-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (hay nhất) | Ngữ văn 10
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã phản ánh rõ ràng về một xã hội đầy rẫy sự bất công và tàn độc. Đồng thời, Nguyễn Du cũng đã mượn hình ảnh của nàng Tiểu Thanh để bày tỏ những nỗi niềm trong tận đáy lòng của ông về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến vướng phải. Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây, bài viết sẽ cung cấp cho quý bạn đọc mẫu bài phân tích Độc Tiểu Thanh Kí chọn lọc hay nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 10 232 tài liệu
Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (hay nhất) | Ngữ văn 10
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã phản ánh rõ ràng về một xã hội đầy rẫy sự bất công và tàn độc. Đồng thời, Nguyễn Du cũng đã mượn hình ảnh của nàng Tiểu Thanh để bày tỏ những nỗi niềm trong tận đáy lòng của ông về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến vướng phải. Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây, bài viết sẽ cung cấp cho quý bạn đọc mẫu bài phân tích Độc Tiểu Thanh Kí chọn lọc hay nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 10 232 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:





Tài liệu khác của Ngữ Văn 10
Preview text:
Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (hay nhất)
1. Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Mẫu số 1)
Nguyễn Du đặc biệt xót xa cho những số phận "hồng nhan bạc mệnh", và dĩ nhiên, trong tình thương người,
có nỗi niềm thương mình. Đó chính là cảm hứng nhân đạo làm nên giá trị lớn của bài thơ Đường luật: "Độc Tiểu Thanh kí".
"Tây Hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chí thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hậu sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như".
Nếu không có bài thơ của Nguyễn Du, có lẽ chúng ta ít biết đến Tiểu Thanh một người con gái có số phận
buồn đau, sống vào đầu đời Minh (Trung Quốc). Qua bài thơ ta biết được nỗi đau khổ của Tiểu Thanh so
với nàng Kiều nào có kém gì? Tiểu Thanh đau khổ vì phải làm vợ lẽ, đau khổ vì bị vợ cả đánh ghen, đau
khổ vì sống cô đơn, héo hắt buồn đau cho đến khi nàng mười tám xuân xanh, nhưng chết rồi Tiểu Thanh
vẫn chưa được buông tha. Tương truyền khi ốm nặng, Tiểu Thanh có thuê người vẽ chân dung mình, khi
nàng chết, vợ cả còn tìm đến đốt cả chân dung và những bài thơ của nàng. Thật xót thương thay cho một
số phận và cũng độc ác thay cho đời có kẻ chà đạp cái đẹp, cái tài đến thế thì thôi!
Cả cuộc đời, tài năng của Tiểu Thanh chỉ còn "mảnh giấy tàn" mà người đời sau soạn lại gọi là phần dư
cảo. May thay cho Tiểu Thanh, nàng gặp được một trái tim nhân đạo Nguyễn Du, ông đã mở đầu 1 bài thơ
khóc Tiểu Thanh bằng hai câu:
Tây hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chí thư
"Hoa uyển" và "khử" là hai khái niệm đối lập: "Hoa uyển" là cái đẹp do con người tạo nên, một vẻ đẹp lộng
lẫy quá vãng - cái đẹp ấy chính là hiện thân một số phận cụ thể Tiểu Thanh. Câu thơ có sự ngậm ngùi về
cái vô hạn của trời đất và cái hữu hạn của đời người, đồng thời nó cũng gợi lên sự khổ đau không thể nào
tránh khỏi của kiếp hồng nhan trong xã hội cũ. Nỗi lòng này ta cũng từng gặp khi nhà thơ rơi lệ với "Người
gảy đàn đất Long Thành". Tiểu Thanh chỉ là một số phận cụ thể kết tinh cho những số kiếp "hồng nhan bạc mệnh".
