khô
rạc ngựa gầy” những năm tháng đầy đói khổ, vất vả.
• Kỷ niệm năm cháu 8 tuổi: giặc ngoại xâm kéo đến tàn phá nhưng cũng
không thể xóa nhòa tình làng nghĩa xóm. Lời dặn “Cứ bảo nhà vẫn được
bình yên” hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, đảm đang, kiên cường.
- Khổ thơ cuối: Những trăn trở, suy tư của cháu về bà
• Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà,
niềm vui trăm ngả” cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự
biết ơn và nỗi nhớ của mình. 3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của bài thơ: Bằng hình ảnh tả thực cùng những cảm xúc
thật của tác giả bài thơ ngay từ khi ra đời cho đến nay vẫn luôn có một vị trí riêng của nó. Dàn ý 2 (1) Mở bài 2
Giới thiệu về nhà thơ Bằng Việt, bài thơ Bếp lửa. (2) Thân bài
a. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng về bà
• Hình ảnh bếp lửa gợi sự hy sinh, vất vả: “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu
nồng đượm” mang cảm giác về một ngọn lửa bập bùng ẩn hiện trong làn
sương sớm bởi đôi tay khéo léo, tấm lòng ấm áp của người bà.
• Điệp ngữ “một bếp lửa”: nhấn mạnh vào hình ảnh trung tâm của bài thơ,
khơi gợi nguồn cảm xúc cho tác giả nhớ về bà.
• Chữ “thương”: bộc lộ một tình cảm quý mến, yêu thương của người cháu
với những sự hy sinh, tần tảo của bà.
b. Những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà gắn với hình ảnh bếp lửa
- Bếp lửa gắn với một thời kỳ khó khăn của dân tộc:
• Khi cháu lên bốn tuổi: đã quá quen thuộc với mùi khói bếp, nhớ đến cái
năm “đói mòn đói mỏi”, hình ảnh “khô rạc ngựa gầy”.
• Những năm tháng đói khổ mà khi nhớ về lại cảm thấy xót xa: “Chỉ nhớ
khói hun nhèm mắt cháu/Nghĩ đến giờ sống mũi còn cay”.
- Bếp lửa gắn với những năm tháng sống cùng bà:
• Tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng xa gợi nhớ về những câu chuyện bà kể.
• Cuộc sống sinh hoạt thường nhật hàng: bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
- Bếp lửa còn gắn với tình cảm của cháu: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó
nhọc”, đó là ngọn lửa của tình yêu thương tha thiết dành cho bà. 3
- Ngọn lửa bà nhen: chứa đựng những hy vọng, niềm tin của bà truyền cho cháu.
c. Suy ngẫm về cuộc đời người bà
- Cuộc đời bà cũng giống như biết bao người phụ nữ Việt Nam: “lận đận nắng
mưa”, tần tảo và vất vả lo cho con cháu suốt đời.
- Điệp từ “nhóm” kết hợp với một loạt hình ảnh:
• “bếp lửa ấp iu nồng đượm”: tình cảm ấm áp của bà.
• “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”: bà dạy cháu biết yêu thương
• “nồi xôi gạo mới sẻ chia chung vui”: bà dạy cháu biết chia sẻ
• “những tâm tình tuổi nhỏ”: góp phần bồi đắp tâm hồn cháu.
=> Từ hình ảnh bếp lửa được bà nhen nhóm mà dạy cho cháu biết bao bài học ý nghĩa trong cuộc sống.
- Câu thơ cuối như một tiếng reo: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa”, chỉ với
“bếp lửa” thôi mà làm nên biết bao điều kỳ diệu, đó chính là nhờ có đôi bàn tay của bà.
d. Thực tại cuộc sống của người cháu
• Người cháu khi trưởng thành: được đi đến nhiều nơi, chứng kiến hình ảnh
“khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà” với niềm vui, say mê về cuộc sống hiện đại.
• Nhưng vẫn không quên đi những kỉ niệm khó khăn bên người bà với “bếp
lửa” chứa chan tình cảm vô bờ của bà.
• âu hỏi “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”: như một lời nhắc nhở bản
thân phải ghi nhớ những năm tháng được sống bên bà. (3) Kết bài 4
Khẳng định lại giá trị của bài thơ Bếp lửa. Dàn ý 3 1. Mở bài:
• Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên du học ở Liên Xô.
• Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ
gợi lại những kỉ niệm xúc động tình bà cháu, thể hiện tình cảm kính yêu
và biết ơn vô hạn của cháu đối với bà, cùng là đối với quê hương, đất nước. 2. Thân bài: * Phân tích:
- Hình ảnh bếp lửa gắn với những kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ.
• Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, gắn liền với hình ảnh người bà tần tảo sớm khuya:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm,
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…
• Bếp lửa khơi dòng hoài niệm, khơi dòng cảm xúc. Từ ấp iu gợi liên tưởng
đến bàn tay khéo léo và tấm lòng kiên trì của người nhóm lửa. Người bà
mỗi sớm nhen lên ngọn lửa, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, suốt một đời…
- Hồi tưởng về thời gian được sống trong tình yêu thương, chăm chút của bà. 5
• Cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu trước cách mạng và trong kháng
chiến, hàng loạt hình ảnh gợi tả, gợi cảm: đói mòn đói mỏi, khô rạc ngựa
gầy, xóm làng bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi… in đậm trong kí ức bi thảm
của chú bé lên tám tuổi.
• Cha mẹ đi kháng chiến, cháu ở cùng bà, được bà chăm sóc: Bà dạy cháu
làm, bà chăm cháu học…
• Tuổi thơ vất vả gắn liền với bếp lửa bập bùng, bếp lửa hiện diện như tình
thương ấm áp, như sự cưu mang, an ủi của bà đối với đứa cháu nhỏ, như
một phần cuộc đời gian truân của chính bà.
• Tuy vất vả, nhọc nhằn nhưng bà vẫn vượt qua tất cả để các con yên tâm
đánh giặc nơi chiến trường xa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Đến đây thì hình ảnh bếp lửa đã mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: tình thương
— sự sống — niềm tin bất diệt.
- Nhưng suy ngẫm của người cháu về bà, gắn liền với hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc.
• Tình cảm thương yêu và biết ơn chân thành: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
• Giữa người bà và bếp lửa như có những nét tương đồng. Bà là người ấp
iu giữ lửa, người nhóm lửa đểngọn lửa của tình thương trong mỗi gia đình
luôn cháy sáng, nối kết quá khứ, hiện tại, tương lai.
• Cháu giờ đã trưởng thành, được chắp cánh bay xa nhưng luôn nhớ về bà,
về bếp lửa của gia đình. Bếp lửa đã thành điểm nhớ, thành chỗ dựa tinh
thần cho đứa cháu xa quê: Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa… 6 3. Kết bài:
• Bài thơ Bếp lửa mang một ý nghĩa triết lí sâu sắc: Những gì là kỉ niệm
thân thiết của tuổi thơ đều có sức toả sáng, nuôi dưỡng tâm hồn, nâng đỡ
con người trong hành trình dài rộng của cuộc đời.
• Tình cảm gia đình là cơ sở vững chắc của tình yêu quê hương đất nước. Dàn ý 4 I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
● Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng
chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm
đẹp và ước mơ tuổi trẻ
● Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô
Chủ đề bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía II. Thân bài:
* Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu
- Dòng hồi tưởng về bà bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa
● Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” – bếp lửa thực
● Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” diễn tả sự dịu dàng, ấm áo, kiên nhẫn của người nhóm lửa
● Biện pháp điệp từ (điệp từ “bếp lửa”) gợi lên hình ảnh sống động lung
linh nhưng hết sức thân thuộc gần gũi với người cháu 7
→ Hình ảnh bếp lửa làm trỗi dậy dòng kí ức về bà và tuổi thơ
- Kỉ niệm về tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn
● “Đói mòn đói mỏi” người cháu thấy ám ảnh bởi nạn đói và quá khứ đau thương của dân tộc
● Ấn tượng về khói bếp hun nhèm mắt cháu để khi nghĩ lại “sống mũi còn cay”
● Dòng hồi tưởng, kỉ niệm gắn với âm thanh tiếng tu hú của chốn đồng nội:
tiếng tu hú được nhắc tới 5 lần trong bài khi thảng thốt, lúc khắc khoải,
mơ hồ tất cả để gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng
● Tâm trạng của cháu vì thế cũng tha thiết, mãnh liệt hơn bởi sự đùm bọc, che chở của bà
- Tuổi thơ khó khăn gian khổ nhưng cháu được mà yêu thương,che chở
● ”bà dạy”, bà chăm” thể hiện sâu đậm tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương
vô bờ và sự chăm chút của bà đối với cháu
● Ngay cả trong gian khó, hiểm nguy của chiến tranh bà vẫn vững vàng –
phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng ( Vẫn vững
lòng bà dặn cháu đinh ninh)
→ Qua dòng hồi tưởng về bà, những dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chính
là sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự,
nỗi nhớ của người cháu thể hiện tình yêu thương vô hạn đối với bà
* Những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa
- Suy ngẫm về cuộc đời bà
- Từ những kỉ niệm, hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh người bà 8
+ Hình ảnh bếp lửa kết tinh trong hình ảnh ngọn lửa: ngọn lửa của tình yêu
thương, sự hy sinh luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên hy vọng, ý chí
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
+ Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho
cháu, người bà nhen nhóm những điều thiện lương tốt đẹp đối với cháu
→ Hình ảnh người bà trong lòng cháu là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa,
truyền niềm tin, sức sống tới thế hệ tương lai
- Sự tần tảo, hi sinh của bà thể hiện: “ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”: sự
chiêm nghiệm của cháu về cuộc đời bà
● Cuộc đời bà đầy những gian truân, vất vả, lận đận trải qua nắng mưa
tưởng như không bao giờ dứt
● Điệp từ “nhóm” lặp lại bốn lần: người bà đã nhóm lên, khơi dậy những
yêu thương, ký ức và giá trị sống tốt đẹp trong lòng người cháu
- Hình ảnh bếp lửa kết tinh thành hình ảnh ngọn lửa chất chứa niềm tin, hy vọng của bà
+ Người cháu như phát hiện ra điều kỳ diệu giữa cuộc sống đời thường “Ôi kì lạ
và thiêng liêng- bếp lửa” : người cháu thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà
* Nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà
● Lời tự bạch của đứa cháu khi trưởng thành, xa quê hương: người cháu
vẫn cảm thấy ấm áp bởi tình yêu thương vô bờ của bà
● Kết thúc bài thơ tác giả tự vấn “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” :
niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu 9 III. Kết bài:
Tác giả rất thành công trong việc sáng tạo ra hình tượng mang ý nghĩa thực,
mang ý nghĩa biểu tượng: bếp lửa
● Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự phù hợp với dòng hồi tưởng và tình cảm của cháu
● Bài thơ chứa đựng triết lý, ý nghĩa thầm kín: những điều thân thiết của
tuổi thơ của mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành
trình cuộc đời, tình yêu thương và lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể
của tình yêu thương, quê hương
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 1
Văn học ra đời giữa những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người
cho đến ngày tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như thứ khí
giới thanh cao mà đắc lực mà chúng ta có để thay đổi thế giới giả dối và tàn ác,
vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn. Văn chương trao truyền
những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, trong trẻo cho tâm hồn con người hướng đến
vẻ đẹp của chân thiện mĩ. Chính vì thế mà văn chương giống như suối nguồn lai
tạo sự sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang văn câu thơ bồi đắp thêm cho
ta những tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những tình cảm ta chưa có. Bài
thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ như thế. Cũng viết về những tình cảm
muôn thuở của loài người đó là tình bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước ta đã
gặp trong thơ ca dân gian, trong những trang văn tuyệt đẹp của Hoàng Phủ
Ngọc Tường về dòng sông quê hương, những câu hát và cảnh xứ non sông,
những câu tục ngữ về tình bà cháu thiêng liêng: “Ngó lên lạt luộc mái nhà/Bao
nhiêu lạt luộc nhớ ông bà bấy nhiêu.” Nhưng tìm đến những câu thơ của Bằng
Việt không hiểu sao vẫn rung động hồn ta bởi những nỗi băn khoăn riêng, vẫn
ám ảnh và đầy dư ba về sự hi sinh của người bà tần tảo và tình cháu yêu bà. 10
Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông toát lên vẻ
đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc
khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình và “Bếp
lửa cũng không là bài thơ ngoại lệ.Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác
giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt,
sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ.
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm.
Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ
đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu
thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện
niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình,
đối với quê hương, đất nước.
Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng
về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có
gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và
dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh
một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai.
Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay
dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái
bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp
ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người
cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai: 11
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh
của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình
yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng
nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.
Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi
nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi
đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài.
Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả
những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.
Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những
năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về
vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế
hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống
trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ
trong gang tấc. Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như
một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết
bao nhiêu là sự thiệt thòi, gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và
kiệt sức. Vì thế, cái đói đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người 12
bố đánh xe chắc chắn cũng khô héo, tiều tụy, xanh xao…tất cả đã khiến cho
người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến
rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã cùng bà
nhóm lửa, khói bếp tỏa ra đã làm cho nhèm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn
cay”. Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người cháu hay đó chính là
nỗi cơ cực, vất vả của cái nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu
thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân
thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ trầm xuống thấm
thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ dâng đầy trong
lòng thi sĩ khiến “sống mũi còn cay”.
Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm ròng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ
vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh
của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi
thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một 13
không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da
diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà còn
nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu
hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi
hoài trên những cánh đồng xa)… Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm
của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống
vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn
trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm
đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quí. “Mẹ và cha
công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể
chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà
bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương
bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế , bà trở thành ngọn
nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết
hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến
đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức
công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một
mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính
trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao
nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có
một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, 14
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm
làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm
bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được
việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm
chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc
ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu
phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc
giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn
được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại
trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quí biết
bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn
của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có
được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên
mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.
Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình,
người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát.
Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản
chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành
biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ 15
“một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của
ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho
cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống
phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà
còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự
sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng
định phẩm chất cao quí của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân,
lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người
phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý
nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là
người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng
trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn
lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà
nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung
vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà
đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã 16
thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà.
Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình
yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh
bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để
cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê
hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi
kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo
ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ
cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.
Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn,
trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi “khói
trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc
khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa: “Nhưng vẫn chẳng lúc
nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Sự tương phản
giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa
bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm
lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người
cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền
lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ
tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc.
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài
vọng xa xăm của người cháu luôn đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia
đình, nhớ tới quê hương, đất nước.
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng
bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ
linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ
với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ 17
đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung
da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ
đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy
trần trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta
mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…”
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 2
Mỗi chúng ta ai mà chẳng có quê hương, ai mà chẳng có một thời đong đầy kỉ
niệm để nhớ, để thương, để là động lực không ngừng phấn đấu. Nhà thơ Bằng
Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê hương, với khói
bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu.
Tất cả những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng
câu chữ qua bài thơ Bếp lửa.
Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà
thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc
nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng
chất chứa biết bao ý nghĩa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm 18
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Một khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc.
Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của
người cháu xa xứ đối với bà. Hai từ “ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần
của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu
từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .
Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm
mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng
biết bao người dân Việt Nam:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho
cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn
đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy,
mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Cái cay ấy không chỉ là mùi khói,
mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất
vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu.
Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu. 19
Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo
ban, nuôi dạy cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có
vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành
người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho
thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có
cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính
yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.
Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn,
khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn.
Nhưng bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của
hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng.
Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn trước
Bằng Việt: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” . Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng
hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ: 20
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng
liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu
thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát
vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên : “Ôi
kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” . để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay
chính của bà đối với cuộc đời mình. Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương
theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường
tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu
vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu
giữ lại ấn tượng sâu đậm. Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc
Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ
này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với
mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 3
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ
hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết 21
nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng
của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng
năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế,
điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà
cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài
thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên
Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu,
đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà,
với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi
gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa,
tác giả chợt nhớ về người bà:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách
chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và
tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa
của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện
lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận
được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà.
Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương
bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con
thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu
không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà
cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ. 22
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những
năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn
xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu
chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn
cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà
và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà
là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa
cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không
thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính
cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có
trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để
rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người
cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà 23
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy
bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh
bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác,
một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng
tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và
dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi,
đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ "tu hú" được điệp lại ba lần
làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy
như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hú lúc
mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ.
Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn,
rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác
giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (...)
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư,
bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy,
nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.
Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ
mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của
cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của
con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên 24
ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh
chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng
liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà
không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu
tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không
chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người.
Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu.
Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc
về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng.
Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi,
bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện
những ngày ở Huế... Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: "Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng
bà?" Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ
người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 4
Tuổi thơ mỗi con người gắn với muôn vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên
cạnh đó là những cảm xúc, những tình cảm dành cho nhau để rồi khi mai sau
lớn lên dùng tình cảm kỉ niệm ấy tiếp tục hành trang cuộc đời. Rất nhiều tác
phẩm văn học thơ, truyện ngắn được các tác giả lấy cảm hứng từ tình cảm
thiêng liêng ấy, tình cảm vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình yêu quê
hương đất nước,... Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ Bếp Lửa với tình cảm
và niềm nhung nhớ dành cho người bà của mình khi đang du học tại Liên Xô
vào năm 1963. Hình ảnh đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực
nhưng tràn ngập tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, che chở trong những
ngày bố mẹ đi làm xa và niềm hạnh phúc bên bếp lửa ấm áp tình thương.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm 25
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"
Hình ảnh bếp lửa được khắc họa lên từ ba câu thơ đầu qua điệp ngữ "một bếp
lửa" và từ láy "chờn vờn" khiến ta có thể hình dung ra được một khung cảnh
đơn sơ, giản dị nhưng ấm áp, đầy ấp tình cảm. Ngọn lửa từ bếp ấp ôm bao niềm
nhung nhớ về bà, chứa đựng biết bao kỉ niệm của người cháu nhỏ và bà. Người
bà ân cần nhóm nhen ngọn lửa tình cảm ấy, cũng giống như đôi tay bà chăm sóc
cho cháu nhẹ nhàng quan tâm, hình ảnh người bà như làn khói từ bếp vào mỗi
buổi sớm mai, hình ảnh khổ cực chăm nuôi của bà dãi dầu mưa nắng càng thắp
lên trong lòng người cháu rõ rệt vết hằn nỗi nhớ. Từ hai câu đầu qua hình ảnh
bếp lửa mỗi sáng đã được tác giả khắc họa lên một bếp lửa chan chứa kỉ niệm,
một bếp lửa đầy ấp tình yêu, một bếp lửa sáng rực lên hình ảnh bà. Đến câu tiếp
theo bao nhiêu nỗi niềm như phút chốc vỡ òa "cháu thương bà biết mấy nắng
mưa", tác giả đau lòng, xót xa trước nỗi nhớ về hình ảnh bà dù mưa dù nắng
nhưng vẫn lo cho cháu đầy đủ từng cái ăn cái mặc, gian truân cuộc đời bà vì
cháu mà trải qua không một lời nói, bà âm thầm vì cháu mà làm mọi việc, đều là
những hy sinh thầm lặng từ người bà kính yêu. Từ đây ta thấy rằng trong trái
tim tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết là bao, có cả một vùng trời
thương nhớ về người bà, một câu "cháu thương bà" cũng sẽ đọng lại trong ta một ý nghĩa sâu sắc.
