



Preview text:
Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh chọn lọc hay nhất
Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh chọn lọc hay nhất
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam chúng ta. Bác không
chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn là một nhà thơ rất tài năng. Trong
cuộc đời, sự nghiệp cầm bút của Người cũng vô cùng đồ sộ, tiêu biểu nhất là
tập thơ “Nhật ký trong tù”. Tập thơ gồm 20 bài thơ, được Bác hoàn thành khi
bị giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, “Đi đường” (Tài Lộ) là
một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình tượng người chiến sĩ cách mạng kiên cường.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đó là khi Hồ Chí Minh bị
khủng bố và bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch và Người buộc phải
chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác. Trong hoàn cảnh ấy, những khó khăn,
gian khổ, thử thách đều có thể làm chùn bước người tù, nhưng với lòng yêu
đời và ý chí chiến đấu quật cường, ông không những không chịu khuất phục
mà còn dùng những lời lẽ thi vị. hoàn cảnh khó khăn đồng thời là động lực
thúc đẩy ý chí của anh. Bác Hồ muốn thể hiện bức chân dung về ý chí bất
khuất của người tù cách mạng ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn, đồng thời
cũng để nêu triết lý muôn đời rằng: Vượt qua mọi gian nan, thử thách nhất
định sẽ thắng lợi vẻ vang.
Vẫn với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt được ưa chuộng, Hồ Chí Minh đã vẽ nên
bức tranh hiện thực và hình ảnh tinh thần của Người trong những lúc chuyển
mình bằng bài thơ “Tẩu Lộ”:
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian" Dịch thơ:
"Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Câu thơ đầu tiên của bài thơ mở ra như một lời nhận xét, một lời chiêm
nghiệm từ thực tế cuộc sống:
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan"
(Đi đường mới biết gian lao)
Để rút ra được suy ngẫm và sự thật này, chắc hẳn ông đã phải trải qua rất
nhiều gian khổ và nhiều con đường trong những lần chuyển trại và trại lao
động. Nhiều lần bị địch đày ải hết nhà tù này đến nhà tù khác khiến Bác nhận
ra những khó khăn ở mỗi bước đi. Mỗi bước đi, xiềng xích, bàn là lại kéo lê
bước chân người tù cách mạng, khiến nhiệm vụ của anh càng thêm khó khăn.
Hiểu được điều này, ông đã viết câu mở đầu cho bài thơ “Đi đường”. Đọc nó,
chúng ta cảm thấy thấm thía sâu sắc những khó khăn thấm nhuần trong ngôn
từ. Hai từ “tẩu lộ” được lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ phải chăng là
sự khắc khoải của Bác về những chặng đường dài đằng đẵng, gian nan
chồng chất, vắt kiệt sức lực cả về thể chất lẫn tinh thần của Bác? .
Chỉ bằng một câu thơ lục bát ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ nên cho chúng ta
hình ảnh người tù đang phải gồng mình lê từng bước trên con đường gập
ghềnh những lúc chuyển mình, những khó khăn, gian khổ khác rút ra từ
những chặng đường dài ấy. Và cũng để tự nhắc nhở mình rằng: Ở đời phải
bắt tay vào làm, phải “tẩu lộ” mới hiểu được sự mệt mỏi trong công việc này.
Câu thơ đầu tiên vang lên đã khiến người đọc chúng tôi bồi hồi, xúc động
trước những gian khổ mà Bác phải chịu đựng trong chốn lao tù ấy. Tuy nhiên,
câu thơ thứ hai, được đọc to, khiến chúng ta hiểu rõ hơn những khó khăn này khi:
"Trùng san chi ngoại hựu trùng san"
(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)
Trong giai đoạn chuyển tiếp này, các chú không chỉ phải “ăn gió tắm sương”
mà còn phải băng rừng, vượt suối, trải qua muôn vàn khó khăn trên con
đường gập ghềnh. Nhưng những thử thách ấy chẳng là gì so với những lần
vượt đèo lội suối. Với đôi chân bị xiềng xích, anh phải lê đôi chân của mình
để leo lên những ngọn núi cao, không chỉ một mà là hết ngọn núi này đến
ngọn núi khác, hết ngọn núi này đến ngọn núi khác trước mắt. “Trùng san”
(núi cao), mỗi đỉnh liên tiếp là “chi ngoại hựu trùng san”. Từ “trùng san” được
lặp lại trong câu, một ở đầu và một ở cuối, cho ta cảm tưởng như từng ngọn
núi cứ nhấp nhô trước mắt ta tưởng chừng như vô tận.