"Vườn hoa" biến thành "gò hoang" - sự đổi thay của cuộc sống vẫn cứ diễn ra. Nguyễn Du đã cảm nhận
thật sâu sắc cái quy luật tàn nhẫn ấy... Sau khi Tiểu Thanh chết, tất cả những gì gợi nhớ về con người ấy
chỉ còn lại một tập thơ bị đốt dở. Cuộc đời đau khổ của nàng đã được hậu thế ghi lại thành truyện. Không
biết Nguyễn Du viếng nàng, thương cảm với nàng qua việc đọc tập thơ hay tập kí viết về nàng? Chỉ biết trái
tim lớn của thi nhân luôn luôn thổn thức:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Nói "chi phấn" tức là nói đến nhan sắc, nói "văn chương" là nói đến tài năng. Với hai câu thơ, Nguyễn Du đã
đặt ra câu hỏi: Phải chăng "son phấn có thần" nên chết đi rồi vẫn để cho người đời sau thương cảm? Qua
việc khẳng định "son phấn có thần", Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao quý, giá trị bất diệt của cái đẹp,
Nguyễn Du hỏi, nhưng thật ra là để bộc lộ sự trân trọng tài năng, ngưỡng mộ cái đẹp. Cái đẹp có sức sống
bất diệt, vì thế mà ba trăm năm sau dù "hoa uyển" đã "tận thành khử" nhưng Tiểu Thanh vẫn sống, vẫn
không bị lãng quên, đời nàng còn làm xúc động sâu xa tấm lòng con người. "Chi phấn hữu thần" riêng ý thơ
ấy đủ để khẳng định một tấm lòng nhân đạo hiếm có giữa xã hội trung đại xã hội không công nhận tài hoa,
trí tuệ của phụ nữ. Đến như Tây Thi, Dương Quý Phi... May mắn lắm cũng chỉ là vật điểm trang cho các
triều đại. Và ta không lạ gì khi Nguyễn Du đã ca ngợi nhan sắc Thúy Kiều, ca ngợi nhan sắc nàng Đạm Tiên
và nhà thơ đã khẳng định: Những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh.
"Chi phấn hữu thần" và "còn là tinh anh" không biết ý thơ nào có trước, nhưng cả hai câu thơ đó đã khẳng
định tâm hồn, tư tưởng Nguyễn Du vượt lên trên thời đại.
Với con mắt sắc sảo, tinh thần trân trọng, yêu thương, Nguyễn Du còn phát hiện ở người phụ nữ một vẻ
đẹp khác - vẻ đẹp tài hoa, trí tuệ ẩn giấu bên trong nhan sắc khuynh thành. Tiểu Thanh cũng như nàng
Kiều, là những người phụ nữ, trọn vẹn cả tài và sắc. Tài của Tiểu Thanh thể hiện trong "văn chương", văn
chương không có số "mệnh", sao nó cũng bi "lụy". "Văn chương" là hồn, là nước mắt của Tiểu Thanh cũng
bị vợ cả căm ghét, tìm cách đốt đi. Như vậy: "văn chương" cũng có "thần" có "mệnh" như con người để rồi
cũng hoặc được yêu dấu, quý trọng hoặc bị căm ghét, sát hại.
Số phận của Tiểu Thanh thật đau thương, nhan sắc bị đọa đày, tài hoa của nàng làm cho nàng đau khổ.
Cuộc đời thật bất công phi lí. Nàng chết vẫn chưa hết khổ, chút ít nỗi niềm kí thác trong thơ vẫn bị truy đuổi
đến cùng. Trong xã hội cũ, những giá trị cao quý của cái đẹp, cái tài đến chịu chung số phận:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang.
Nguyễn Du tiếp tục khai triển niềm thương cảm. Cái "hờn", cái "hận" cho số kiếp Tiểu Thanh là cái
"hận" muôn đời, triền miên không bao giờ chấm dứt, Nguyễn Du từ "cái hận" của đời mà thương cho "cái
hận" Tiểu Thanh, đã dồn "cái hận kim cổ" vào "cái hận" Tiểu Thanh. Ghê gớm thay cái "hận" đó, và cũng lớn
lao thay niềm thương cảm của Nguyễn Du. "Cái hận" kia không sao giải thoát được phải "hỏi trời" vì không
thể hỏi người, nhưng "hỏi trời", trời vời vợi trên chín tầng mây, làm sao biết nghe, biết nói, làm sao có thể trả
lời? Câu thơ như một tiếng kêu vút tận trời xanh và lơ lửng giữa trời - "Một câu hỏi lớn không lời đáp" (Huy Cận).