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay" 26
Ở đoạn này, kỷ niệm không phải là hình ảnh nhẹ nhàng như "chờn vờn sương
sớm" hay "ấp iu nồng đượm" mà là những kỉ niệm ám ảnh trong tâm trí tác giả,
đứa cháu bốn tuổi cùng bà cơ cực trải qua nạn đói năm 1945. Không khí u ám,
lầm than của nạn đói nhờ có người bà kính yêu đã được xoa dịu đi phần nào, bà
tần tảo sớm hôm mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn đỡ đói. Thành
ngữ "đói mòn đói mỏi" nghe như tiếng kêu xé lòng, nỗi ám ảnh của một đứa trẻ
hằng sâu trong tâm trí là nỗi sợ hãi. Không như bao người khi nghĩ về tuổi thơ
của mình là mảng màu hồng, thì với tác giả đó lại là mảng màu xám pha cả màu
đỏ của máu từ những nỗi đau của đói khổ, cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử đã làm
chết hơn hai triệu con người. Nhưng có bà luôn bên cạnh che chở, có khói bếp
làm nhòa đi phần nào đau thương từ nạn đói, kỉ niệm vẫn mang chút hơi ấm,
làm quên đi nỗi khốn khổ. Chi tiết "khói hun nhèm mắt cháu" để thấy được đứa
trẻ bốn tuổi ấy cố lấp đi những ám ảnh của việc đói mòn mỏi bằng khói bếp của
bà, và chi tiết "sống mũi còn cay" cay do mùi khói nghi ngút ấy đang cố che
giấu đi mùi máu tanh ở các ngõ ngách, cay vì đứa trẻ ấy đã phải chịu cảnh "đói
mòn đói mỏi" đang dần len lỏi vào từng mảng ký ức thơ ngây, mang theo nỗi
đáng sợ của nạn đói, mang theo cả cảm giác thèm từng củ khoai, củ sắn, khi ấy
những món ăn đơn sơ cũng trở thành "mỹ vị nhân gian".
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"
"Tám năm ròng" khoảng thời gian dài đằng đẵng cháu cùng bà vẫn luôn nhóm
lên ngọn lửa yêu thương, nồng ấm, ngọn lửa của sự sống, khoảng thời gian đó
dẫu trải qua khó khăn nhọc nhằn nhưng chỉ cần có bà vẫn thật bình yên. Tuổi 27
thơ người cháu gắn với bà với bếp lửa yêu thương, gắn với cả tiếng tu hú kêu
trên những cánh đồng, như thúc giục người nông dân mau ra ruộng thu hoạch
thoát khỏi sự đói khát. Bên cạnh đó, khi tiếng tu hú kêu cũng như một tiếng
chuông báo rằng: "Bà ơi! Bà kể chuyện cháu nghe." Từ "tu hú" được lặp lại ba
lần như khẳng định nỗi nhớ của tác giả vì trong văn học nghệ thuật, tiếng chim
tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Tiếng
tu hú trở thành một khoảng trời kỷ niệm nhẹ nhàng đậm tình yêu thương giữa tác giả và bà.
"Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Những câu thơ đơn sơ mộc mạc ấy vẫn nói lên được sự tận tụy của bà chăm lo
cho cháu khi "mẹ cùng cha công tác bận không về". Hình ảnh bà như một người
cha một người mẹ lo lắng chăm bẫm cho con mình, cũng như một người thầy
dạy bảo học trò, bà cũng là cả một bầu trời yêu thương của tác giả. Cấu trúc
"bà-cháu" thể hiện một tình yêu sự gắn kết của người bà với người cháu. Hình
ảnh "bà dạy cháu làm", bà dạy cháu cháu cách làm người, dạy cháu tự lập cho
cuộc sống của mình, bà dạy cháu yêu thương gia đình, và hình ảnh "bà chăm
cháu học" bà dạy cho cháu từng nét chữ, bà cho cháu kiến thức mai sau giúp ích
cho đất nước. "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc" đứa cháu nhỏ lo lắng
cho bà, nhìn thấy bà cực nhọc đứa cháu cùng bà nhóm lên bếp lửa giúp bà đỡ đi
phần nào nhọc nhằn. Sau đó lại là lời trách tu hú của đứa trẻ thơ ngây, trách tu 28
hú sao lại chẳng đến ở với bà, giúp bà đỡ đần công việc, để bà đỡ cô quạnh
buồn tủi, mà tu hú cứ mãi ham chơi trên những cánh đồng kia.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 5
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp ưu nồng đượm”
Không biết vì lẽ gì hai câu thơ đó cứ theo tôi mãi trong suốt năm tháng xa nhà
của mình. Mỗi lần nhớ về bà, nhớ về nhà tôi lại nhớ đến nó – nhớ đến “Bếp lửa” của Bằng Việt.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước
ngoài. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa
mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca
Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968.
Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu
trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến
những suy ngẫm sâu xa. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi về
những hồi tưởng trong quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, biết suy
ngẫm hơn, thấu hiểu bà hơn để rồi gửi nỗi nhớ mong được gặp bà trong tình cảnh xa cách.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc của làng quê Việt Nam để từ đó
gợi nhắc người cháu nhớ về bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” 29
Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh
này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà
cũng gắn liền với nó. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi
cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ.
Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc của nhà thơ về
bà của mình. Từ láy “chờn vờn” ở câu thơ trước đi liền với “ấp iu” ở câu sau
vừa gợi cảm giác về một ngọn lửa bập bùng, ẩn hiện trong làm sương sớm vừa
gợi đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa. Bếp
lửa đã thắp lên trong cháu những kỷ niệm về bà, thổi bùng lên tình yêu thương
và nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi. Khổ thơ đầu ngắn ngủi kết thúc bằng tình cảm
của người cháu. Chữ “thương” ấy đã lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm
vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.
Bốn khổ thơ tiếp theo lần lượt là những ký ức về năm tháng cháu được sống bên
bà. Đầu tiên là kỷ niệm của người cháu khi lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Đoạn thơ vừa là ký ức về một tuổi thơ gian khổ của cháu vừa gợi nhắc về nạn
đói khủng khiếp năm bốn lăm. Những câu thơ làm ta nhớ đến: “Người chết như
ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba
bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người” trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Và người cháu
đã lớn lên trong tình cảnh như thế. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” cùng với hình
ảnh tả thực “khô rạc ngựa gầy” đã diễn tả vô cùng chân thực tình cảnh đói khổ, 30
mệt mỏi, kiệt cùng sức lực mà nạn đói đã lấy đi của những con người trong thời
kỳ đó. Thế nhưng, còn hơn cả cái đói, cái nghèo, hình ảnh mà người cháu nhớ
nhất là khói – khói của những bếp lửa bập bùng, của những kỷ niệm về năm
tháng đói khổ, cơ cực mà cháu đã cùng bà trải qua. Và dẫu cho năm tháng đó có
trôi qua từ rất lâu thì những ký ức đó cho đến giờ vẫn khiến cháu cay xè khóe
mắt khi nhớ tới. Vẫn là hình ảnh bếp lửa, bếp lửa mờ mờ khói nhưng đã khơi
lên biết bao cảm xúc chân thật, bao tình cảm, bao nhớ thương và cả những giọt
nước mắt nơi người đọc. Thơ là phải đi từ trái tim đến trái tim và tôi tin rằng
những câu thơ này của Bằng Việt đã làm được điều đó.
Kỷ niệm về bà cứ thế theo cháu từng ngày, gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Cái đói khổ chưa qua thì giặc ngoại xâm đã tới. Chiến tranh ác liệt, mẹ và cha
đều bận công tác xa nha “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, ngần ấy thời
gian cháu lớn lên cùng bà. Không còn hình ảnh bếp lửa, không còn mùi khói
cay xè mắt cháu, ký ức của cháu lúc này là tiếng kêu của những con chim tu hú
trên trời cao. Mười một dòng thơ mà âm vang tiếng chim cất lên năm lần. Có
lúc nghe mơ hồ, xa tít nơi “những cánh đồng xa”, có lúc lại gần gũi, thân
thương “sao mà tha thiết thế”, lắm khi thì dồn dập, giục giã, lúc lại khắc khoải
như than thở, sẻ chia… Tiếng chim không chỉ gợi ra một không gian mênh
mông, bát ngát mà nó còn gợi cái hiu quạnh, lẻ loi của bà và cháu. Họ - một già,
một trẻ đã phải nương tựa vào nhau mà sống hết những tháng ngày gian khổ của 31
chiến tranh như thế. Nhưng dù có nghèo, có khổ thì người bà vẫn luôn hết lòng
chăm lo cho đứa cháu của mình: “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy
cháu làm, bà chăm cháu học”.
Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Chiến tranh đã gây ra bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa
được tình làng, nghĩa xóm. Trong những tháng ngày xa quê những ký ức về
những người làng xóm đáng kính đã cùng hai bà cháu đi qua hết những năm
tháng chiến tranh đang lần lượt hiện về trong tâm trí của cháu. Lời dặn dò “Mày
viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh
của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà
vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương
vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường.
Từ những hình ảnh bếp lửa cụ thể, gắn liền với cuộc sống, lời thơ chuyển sang
cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa mới:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, 32
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của
tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Điệp từ “một
ngọn lửa” nối tiếp nhau đã tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, chắc khỏe nhưng
cũng rất lung linh và đủ sức làm ấm lòng người đọc. Để từ đó kỷ niệm tuổi thơ
dần chuyển sang những suy nghĩ về bà bằng tất cả sự biết ơn của cháu. Sau bao
nhiêu vất vả, khổ cực bà vừa là người giữ lửa vừa là người truyền lửa cho cháu.
Bà “nhóm niềm yêu thương” trong cháu, truyền cho cháu tình yêu thương, cho
cháu hiểu thế nào là tình làng nghĩa xóm, khơi dậy trong cháu biết bao điều tốt đẹp.
Khổ thơ cuối là lời tâm sự, bộc bạch của đứa cháu đã lớn khôn. Dù khoảng cách
có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ - Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa?...”. Cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay
“Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực
cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người
đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 6
Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng,
hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương,... nhưng sâu trong trái tim
mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ảnh
sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên. Nó sẽ đi theo ta suốt
những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị
vĩnh hằng trong tim ta... Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn 33
có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta,... và để lại dấu ấn làm
kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng.... Nhà thơ Bằng Việt cũng có một
tuổi thơ như thế... Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh
phúc vô cùng! Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm,
chăm sóc, chở che của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi... có bà! Ông
đã sáng tác bài thơ "Bếp lửa" khi đang là một du học sinh ở Liên Xô, theo dòng
hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà ở bên, ông tìm về tuổi
thơ được ở cùng bà với dòng chảy thời gian bên bếp lửa bập bùng tình yêu
thương ấm áp, theo nhịp đập của một con tim nhớ nhung da diết... "Bếp lửa"
không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người... "Bếp lửa"
hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh
lửa "chờn vờn", "chờn vờn", đúng không bà ơi... ?
Bà đang nhóm bếp trong những dòng thơ đầu của cháu...
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"
Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ "một bếp lửa" đã đi liền với các từ láy... gợi cho
ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Ta cảm nhận được trong câu thơ
đầu, bếp lửa với những ngọn lửa ấm nóng cứ "chờn vờn" sưởi ấm cả gian nhà
vào lúc sớm tinh mơ mà sương sớm xuống buốt giá một mùa đông khi hai bà
cháu sống bên nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu nhớ lại khi hồi tưởng
về quá khứ. Vì có hình bóng bà luôn gắn liền với bếp lửa "rồi sớm rồi chiều" bà
nhen hay bếp lửa ấy cũng ấm như lòng bà thương cháu, ấm như tình cảm gia
đình, hơi ấm của bếp lửa cũng chính là của bà đang sưởi tim cháu, lan tỏa cả
gian nhà chỉ có hai người vốn lạnh lẽo, trống vắng, xoa dịu nỗi cô đơn, buồn tẻ
của hai bà cháu hay là ấm cả mùa đông đầy "sương sớm" ngoài kia... ? " Ấp iu"-
gợi một bàn tay nhem nhóm lên ngọn lửa vừa đủ ấm một cách khéo, ân cần. 34
Chính vì vậy, mặc dù trong hai câu thơ đầu, bà không xuất hiện trực tiếp, nhưng
ta thấy hình ảnh bà đã hiện lên rất rõ. Bà đang ngồi bên bếp lửa để nhóm lên
ngọn lửa "chờn vờn", "ấp iu nồng đượm" tình yêu thương vô bờ mà bà dành cho
cháu. Để rồi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt lên theo dòng xúc cảm xót xa "Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa" trong trái tim của cháu nhớ về người bà gian
nan, vất vả và từng trải! Chỉ một từ "thương" thôi cũng đủ đọng lại ý thơ cho cả
đoạn. Cháu biết lắm và cháu thương lắm bà ơi những nhọc nhằn, "nắng mưa",
khó khăn, gian truân đời bà! Cháu hiểu lắm và cảm lắm bà ơi những hy sinh
thầm lặng của cuộc đời bà! Tình thương là vị muối mặn của tình người, là chất
keo của mối gắn bó. Chữ "thương" vốn xuất hiện nhiều trong thơ ca trữ tình và
đặc biệt xuất hiện nhiều trong những tác phẩm nói về tình yêu thương con
người. Đối tượng của tình thương là lòng trắc ẩn và như vậy, một từ "thương"
đã có thể thấy được biết bao cảm xúc đang sống dậy trong lòng cháu, một nỗi
nhớ thương cồn cào, da diết, mãnh liệt và ước ao được trở về tuổi thơ bến bà,
ngồi cạnh bà dưới ấm áp bếp lửa và "nồng đượm" tình yêu thương... Hình ảnh
bà "biết mấy nắng mưa" cứ rõ dần, tỏ dần với sự hy sinh âm thầm, lặng lẽ. Từ
hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra theo bập bùng
ánh lửa kỉ niệm, chảy về quá khứ... :
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"
Kỷ niệm năm cháu bốn tuổi ám ảnh nhất là mùi khói và cái nghèo đói. Những
năm tháng đói khổ, người cháu cảm nhận, biết được mùi khói từ hồi lên bốn, đó
chính là nạn đói năm 1945, cái đói khủng khiếp, ghê rợn và dai dẳng, "đói mòn 35
đói mỏi". Từ "mòn mỏi" được tách ra làm hai tiếng đau đến xé lòng, nó như ăn
sâu vào tâm trí đứa cháu sự ám ảnh không thể nào quên- cái đói kéo dài làm con
người mệt mỏi, kiệt sức dần, như thể từ từ giết chết người ta vậy! Bao trùm lên
toàn xã hội lúc bấy giờ là cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử của dân tộc ta đã làm
chết hơn hai triệu người! Trong kí ức của cháu, đến giờ nó vẫn còn ám ảnh dai
dẳng lắm, khủng khiếp lắm! Hơn hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác
giả, như thể vừa mới "hun nhèm" thôi! Kỉ niệm ùa về ngập tràn trong tim, trong
tâm óc, và đọng lại nơi khóe mắt cay cay mùi khói của quá khứ. Cay vì khói, vì
cái đói làm những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ dại cay xè đi trong cảm giác
"đói mòn đói mỏi"đang ăn sâu vào từng tế bào, dấy lên trong cổ họng và dường
như là cả cơ thể nỗi thèm khát cái ăn, củ khoai, củ sắn, hay là giọt nước mắt
mừng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng khi sắp được ăn cho thỏa nỗi
thèm, bù lấp phần nào cái đói dai dẳng, lúc bà đang lặng lẽ nhóm bếp lửa, tức là
cháu sắp được ăn rồi đấy! Trong tâm trí non nớt của đứa trẻ lên bốn, dù đồ ăn
cũng chẳng có gì ngon, nhưng hồi ấy là cả một thứ "sơn hào hải vị" không gì
sánh bằng, cả một điều lớn lao, vĩ đại!
"... Cái năm đói củ rong giềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm" (Đò Lèn-Nguyễn Duy)
Vâng! Chỉ như thế thôi, cũng làm ấm lòng cháu và trở thành một kỉ niệm không
thể quên của đời cháu! Cái "cay" ấy còn là cái đắng của những đói khổ không
chỉ của có hai bà cháu tác giả mà còn của nhiều người khác nữa! Đến người còn
không có ăn, nói chi "người gầy""khô rạc" là điều dĩ nhiên! Theo lời tâm sự của
tác giả, lúc đó, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, bố tác giả có đi đánh xe chạy
chuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội . Đó cũng là một kỷ niệm còn
neo lại nơi tâm trí cháu, trở thành một trong những điều ám ảnh suốt cuộc đời
cháu mãi không quên! Khổ thơ không nhắc tới bà, nhưng sao bà đẹp và lặng 36
thầm thế! Bà chở che cho cháu và cho cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt
những ngày đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và dai dẳng... Bà nhỏ bé
mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy... Trong lòng cháu... !
Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm
chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra
rõ hơn và đẹp hơn cả:
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"
"Tám năm ròng"mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đẵng, ròng rã, với bao
nhọc nhằn khó khăn, vất vả và cả nỗi sợ hãi, niềm thương nhớ da diết nữa,... cứ
đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy ,"cháu cùng bà nhóm lửa",
vẫn nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu cháy bỏng nơi trái tim một cậu
bé hồn nhiên, trong trắng tuổi lên tám.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp
lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong
tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.
Đó là tiếng chim tu hú kêu. Âm thanh ấy sao mà da diết, khắc khoải, mà buồn
thương thế! Nó ngân dài lê thê suốt cả khổ thơ, là âm thanh của quá khứ dội về
hiện tại, làm kỷ niệm như đang sống dậy trong tâm hồn cháu. Ôi những kỉ niệm
ấy, có cả đắng và ngọt, cô đơn và hạnh phúc! Từ "tu hú" được điệp lại ba lần
làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy
như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng "tu hú" lúc
mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa, lâng lâng trong lòng người cháu 37
xa xứ. Trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự
khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Trong thực tế, tu hú lại là một loài
chim bất hạnh, không biết ấp trứng và làm tổ.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 7
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy
cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ
ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.
Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là Bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một
bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước.
Sau khi xuất bản, tác phẩm này đã được bạn đọc đón nhận, làm nên tên tuổi
Bằng Việt như một trong những nhà thơ hồn hậu, chân thành và da diết.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".
Khổ thơ đầu chỉ vỏn vẹn ba câu nhưng đã khắc sâu hình ảnh "bếp lửa" trong kí
ức của tác giả. Từ bao đời nay, bếp lửa đã trở thành một vật dụng quá đỗi quen
thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân làng quê Việt Nam. Đó là nơi
đun nấu những bữa cơm ngon lành và ấm cúng cho cả gia đình sau một ngày
làm việc. Là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn, là không khí sinh
hoạt gia đình đầm ấm, yên vui. Trong mỗi gia đình, không thể không có một bếp lửa.
Có lẽ vì những điều ấy nên đang sống ở xứ người lạnh lẽo, tác giả chạnh lòng
nhớ về bếp lửa của quê nhà: 38
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".
Ba tiếng "một bếp lửa" được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài
thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh "bếp lửa" như một dấu ấn
không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ.
Từ láy "chờn vờn" có sức gợi tả rất lớn. Nó vẽ nên một ngọn lửa không định
hình, lúc to, lúc nhỏ nhưng vẫn cháy cao, tỏa sáng một cách mãnh liệt. Hình ảnh
ấy vừa giúp ta hình dung làn sương sớm lành lạnh đang nhẹ vờn quanh bếp lửa
bập bùng, lại vừa rất thích hợp để gợi lên cái mờ nhòe của ký ức theo thời gian,
của những gì đã qua, đã rời xa nhưng vẫn còn có sức ám ảnh day dứt...
Từ láy "ấp iu" cũng là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là một
từ láy đơn thuần là sự kết hợp và biển thể của hai từ "ấp ủ" và "nâng niu". Một
bếp lửa ủ than hồng nồng đượm nhờ có bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng
chăm chút của người nhóm bếp.
Từ hình ảnh "bếp lửa", ta liên tưởng đến hình ảnh người nhóm bếp: người mẹ,
người chị và đặc biệt trong bài thơ này là người bà - người phụ nữ cả một đời
vất vả lo toan cho cháu, chăm lo, vun vén cho cuộc sống của cháu trong những
năm kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn và gian khổ.