Người đi đường bình thường đã khó đi, vậy mà Bác Hồ của chúng ta, trên vai
vác xiềng sắt, phải băng qua hết con đường gập ghềnh này đến con đường
gập ghềnh khác, từ núi này sang núi khác, thật là gian khổ, vô cùng khó khăn.
Những đỉnh cao nối tiếp nhau, những gập ghềnh chông gai mà Người bước
đi, phải chăng cũng là biểu tượng cho những khó khăn mà Cách mạng phải
đối mặt? Những khó khăn, thử thách đó đòi hỏi người cách mạng phải có bản
lĩnh kiên cường mới vượt qua và giành được thắng lợi vẻ vang?
Khép lại hai câu thơ đầu, người đọc chỉ thấy trước mắt mình những con
đường dài gập ghềnh, những đỉnh núi nhấp nhô, nối tiếp nhau vô tận. Hành
trình của người tù cách mạng Hồ Chí Minh trong quá trình chuyển đến nhà tù
Tưởng Giới Thạch đầy khó khăn và gian khổ. Phải chăng đó là những khó
khăn của Người, những đỉnh núi cao sừng sững, những thử thách trên
đường đi, những thử thách của cuộc đời đối với ý chí của một người tù yêu
nước của Cách mạng trước thành công cuối cùng?
Bước sang hai câu thơ cuối, vẫn là hình ảnh núi rừng nhưng câu thơ lại mang
một sắc thái rất khác. Nếu như ở hai câu thơ đầu ta thấy được những khó
khăn, thử thách, những chiêm nghiệm về cuộc đời của người tù cách mạng
Hồ Chí Minh thì ở câu thơ này ta lại nhận ra.
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian" Dịch thơ:
(Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)
Hình ảnh những ngọn núi luôn chiếm một vị trí quan trọng, nhưng không thể
ngăn bước chân của những người cách mạng với ý chí kiên cường, quyết
tâm chinh phục những đỉnh cao nhất. Nhịp thơ ở đây rất nhanh, rất khỏe,
thỉnh thoảng có tiếng thở dốc của người tù đang cố bước thật nhanh lên đỉnh
núi. Sự khẩn cấp này kéo dài suốt câu thơ, với mỗi từ ngày càng to hơn, khẩn cấp hơn, khẩn cấp hơn:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu"
(Núi cao lên đến tận cùng)
Đọc đến cuối câu thơ, ta thấy trong nhịp thơ có cả niềm hân hoan xen lẫn lo
lắng khi chinh phục được “tận cùng” của “ngọn núi cao”. Đến câu thơ cuối
cùng, người tù hít một hơi thật sâu, sảng khoái:
"Vạn lý dư đồ cố miện gian"
(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)
Ở dòng thơ thứ ba, người đọc dường như thấy tiếng thở dồn dập của Người,
khi ấy liệu ai trong chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi liệu Người đã đến
được đỉnh núi hay chưa, Người đã bước được đến "tận cùng" hay chưa, ...?
Để đến khi câu thơ thứ tư thốt ra nhẹ nhõm như một tiếng thở, thì người đọc
chúng ta cũng nhẹ nhàng, khoan khoái tới lạ thường. Lên được tận cao "tận
cùng" của đỉnh núi, mở ra trước tầm mắt của chúng ta là cả một không gian
to lớn, rộng mênh mông, bát ngát của "muôn trùng nước non".
Bài thơ “Tẩu lộ” kết thúc nhưng đọng lại trong tâm trí chúng ta hình ảnh người
tù cách mạng kiên trung bất chấp khó khăn, giữ một ý chí kiên quyết. Bài thơ
vừa là sự thể hiện những gian khổ của Bác trong thời gian bị giam giữ trong
nhà tù Tưởng Giới Thạch, vừa là chân lý mà Bác muốn nói ra sau khi đã
chiêm nghiệm. Con đường ấy gian nan, gập ghềnh như cuộc đời, như con
đường Cách mạng, nhưng chỉ cần chúng ta có quyết tâm, ý chí sắt đá thì
thắng lợi vẻ vang nhất định sẽ đến và ngày đó không còn xa. .
Chỉ với thể thơ bảy chữ cô đọng nhưng gợi lên một triết lí sâu xa và hơn hết
ta càng cảm phục biết bao hào quang chói lọi của Bác, chính tinh thần đanh
thép đó đã giúp Bác thêm mạnh mẽ dù trong hoàn cảnh khó khăn.
Document Outline
- Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh chọn lọ