Trong nỗi đau của con người có nỗi đau của mình, nỗi đau chung cả cuộc đời, Nguyễn Du không đứng
ngoài nỗi đau để nói đến nỗi đau mà ở trong nỗi đau ấy, chịu trọn vẹn nỗi đau ấy. Bằng sự từng trải, bằng
tất cả những gì chiêm nghiệm. Nguyễn Du đã nhận ra sự trùng hợp lạ lùng của lớp người "Giai nhân và
nghệ sĩ". Ông tự coi mình với Tiểu Thanh "cùng hội cùng thuyền", "cùng một lửa bên trời lận đận", nên có
chung một cái án: "Án phong lưu". Khách phong lưu sao lại phải mang “án phong lưu”. Đúng là oái ăm
nghịch cảnh Nguyễn Du đã gợi lên những điều nhức nhối trong lòng người đọc bao đời nay.
Thi nhân đã kết thúc thi phẩm bằng hai câu thơ độc đáo. Đó là câu hỏi day dứt, cắt cứa vào tâm can người đọc.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Nguyễn Du từ người mà nghĩ đến ta. Từ “"hương người đến thương mình". Trong thơ trung đại hiếm có
người tự nói về bản thân mình như thế. Toàn bài có hai lần Nguyễn Du nói đến mình. "Phong vận kì oan
ngã tự cư", và "Thiên hạ hà nhân khấp Tổ Như", giữa Tiểu Thanh và Nguyễn Du là một gạch nối. Tiểu
Thanh là hình tượng để ông bộc lộ cảm xúc trữ tình và kí thác tâm sự. Với Tiểu Thanh ít ra đã có Nguyễn
Du thương cảm, còn với Nguyễn Du sau đấy ba trăm năm thì sao? Không biết vì lẽ gì, Nguyễn Du nêu ra
con số ba trăm năm? (Ông mất sau Tiểu Thanh hai trăm mười năm).
Độc Tiểu Thanh kí có niềm tự đau tự thương đến cực độ. Nguyễn Du cảm thấy bơ vơ giữa dòng đời. Lời
thơ nói chuyện ba trăm năm, nhưng thực ra là chuyện trước mắt. Trước mắt ông là cuộc sống cô đơn không
tri âm tri kỉ. Nguyễn Du đang khóc thương Tiểu Thanh bỗng quay ra tự khóc thương mình mà bài thơ vẫn
không hề lạc giọng. Bởi lẽ Nguyễn Du và Tiểu Thanh là một. Ba tiếng cuối cùng của câu kết ("khấp Tố
Như") gieo vào lòng người đọc một nỗi đau. Tâm sự của Nguyễn Du đầy ắp bị thương. Ông sống giữa cuộc
đời đầy phong ba với bao tâm sự uẩn khúc. Không ai có thể nghĩ một cách nông nổi: Mình đã khóc Tố
Như, đã hiểu hết Nguyễn Du. Chỉ biết Nguyễn Du đã khóc Tiểu Thanh, khóc cho thân phận mình và khóc
cho bao kiếp tài hoa bạc mệnh Mà tài hoa bạc mệnh thì đời nào chả có. Nên tiếng khóc của Nguyễn Du sẽ
còn đồng cảm tới muôn đời.
Độc Tiểu Thanh kí là tiếng nói nhân đạo, trân trọng con người tài sắc bị xã hội vùi dập và cũng là nỗi niềm
cô đơn, khát khao được cảm thông, được chia sẻ... Và dường như trong khoảnh khắc thần hứng Nguyễn
Du đã linh cảm được một điều gì đó ở mai sau. ể
2. Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Mẫu số 2)
Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ chữ Hán đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du được xếp trong Thanh Hiên thi
tập. Bằng những chứng nghiệm từ cuộc đời mình, trong sáng tác của ông, ta thấy một nhân vật Thúy Kiều,
một người gảy đàn đất Long Thành, một Tiểu Thanh... hiện lên như những dấu hỏi nhức nhối của số phận,
của kiếp người. Bài thơ giãi bày tấc lòng của Nguyễn Du đối với số phận một con người cụ thể – Tiểu
Thanh, nhưng ý nghĩa của nó lại khái quát được toàn bộ cái nhìn cảm thông của tác giả trước những thân
phận tài hoa mệnh bạc trong xã hội cũ. Dường như, đó còn là tiếng nói, là nỗi nhức nhối của muôn đời. Viết
về đề tài này, thi hào của chúng ta đã có được một cái nhìn của người trong cuộc.