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh nổi bật và gắn bó mật thiết với nhau, nhòe
lẫn trong nhau đó là "bà" và "bếp lửa". Trong hồi tưởng của người cháu, hình
ảnh bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Qua bao năm tháng, nắng mưa, bà vẫn
nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời, trong mọi cảnh ngộ. Bếp
lửa là biểu hiện cụ thể, đầy gợi cảm về sự tần tảo, sự chăm sóc, yêu thương của
bà dành cho cháu và những người thân. Bếp lửa là tình bà ấm nóng. Bếp lửa ban ngày bà chăm chút. 39
Bếp lửa còn gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Bếp lửa ấy cứ ám ảnh
day dứt trong tâm trí, trong nỗi nhớ mà nhà thơ luôn trân trọng, gìn giữ. Chính
vì điều đó, khi nghĩ đến bếp lửa, hình ảnh người bà nhân hậu lại hiện lên rất rõ
trong tâm trí của nhà thơ.
Vào đề chỉ với ba câu thơ nhưng lại có đến hai lần điệp ngữ "một bếp lửa".
Phải! Chỉ một bếp lửa nhỏ bé ấy cũng đủ soi sáng cả quãng đường cháu đi, đủ
để gợi về cả một quá khứ, một tình yêu thương mãnh liệt. Hình ảnh ấy được lặp
đi như tô, như khắc đậm thêm tình yêu thương của cháu đối với bà. Người cháu,
dù đã cố kìm nén, cũng không thể nào giấu được nỗi lòng của mình:
"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".
Chữ "thương" diễn đạt rất chân thật, giản dị, không một chút hoa mỹ như chính
tấm lòng của đứa cháu đối với bà. Chính cách nói gây xúc động đối với người
nghe. Ta nghe như tiếng thơ đang thổn thức...
Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: "Cháu thương
bà biết mấy nắng mưa". Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách
trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu
đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ba câu thơ mở đầu đã
diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về
bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.
Và chính tình thương nhớ da diết đã đánh thức tác giả sống lại với bao kỉ niệm thời thơ bên cạnh bà:
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy 40
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!"
Dường như tuổi thơ đầy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong
tâm trí của tác giả. Nhớ về những tháng ngày thơ ấu bên bà, tác giả như cảm
nhận được mùi khói vẫn còn đang hăng nồng bên sống mũi. Cái mùi khói bếp
ấy, mùi khói quen thuộc mà cháu đã được chịu đựng từ khi cháu lên bốn, mùi
khói đã từng hun nhèm đôi mắt của cháu ngày xưa, mùi khói cay, khét vì củi
ướt, ví sương nhiều và giá lạnh.
Mùi khói ấy đâu chỉ do ngọn lửa bập bùng từ bếp của bà, mà đó còn là mùi khói
của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu
thốn của cuộc đời của hai bà cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói
chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao.
Tuổi thơ ấy thật gian khổ, nhọc nhằn và vất vả. Tuổi thơ ấy có cái bóng đen ghê
rợn của nạn đói năm 1945. Cụm từ "đói mòn đói mỏi" đã diễn tả xúc động về
cái khổ của con người, của cuộc sống trong thời kỳ đó. Ta chợt nhớ đến lời thơ
của Tố Hữu miêu tả tình cảnh nhân dân ta ngày ấy:
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 8
Có những câu ca, bài thơ chỉ chạm nhẹ vào trái tim người đọc nhưng khiến họ
nhớ mãi. Đọc thơ Bằng Việt chắc hẳn người đọc sẽ nhận ra được sự lan truyền
kì diệu của câu chữ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác trong những năm tháng
kháng chiến với tình bà cháu gắn bó, ấm áp cùng những gian khổ nhọc nhằn ấu
thơ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa”, vào thời gian một đoạn hồi ức đẹp đẽ nhất.
Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm
tháng ấu thơ vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, bình dị trong mỗi 41
gia đình Việt Nam thời xưa nhưng dường như có sức ám ảnh và lay động tác
giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không thể phai nhòa.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa
Điệp từ “một bếp lửa” có sức chứa đựng tình cảm và cảm xúc rất lớn và chân
thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh
bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời. Một loạt
những ký ức về bà, về kí ức ngày xưa cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến tác giả phải
thốt lên “ôi”. Một từ “ôi” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao
nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng
bên cạnh bà. Kí ức cứ thế ùa về:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay
Một tuổi thơ nhọc nhằn, vất vả bên cạnh bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quá thân
thuộc với mùi khói ở bếp lửa. Đất nước rơi vào ách thống trị thực dân, tình cảnh
nạn đói thê thảm là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy trong
khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ
như lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi "cay” hay là 42
tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tần tảo sớm hôm.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc
nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên
tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều
khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả
những giấc mơ của cháu về tương lai đất nước hòa bình độc lập.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm
kìm nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân
tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi
cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn. 43
Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng
nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo
cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa.
Nhưng chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu:
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Đức hi sinh cao cả của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù
gian khổ, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chắc và
bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi
sinh cho gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn
non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương
cho đất nước lầm than.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi 44
Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn” lửa như nâng tầm cao hơn của tình
yêu và sự hi sinh của người bà. Bà vẫn luôn nhen nhóm yêu thương, một tình
yêu chung và riêng bao la, bất diệt.
Khổ thơ cuối cùng là thời điểm trở về thực tại của tác giả, giống như là một
chuyến đi trở về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa
Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa
vòng trái đất nhưng những ký ức tuổi thơ đó luôn là điều thiêng liêng mà cháu
luôn trân quý. Nhắc nhở bản thân không được phép quên đi. Nhắc nhở ký ức
luôn sống mãi, không quên.
Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như
khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, tràn
đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 9
Nhà thơ Bằng Việt sinh ngày 15/06/1941, quê ông thuộc xã Chàng Sơn, Thạch
Thất, Hà Nội. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Ông là cây bút tài năng có nhiều đóng góp cho nền thi ca
của dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và dồi dào với rất nhiều các
tác phẩm có giá trị. Thơ Bằng Việt thiết tha, mượt mà và trong trẻo. Nhiều áng
thơ đã khai thác tối đa những kỷ niệm cùng mơ ước của tuổi trẻ. 45
Bài thơ Bếp Lửa được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt 19 tuổi và đang đi
du học Liên Xô. Trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người bà của mình da
diết, những ý thơ tự nhiên ngọt ngào và bình dị ấy cứ tuôn chảy để rồi tạo nên
một thi phẩm đặc sắc. Bếp lửa đã gợi lên những kỉ niệm đầy xúc động về tình
cảm bà cháu, về những năm tháng nhọc nhằn trong kí ức của nhà thơ, từ đó
khéo léo bộc lộ tình yêu quê hương đất nước.
Hình ảnh về bếp lửa quê nhà đã khơi nguồn cảm xúc cho thấy đó là những kỉ
niệm quen thuộc, gần gũi, thân thương. Phân tích bài thơ Bếp lửa, chúng ta mới
thấy được hết những ý nghĩa lớn lao của hình tượng thân thuộc này. Với dáng
hình tảo tần khuya sớm của bà cũng là tình cảm sâu đậm bà dành cho cháu đã
hiện lên rõ nét qua những vần thơ:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh khói bếp hiện lên chập chờn cùng mảng kí ức thăm thẳm trong tâm
hồn của nhà thơ. Bà đã thắp lên bếp lửa, ánh sáng tuổi thơ được thắp lên và tỏa
sáng lung linh trong kí ức của đứa cháu nhỏ. Bếp lửa đó phải chăng chính là bếp
lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa?
Phân tích bài thơ Bếp lửa là cảm nhận về tình bà cháu sâu đậm được thể hiện
qua từng lời thơ. Đó là những buổi sớm khi sương mai còn đọng trên những
nhành cây, hình ảnh bếp lửa ấm áp đã được bà thắp lên tự khi nào. Từ láy “chờn
vờn” kết hợp cùng động từ “ấp iu” được đặt ở giữa câu đã cho thấy sự vất vả
khuya sớm, sự lam lũ chăm chỉ ở người bà của tác giả.
Cả một tuổi thơ tràn ngập kí ức có bếp lửa, có hình ảnh về người bà chịu thương
chịu khó. Động từ “thương” cùng tính từ nắng mưa ở cuối câu thơ đã cho thấy
nhà thơ yêu mến người bà biết bao để rồi phải thốt lên những tình cảm da diết 46
ấy. Khoảng cách của không gian dù là nửa vòng trái đất nhưng nhà thơ vẫn cảm
nhận được sự yêu thương, vỗ về từ đôi bàn tay khéo léo và kiên nhẫn của bà.
Phân tích bài thơ Bếp lửa, người đọc không khỏi xúc động với những dòng thơ
dung dị mà ngập tràn cảm xúc này.
Trong cái khoảnh khắc nhớ nhà, nhớ quê hương ấy, trong lòng Bằng Việt lại
trào dâng một tình yêu thương vô hạn với người bà của mình. Những khổ thơ
tiếp theo là dòng hồi tưởng của Bằng Việt về những năm tháng sống bên bà gắn
liền với hình ảnh bếp lửa.
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những câu thơ dung dị, nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình. Câu chuyện tuổi thơ
với nhiều kỉ niệm cùng bà như được giãi bày bởi lối kể tự nhiên. Câu chuyện
tuổi thơ ấy không chỉ có bà Tiên, có phép màu, mà còn là hình ảnh về bà và bếp
lửa yêu thương. Đến đây, chúng ta thấy xúc động biết bao.
Trong cái nạn đói ghê rợn của năm 1945, những ngày nghèo đói, vất vả thì
chính bà là người đã gắn bó với nhà thơ, xua bớt đi cái không khí của nạn đói
ấy. Mùi khói bếp đã trở thành một phần kí ức của đứa cháu nhỏ. Đứa trẻ lên 4
ấy đã sống trong tình yêu thương, che chở của bà. Ngọt ngào ký ức đan quyện
mùi khói – kí ức có bà, có mái bếp ấm nồng tình thân.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 10 47
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thơ của ông toát lên vẻ đẹp đằm thắm, mượt mà khi viết về những kỉ niệm với
gia đình, với lứa tuổi học trò hồn nhiên, mơ mộng. Nổi bật nhất trong các sáng
tác của ông là bài thơ Bếp lửa, được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang học tập
tại Liên Xô. Nhớ bà và nhớ những kỉ niệm về bà, Bằng Việt đã viết bài thơ này,
nó được trích trong tập Hương cây - Bếp lửa cùng với Lưu Quang Vũ. Đọc bài
thơ, ta có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của người cháu dành cho bà
cũng như nỗi nhớ bà khôn nguôi của tác giả.
Hình ảnh bà hiện ra trong kí ức của nhà thơ là ở trong căn bếp của bà:
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm"
Từ láy "chờn vờn" trong hình ảnh bếp lửa gợi liên tưởng đến trong kí ức của
người cháu hình ảnh bà và bếp lửa của bà hiện về chập chờn như khói bếp. Điệp
từ "Một bếp lửa" có tác dụng nhấn mạnh cái bếp lửa để nấu cơm, đun nước
hằng ngày cũng như là bếp lửa của cuộc đời bà, đã trải qua biết mấy nắng mưa:
"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Từ chỉ số lượng "một" khắc họa rõ nét
hình ảnh bếp lửa của một người bà yêu thương cháu, một mình bà chứ không
phải ai khác. Chính trong cái bếp lửa "ấp iu nồng đượm" ấy, người cháu được
sống trong tình yêu thương của bà, được bà chở che cả tuổi thơ, cho nên tác giả
rất yêu thương người bà của mình.
Nhà thơ gắn liền với một tuổi thơ cơ cực, thiếu thốn trong những năm tháng hai bà cháu sống cùng nhau:
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy 48
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"
Tác giả là một trong những đứa trẻ phải trải qua những năm tháng vất vả, cơ cực
đến mức đói mòn, đói mỏi của cả dân tộc. Hình ảnh khói bếp của bà được nhắc
đến trong suốt khổ thơ cho thấy sự thấm sâu vào tâm hồn đứa trẻ của khói bếp.
Chính những năm tháng vất vả, thiếu thốn ấy, nhà thơ mới càng thêm trân trọng
tình cảm của bà dành cho mình. Nghĩ về những điều đó, nhà thơ thấy sống mũi
cay cay, như rưng rưng xúc động trước một quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm
tình yêu thương của bà.
Những kỉ niệm về bà được tác giả kể lại lần lượt ở những câu thơ tiếp theo:
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà thường kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!"
Tám năm là một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hình thành nên tuổi thơ
của mỗi con người. Trong tám năm ở cùng với bà đó, nhà thơ đã trải qua biết
bao nhiêu kỉ niệm cùng với bà. Hình ảnh tiếng tu hú kêu như giục giã những cây
lúa ngoài đồng mau chín, để bà con người nông dân không phải chịu đựng cái
đói thêm một ngày nào nữa. Và khi tu hú kêu cũng là lúc người cháu được nghe
bà kể chuyện của bà ngày trước, là những thứ tạo nên kí ức ngày hôm nay của
tác giả. Từ "tu hú" được lặp lại đến ba lần với tiếng kêu tha thiết, như đang vang
vọng đâu đây trong kí ức của tác giả. Kí ức ấy không hề đầy đủ cả mẹ và cha:
"Mẹ cùng cha công tác bận không về 49
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học"
Dù nhà thơ phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của cha mẹ nhưng bù lại vẫn nhận
được sự yêu thương vô bờ của bà. Bà đã thay cha mẹ dạy dỗ cháu nên người, bà
dạy cho cháu làm những công việc nhà, bà bảo ban cháu cố gắng học tập. Tất cả
đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương, sự chở che, đùm bọc của bà dành cho
cháu. Đến đây, nhà thơ lại bộc lộ cảm xúc thương xót cho sự vất vả, khó nhọc của bà:
"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Bếp lửa của cuộc đời bà khơi dậy trong tâm hồn người cháu một tình yêu
thương và tha thiết, một sự biết ơn đối với bà. Bếp lửa còn gắn liền với tiếng tu
hú. Hình ảnh "tu hú" lại được lặp lại cho thấy nó đã đi sâu vào tiềm thức của
nhà thơ, khi nhớ về bà và bếp lửa của bà thì nhà thơ cũng nhớ tới âm thanh của
con tu hú. Tiếng tu hú kêu da diết, khắc khoải như khiến cho tác giả nhớ về
những kỉ niệm ngày xưa.
Nếu ở trong những dòng thơ đầu, nhà thơ tái hiện lên cho người đọc những hình
ảnh và kỉ niệm của tác giả với bà và bếp lửa của bà thì ở những dòng thơ sau,
nhà thơ Bằng Việt lại làm hiện lên những kí ức đau thương mà có lẽ cho đến
hiện tại, tác giả vẫn khó có thể quên được.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 11
Tình yêu thương, lòng biết ơn và ký ức tuổi thơ luôn là hành trang quý giá nâng
bước chân ta vào đời. Ai cũng có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc trong 50
vòng tay che chở của mẹ, sự ấm áp của tình cha. Nhưng, cuộc sống của chúng ta
sẽ trọn vẹn và giàu ý nghĩa hơn nếu tuổi thơ chúng ta có một người bà để yêu
quý bà và được bà yêu quý.
Bắt nguồn từ cảm xúc ấy, bài thơ Bếp lửa được sáng tác, khi nhà thơ Bằng Việt
còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô. Bài thơ là nỗi nhớ nhung về người bà
yêu quý với những kỷ niệm trong sáng của tuổi thơ.
Có lẽ vào một buổi sáng tinh mơ se lạnh nơi xứ lạ, người cháu chợt nhìn thấy
đâu đó bếp lửa nhà ai hửng lên trong làn sương sớm, hay đây là một hình ảnh
thức dậy trong tâm trí nhà thơ:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Hai câu thơ, hình ảnh bếp lửa lặp đi lặp lại 2 lần, giọng thơ thiết tha, sâu lắng!
Hình ảnh đó chắc quen thuộc lắm, cháu từng gắn bó với nó lắm, nhưng đã xa,
lâu rồi không nhìn thấy nên bây giờ gặp lại mới bâng khuâng, xúc động đến thế!
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Thì ra bếp lửa gợi lên hình ảnh thân thương. Cuộc đời bà gắn liền với bếp lửa
thân quen. Đây là cách nói hoán dụ: Nói đến bếp lửa là liên tưởng đến bà, và
ngược lại. Vậy là trong tuổi thơ của cháu, hình ảnh bà hằng ngày cặm cụi nhóm
bếp thổi cơm đã khắc sâu trong tâm trí. Hình ảnh bếp lửa còn mang sắc thái ẩn
dụ. Từ láy chờn vờn tả thực ngọn lửa nhỏ, run rẩy trong gió sớm, gợi nhớ vóc
dáng gầy guộc, mong manh của bà. Những tính từ ấp iu, nồng đượm khiến
người đọc có thể hình dung sắc đỏ nồng nàn của ngọn lửa nhưng không gợi cảm
giác thiêu đốt mà đem đến cảm giác dịu dàng, thư thái như sưởi ấm giữa mùa
đông. Có phải đó là tấm lòng yêu thương của bà luôn ấp ủ, chắt chiu cho con cháu? 51
Cụm từ biết mấy nắng mưa đã gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà.
Chỉ với 3 câu thơ, ta thấy trong nỗi nhớ nhung hiện lên chân dung một người bà
bình dị và nhân hậu biết bao!
Nỗi nhớ khơi nguồn cho những dòng hồi tưởng, mở ra một loạt ký ức yêu
thương về một thời thơ ấu:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Bốn tuổi là lứa tuổi còn chưa đi mẫu giáo, nhưng trong trí khôn non nớt mới
hình thành, cháu đã có bà trong tâm trí. Mùi khói vừa tả thực vừa mang ý nghĩa
ẩn dụ. Đó là mùi khói bếp cay cay, hay đó là hơi hướng thân thuộc của bà?
Chao ôi, tuổi thơ của cháu thật nhiều ý nghĩa vì được sống bên bà, dù tuổi thơ
ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói 1945. Những câu thơ đầy ám ảnh:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Cụm từ đói mòn đói mỏi không chỉ khắc sâu cảnh gian khổ, thiếu thốn, nhọc
nhằn mà còn nhấn mạnh sự chịu đựng bền bỉ của con người. Hình dạng chú
ngựa khô rạc còm cõi, tội nghiệp, dễ khiến ta hình dung đến vẻ hốc hác, trầm
lặng, khắc khổ của người đánh xe. Hình ảnh chú ngựa gầy giơ xương đã nói lên
tất cả. Sức ngựa đã mòn, hẳn sinh lực con người cũng rất tệ.
Cháu nhớ hết, nhưng tại sao lại chỉ nhớ khói?:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Sức trai tráng của bố dường như cạn kiệt, huống chi bà già yếu, mong manh?
Có lẽ bà tiều tụy nhiều lắm, thương lắm, chịu đựng lắm! Tác giả không kể ra
những nhọc nhằn, kham khổ. Chỉ biết ký ức ấy không bao giờ phai nhạt, đến nỗi 52
nghĩ lại còn đau xót ngậm ngùi. Có thể hình dung trong gia đình ba thế hệ ấy, bà
là người mong manh nhất nhưng mạnh mẽ nhất, quan trọng nhất. Dường như bà
không gục ngã, thì con cháu cũng không thể gục ngã. Bà của cháu nhẫn nại, kiên cường biết bao!
Dấu ấn sâu sắc nhất là những năm tháng bố mẹ công tác xa, hai bà cháu âm
thầm đùm bọc, cưu mang nhau:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Tiếng chim tu hú từ xa xăm vẳng lại có thể nghe thấy được, chứng tỏ âm thanh
đó đã bay qua những không gian mênh mông, vắng lặng. Âm thanh ấy không
làm cho cảnh vật vui lên mà càng gợi lên cảm giác vắng vẻ, quạnh hiu. Tác giả
như tách khỏi dòng hồi tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: Bà còn nhớ không
bà? Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu
hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ
lại. Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt
nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng
nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con
cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về,
bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu.
Những lúc tiếng chim kêu khắc khoải như vậy, bà thương cháu nên hay kể
chuyện để vỗ về cháu và có lẽ để chính mình khuây khỏa. Những năm tháng ấy,
bà thực vừa là bà, vừa là mẹ, là cha của cháu:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học 53
Hàng loạt động từ được liệt kê: bà bảo, bà dạy, bà chăm. Cháu được dạy dỗ,
chăm chút trong tình yêu thương của bà. Con đi xa, bao nhiêu yêu thương bà
dành hết cho đứa cháu nhỏ. Cháu cũng cảm nhận được tình yêu thương đó và
thấu hiểu nỗi vất vả của bà. Trong trai tim ngây thơ, cháu thầm trách chim tu hú
sao chẳng đến ở cùng bà cho vui nhà vui cửa, cho bà vợi bớt nhớ mong. Điệp từ
bà, cháu lặp đi lặp lại, góp phần diễn tả cảnh bà cháu quấn quýt không rời. Dù
thiếu vắng sự chăm sóc của mẹ cha nhưng tình yêu thương của bà đã bù đắp tất
cả. Cháu thật diễm phúc khi có một người bà như thế!
Kỷ niệm về bà không chỉ là những ngày tháng dẫu gian nan nhưng êm đềm vì
có bà bên cạnh. Cũng có lúc đau buồn đến tuyệt vọng:
Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi.
Ai đã từng chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh, cảnh ngôi nhà thân yêu đổ nát
tan hoang, mới cảm nhận được nghị lực phi thường trong lời nói bình thản, giản dị của bà.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 12
Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài
thơ như thế, đọc lên không còn thấy câu thơ, chỉ thấy tình cảm chan chứa thắm
thiết của tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà
thơ trưởng thành thời kì kháng chiến chống Mỹ, những năm tháng xa quê ở
nước ngoài là nguồn cảm hứng thôi thúc ông viết nên những vần thơ xúc động,
ám ảnh lòng người. Bài thơ là những dòng tâm sự xúc động về tình bà cháu,
tình yêu quê hương được gửi gắm ý nhị, đằm thắm qua hình ảnh biểu tượng bếp lửa.
Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến
một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà,
bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỉ niệm khó phai. 54
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Trong câu thơ mở đầu, có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh
“chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình, khi to
khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý
bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợi lên cho ta bàn tay khéo léo, kiên
nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” được lặp lại ở
đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỉ niệm sâu lắng trong ký ức
tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa
quê hương cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa”, đọng lại trong ba dòng thơ đầu có lẽ là chữ
“thương”, và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết
mấy nắng mưa”, hai chữ “nắng mưa” nói lên nỗi cơ cực, vất vả và những khó
nhọc mà bà đã trải qua. Cùng với nó, những kỉ niệm về tình bà cháu ùa về thành từng dòng thương nhớ:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? 55
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Tuổi thơ ấy có những bóng đen ghê rợn, những kỉ niệm buồn thương sâu đậm
về nạn đói năm 1945. Đó là mùi khói hun nhèm mắt cháu, cay xộc của những
đắng cay, vất vả, những rách nát, cơ cực lầm than mà bà đã nuôi nấng cháu từ
chính những gì đau thương, mất mát, thiếu hụt ấy. Vậy là ngọn lửa tình bà gắn
liền với mùi khói thân thương, mùi khói của sự hi sinh, tảo tần, cơ cực của cả
một thời ấu thơ, gọi lại những tiếng tu hú kêu, những câu chuyện ấm áp bà kể.
Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, tình cảm chân
thật, giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoảng
mùi khói mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm tháng chiến tranh:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh 56
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!.”
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền
vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu mênh mang. Lời người bà dặn cháu thật
nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố-Mày có
viết thư chớ kể này kể nọ-Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Gian khổ thiếu thốn
và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa được yên lòng. Tấm lòng
người bà thương con, thương cháu ân cần chu đáo biết bao. Đó cũng chính là
phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam ta từ muôn thuở, luôn can đảm, bản lĩnh
và cứng rắn trước nỗi đau của dân tộc, hy sinh tình riêng đặt tình chung lên trên.
Đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của tình yêu quê hương đất nước đó ư.
Khổ thơ tiếp theo, hình ảnh bếp lửa chuyển thành ngọn lửa lan tỏa mãnh liệt,
chân thành của tình bà cháu:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
Hình ảnh người bà sớm chiều bên bếp lửa thật ám ảnh, nó gợi lên vẻ đẹp tâm
hồn cần mẫn, kiên trung, âm thầm lặng lẽ của người phụ nữ Việt ta bao đời nay
sau lũy tre làng. Có sự thay đổi trong dụng ý nghệ thuật của nhà thơ, từ bếp lửa
chuyển thành ngọn lửa. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia
đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin sức sống
mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm
nóng, bền bỉ, tỏa sáng, trường tồn. Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ 57
với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của một thanh
niên đã trưởng thành đối với người bà trong hiện tại:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa.”
Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt nhưng bà vẫn giữ thói quen
dậy sớm, bếp lửa bà vẫn ấp iu nồng đượm như ngày nào. Điệp từ “nhóm” lặp lại
4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét kỳ lạ thiêng liêng và nhất là
tình nghĩa của bà. “ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có
ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà
mở rộng tấm lòng đoàn kết với xóm làng, quê hương. “Nhóm niềm yêu thương”
có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. Và cuối
cùng người bà kì diệu ấy, nhóm dậy chính là thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu
về tâm hồn và nhân cách sống. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa để
ngọn lửa ấy cháy sáng mãi mãi, trở nên bất diệt trong lòng cháu, là ngọn lửa của
niềm tin, sức mạnh nâng đỡ cháu trong những phút yếu lòng. m điệu thơ dào dạt
như sóng dồi, những từ láy “ấp iu”, “nồng đượm” càng làm tăng thêm tính biểu
cảm và sức gợi cảm xúc của khổ thơ, giống như những con sóng lòng tha thiết
bồi hồi của người cháu đang trào ra trên trang giấy. Để rồi, trong lặng nhẹ và
dịu êm, những suy nghĩ thấm thía, sâu sắc của cháu sáng lên. 58
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 13
Quê hương là nơi yên bình và đẹp đẽ, nơi lưu giữ những kỷ niệm thuở ấu thơ,
nơi có gia đình, có căn bếp thân thương nồng khói. Để mỗi khi ta đi xa, lại man
mác nhớ về và viết lên những vần thơ thật đẹp. “Bếp lửa” của Bằng Việt là một
trong những bài thơ như vậy.
Bằng Việt là một nhà thơ thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Mĩ, lời thơ ông giản dị mộc mạc mà thấm đượm ý tình. Bài thơ
“Bếp lửa” được tác giả sáng tác năm 1963 khi ông đang học tập ở Nga, dưới trời
đông lạnh lẽo xứ Moskva, trong lòng Bằng Việt dâng lên một nỗi nhớ quê
hương sâu sắc. Đây cũng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông, in
trong tập “Hương cây- bếp lửa”.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa trong sương sớm đã khơi nguồn cảm xúc
của người cháu về bà. Bếp lửa là hình ảnh quen thuộc, thân thương trong mỗi
gia đình Việt Nam lúc bấy giờ, được nhắc lại hai lần trong hai dòng thơ liên
tiếp. Hình ảnh ấy đã vẽ ra trong tâm trí của tác giả những mảnh kí ức thân thuộc
và đẹp đẽ nhất, về người bà kính yêu và về bếp lửa ấm áp tình bà. Từ láy “chờn
vờn” đã gợi nên một không gian mờ nhòe, làn khói nhẹ sớm mai len lỏi quanh
bếp với ánh lửa chập chờn như một thước phim nhòe mờ của kí ức theo thời
gian. “Ấp iu” có lẽ được ghép từ “ấp ủ” và “nâng niu”, đây là sự sáng tạo mới
mẻ của tác giả, làm khi lên bàn tay kiên nhẫn, tỉ mỉ, sự tần tảo chịu khó của bà
trong công việc nhóm bếp giữ lửa, cũng chính là tấm lòng chan chứa tình yêu
thương của bà dành cho cháu, lo cho cháu những gì tốt đẹp nhất. Hình ảnh bếp
lửa được tác giả gợi lên qua nhiều giác quan, thị giác “chờn vờn sương sớm”, 59
cảm xúc “ấp iu nồng đượm”, sống lại toàn vẹn trong miền ký ức của người
cháu, khơi nên một tình cảm da diết nhớ thương:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Lời bày tỏ ấy vừa là cảm xúc, sự kính trọng bà của người cháu cũng vừa gợi ra
những vất vả hy sinh, lo toan của bà qua hình ảnh ẩn dụ “biết mấy nắng mưa”.
Những dòng thơ tiếp theo, Bằng Việt với giọng thơ tâm tình giản dị đã kể lại
những kỷ niệm sống bên bà năm 4 tuổi cùng với hình ảnh bếp lửa thân thương.
Đó là những năm đất nước trải qua nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã ám ảnh
tâm hồn cháu, “đã quen mùi khói”, “khói hun nhèm mắt” với những năm tháng
“đói mòn đói mỏi”. Kí ức ấy hiện lên qua hình ảnh “Bố đi đánh xe, khô rạc
ngựa gầy”. Ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là làn khói bếp, cũng là sự ám ảnh của
những năm tháng cơ cực, khó nhọc của tuổi thơ. Câu thơ như lời kể men theo
dòng ký ức, bà vẫn ngày ngày nhóm ngọn lửa ấm áp xua đi cái giá lạnh. Khói
bếp xộc lên mũi cay xè, nước mắt giàn ra, vị cay của khói bếp nhà nghèo.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Phụ từ “rồi” kết hợp với các từ ngữ chỉ thời gian “sớm, chiều” và động từ
“nhen” đã nhấn mạnh sự tần tảo, chịu thương, chịu khó đầy nhẫn nại của bà, đó
không chỉ là kể lại sự việc mà còn gắn chặt với mạch cảm xúc của tác giả. Ngọn
lửa mang những ý nghĩa rộng lớn, ấm áp tình thương con cháu, niềm tin dai
dẳng vào tương lai. Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa,
bà hiện lên như bếp lửa hồng sưởi ấm lòng cháu, đây là một hình ảnh ẩn dụ
mang ý nghĩa biểu tượng. Mạch cảm xúc của cháu đi từ hồi tưởng đến hiện tại,
từ kỷ niệm nâng lên thành suy ngẫm. Từ láy “lận đận” được đưa lên đầu câu
khắc sâu cuộc đời đầy lam lũ, vất vả của bà. “Mấy chục năm” là một khoảng 60
thời gian dài đủ để có sự thay đổi nhưng bà vẫn giữ thói quen nhóm bếp, đó là
cách duy trì cuộc sống của hai bà cháu, là “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt
bùi”, “nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui”. Điệp từ nhóm được lặp lại 4 lần và cash
bộc lộ cảm xúc trực tiếp qua thán từ “ôi” của tác giả đã cho ta thấy bếp lửa “kỳ
lạ và thiêng liêng” biết chừng nào. Và kết thúc bài thơ là mạch cảm xúc thực tại
khi cháu đã đi xa với “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”, sự
ấm no nơi phương xa không làm vơi đi nỗi nhớ bà, sự chăm sóc của bà là động
lực để cháu trưởng thành. Hình ảnh bếp lửa xuất hiện ở đầu và cuối bài thơ tạo
kết cấu đầu cuối tương ứng, gợi nên một thước phim cũ hoàn chỉnh của quá khứ
và tuổi thơ nghèo mà ấm áp, một thời khổ cực gian nan nuôi ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống.
Bài thơ “Bếp lửa” khép lại nhẹ nhàng mà tràn đầy dư vị, còn đọng lại mãi hình
ảnh bà và bếp lửa, làn khói mờ ảo sớm mai, vừa là hình ảnh thực vừa là hình
ảnh ảo thể hiện tình yêu của tác giả với bà, cũng là với quê hương đất nước. Từ
một hình ảnh bình dị quen thuộc, Bằng Việt đã khắc họa chân thực những kỷ
niệm và cảm xúc đong đầy.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 14
Bằng Việt là một nhà thơ hiện đại nổi bật của thơ ca Việt Nam với những sáng
tác mới mẻ, giàu cảm xúc. Cùng với Lưu Quang Vũ, nhà thơ đã chắp bút viết
nên tập thơ đầu tay “Hương cây – Bếp lửa” đã gieo vào lòng người đọc biết bao
xúc cảm, bồi hồi. “Bếp lửa” là một bài thơ nổi bật trong tập thơ ấy, là dấu ấn
đặc sắc trong sự nghiệp văn chương, góp phần khẳng định tài năng, cảm quan
nghệ thuật của nhà thơ Bằng Việt.
Những câu thơ đầu gợi ra dòng kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ thắm đượm tình bà
cháu. Dòng hồi tưởng về bà được nhà thơ bắt đầu khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm 61
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Từ láy kết hợp đảo ngữ “chờn vờn sương sớm” đã tái hiện lại một cách chân
thực hình ảnh bếp lửa thôn quê, mà ở đây chính là bếp lửa thân thương trong
tuổi thơ người cháu xa quê. Bên cạnh hình ảnh thực, đó còn là một “bếp lửa ấp
iu nồng đượm”. Bằng Việt đã khéo léo lựa chọn và sử dụng những từ láy giàu
sức gợi tả, gợi cảm, không chỉ gợi cảm giác ấm áp từ bếp lửa buổi sớm, mà hơn
thế, đó còn là sự ấm áp của lòng người, của tình thương yêu mà bà kiên trì vun
vén, ấp ủ từng ngày. Những tính từ kết hợp cùng điệp từ “bếp lửa” đã gợi nên
một cách sống động và cảm động hình ảnh bếp lửa, hình ảnh người bà ngồi
nhóm bếp buổi sáng sớm – trang ký ức tuổi thơ thân thuộc, gần gũi của người
cháu. Hình ảnh ấy đã dẫn đưa tâm hồn người cháu nhớ về những tháng ngày
tuổi thơ còn nhiều thiếu thốn, cơ cực:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi …
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Một mùa “đói mòn đói mỏi”, đó là ký ức đầu tiên hình ảnh bếp lửa gợi nhớ lại
trong cháu về những tháng năm thuở bé ở bên bà. Nạn đói khiến cuộc sống trở
nên cùng cực, khiến bố phải đi “đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Gắn bó bên bà, bên
bếp lửa thân quen, tự lúc nào cháu đã quen với mùi khói, như quen với cái khổ,
cái đói, cái cùng cực của cuộc sống thuở đất nước khó khăn. Dòng hồi tưởng
tiếp tục được gợi ra với tiếng “tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Trong bài
thơ, ta bắt gặp tác giả nhắc đến tiếng chim tu hú đến năm lần cơ hồ như muốn
nhắc đến một niềm khắc khoải, mơ hồ trong cuộc sống, trong lòng người giữa
chốn mênh mông, bát ngát nhưng đượm buồn nơi làng quê ấy. Tuổi thơ ấy dù 62
cho có nhiều cơ cực, khó khăn nhưng vẫn rất đẹp và đáng nhớ bởi cháu luôn có
bà ở bên, được bà chở che, yêu thương, chăm sóc:
“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học …
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Hình ảnh “bà dạy”, “bà chăm” đã thể hiện cảm động sự tảo tần, lòng yêu thương
vô bờ bến bà dành cho đứa cháu nhỏ thơ ngây, sự bao bọc, chăm chút hết mình
cho cháu trong những tháng ngày khó khăn, cùng cực. Cả trong những ngày
tháng gian khổ, hiểm nguy nhất khi phải gồng mình chống giặc, chống đói,
người bà ấy vẫn mạnh mẽ, vững vàng, trở thành điểm tựa cho người cháu ở bên,
cho con trai, con dâu công tác xa nhà. Để con nơi xa không lo lắng, bớt bận lòng
nghĩ về bà cháu ở quê, bà “vẫn vững lòng dặn cháu đinh ninh/ Mày có viết thư
chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Những câu thơ này đã phác
họa trọn vẹn hình ảnh một người bà, người mẹ, người phụ nữ Việt Nam điển
hình với nét đẹp tâm hồn sâu sắc. Tận đáy lòng bà mong sự bình yên nơi xa khi
nghĩ về các con đang đi công tác, và bà cũng mong sự bình yên trong cuộc sống
xóm làng nơi hậu phương.
Những câu thơ tiếp theo mênh mang nỗi niềm suy ngẫm, những chiêm nghiệm
bồi hồi của người cháu về bà và về bếp lửa thân quen. Nghĩ về bà, người cháu
nơi xa nhớ lại những kỷ niệm bên bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Đó là
ngọn lửa thắm đượm tình yêu thương, sự hy sinh cao cả bà luôn ấp ủ:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” 63
Bên cạnh hình ảnh ngọn lửa nồng cháy của bếp lửa thân quen, ta cảm nhận được
ngọn lửa tình yêu thương, ngọn lửa niềm tin, hy vọng luôn được lòng bà ấp ủ,
thầm mong truyền đến cho người cháu phương xa. Điệp ngữ “một ngọn lửa”
thêm nhấn mạnh về một tình yêu thương ấm áp, đủ đầy bà dành trọn vẹn cho
người cháu thân yêu. Thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa, phải chăng đó chính là
hình ảnh người bà mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người đọc qua những câu thơ
giàu cảm xúc này. Những câu thơ tiếp theo là sự chiêm nghiệm sâu sắc của
người cháu về sự tần tảo, hy sinh của người bà suốt bao năm tháng, về “lận đận
đời bà biết mấy nắng mưa”. Câu thơ cuối đoạn: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp
lửa” đã bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người cháu xa nhà khi nhớ về bà
và bếp lửa thân thương.
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...”
Những câu thơ khép lại bài thơ chứa chan niềm khắc khoải khôn nguôi người
cháu dành cho bà. Đó là lời tự bạch của người cháu khi rời xa vòng tay bà, xa
xóm làng, quê hương yêu dấu nhưng trong lòng mãi hướng về xóm nhỏ nghèo,
nơi ắp đầy tình thương yêu, nỗi mong ngóng của người bà tảo tần.
“Bếp lửa” là bài thơ chân thực, sinh động mà giàu cảm xúc đã góp phần khẳng
định tài năng, tâm hồn nghệ thuật của nhà thơ Bằng Việt. Qua bài thơ, qua hình
ảnh bếp lửa và người bà cùng những cảm xúc nhà thơ gợi ra cho người đọc, ta
càng thêm yêu và trân trọng hơn hồn thơ Bằng Việt cũng như những sáng tác văn chương của ông.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 15 64
Có những kỉ niệm hóa thành động lực, sức mạnh giúp con người vượt qua mọi
khó khăn, giông bão trong cuộc đời. Bằng Việt cũng mang trong mình những kỉ
niệm tuổi thơ mà mãi mãi ông không bao giờ quên, ấy là kỉ niệm về bếp lửa và
người bà mà ông yêu quý nhất. Tất cả những tình cảm đẹp đẽ, chân thành ấy đã
được ông tái hiện đầy đủ nhất trong bài thơ Bếp lửa.
Bài thơ được sáng tác khi ông mới mười chín tuổi và đang du học ở Liên Xô.
Những năm tháng xa quê hương, xa gia đình nỗi nhớ luôn thường trực trong
ông chính là nỗi nhớ về người bà đáng kính. Tình cảm và kỉ niệm của hai bà
cháu được gợi lên bởi một hình ảnh thật mộc mạc, thân thương :
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa là hình ảnh gần gũi thân thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam
xưa. Nó thường gắn liền với người bà, người mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con,
chăm sóc gia đình. Hình ảnh những ngọn lửa chờn vờn, chập chờn trong sương
sớm khơi gợi kí ức về người bà thân thương. Hai chữ ấp iu thật khéo léo và tài
tình. Chỉ hai chữ mà vừa gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo vừa thể hiện tấm lòng
chi chút của người bà. Thật tự nhiên và chân thành hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi
dậy tình yêu thương bà trong cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình
thương sâu sắc ấy được bộc lộ trực tiếp, không giấu giếm, thương bà với biết
bao vất vả, khó nhọc, thương bà một đời lam lũ, hi sinh cho gia đình.
Bốn khổ thơ tiếp theo tương ứng với những kỉ niệm thời thơ ấu khi nhà thơ
được sống bên bà, đó là những kỉ niệm ấm áp, tạo thêm động lực, sức mạnh cho
tác giả. Đó là kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với nạn đói 1945 khiến hơn hai triệu
đồng bào ta chết đói. Nạn đói khủng khiếp ấy đã được tác giả tái hiện đầy chân
thực qua từ đói mòn đói mỏi . Từ mòn mỏi được tách ra làm đôi nhấn mạnh hơn 65
nữa nạn đói rợn người, khiến biết bao nhiêu người chết. Khi ấy gia đình tác giả
cũng chẳng khá khẩm hơn, hình ảnh Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy đã phần
nào nói lên cái khó khăn, thiếu thốn ấy. Và với đứa cháu ngoài những năm đói
khổ đó mùi khói bếp của bà hun nhèm mắt đến giờ vẫn không thể quên, mỗi lần
nghĩ lại sống mũi còn cay. Cay có thể vì khói bếp, vì tuổi thơ cơ cực, cũng có
thể là nỗi xúc động của tác giả khi nhớ về bà.
Không chỉ vậy, trong dòng nhớ thương, tác giả nhớ những kỉ niệm về bếp lửa,
về tám năm được sống bên bà. Đó là tám năm cháu được sống trong tình yêu
thương, sự che chở, đùm bọc của bà. Bà chính là người dạy dỗ cháu nên người
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Hàng
loạt các từ bảo, chăm, dạy được tác giả liệt kê trong hai câu thơ ngắn ngủi đã
cho thấy tình yêu thương bao la, sâu sắc của bà dành cho cháu. Trước tấm lòng
của bà, người cháu nhỏ thầm cảm ơn, và thể hiện tấm lòng yêu quý kính trọng
với bà: Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc. Trong chuỗi kỉ niệm ấy, còn có
cả tiếng chim tu hú tha thiết, khắc khoải, tiếng chim cũng là âm thanh để nhắc
về bà, về những kỉ niệm đẹp đẽ khi được sống bên bà. Câu hỏi tu từ: Tu hú ơi
chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa, đã phần nào diễn
tả được nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của tác giả về người bà mình hằng yêu quý, kính trọng.
Đọng lại trong ký ức cháu không chỉ là một người bà dành trọn tình yêu thương
cho cháu, mà còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc giúp con cháu vượt qua mọi
khó khăn, mất mát: Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi/…/ Vẫn vững lòng bà
dặn cháu đinh ninh:/ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố/ mày có viết thư chớ kể
này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Bà đối mặt với bom đạn, mất mát,
với những khó khăn thiếu thốn không một lời than thở, oán trách, vẫn vững
lòng, một mực giấu đi những gian truân để con ở ngoài chiến trường yên tâm
công tác. Bà là tiểu tượng của lòng can đảm, đức hi sinh thầm lặng. Bà là chỗ
dựa cho cháu có tuổi thơ bình yên, cho những đứa con yên tâm làm việc. 66
Giữa đống tro tàn mất mát, đau thương bà vẫn nhóm lên ngọn lửa tin yêu và hy
vọng: Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một
ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng. Thời gian sớm chiều cho thấy sự bền bỉ, kiên
trì của bà. Ở đây có sự chuyển hóa từ bếp lửa thành ngọn lửa, ngọn lửa ấy chứa
đựng lòng yêu thương chan chứa của bà; ngọn lửa còn là đức tin trong sáng bất
diệt; hơn thế nữa, ngọn lửa đó sẽ là ngọn đuốc soi sáng tâm hồn, và tương lai
cháy sau này. Bà là kí ức đẹp đẽ, bà là người đã thắp lên trong cháu niềm tin và tương lai cao cả.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 16
Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Thơ ông toát lên vẻ
đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc
khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình... Bài thơ
"Bếp lửa" là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ,
phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được sáng tác
năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu
tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập "Hương cây – Bếp lửa" cùng với
Lưu Quang vũ. Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị,
sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng.
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy
ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người
bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm
thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể
hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia
đình, đối với quê hương, đất nước.
Trước hết là hình ảnh "bếp lửa" - nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về
người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia 67
đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và
dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh
một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai.
Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay
dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái
bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp
ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người
cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh
của người bà. "Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình
yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, Như
vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da
diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là
khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ
sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ
niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.
Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những
năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về
vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế
hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống
trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ 68
trong gang tấc. Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như
một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết
bao nhiêu là sự thiệt thòi, gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và
kiệt sức. Vì thế, cái đói đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người
bố đánh xe chắc chắn cũng khô héo, tiều tụy, xanh xao…tất cả đã khiến cho
người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến
rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã cùng bà
nhóm lửa, khói bếp tỏa ra đã làm cho nhèm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn
cay”. Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người cháu hay đó chính là
nỗi cơ cực, vất vả của cái nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu
thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân
thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ trầm xuống thấm
thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ dâng đầy trong
lòng thi sĩ khiến “sống mũi còn cay”.
Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm ròng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa 69
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ
vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh
của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi
thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một
không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da
diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà còn
nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu
hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi
hoài trên những cánh đồng xa)... Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm
của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống
vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn
trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm
đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quý. “Mẹ và
cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà
kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ:
“bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu 70
thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế , bà trở
thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và
bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong
những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng
tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương,
sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao
nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có
một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 17
Những kỉ niệm tuổi ấu thơ ai mà chẳng có. Tế Hanh có “con sông xanh biếc”
với những người bạn bè bơi lội, vui đùa. Giang Nam có “thuở còn thơ ngày hai
buổi đến trường”. Nguyễn Duy có một sân “chơi đáo, chơi vòng” của bạn bè
cùng lứa, có tuổi thơ thả hồn với đồng ruộng. Bằng Việt cũng có một tuổi thơ da
diết vọng về với hình ảnh người bà thân yêu. Chính tình cảm bà cháu thân
thương, ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý
nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.
Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng
quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình… Những dòng hồi tưởng
của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình ảnh thân thương về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” 71
Từ láy tượng hình “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ
trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà
không thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn
vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ
đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm
lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm
bếp. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
“Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng
trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt
qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà
và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của
người cháu. Từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức đưa người cháu trở về
những năm lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu
diệu kì của ông Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói
bếp nhà nghèo và có bóng đêm ghê rợ của nạn đói năm 45. Thành ngữ “đói mòn
đói mỏi” diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. 72
Người bố đi đánh xe với con ngựa gầy, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở,
nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một
nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm nhận được không phải là
mùi khói bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức bỗng trỗi dậy
mạnh mẽ. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.
Qua những năm tháng đói mòn đói mỏi lại nhớ về kỉ niệm những năm chiến
tranh “Mẹ cùng xa công tác bận không về”. Tám năm cháu ở cùng bà. Bên ánh
lửa bập bùng, bà vừa là cha, là mẹ, bà dạy dỗ cháu nên người:
“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Sự xuất hiện của hàng loạt những động từ “dạy”, “bảo”, “chăm”, “học”, “ở”,
“nghe”, “làm” diễn tả những công việc lặng thầm của bà. Mỗi cử chỉ của bà đều
thấm đẫm tình yêu thương, sự cưu mang, đùm bọc cháu. Bếp lửa còn đánh thức
thêm kỉ niệm nữa của tuổi thơ, kỉ niệm với tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú là
âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ vào hè.
Tiếng chim râm ran trong vòm lá, trên cánh đồng, cứ khắc khoải kêu hoài, kêu
mãi, giục giã cả một khoảng trời, khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài
niệm nhớ mong. Nhà thơ đang kể chuyện mà như tách hẳn ra để trò chuyện cùng bà:
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”
Những câu chuyện đó là sự từng trải của cuộc đời bà và bà muốn nhắc nhở cháu
hãy sống thật tốt, thật có ích cho cuộc đời. Tự nhiên cháu thấy thương bà quá. 73
Cháu thương bà vất vả, lo toan, không biết ngỏ cùng ai chỉ biết tâm tình với chim tu hú mà thôi:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu hỏi tu từ đã thể hiện được những cung bậc cảm xúc trong tâm trạng của
người cháu. Như vậy hình ảnh “bếp lửa” đã đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó
lung linh hình ảnh người và có cả hình ảnh đất nước. Hình ảnh người bà bỗng
trở nên cao lớn vĩ đại khi người cháu nhớ về những năm tháng đau thương, vất
vả khi giặc tàn phá xóm làng.
Lời dặn “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
không chỉ gợi ra giọng nói hiền từ của bà, suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên
phẩm chất của bà. Bà đã nhận về mình tất cả mất mát, khổ đau để con cháu yên
tâm đánh giặc. Bà là người mẹ, người bà, người phụ nữ Việt Nam trong kháng
chiến. Với Bằng Việt, họ gánh cả kháng chiến lên đôi vai bé nhỏ của mình.
Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ, về bà, người cháu trở về với hiện tại để
suy ngẫm về cuộc đời và những lẽ sống về bà, cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ bếp lửa bình dị thân quen ấy đã nâng lên thành ngọn lửa. Ngọn lửa không
chỉ được nhen lên bằng những nguyên liệu đời thường mà còn được nhen lên từ
tấm lòng bao la của bà, được bà ấp ủ, chở che nên không bao giờ vụt tắt. Điệp
từ “rồi” kết hợp với hai danh từ chỉ thời gian “sớm”, “chiều” khiến câu thơ vang 74
lên như bước gõ nhịp của thời gian. “Bếp lửa” là hình ảnh tả thực còn “ngọn
lửa” được chuyển hóa thành hình ảnh biểu tượng.
Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng nâng bước cháu trên chặng đường dài. Ngọn
lửa là niềm tin dai dẳng, bền bỉ, bất diệt bà nhen lên trong lòng cháu. Nhờ ngọn
lửa ấy mà cháu tin vào chiến thắng của dân tộc. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng
kết cấu song hành vừa tạo nhạc tính cho câu thơ khiến lời thơ dồn dập, tha thiết
mà mạnh mẽ, xúc động, vừa khẳng định sức sống mãnh liệt, bất tận của ngọn
lửa bà nhen. Theo dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, hình ảnh người
bà hiện lên lung linh, sáng đẹp, ấm áp:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”
Từ láy “lận đận” giàu giá trị gợi cảm được đảo lên đầu dòng thơ gợi ra bao vất
vả, nhọc nhằn, gian truân của cuộc đời người bà. Điệp từ “nhóm” đứng ở đầu
mỗi dòng thơ, nhắc đi nhắc lại bốn lần khắc ghi những ý nghĩa trong công việc
nhóm lửa của bà. Mỗi sớm mai bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên niềm yêu
thương; nhóm sự chở che, cưu mang đùm bọc giữa ngọt bùi, khoai sắn; nhóm sự
sẻ chia, đoàn kết của tình làng, nghĩa xóm; nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ của cháu. 75
Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa và giữ lửa. Bà
không chỉ làm công việc khởi đầu của một ngày mà còn làm công việc khởi đầu
của một đời người. Từ đây cảm xúc về bà và bếp lửa dâng trào lên mãnh liệt:
“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” Người cháu giờ đây đã khôn lớn trưởng
thành, nhưng trong sâu thẳm lòng cháu vẫn da diết một nỗi nhớ thương về bà và bếp lửa:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Nơi cháu đang sống với đầy đủ tiện nghi vật chất, khác hẳn với không gian của
bà cháu nơi quê nhà, nhưng cháu luôn nhớ về bà, nhớ về ngọn lửa bà nhen. Câu
hỏi tu từ ở cuối bài thơ nhắc nhở cháu không nguôi nhớ về những kỉ niệm về bà và bếp lửa.
Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
Bài thơ có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và
thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu.
Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi
thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.
“Tác phẩm là kết tinh tâm hồn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện
được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình.
Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ xúc
động và mang nhiều ý nghĩa. 76
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 18
Bằng Việt sinh năm 1941, là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ. Năm 1963, Bằng Việt sáng tác bài thơ Bếp Lửa, một bài thơ có nhiều
đặc sắc về giá trị nghệ thuật và nội dung. Đặc biệt có giá trị về mặt nội dung bài
thơ, gợi lại những kỉ niệm về người bà, tình cảm bà cháu sâu sắc, thấm thía. Bài
thơ đã để lại nhiều cảm xúc đối với người đọc.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Mở đầu bài thơ là sự hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp
lửa và tấm lòng cháu thương bà. Theo dòng hồi tưởng của tác giả, bếp lửa chờn
vờn sương sớm là hình ảnh gần gũi quen thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời.
Từ láy chờn vờn giúp ta hình dung làn sương sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp
lửa, vừa gợi cái mờ nhạt của hình ảnh kí ức theo thời gian.
Ấp iu là một sự sáng tạo của nhà thơ trẻ, gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và
tấm lòng tri chút, rất đúng với việc nhóm lửa cụ thể. Đồng thời cách nói ẩn dụ
biết mấy nắng mưa gợi ra phần nào cuộc đời vất vả, lo toan của bà. Vậy từ hình
ảnh bếp lửa liên tưởng đến người nhóm lửa, nhóm bếp – đến nỗi nhớ tình
thương với bà. Vậy là kỉ niệm đã sống dậy từ tình cảm cháu nhớ thương bà và
cuộc sống của hai bà cháu đầy khó khăn, gian khổ:
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu 77
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"
Kỉ niệm thời thơ bé khi lên bốn tuổi kỉ niệm một thời đen tối, đói khổ. Thành
ngữ "Đói mòn đói mỏi" phản ánh tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói
1945 có mối lo giặc tàn phá xóm làng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa được nhớ lại
trong đó có một ấn tượng về khói bếp. Nhà thơ đã chọn chi tiết thật đặc sắc:
Mùi khói, khói hun vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện
thấm thía những tình cảm lúc da diết bâng khuâng, xót xa thương mến.
Lời thơ nghĩ lại đến giờ sống mũi còn còn cay nhấn mạnh dòng kỉ niệm, xoáy
sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả thể xác con người. Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa
và mùi khói cùng hình ảnh bà hiện ra trong nỗi nhớ thương ngậm ngùi:
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"
Đoạn thơ tiếp theo gợi nhắc một vài kỉ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian
"8 năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa" bếp lửa quê hương – bếp lửa của tình bà
cháu lại gợi lên một liên tưởng khác, sự xuất hiện của tiếng chim tu hú. Tiếng
chim quen thuộc khi vào hè, một điều gì da diết lắm khiến lòng người trỗi dậy
những hoài niệm nhớ mong.
Đó là hình ảnh của bà, người bà đáng kính đáng yêu suốt những năm dài khó
nhọc đã chăm sóc dạy dỗ cháu lên người, lời thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng,
nhịp thơ êm ái hài hòa các từ ngữ bà bảo, bà dạy, bà chăm diễn tả một cách sâu
sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà với cháu. 78
Bà thức khuya dậy sớm nhóm lửa làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong
cảnh xa cha mẹ trở lên ấm áp. Âm thanh tiếng chim tu hú với hình ảnh bà kết
hợp hài hòa được diễn tả với nghệ thuật cảm thán, câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi
nhớ thương da diết của cháu với bà. Tác giả khéo lựa chọn hai hình ảnh: Bếp
lửa và âm thanh tiếng chim tu hú để nói lên lòng kính yêu sự thương nhớ và biết ơn bà.
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".
Miên man theo dòng cảm xúc hồi tưởng hình ảnh bà càng hiện lên rõ nét cụ thể
với những phẩm chất cao quí. Sống trong những năm dài chiến tranh khi giặc 79
đốt làng cháy tàn cháy rụi, được sự đỡ đần của bà con hàng xóm, hai bà cháu
dựng lại túp lều tranh nhưng bà vẫn bình tĩnh vững lòng đinh ninh… làm tròn
nghĩa vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.
Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp người đọc hình
dung rõ ràng, giọng nói tình cảm suy nghĩ của bà mà còn sáng lên phẩm chất
của người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước đầy lòng kiên trì, nhóm lửa, giữ lửa.
"Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… "
Bếp lửa được bà nhen lên không chỉ bằng nguyên bên ngoài mà còn chính được
nhen lên từ trong lòng bà – Ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương niềm tin
bởi vậy từ bếp lửa, gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng khái quát. Như thế
hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa,
ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Đồng thời với nghệ thuật
sử dụng điệp ngữ (rồi sớm, rồi chiều) bà ủ sẵn một ngọn lửa thể hiện niềm tự
hào, lòng biết ơn bà đối với đức hi sinh tần tảo bền bỉ của người bà kính yêu.
"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui, 80
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! "
Những suy nghĩ của cháu về bà và việc bà nhóm lửa trong suốt cuộc đời trải qua
"bao nắng mưa mấy chục năm rồi" bà nhóm lửa không chỉ bằng đôi bàn tay gầy
guộc mà bằng cả tấm lòng đôn hậu "Ấp iu nồng đượm…" của bà với cháu và
mọi người. Điệp từ nhóm cùng câu thơ cảm thán khắc sâu hình ảnh người bà
tiêu biểu cho những phẩm chất cao quí của người phụ nữ Việt Nam, tần tảo,
nhẫn lại đầy yêu thương.
Bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui sự sống, niềm yêu thương
chăm chút dành cho con cháu và mọi người chính vì thế mà nhà thơ cảm nhận
được trong hình ảnh bếp lửa bình dị gần gũi thân thuộc sự kì diệu thiêng liêng:
"Ôi! kì lạ và thiêng liêng bếp lửa". Bếp lửa thật giản dị, bình thường và phổ biến
trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kì diệu, thiêng
liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa tạo lên tuổi thơ ấu của cháu…
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Dù ở đâu, làm gì bây giờ và mãi mãi người cháu không thể quên bà và bếp lửa.
Khói trăm tàu, lửa trăm nhà sẽ nhắc nhở cháu luôn nhớ về cội nguồn quá khứ dù
đó là những ngày vất vả gian lao. Câu thơ kết trở về thời hiện tại. Nhà thơ lại
muốn hỏi bà, nhắc bà việc nhóm bếp để nói cái ý không bao giờ quên quá khứ,
không bao giờ quên được hình ảnh bà, của một thời thơ ấu nghèo khổ gian nan
và ấm áp nghĩa tình. Như vậy, hình ảnh trung tâm mở đầu khơi nguồn mạch
cảm xúc của nhà thơ đã được khép lại bằng chính hình ảnh đấy. 81
Tóm lại, bài thơ "Bếp lửa" đã khơi dậy cho mỗi chúng ta một tình cảm cao đẹp
đối với quê hương, gia đình và xã hội. Càng đọc, càng suy ngẫm thấm thía từng
lời thơ của Bằng Việt ta lại càng hiểu thế nào là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương,
nhớ hình ảnh quen thuộc gắn liền với bếp lửa.
Qua bài thơ, tác giả muốn gửi gắm cho các thế hệ chúng ta cần phải nhớ về cội
nguồn, nhớ về những nơi đã sinh ra ta khôn lớn, nhớ về những hình ảnh thiêng
liêng bên bếp lửa để giúp cho cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa hơn.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 19
Đối với mỗi người chúng ta, tình cảm gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm đáng
quý và đáng trân trọng nhất. Nhưng khi đất nước có chiến tranh thì người dân
vẫn chấp nhận bỏ lại gia đình để lên đường đi chiến đấu. Chính từ tình yêu gia
đình đã hình thành nên tình yêu đối với Tổ quốc.
Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ phải sống xa bố mẹ vì bố mẹ nhưng
như thế không có nghĩa là nhà thơ sống thiếu thốn tình cảm. Ngược lại, nhà thơ
Bằng Việt lớn lên trong tình yêu thương và dạy bảo của người bà kính yêu.
Chính vì vậy mà khi lớn lên, phải xa nhà, xa bà, có bao nhiêu nỗi nhớ, tác giả
dành cả cho bà của mình để rồi bài thơ Bếp lửa đã ra đời từ nỗi nhớ ấy. Bếp lửa
ở đây không đơn thuần chỉ là bếp lửa, nó là cả tình yêu thương của bà ở trong đó:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Hình ảnh một bếp lửa chỉ vừa mới xuất hiện nhưng nó đã đi kèm với các từ láy
như chờn vờn, ấp iu khiến cho người đọc cảm nhận được tình cảm ấm áp và
chan chứa của người cháu dành cho bà của mình. Câu thơ thứ ba một lần nữa 82
khẳng định cho tình cảm ấy. Đó là tình thương của cháu dành cho người bà đã
phải chịu nhiều vất vả, nắng mưa. Cùng với tình thương ấy, những hồi ức của
tuổi thơ hiện lên trong đầu tác giả. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nên cứ ngỡ như
là chuyện vừa mới xảy ra ngày hôm qua vậy:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Năm đói mòn đói mỏi ấy chính là năm 1945, nhân dân miền Bắc rơi vào nạn đói
khủng khiếp. Nó cướp đi sinh mạng của không biết bao nhiêu người dân vô tội.
Nhà thơ đã lớn lên trong bối cảnh đất nước như vậy thế nhưng trong kí ức nhà
thơ không có hình ảnh người chết đầy đường, không bị mùi tanh thối ám ảnh.
Đó là bởi vì mùi khói bếp đã át đi hết những cảnh đau thương ngoài kia. Đó là
cách để người bà làm cho cuộc sống của cháu bớt đau thương hơn. Mùi khói đã
hun nhèm đôi mắt của người cháu để rồi hơn mười năm sau, nghĩ lại chuyện cũ
sống mũi vẫn còn cay. Có lẽ sự xúc động đã khiến cho mắt nhà thơ nhòe đi, cay
xè vì những kỉ niệm đói khổ.
Bà đã cùng cháu đi qua những năm tháng đói khổ như vậy. Để rồi suốt những
năm tháng tuổi thơ, hình ảnh người bà vẫn gắn liền bên cháu. Hai bà cháu đã
cùng nhau nhóm lên không biết bao nhiêu ngọn lửa trong suốt 8 năm ròng:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà 83
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Hình ảnh cháu cùng bà nhóm lửa thể hiện sự gắn kết giữa hai bà cháu. Không
chỉ là nhóm lửa, đó còn là nhóm lên sự sống, nhóm lên tình yêu. Từ hình ảnh
nhóm bếp lửa đã gợi lên trong nhà thơ những hình ảnh khác đó là tiếng chim tu
hú kêu. Đối với người nông dân Việt Nam tiếng chim tu hú đã trở thành tiếng
kêu quen thuộc và là sự báo hiệu cho một mùa lúa chín.
Tiếng tu hú kêu vì vậy tượng trưng cho sự no đủ của người dân. Tiếng tu hú kêu
như tiếng của chiếc đồng hồ báo thức nhắc nhở người bà rằng đã đến giờ kể
chuyện cho cháu nghe. Trong một đoạn thơ mà tiếng tu hú kêu được lặp lại tới 3
lần khiến cho độc giả có cảm tưởng như tiếng tu hú đang từ xa vọng về. Nó
khiến cho lòng người cháu ở nơi xa xứ lâng lâng. Tiếng tu hú kéo nỗi nhớ của
nhà thơ về khiến cho nó dài hơn, rộng hơn. Bà không chỉ kể chuyện, bà còn dạy
bảo cho cháu nhiều điều, thay cha mẹ chăm lo cho cháu để cháu được nên người:
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Ngôi nhà nhỏ vắng người, chỉ có hai bà cháu. Bà đã thay cha mẹ, làm nhiệm vụ
của cha mẹ đó là dạy cháu làm, chăm cháu học. Bà dù già yếu nhưng vẫn tận
tụy hết lòng vì cháu. Chính vì vậy mà hình ảnh bếp lửa, hình ảnh người bà hiện 84
lên càng ấm áp hơn. Hai bà cháu đã nương tựa vào nhau để sống qua những
ngày tháng khó khăn như vậy. Chính từ tình cảm ấy nên khi nhà thơ đi xa, nỗi
nhớ thương bà càng lớn hơn.
Nhà thơ đi xa rồi, thương cho bà ở nhà không có ai chăm sóc. Câu hỏi tu từ Tu
hú ơi chẳng đến ở cùng bà giống như một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà
sâu sắc. Hai từ bà, cháu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ này, thể
hiện sự sóng đôi, quấn quýt, gắn bó giữa bà và cháu. Những năm tháng chiến
tranh, hai bà cháu đã cùng nhau trải qua nhiều khó khăn khi mà ngôi nhà bị cháy rụi:
"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên"
Chính từ trong khó khăn đó, nghị lực của người bà càng trở nên bền vững hơn.
Những câu thơ vừa cho thấy bà là người cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh.
Ngôi nhà của hai bà cháu dù bị giặc đốt cho cháy rụi nhưng thương con đang
công tác xa nhà, không muốn con phải lo lắng, bà đã dặn cháu không được nói gì với bố.
Thậm chí bà còn dặn cháu nói với bố là ở nhà mọi chuyện được yên. Bà là đại
diện cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh, hết lòng vì con vì
cháu. Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã nâng lên thành hình ảnh ngọn lửa: 85
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Hình ảnh ngọn lửa như bừng sáng và nó có một sức truyền cảm vô cùng mạnh
mẽ. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của tình bà cháu,... Chính vì
vậy mà cứ nhìn thấy ngọn lửa là người cháu lại cảm thấy như nhìn thấy bà của
mình. Cuối bài thơ, nhà thơ tiếp tục suy ngẫm về bà và bếp lửa:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm một lần nữa được nhắc đến ở cuối bài. Bà
không chỉ là người truyền lửa, bà còn truyền cho cháu tình yêu thương từ những
miếng khoai, miếng sắn, nhắc cháu nhớ về những năm tháng cơ cực, bởi đó là
những năm tháng đã nuôi dưỡng tâm hồn của cháu.
Trong cả bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện 10 lần, đó là 10 lần hình ảnh bà
cũng xuất hiện. Bài thơ mang âm điệu dồn dập như sóng vỗ khiến người đọc
cảm nhận được tình cảm dạt dào của bà dành cho cháu và ngược lại. Đi xa rồi, cháu vẫn nhớ về bà:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? 86
Nơi trời Âu giá lạnh, hình ảnh của bà đã sưởi ấm trái tim người cháu. Mặc dù đã
trưởng thành nhưng trong lòng cháu vẫn nhớ mong về nơi góc bếp với mùi khói
bếp cay nồng nặc. Nhớ lời bà dặn, cháu chưa bao giờ quên đi nguồn cội của
mình. Thông qua bài thơ này, chúng ta thấy được hình ảnh bếp lửa và dáng bà
đang ngồi lặng lẽ ở bên. Hình ảnh bếp lửa từ đó tượng trưng cho sự ấm áp,
nghĩa tình. Qua bài thơ này, hẳn mỗi người sẽ thấy yêu hơn gia đình của chính mình.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 20
Bằng Việt là nhà thơ nổi tiếng trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Hoàn cảnh xa quê đã thôi thúc ông viêta lên những vần thơ thấm đượm tình cảm
nồng hậu. Bài thơ "Bếp lửa" là một trong những sáng tác thành công trong sự nghiệp của ông.
Từ nơi xa, một bầu trời Âu chỉ bao phủ toàn tuyết trắng, người cháu như đang
ngồi truo cs lò sưởi mà chạnh lòng nhớ về bếp lửa nơi quê nhà thân yêu. Bếp
lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỉ niệm khó phai.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Nhớ về quê nhà, cháu nhớ về bếp lửa với những gì in bóng trong tuổi thơ cháu.
Đó là hình ảnh của ngọn lửa nơi căn bếp nhỏ thân yêu. Ngọn lửa trong sáng sớm
lay lắt, từ chờn vờn gợi một ánh lưa nhỏ bập bùng, lúc lên cao lúc xuống thấp.
Nó còn gợi về hình ảnh của người nhóm lửa tần tảo sớm hôm. Từ "ấp iu" cho
thấy sự cần mẫn, khéo léo của bà. Điệp từ "một bếp lửa" lặp lại hai lần, đập
mạnh vào tri giác người đọc về hình ảnh của bếp lửa quê nhà, của người bà 87
ngày đêm lam lũ. Gợi về bếp lửa, tất cả đọng lại là một chữ "thương". Bà và bếp
lửa, mối liên tưởng vô hình nhưng đầy dụng ý của tác giả. Và cặp hình ảnh này
xuyên suốt bài thơ, gợi lại cho cháu tuổi thơ bên bà với nhiều kỉ niệm sâu sắc:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” 88
Tuổi thơ ấy có những bóng đen ghê rợn, những kỉ niệm buồn thương sâu đậm
về nạn đói năm 1945. Đó là mùi khói hun nhèm mắt cháu, cay xộc của những
đắng cay, vất vả, nhưng rách nát, cơ cực lầm than mà bà đã nuôi nấng cháu từ
chính những gì đau thương, mất mát, thiếu hụt ấy. Vậy là ngọn lửa tình bà gắn
liền với mùi khói thân thương, mùi khói của sự hi sinh, tảo tần, cơ cực của cả
một thời ấu thơ, gọi lại những tiếng tu hú kêu, những câu chuyện ấm áp bà kể.
Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, tình cảm chân
thật, giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoảng
mùi khói mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình
sâu nặng. Trong đói nghèo, trong vất vả, bên bếp lửa nghèo củi ướt, bà và cháu
đã yêu thương, cùng nhau chắt chiu, gom nhặt sự sống. Tuổi thơ cháu lớn lên
bởi bàn tay yêu thương vô hạn của bà và điều ấy cháu không bao giờ quên.
Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm tháng chiến tranh:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!.”
Cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền
vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu mênh mang. Lời người bà dặn cháu thật
nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố-Mày có
viết thư chớ kể này kể nọ-Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Nhà mất, khó khăn 89
lại càng nhiều nhưng bà không nản lòng. Bà vẫn vững lòng tin vào tương lai của
cuộc kháng chiến mà một lòng bám đất bám quê, dặn cháu không được để bố lo
lắng. Tấm lòng người bà thương con, thương cháu ân cần chu đáo biết bao. Đó
cũng chính là phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam ta từ muôn thuở, luôn can
đảm, bản lĩnh và cứng rắn trước nỗi đau của dân tộc, hi sinh tình riêng đặt tình
chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của tình yêu quê hương đất
nước đó ư. Ngọn lửa tàn ác của giặc có thể làm mất đi ngôi nhà của bà và cháu
nhưng lại làm hồi sinh, nảy nở trong lòng bà một niềm tin sắt đá vào cách mạng.
Cháy trong ngọn lửa thực kia còn là ngọn lửa của niềm tin, của ý chí mà bà nói
riêng các bà mẹ Việt Nam anh hùng nói chung dành cho kháng chiến.
Khổ thơ tiếp theo, hình ảnh bếp lửa chuyển thành ngọn lửa lan tỏa mãnh liệt,
chân thành của tình bà cháu:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
Hình ảnh người bà sớm chiều bên bếp lửa thật ám ảnh, nó gợi lên vẻ đẹp tâm
hồn cần mẫn, kiên trung, âm thầm lặng lẽ của người phụ nữ Việt ta bao đời nay
sau lũy tre làng. Có sự thay đổi trong dụng ý nghệ thuật của nhà thơ, từ bếp lửa
chuyển thành ngọn lửa. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia
đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin sức sống
mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm
nóng, bền bỉ, tỏa sáng, trường tồn. Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ
với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của một thanh
niên đã trưởng thành đối với người bà trong hiện tại:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ 90
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa.”
Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt nhưng bà vẫn giữ thói quen
dậy sớm, bếp lửa bà vẫn ấp iu nồng đượm như ngày nào. Điệp từ “nhóm” lặp lại
4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét kỳ lạ thiêng liêng và nhất là
tình nghĩa của bà. “ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có
ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà
mở rộng tấm lòng đoàn kết với xóm làng, quê hương. “Nhóm niềm yêu thương”
có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. Và cuối
cùng người bà kì diệu ấy, nhóm dậy chính là thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu
về tâm hồn và nhân cách sống. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa để
ngọn lửa ấy cháy sáng mãi mãi, trở nên bất diệt trong lòng cháu, là ngọn lửa của
niềm tin, sức mạnh nâng đỡ cháu trong những phút yếu lòng. m điệu thơ dào dạt
như sóng dồi, những từ láy “ấp iu”, “nồng đượm” càng làm tăng thêm tính biểu
cảm và sức gợi cảm xúc của khổ thơ, giống như những con sóng lòng tha thiết
bồi hồi của người cháu đang trào ra trên trang giấy. Để rồi, trong lặng nhẹ và
dịu êm, những suy nghĩ thấm thía, sâu sắc của cháu sáng lên:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.” 91
Dù sống xa nhà cuộc sống có đầy đủ tiện nghi nhưng tình cảm người cháu dành
cho bà, về bà, về bếp lửa lúc nào cũng vậy. Vẫy cứ thiết tha, nồng đượm, mãnh
liệt và dai dẳng. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo thật hay, có sức ám ảnh,
day dứt tâm hồn người đọc. Một lần nữa, bếp lửa của tình bà cháu lại cháy sáng
trong trái tim và tâm trí người đọc.
Bằng cách sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, những từ ngữ biểu cảm, tình
cảm bà cháu đã được diễn tả thật xúc động và bồi hồi. Bài thơ chính là món quà
quý giá Bằng Việt gửi đến cho người đọc, gửi đến độc giả những thông điệp
quý báu về tình bà cháu, tình yêu đất nước thiêng liêng, sâu nặng, nuôi dưỡng
tâm hồn con người muôn thuở. Chính điều ấy đã làm nên giá trị, vị trí của bài
thơ trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Bài thơ đã mang đến cho người đọc cảm nhận về tình bà cháu dung dị, thiêng
liêng về vẻ đẹp của những người phụ nữ Việt Nam tảo tần giàu đức hi sinh. Từ
đó ta thêm yêu, thêm tự hào về quá khứ đẹp đẽ của dân tộc. Bài thơ đã chạm
đến tình cảm sâu kín tận đáy lòng của những người con xa quê và đến nay nó
vẫn còn nguyên giá trị.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 21
Hình ảnh người cháu đi lính trở về quê ngoại hồi tưởng lại hình bóng bà lam lũ
vất vả trong bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy:
“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Gợi nhắc ta nhớ tới tình cảm bà cháu sâu nặng trong bài thơ “Bếp lửa”. Nhà văn
muốn thể hiện lòng kính yêu bà và gia đình, quê hương, đất nước.
Dòng kỉ niệm tuổi thơ ấu của người cháu dội về khi tình cờ bắt gặp một hình
ảnh quen thuộc từng gắn bó với mình: 92
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Một ánh lửa bập bùng, thoáng ẩn thoáng hiện gợi không gian mờ ảo để dòng kí
ức ùa về trong tâm trí. Hai láy từ “chờn vờn, ấp iu” không chỉ khắc họa hình ảnh
bếp lửa mới được nhen lên mà khơi gợi bàn tay cần mẫn của người ba đang
nâng niu, vun vén cho ngọn lửa ấy. Người cháu bộc lộ tình cảm trực tiếp khi
nhớ tới bà. Nghệ thuật ẩn dụ “biết mấy nắng mưa” tượng trưng cho cả cuộc đời
bà chịu thương chịu khó có cả những đắng cay, nhọc nhằn.
Thời gian trôi đi nhưng kỉ niệm còn in đậm trong lòng cháu là lúc lên bốn tuổi.
Nếu tuổi thơ bao trẻ thơ vui tươi, hồn nhiên trong niềm hạnh phúc đủ đầy thì
tuổi thơ cháu lại gắn liền với mùi khói. Kí ức đang buồn sống dậy một cách rõ
nét khi cả nước ta trải qua nạn đói khủng khiếp:
“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi”
Điệp từ “đói”, từ láy “mòn mỏi” tái hiện cái đói dai dẳng, gặm nhấm dần sự
sống khiến cuộc sống cứ mòn đi như rỉ ra. Hình tượng “cha đi đánh xe, khô rạc
ngựa gầy” đầy ám ảnh về sự thê lương trong quãng thời gian gian khổ của đất
nước. Với người cháu, “quen” mùi khói nên giờ đây sống mũi còn cay. Có lẽ
“cay” nơi khóe mắt, sống mũi bởi niềm xúc động đang trào dâng trong lòng.
Suốt tám năm trời sống cùng bà nơi làng quê nghèo, âm thanh còn vang vọng
mãi tới tận bây giờ chính là tiếng chim tu hú:
“Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
... Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!” 93
Tiếng chim ngân vang những tưởng nó làm vui lên sự sống lặng thầm, buồn
chán kia nhưng khoảng không “những cánh đồng xa”. Phải chăng đó chỉ là tiếng
vọng từ phương trời xa xôi nào cũng hẻo lánh, hoang tàn như thế? Hơn cả, tiếng
tu hú gợi lại hình dáng người bà kính yêu:
“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
...Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”
Hình ảnh người bà lặp đi lặp lại trong kí ức của cháu. Cha mẹ bận công tác chưa
về nên bà vừa là cha, là mẹ, vừa là thầy bảo ban, dạy dỗ cháu nên người. Những
câu chuyện về cuộc kháng chiến gian ở Huế mà bà kể cũng khơi dậy lòng căm
thù giặc của cháu. Lòng biết ơn bà sâu sắc khiến cháu hờn trách chú chim tu hú
chẳng đến bên bà để sẻ chia những lo toan:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà?
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Người cháu còn nhớ như in những vẻ đẹp ngời sáng trong tâm hồn bà. Đó là
lòng nhẫn nhịn, âm thầm chịu đựng đau khổ, mất mát. Lòng vị tha cao cả của bà
luôn muốn gánh chịu đau thương một mình để nơi chiến khu tiền tuyến được
vững lòng nơi hậu phương. Trong hoạn nạn, lúc cơ hàn là khi tình nghĩa xóm
làng, tinh thần đoàn kết của người dân mạnh mẽ nhất:
“Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
Giữa hoàn cảnh khó khăn ấy, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm và công việc nhóm bếp lửa. Điệp ngữ: 94
“Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
Hình ảnh ẩn dụ: “một ngọn lửa” tượng trưng cho niềm tin hi vọng mong manh
về cuộc sống lúc nào cũng được bà ấp ủ, nâng niu. Niềm tin về một tương lai
tươi sáng của sự đoàn tụ gia đình,sự chiến thắng dân tộc. Ngọn lửa của bà trở
thành sức mạnh kì diệu:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Điệp từ “nhóm” lặp lại tới bốn lần, ánh lửa ấm áp ấy sưởi ấm tâm hồn mọi
người, tình làng xóm thắt chặt hơn sự san sẻ từng củ khoai sắn, nồi xôi gạo mới
do bà thổi. Còn cháu lạc quan vẫn nuôi những mơ ước bé nhỏ. Bà không chỉ là
người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.
Trở về với thực tại, cuộc sống trở nên đủ đầy, tiện nghi hơn với: “khói trăm tàu,
lửa trăm nhà...”, số đếm ước lệ “trăm” nhấn mạnh cuộc đời tốt đẹp như niềm tin
của bà ngày trước. Cuộc sống dù đổi thay thì vẫn có một điều không bao giờ
thay đổi: kỉ niệm về bà bên hình ảnh bếp lửa “thiêng liêng và kì lạ”.
Qua dòng suy tưởng về thời thơ ấu gắn bó với người bà cùng hình ảnh ngọn lửa,
nhà thơ Bằng Việt muốn gửi gắm tình thương yêu, lòng biết ơn bà sâu sắc và
cũng là đối với quê hương, đất nước trong bài thơ “Bếp lửa”.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 22 95
Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng
thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có
giọng điệu tâm tĩnh trầm lắng, giàu suy tư, triết luận. Bài thơ “Bếp lửa” là bài
thơ xuất sắc của ông, được sáng tác năm 1963, khi là sinh viên khoa pháp lí
trường Đại học tổng hợp Ki-ép. Qua hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã
trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà
và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người
cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương đất nước.
Có người nói người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể
tách quê hương ra khỏi con người Thật vậy. Dù đi đâu, ở đâu, ai cũng nhớ về
quê hương, nhớ về những kỉ niệm đã từng làm ấm lòng người, là điểm tựa tinh
thần để vươn lên nghịch cảnh.
Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng của người cháu về
người bà và bếp lửa quê hương. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi
tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ
niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với bao vất
vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu; từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã
trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao
quý của bà; cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà.
Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn liền trong
quá khứ như dòng sông, bến đò, cây đa… Đối với Bằng Việt, sự hồi tưởng được
bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu
lắng, hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa 96
cái lạnh của “chờn vờn sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu
nồng đượm”. Từ “ấp iu” vừa diễn tả công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay
kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm bếp. Các chữ “ấp iu”, “nồng
đượm”, “chờn vờn” rất hình tượng, gợi tả; Ấp iu: là một sáng tạo từ mới mẻ. Đó
là sự kết hợp và biến thế của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Bếp lửa ấm áp “nồng
đượm” ấy còn mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà.
Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về
bà, người nhóm lửa, người nhóm bếp mỗi sớm mai – một hình ảnh xuyên suốt
bài thơ, lúc nào cũng chập chờn lay động:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Bếp lửa của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”,
nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong lòng đứa cháu đi
xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. Chữ “thương” dùng thật đắt qua
vần thơ cảm thán, làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào hồn người.
Kí ức đưa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945:
“cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên). Thành ngữ “đói mòn đói
mỏi” – cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với người
bố đánh xe chắc cũng gầy khô… Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc.
Tuy nhiên cái đói chỉ là cái cớ để nhà thơ nhớ về một tuổi thơ cay cực, thiếu thốn trăm bề:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
Ấn tượng nhất là mùi khói bếp. Lên bốn tuổi, mùi khói trở thành mùi của cuộc
sống cơ cực, mùi của quê hương đói nghèo. Mùi khói bếp làm hiện hình kí ức
đau thương: “Khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. 97
Hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao. Hinh ảnh tả thực: khói nhiều cay, khét vì
củi ướt vì sương nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh tượng trưng: sự xúc động-
nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà.
Cảm xúc quá khứ hoà lẫn hiện tại và chắc hẳn cảm xúc quá khứ phải sâu sắc
lắm mới có thể trỗi dậy mạnh mẽ thế. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy
trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai. Qua đó, nhà thơ khẳng định,
tuổi thơ dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn nghĩa tình.
Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám
năm ròng của tuổi thơ – những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và những
tình cảm sâu sắc xung quanh cái bếp lửa quê hương được nhắc tới trong đoạn thơ thứ ba.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng
chim râm ran trong vườn lá, trên cánh đồng cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài.
Trong hiện thực đã tha thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ như giục giã, khắc khoải
một điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong:
“tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Nhà thơ đang kể chuyện về bà mà như tách
hẳn ra để trò chuyện trực tiếp với bà: “bà còn nhớ không bà…?”
Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu:
“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn
lẫn thể chất cho cháu, vậy mà bây giờ cháu cũng đi xa, để bà một mình khó
nhọc.Tiếng chim tu hú giờ đây trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ để gợi nhớ 98
gợi thương. Cháu thương bà vất vả, lo toan, biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm tình
với chim tu hú mà thôi. Như vậy, bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung
linh hình ảnh người bà và có cả hình ảnh quê hương.
Đặc biệt, hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt
nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả, giặc tàn phá xóm làng – hoàn cảnh
chung của nhiều gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. “Mẹ và
cha công tác bận không về”, cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, sớm
có ý thức tự lập, sớm phải lo toan. Bên bếp lửa: “bà hay kể chuyện những ngày
ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Trong nhiều gia
đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà – bà nội,
bà ngoại – đã thay thế vai trò của người mẹ hiền. Sống trong những năm dài
chiến tranh, thế nhưng bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, thử thách. Các từ
ngữ như “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng
đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Chữ”bà” và
chữ “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Được
sống trong tình thương là hạnh phúc.
Người cháu trong bài thơ “bếp lửa” tuy phải sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều
thiếu thốn khó khăn, nhưng em thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay
yêu thương của bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu:
“nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Tóm lại, làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc
của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan cài nhuần nhuyễn với nhau giữa 99
các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây cũng là nét bút pháp quen thuộc của
nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó khiến cho hình ảnh của bà thật
gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ lại hiện về sống động và chân thành, giản dị.
Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở về hiện tại để suy
ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà và cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà
nhiều hơn. Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói
bà là “người nhóm lửa”, lại cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình.
Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
“Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều” không phải chỉ bằng nhiên liệu bên
ngoài mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu
thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng”,
bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng, niêm tìn thiêng liêng kì diệu
nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu
thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các
từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa”
đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến.
Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên
mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại
của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu truyền
cảm ấy. Như thế, hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là
người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. 100
Tám câu thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về
người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Cuộc đời
của bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan,
chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu
trong gia đình. Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Từ “lận đận” thể hiện tấm
lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”
Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục
năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc, mà là
bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với con cháu. Điệp
từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết
rất thực… có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của
bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu,
nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sương sớm; đến câu
tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà
như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thương vô hạn của bà.
Lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm
làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang
nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà bao la giản
dị như khoai sắn và cũng đậm đà như khoai sắn.Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, 101
“yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút
nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà
bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”,
nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ.
Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. Chính vì thế mà
nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì
diệu, thiêng liêng: “Ôi! Kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa”. Như vậy, từ ngọn lửa
của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được
linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành. Từ phương xa vọng ngóng về quê
hương trong nỗi nhớ và niềm tin mạnh mẽ:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã
được sống với những niềm vui rộng mở, nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu, ngọn
lửa trăm nhà, cháu vẫn không thể quên bếp lửa của bà, vẫn không nguôi nhớ
thương bà…. Mỗi ngày đều tự hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?, mỗi
ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ niệm thiêng
liêng làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bước đường đời.
Bài thơ Bếp lửa chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín: những gì là thân thiết
nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành
trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một 102
biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, và đó
cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước.
Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.
Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình
ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và
tình bà cháu. Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng bếp lửa vừa thực vừa mang ý
nghĩa tượng trưng kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận; giọng điệu và
thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Bài thơ như ngọn
lửa ấm áp toả sáng và cháy mãi trong tình cảm của người đọc.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 23
Văn học ra đời giữa những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người
cho đến ngày tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như thứ khí
giới thanh cao mà đắc lực mà chúng ta có để thay đổi thế giới giả dối và tàn ác,
vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn. Văn chương trao truyền
những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, trong trẻo cho tâm hồn con người hướng đến
vẻ đẹp của chân thiện mĩ. Chính vì thế mà văn chương giống như suối nguồn lai
tạo sự sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang văn câu thơ bồi đắp thêm cho
ta những tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những tình cảm ta chưa có. Bài
thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ như thế. Cũng viết về những tình cảm
muôn thuở của loài người đó là tình bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước ta đã
gặp trong thơ ca dân gian, trong những trang văn tuyệt đẹp của Hoàng Phủ
Ngọc Tường về dòng sông quê hương, những câu hát và cảnh xứ non sông,
những câu tục ngữ về tình bà cháu thiêng liêng: “Ngó lên lạt luộc mái nhà/Bao
nhiêu lạt luộc nhớ ông bà bấy nhiêu.” Nhưng tìm đến những câu thơ của Bằng
Việt không hiểu sao vẫn rung động hồn ta bởi những nỗi băn khoăn riêng, vẫn
ám ảnh và đầy dư ba về sự hi sinh của người bà tần tảo và tình cháu yêu bà. 103
Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông toát lên vẻ
đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc
khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình và “Bếp
lửa cũng không là bài thơ ngoại lệ.Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác
giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt,
sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ.
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm.
Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ
đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu
thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện
niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình,
đối với quê hương, đất nước.
Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng
về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có
gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và
dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh
một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai.
Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay
dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái
bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp
ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người
cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai: 104
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh
của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình
yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng
nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.
Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi
nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi
đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài.
Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả
những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.
Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những
năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về
vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế
hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống
trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ
trong gang tấc. Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như
một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết
bao nhiêu là sự thiệt thòi, gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và
kiệt sức. Vì thế, cái đói đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người 105
bố đánh xe chắc chắn cũng khô héo, tiều tụy, xanh xao…tất cả đã khiến cho
người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến
rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã cùng bà
nhóm lửa, khói bếp tỏa ra đã làm cho nhèm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn
cay”. Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người cháu hay đó chính là
nỗi cơ cực, vất vả của cái nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu
thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân
thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ trầm xuống thấm
thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ dâng đầy trong
lòng thi sĩ khiến “sống mũi còn cay”.
Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm ròng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ
vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh
của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi
thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một 106
không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da
diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà còn
nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu
hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi
hoài trên những cánh đồng xa)… Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm
của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống
vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn
trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm
đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quí. “Mẹ và cha
công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể
chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà
bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương
bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế , bà trở thành ngọn
nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết
hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến
đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức
công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một
mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính
trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao
nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có
một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, 107
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm
làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm
bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được
việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm
chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc
ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu
phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc
giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn
được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại
trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quí biết
bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn
của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có
được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên
mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.
Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình,
người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát.
Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản
chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành
biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ 108
“một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của
ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho
cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống
phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà
còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự
sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng
định phẩm chất cao quí của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân,
lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người
phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý
nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là
người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng
trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn
lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà
nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung
vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà
đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã 109
thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà.
Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình
yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh
bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để
cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê
hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi
kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo
ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ
cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.
Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn,
trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi “khói
trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc
khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa: “Nhưng vẫn chẳng lúc
nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Sự tương phản
giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa
bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm
lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người
cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền
lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ
tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc.
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài
vọng xa xăm của người cháu luôn đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia
đình, nhớ tới quê hương, đất nước.
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng
bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ
linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ
với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ 110
đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung
da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ
đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy
trần trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta
mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…”
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 24
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thơ của ông toát lên vẻ đẹp đằm thắm, mượt mà khi viết về những kỉ niệm với
gia đình, với lứa tuổi học trò hồn nhiên, mơ mộng. Nổi bật nhất trong các sáng
tác của ông là bài thơ Bếp lửa, được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang học tập
tại Liên Xô. Nhớ bà và nhớ những kỉ niệm về bà, Bằng Việt đã viết bài thơ này,
nó được trích trong tập Hương cây - Bếp lửa cùng với Lưu Quang Vũ. Đọc bài
thơ, ta có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của người cháu dành cho bà
cũng như nỗi nhớ bà khôn nguôi của tác giả.
Hình ảnh bà hiện ra trong kí ức của nhà thơ là ở trong căn bếp của bà:
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm"
Từ láy "chờn vờn" trong hình ảnh bếp lửa gợi liên tưởng đến trong kí ức của
người cháu hình ảnh bà và bếp lửa của bà hiện về chập chờn như khói bếp. Điệp
từ "Một bếp lửa" có tác dụng nhấn mạnh cái bếp lửa để nấu cơm, đun nước 111
hằng ngày cũng như là bếp lửa của cuộc đời bà, đã trải qua biết mấy nắng mưa:
"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Từ chỉ số lượng "một" khắc họa rõ nét
hình ảnh bếp lửa của một người bà yêu thương cháu, một mình bà chứ không
phải ai khác. Chính trong cái bếp lửa "ấp iu nồng đượm" ấy, người cháu được
sống trong tình yêu thương của bà, được bà chở che cả tuổi thơ, cho nên tác giả
rất yêu thương người bà của mình.
Nhà thơ gắn liền với một tuổi thơ cơ cực, thiếu thốn trong những năm tháng hai bà cháu sống cùng nhau:
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"
Tác giả là một trong những đứa trẻ phải trải qua những năm tháng vất vả, cơ cực
đến mức đói mòn, đói mỏi của cả dân tộc. Hình ảnh khói bếp của bà được nhắc
đến trong suốt khổ thơ cho thấy sự thấm sâu vào tâm hồn đứa trẻ của khói bếp.
Chính những năm tháng vất vả, thiếu thốn ấy, nhà thơ mới càng thêm trân trọng
tình cảm của bà dành cho mình. Nghĩ về những điều đó, nhà thơ thấy sống mũi
cay cay, như rưng rưng xúc động trước một quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm
tình yêu thương của bà.
Những kỉ niệm về bà được tác giả kể lại lần lượt ở những câu thơ tiếp theo:
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà? 112
Bà thường kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!"
Tám năm là một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hình thành nên tuổi thơ
của mỗi con người. Trong tám năm ở cùng với bà đó, nhà thơ đã trải qua biết
bao nhiêu kỉ niệm cùng với bà. Hình ảnh tiếng tu hú kêu như giục giã những cây
lúa ngoài đồng mau chín, để bà con người nông dân không phải chịu đựng cái
đói thêm một ngày nào nữa. Và khi tu hú kêu cũng là lúc người cháu được nghe
bà kể chuyện của bà ngày trước, là những thứ tạo nên kí ức ngày hôm nay của
tác giả. Từ "tu hú" được lặp lại đến ba lần với tiếng kêu tha thiết, như đang vang
vọng đâu đây trong kí ức của tác giả. Kí ức ấy không hề đầy đủ cả mẹ và cha:
"Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học"
Dù nhà thơ phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của cha mẹ nhưng bù lại vẫn nhận
được sự yêu thương vô bờ của bà. Bà đã thay cha mẹ dạy dỗ cháu nên người, bà
dạy cho cháu làm những công việc nhà, bà bảo ban cháu cố gắng học tập. Tất cả
đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương, sự chở che, đùm bọc của bà dành cho
cháu. Đến đây, nhà thơ lại bộc lộ cảm xúc thương xót cho sự vất vả, khó nhọc của bà:
"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Bếp lửa của cuộc đời bà khơi dậy trong tâm hồn người cháu một tình yêu
thương và tha thiết, một sự biết ơn đối với bà. Bếp lửa còn gắn liền với tiếng tu 113
hú. Hình ảnh "tu hú" lại được lặp lại cho thấy nó đã đi sâu vào tiềm thức của
nhà thơ, khi nhớ về bà và bếp lửa của bà thì nhà thơ cũng nhớ tới âm thanh của
con tu hú. Tiếng tu hú kêu da diết, khắc khoải như khiến cho tác giả nhớ về
những kỉ niệm ngày xưa.
Nếu ở trong những dòng thơ đầu, nhà thơ tái hiện lên cho người đọc những hình
ảnh và kỉ niệm của tác giả với bà và bếp lửa của bà thì ở những dòng thơ sau,
nhà thơ Bằng Việt lại làm hiện lên những kí ức đau thương mà có lẽ cho đến
hiện tại, tác giả vẫn khó có thể quên được.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 25
Có thể là bài thơ còn thiếu cái này, cái nọ, nhưng phải nhận rằng Bếp lửa là
tiếng thơ của một tấm lòng có cội nguồn, chứ không chơi vơi, nửa chừng và là
một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, phong phú và mới mẻ”.
Có lẽ Nguyễn Đức Quyền muốn nói, mặc dù sống ở nước ngoài đầy đủ tiện
nghi, có bếp ga, bếp điện, không có cái “Bếp lửa”, nhưng Bằng Việt vẫn không
bị sự hào nhoáng tân tiến, hiện đại làm quên đi cái “bếp lửa” của Việt Nam,
trong đó có lẽ chủ yếu vì “bếp lửa” chứa đựng một hình ảnh thân thương là bà
nội, và một hình ảnh khác là dâu ấn của quê hương!
Bài thơ có mấy câu mở đầu, phần còn lại chia làm hai phần:
Phần một ôn lại một thời thơ ấu của tác giả. Tuổi thơ ấy gắn liền với một thời
gian khổ, chia li, nghèo đói, giặc giã tàn phá xóm làng, cha mẹ đi công tác xa.
Tám năm ở với bà, với nghĩa tình nồng đượm, ngọn lửa tượng trưng cho sự ấm
nóng tình bà cháu, xóm làng. Kỷ niệm những năm tuổi thơ ấy còn được gợi lại
qua tiếng chim tu hú, càng làm cho tình cảm trở nên da diết, lắng đọng. 114
Phần thứ hai là cảm xúc của người cháu về cuộc đời của bà đầy tình thương yêu,
tần tảo, hy sinh, nay cháu đi xa… không biết mỗi sớm mai bà có còn nhóm lửa,
cũng là nhóm lên tình yêu thương… “Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ” không?
Phần lắng đọng trong lòng người đọc là lòng hiếu thảo của người cháu dù đã đi
xa, “Có ngọn khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà” và “niềm vui trăm ngả”, nhưng
vẫn không quên ngọn lửa chính tay bà nhóm lên. Đó là ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt trong đời.
Bài viết đã nêu lên được hai hình ảnh: Hình ảnh người bà và hình ảnh bếp lửa –
ngọn lửa. Ớ người bà là cuộc chắp cánh cho đứa cháu nhỏ bay vào cuộc đời…
còn hình ảnh bếp lửa là hình ảnh trữ tình xuyên suốt bài thơ, khơi dậy những
tâm tình tuổi nhỏ thật kì lạ và thiêng liêng. Vì vậy, bếp lửa được nhắc đến nhiều
lần. Với hai ý nghĩa vừa tả thực tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa; ý nghĩa
tượng trưng là lửa của niềm tin đã nhóm trong lòng nhà thơ.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 26
Mỗi chúng ta ai cũng có một tuổi thơ, đó là những năm tháng êm đềm nhất mà
qua rồi chúng ta luôn nhớ về. Trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ Bằng Việt có sự
xuất hiện của người bà hiền hậu bên bếp lửa. Những năm tháng hồn nhiên ấy,
bà đã dạy cho ông biết bao điều. Bài thơ Bếp lửa như một lời cảm ơn sâu sắc mà
tác giả dành tặng cho người bà của mình. Chính bà đã nuôi dạy nhà thơ nên
người trong những năm tháng bố mẹ của ông đi công tác xa không về.
Nhà thơ Bằng Việt trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, ngôn ngữ thơ
của ông dung dị mà lay động lòng người. Ông làm thơ từ khi còn trẻ. Bài thơ
Bếp lửa là một sáng tác khi ông mới 19 tuổi và lúc đó đang du học ở Liên Xô.
Bài thơ là một chuỗi những kỉ niệm của tác giả về người bà thân yêu của mình.
Qua đó, tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn thành kính đối với bà, đối với quê
hương nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Nỗi nhớ về bà được khơi gợi từ một hình 115
ảnh, một món đồ quen thuộc đối với tất cả người dân Việt Nam thời bấy giờ đó
chính là bếp lửa. Chắc hẳn ở nơi phương xa, tác giả đã nhớ da diết ngọn lửa
sáng bừng và ấm áp tình người của bếp lửa quê nhà:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Ngay từ câu mở đầu tác giả đã có sự liên tưởng vô cùng chính xác đó là sự liên
tưởng khói bếp với sương sớm. Khói bếp “chờn vờn” và lan tỏa khắp mọi nơi
giống như sương mù buổi sớm vậy. Nó khiến cho cảnh vật trở nên mờ ảo và
không rõ ràng. Thế nhưng nó lại chứa biết bao nhiêu nồng đượm của tình người.
Bếp lửa ôm vào lòng mình những tình cảm đậm sâu cũng giống như tình thương
mà người cháu dành cho người bà của mình. Người bà đã không quản ngại nắng
mưa để nuôi cháu nên người. Thông qua tình thương của cháu, người bà xuất
hiện một cách thật nhẹ nhàng. Kí ức mờ ảo như sương khói nhưng cảm xúc thì
vụt sáng như ngọn lửa. Từ đây, tình cảm của hai bà cháu dần dần hiện lên một cách đầy rõ nét:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Những câu thơ là sự hoài niệm của Bằng Việt về những năm tháng tuổi thơ khi
ông còn sống trong sự bao bọc, chở che của bà. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ
thơ mộc mạc, bình dị và cách xưng hô “cháu” khiến người đọc có cảm giác như
đây là một lá thư tâm tình mà tác giả muốn gửi tới bà của mình. Tuổi thơ của
những đứa trẻ lớn lên thường có hình ảnh của cô tiên, ông bụt trong những câu
chuyện cổ tích. Còn câu chuyện cổ tích mà tác giả đang kể có hình ảnh của bà 116
và bếp lửa. Năm ấy là những năm 1945 đói khổ nhất của người dân nước Việt.
Con người gầy rộc đi vì đói, chỉ còn lại da bọc xương rồi họ cũng chết lả ở khắp
các ngả đường. Thế nhưng, nhờ có bà, nhờ có ánh lửa bập bùng mà tác giả đã
xua tan được cái không khí rợn người ấy. Ai đã từng đun bếp lửa thì sẽ thấy,
khói bếp bay vào mắt, vào mũi cay xè. Tác giả hẳn cũng đã từng bị khói bay
vào như vậy. Để bây giờ mỗi khi nhớ lại những năm tháng ấy, ông vẫn còn cảm
giác như sống mũi cay vì khói. Mùi của khói đã làm át đi cái mùi tử khí trên
khắp các phố phường. “Sống mũi cay” cũng là một cách nói giúp tác giả biểu
thị niềm xúc động đang trào dâng trong lòng mình.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
8 năm đối với tác giả Bằng Việt đó là một khoảng thời gian dài. Trong suốt 8
năm ấy, ông đã cùng với bà nhóm lên biết bao nhiêu ngọn lửa. Đó là ngọn lửa
của bếp nhưng cũng là ngọn lửa của hy vọng, ngọn lửa của tình yêu. Tình yêu
dành cho người bà của mình khiến tác giả nhớ về quê hương tuổi thơ. Ông bắt
đầu liên tưởng đến tiếng chim tu hú. Đối với người nông dân, tiếng chim tu hú
là sự báo hiệu của đồng lúa chín. Còn nhớ nhà thơ Tố Hữu cùng từng viết “Khi
con Tu Hú gọi bầy, Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần”. Tiếng tu hú còn
gắn liền với tuổi thơ của tác giả là bởi mỗi khi chim cất tiếng kêu là “bà hay kể
chuyện những ngày ở Huế”. Tiếng tu hú vì vậy mà trở nên da diết hơn. Tiếng tu
hú kêu được tác giả nhắc đi nhắc lại tới 3 lần khiến người đọc cảm giác như
cũng đang nghe thấy tiếng kêu quanh đâu đây. Tiếng kêu tu hú làm nỗi nhớ thêm trải dài và rộng. 117
Những năm đói kém, người gần gũi với tác giả nhất là bà. Đến 8 năm kháng
chiến chống Mĩ, bà cũng vẫn là người ở bên khi mà:
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bố mẹ thì đi công tác, chiến tranh thì ác liệt khiến hai bà cháu phải đi tản cư từ
nơi này sang nơi khác. Thế nhưng tác giả lại không hề thấy buồn mà ngược lại,
trong lòng ông là một niềm hạnh phúc khôn nguôi. Hạnh phúc bởi mỗi ngày
ông đều được cùng bà nhóm bếp. Bà đã thay cha thay mẹ để là cánh chim, là
nhành hoa chăm sóc cho cháu và nâng đôi cánh giúp cháu bay đi thật xa. Bà
chính là người thầy đầu tiên dạy cho cháu những điều hay, lẽ phải trong cuộc
sống. Lúc cháu còn nhỏ, bà chính là chỗ dựa vững chắc cả về tinh thần lẫn vật
chất. Vậy nên bây giờ khi ở cách xa bà nửa vòng trái đất, nghĩ đến việc bà phải
làm tất cả mọi thứ một mình, tác giả đã bật lên câu hỏi “Tu hú ơi, chẳng đến ở
cùng bà”. Câu hỏi tu hú nhưng là hỏi chính mình thể hiện một nỗi nhớ mong bà
sâu sắc. Cặp hô ứng bà – cháu được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người có cảm
giác hai bà cháu lúc nào cũng sóng đôi bên nhau không rời.
Chiến tranh đã khiến con người ta rơi vào cảnh đói khổ như vậy. Cuộc sống của
hai bà cháu cũng có những thời điểm dường như rơi vào bế tắc khi nhà bị cháy,
gia đình thì ly tán mỗi người một nơi thế nhưng người bà vẫn lạc quan và nghị lực:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên! 118
Bản thân mình dù đang gặp khó khăn là túp lều tranh cũ bị cháy rụi nhưng bà
vẫn vô cùng bình tĩnh. Bà cũng lo lắng nhưng là lo con biết chuyện rồi không
yên tâm làm việc. Vì vậy mà bà đã dặn người cháu không được nhắc gì đến
chuyện này. Có thể thấy tấm lòng của người bà, người mẹ thật vĩ đại khi lúc nào
cũng hy sinh vì con, vì cháu. Ở đây, bà đã không còn là bà của riêng cháu nữa
mà là biểu tượng chung cho người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh.
Những câu thơ tiếp theo, tác giả đã diễn tả ngọn lửa trong lòng bà:
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nói đến ngọn lửa là thấy sự bùng cháy rực rỡ. Nó cũng giống như tấm lòng của
bà, giống như niềm tin của bà. Chỉ cần có một ngọn mồi nhỏ là nó sẽ bùng cháy
lên. Vì vậy mà hễ đi đâu, chỉ cần nhìn thấy ngọn lửa là cháu sẽ nhớ về bà.
Đến cuối bài thơ, hình ảnh bếp lửa ấp iu nồng đượm được nhắc lại thêm một lần
nữa như là sự khẳng định về thứ tình cảm sâu sắc giữa bà và cháu:
Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Nhóm lửa nhưng đồng thời cũng là nhóm lên tình yêu thương, đùm bọc giữa
con người với con người. Bài thơ là sự nhắc nhở của người bà dành cho người
cháu phải biết nhớ về cội nguồn, nhớ về những năm tháng gian khó, nhớ về
những con người đã ở bên giúp đỡ ta. Nhóm bếp lửa là “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”
Bà là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của cháu. Vì vậy mà dù cháu đã
đi xa thì vẫn không nguôi nỗi nhớ về bà:
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu 119
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Giữa mùa đông lạnh giá của nước Nga, người cháu đã được sưởi ấm bằng chính
tình cảm dành cho bà của mình. Có thể thấy, người cháu nay đã trưởng thành,
đã biết lo nghĩ nhiều hơn cho bà và vẫn nhớ như in những lời bà dạy.
Đọc bài thơ lên, người đọc có cảm giác như đang được ngồi bên bếp lửa và
nghe một câu chuyện cổ tích cảm động về tình bà cháu. Bài thơ đã truyền lửa
tới cho bao nhiêu thế hệ giúp khơi dậy tình yêu thương trong mỗi con người.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 27
Trong số các nhà thơ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Bằng Việt là
một trong những nhà thơ hàng đầu. Khi nhắc đến Bằng Việt, người ta sẽ nhớ
ngay đến bài thơ Bếp lửa. Đây là bài thơ được tác giả sáng tác về tình bà cháu
trong giai đoạn kháng chiến với những yêu thương ấm áp. Ở Bếp lửa, tác giả đã
thổi hồn vào thơ về một khoảng hồi ức đẹp đẽ nhất.
Đọc Bếp lửa, ta sẽ thấy đây như là nỗi lòng của người cháu dành cho bà ở
những ngày tháng tuổi ấu thơ vất vả, khổ cực. Bếp lửa là hình ảnh vô cùng gần
gũi với mỗi gia đình Việt Nam từ xưa đến nay, và có sức ám ảnh, lay động cả
tác giả lẫn người đọc vô cùng lớn. Cũng có lẽ bởi vì bếp lửa là thứ mà khi nhìn
thấy, ta sẽ nghĩ đến ngay những người bà, người mẹ và những kỷ niệm thời ấu thơ:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa. 120
Tác giả sử dụng điệp từ “một bếp lửa” như để thôi thúc bản thân luôn có một
nỗi nhớ hiện hữu trong suy nghĩ. Bếp lửa cứ chờn vờn và ấp iu, như thể hiện sự
gắn bó không thể tách rời với bản thân tác giả. Những ký ức về bà, về tuổi thơ
cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến cho tác giả phải cảm thán “ ôi”. Từ “ ôi” tha thiết,
mang nặng ân tình, thiêng liêng quá. Có lẽ tác giả đã có những năm tháng tuổi
thơ không thể nào quên bên người bà của mình, vậy nên kí ức cứ thế ùa về:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay.
Ở khổ thơ này, tác giả cho ta thấy rõ sự nhọc nhằn, vất vả của tuổi thơ khi cậu
bé bốn tuổi đã quen thuộc với mùi khói bếp. Khi đất nước rơi vào cảnh chiến
tranh, khiến cho nạn đói diễn ra ở khắp nơi. Khói bếp đã hun đầy ở khóe mắt,
hiện lên một tuổi thơ nhọc nhằn. Cuối câu thơ xuất hiện chữ cay như gieo vào
lòng người nỗi buồn man mác. Sống mũi cay khi tuổi thơ cơ cực, bà với bố mẹ vất vả sớm hôm.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế.
Một quãng thời gian dài đằng đẵng, ròng rã tám năm trời bà và cháu nhọc nhằn
bên nhau. Hai bà cháu cùng nhau tần tảo sớm hôm, cùng nhau nhóm lửa, như để
nhóm lên tình yêu thương của bà dành cho cháu. Ở đoạn thơ này, tiếng tu hú
xuất hiện nhiều lần, tu hú gọi hè, gọi lúa chín, gọi cả giấc mơ của hai bà cháu về
một tương lai tươi sáng hòa bình. 121
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.
Khổ thơ này thật sự khiến cho người đọc cảm thấy nghẹn ngào, xúc động. Cảm
xúc của tác giả kìm nén sau bao nhiêu năm giờ cũng đến lúc dâng trào. Có lẽ
những năm tháng sống bên cạnh bà, tuy vất vả nhưng tràn đầy yêu thương. Tác
giả thương bà vất vả, khó nhọc, tần tảo bên bếp lửa để chăm lo cho cháu. Dù
trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh gian khổ, nhưng tình cảm bà cháu vẫn thật
thiêng liêng. Vậy nhưng điều không thể tránh khỏi, đó là chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ:
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.
Khổ thơ này làm bật lên đức hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam. Trong
khó khăn gian khổ, nhưng người mẹ, người bà vẫn luôn là chỗ dựa vững chắc
và bình yên nhất cho người đi chiến đấu ở tiền tuyến. Bà yêu thương cháu,
thương con, thương cho đất nước đang rơi vào cảnh lầm than.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi. 122
Ngọn lửa đã được cháy lên, chứ không còn là bếp lửa nhỏ bé nữa. Cũng như
tình yêu thương của người bà, lúc nào cũng nhen nhóm trong lòng với tình yêu bao la vô bờ bến.
Đến khổ thơ cuối, có lẽ tác giả đã trở về thực tại, với một giọng thơ nghẹn ngào, đầy cảm xúc:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm thành bếp lên chưa.
Cháu của bà giờ đây đã không còn nhỏ bé trong vòng tay của bà nữa. Cháu đã
đi xa, đến những vùng đất mới với nhiều niềm vui. Vậy nhưng tình yêu cùng
những kí ức tuổi thơ bên bà là điều tác giả không thể nào quên, mang theo đến suốt cuộc đời.
Có thể nói, Bếp lửa là một bài thơ vô cùng giản dị, nhẹ nhàng nhưng lại để lại
trong lòng người đọc một cảm xúc chẳng thể nói nên lời. Đây là một bài thơ rất
thành công về tình yêu thương giữa những người thân yêu, dù cho bao nhiêu
khó khăn gian khổ cũng không có gì thay đổi.
Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt - Mẫu 28
Tuổi thơ mỗi con người gắn với muôn vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên
cạnh đó là những cảm xúc, những tình cảm dành cho nhau để rồi khi mai sau
lớn lên dùng tình cảm kỉ niệm ấy tiếp tục hành trang cuộc đời. Rất nhiều tác
phẩm văn học thơ, truyện ngắn được các tác giả lấy cảm hứng từ tình cảm
thiêng liêng ấy, tình cảm vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình yêu quê
hương đất nước,... Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ Bếp Lửa với tình cảm
và niềm nhung nhớ dành cho người bà của mình khi đang du học tại Liên Xô 123
vào năm 1963. Hình ảnh đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực
nhưng tràn ngập tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, chở che trong những
ngày bố mẹ đi làm xa và niềm hạnh phúc bên bếp lửa ấm áp tình thương.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"
Hình ảnh bếp lửa được khắc họa lên từ ba câu thơ đầu qua điệp ngữ "một bếp
lửa" và từ láy "chờn vờn" khiến ta có thể hình dung ra được một khung cảnh
đơn sơ, giản dị nhưng ấm áp, đầy ấp tình cảm. Ngọn lửa từ bếp ấp ôm bao niềm
nhung nhớ về bà, chứa đựng biết bao kỉ niệm của người cháu nhỏ và bà. Người
bà ân cần nhóm nhen ngọn lửa tình cảm ấy, cũng giống như đôi tay bà chăm sóc
cho cháu nhẹ nhàng quan tâm, hình ảnh người bà như làn khói từ bếp vào mỗi
buổi sớm mai, hình ảnh khổ cực chăm nuôi của bà dãi dầu mưa nắng càng thắp
lên trong lòng người cháu rõ rệt vết hằn nỗi nhớ. Từ hai câu đầu qua hình ảnh
bếp lửa mỗi sáng đã được tác giả khắc họa lên một bếp lửa chan chứa kỉ niệm,
một bếp lửa đầy ấp tình yêu, một bếp lửa sáng rực lên hình ảnh bà. Đến câu tiếp
theo bao nhiêu nỗi niềm như phút chốc vỡ òa "cháu thương bà biết mấy nắng
mưa", tác giả đau lòng, xót xa trước nỗi nhớ về hình ảnh bà dù mưa dù nắng
nhưng vẫn lo cho cháu đầy đủ từng cái ăn cái mặc, gian truân cuộc đời bà vì
cháu mà trải qua không một lời nói, bà âm thầm vì cháu mà làm mọi việc, đều là
những hy sinh thầm lặng từ người bà kính yêu. Từ đây ta thấy rằng trong trái
tim tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết là bao, có cả một vùng trời
thương nhớ về người bà, một câu "cháu thương bà" cũng sẽ đọng lại trong ta một ý nghĩa sâu sắc.
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy 124
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"
Ở đoạn này, kỉ niệm không phải là hình ảnh nhẹ nhàng như "chờn vờn sương
sớm" hay "ấp iu nồng đượm" mà là những kỉ niệm ám ảnh trong tâm trí tác giả,
đứa cháu bốn tuổi cùng bà cơ cực trải qua nạn đói năm 1945. Không khí u ám,
lầm than của nạn đói nhờ có người bà kính yêu đã được xoa dịu đi phần nào, bà
tảo tần sớm hôm mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn đỡ đói. Thành
ngữ "đói mòn đói mỏi" nghe như tiếng kêu xé lòng, nỗi ám ảnh của một đứa trẻ
hằn sâu trong tâm trí là nỗi sợ hãi. Không như bao người khi nghĩ về tuổi thơ
của mình là mảng màu hồng, thì với tác giả đó lại là mảng màu xám pha cả màu
đỏ của máu từ những nỗi đau của đói khổ, cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử đã làm
chết hơn hai triệu con người. Nhưng có bà luôn bên cạnh che chở, có khói bếp
làm nhòa đi phần nào đau thương từ nạn đói, kỉ niệm vẫn mang chút hơi ấm,
làm quên đi nỗi khốn khổ. Chi tiết "khói hun nhèm mắt cháu" để thấy được đứa
trẻ bốn tuổi ấy cố lấp đi những ám ảnh của việc đói mòn mỏi bằng khói bếp của
bà, và chi tiết "sống mũi còn cay" cay do mùi khói nghi ngút ấy đang cố che
giấu đi mùi máu tanh ở các ngõ ngách, cay vì đứa trẻ ấy đã phải chịu cảnh "đói
mòn đói mỏi" đang dần len lỏi vào từng mảng kí ức thơ ngây, mang theo nỗi
đáng sợ của nạn đói, mang theo cả cảm giác thèm từng củ khoai, củ sắn, khi ấy
những món ăn đơn sơ cũng trở thành "mĩ vị nhân gian".
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"
"Tám năm ròng" khoảng thời gian dài đằng đẵng cháu cùng bà vẫn luôn nhóm
lên ngọn lửa yêu thương, nồng ấm, ngọn lửa của sự sống, khoảng thời gian đó 125
dẫu trải qua khó khăn nhọc nhằn nhưng chỉ cần có bà vẫn thật bình yên. Tuổi
thơ người cháu gắn với bà với bếp lửa yêu thương, gắn với cả tiếng tu hú kêu
trên những cánh đồng, như thúc giục người nông dân mau ra ruộng thu hoạch
thoát khỏi sự đói khát. Bên cạnh đó, khi tiếng tu hú kêu cũng như một tiếng
chuông báo rằng: "Bà ơi! Bà kể chuyện cháu nghe." Từ "tu hú" được lặp lại ba
lần như khẳng định nỗi nhớ của tác giả vì trong văn học nghệ thuật, tiếng chim
tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Tiếng
tu hú trở thành một khoảng trời kỉ niệm nhẹ nhàng đậm tình yêu thương giữa tác giả và bà.
"Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? "
Những câu thơ đơn sơ mộc mạc ấy vẫn nói lên được sự tận tụy của bà chăm lo
cho cháu khi "mẹ cùng cha công tác bận không về". Hình ảnh bà như một người
cha một người mẹ lo lắng chăm bẫm cho con mình, cũng như một người thầy
dạy bảo học trò, bà cũng là cả một bầu trời yêu thương của tác giả. Cấu trúc
"bà-cháu" thể hiện một tình yêu sự gắn kết của người bà với người cháu. Hình
ảnh "bà dạy cháu làm", bà dạy cháu cháu cách làm người, dạy cháu tự lập cho
cuộc sống của mình, bà dạy cháu yêu thương gia đình, và hình ảnh "bà chăm
cháu học" bà dạy cho cháu từng nét chữ, bà cho cháu kiến thức mai sau giúp ích
cho đất nước. "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc" đứa cháu nhỏ lo lắng
cho bà, nhìn thấy bà cực nhọc đứa cháu cùng bà nhóm lên bếp lửa giúp bà đỡ đi
phần nào nhọc nhằn. Sau đó lại là lời trách tu hú của đứa trẻ thơ ngây, trách tu
hú sao lại chẳng đến ở với bà, giúp bà đỡ đần công việc, để bà đỡ cô quạnh
buồn tủi, mà tu hú cứ mãi ham chơi trên những cánh đồng kia. 126
Những nhận định hay về bài thơ Bếp lửa
1. Bài thơ Bếp lửa biểu hiện một triết lý thầm kín: những gì là thân thiết nhất
của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình
dài rộng của cuộc đời.
2. “Có thể là bài thơ còn thiếu cái này cái nọ, nhưng phải nhận rằng, “Bếp lửa”
là một bài thơ có nguồn cội, chứ không chơi vơi nửa vời…”
3. Mỗi nhà thơ lại có những phong cách riêng với nét đặc trưng trong chất thơ.
Với Bằng Việt, chất thơ ấy chính là chất suy tưởng giàu tính trí tuệ và rất hào hoa.
4. “Lời thơ như những nét chấm phá tươi mát nhưng không thiếu chiều sâu suy
tưởng”, “ thơ Bằng Việt thường nghiêng về suy nghĩ, có dáng một lời tâm sự” (Nguyễn Xuân Nam)
5. “Vào những năm đầu thập kỷ 60, Bằng Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt
Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân
và cái dịu dàng của hồn thơ anh. Vời những câu thơ xúc cảm tinh tế, chữ nghĩa
long lánh, độc giả ấn tượng về anh như một nhà thơ trẻ lịch lãm, tài hoa” (Phạm Khải)
6. “Ở Bằng Việt sự suy nghĩ có tình có nghĩa được bộc lộ nhất quán có sự nhất
quán trong thơ anh” (Hồng Thọ)
7. Qua hồi tưởng và suy ngẫm củ người cháu, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỷ
niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính
yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình,
quê hương, đất nước. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu
tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp 127
lửa gắn liền với hình ảnh của người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỷ niệm,
cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu. 128