Cũng như Truyện Kiều, Nguyễn Du (trong bài thơ này) đã viết về một người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Nàng
Tiểu Thanh là một cô gái có sắc, có tài sống vào đầu đời Minh (Trung Quốc), vì lấy làm lẽ một người tên
Phùng, nàng bị vợ cả ghen, bắt ở một ngôi nhà trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ nên buồn mà chết lúc mới
mười tám tuổi. Cô đơn là thế, bạc mệnh là thế, khi nàng chết rồi, còn một tập thơ còn sót lại cũng bị vợ cả
ghen mà đốt đi, chỉ còn vương lại vài bài. Thế là, Tiểu Thanh khi còn sống cũng như khi đã chết rồi vẫn còn
bị đối xử bất công và tàn ác, vẫn chưa được yên, vẫn còn cô đơn. Không chỉ còn là nỗi đau nữa mà còn là
hận. Hận chẳng thể nào nguôi.
Mượn cảnh thực (Tây Hồ ở Trung Quốc) người thực (nàng Tiểu Thanh đã chết cách đây ba trăm năm)
Nguyễn Du làm bài thơ để thổ lộ đồng cảm, đồng điệu về tâm hồn của mình với những con người có đơn
đẹp lí tưởng đã tiêu tan. Tây Hồ còn đây, "mảnh giấy tàn” tức tập thơ của nàng Tiểu Thanh bị đốt còn sót lại
còn đây mà Tiểu Thanh còn đâu, nàng đã chết trong buồn tủi, cô đơn và bất hạnh giữa tuổi trăng tròn, giữa
lúc khát khao nhất về hạnh phúc, giữa độ tài sắc nảy nở nhất. Hình ảnh "thổn thức bên song" là chính nàng
Tiểu Thanh lúc còn sống trong ngôi nhà ở núi Cô Sơn. Đó cũng chính là hình ảnh của Nguyễn Du, cũng
chính là tâm sự của nhà thơ luyến tiếc về những ngày vàng son của đất nước, nuối tiếc về những ngày trai
trẻ đầy tài hoa của mình giữa những con người tài hoa ở đất La Thành, quê hương tác giả như đã có lần
nhắc đến trong thơ ông (tráng niên ngã diệt vì tài giả: thời trẻ tuổi ta cũng là kẻ có tài năng). Hai câu thực:
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nhà thơ đã nêu cụ thể nỗi đau của nàng Tiểu Thanh bằng cách nhân hóa những vật dụng và dư cảo của
nàng, bằng cách "thần" cho "son phấn", tạo "mệnh" cho "văn chương". Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du
được bộc lộ rõ qua những câu thơ có hồn này, làm cho câu thơ có sức nặng. Đến như những vật vô tri như
son phấn, văn chương bị chôn vẫn còn hận, bị đốt vẫn còn vương, thử hỏi rằng con người thì sao? Nàng
Tiểu Thanh bị đau đớn, bị dằn vặt, bị phũ phàng như thế sao không hận, cái hận về thể xác, bị vùi dập, cái
hận vì tài năng bị chôn vùi. Làm sao Tiểu Thanh không hận được, một khi "văn chương" là máu, là nước
mắt nàng. Đó cũng chính là cái hận của Nguyễn Du, ông cũng gán cái "mệnh" vào văn chương để cùng xót thương cùng Tiểu Thanh. Đến hai câu luận:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Là tiếp tục cái niềm thương cảm, chỉ có điều là niềm thương cảm ấy, cái hận ấy là muôn đời, không sao giải
thoát được. Người đã chết đem theo mối hận vào lòng đất để rồi vĩnh viễn bị chôn chặt, người còn sống
(chính nhà thơ) phải tự mang. Nguyễn Du đã hòa cái cảm xúc, cái nghịch cảnh đó vào cùng với Tiểu Thanh,
người đã chết ba trăm năm trước. Thử hỏi: người đang sống, kẻ phong lưu tài hoa như nhà thơ thì có tội gì,
vì sao phải hóa thân vào người đã chết để nói lên tâm trạng của mình. Phải chăng là xã hội bất công đã đố
kị với tài năng của ông, đã bóp chết tâm hồn ông. Như thế, ai hận mà nhà thơ phải mang nặng biết chừng
nào, cái hận không biế, nói cùng ai, chỉ có thể chia sẻ với người cùng cảnh ngộ, kẻ tài tử gặp giai nhân là ở
chỗ đó. Cái đớn đau, nỗi bế tắc của họ làm nhức nhối trái tim ta.
Nếu như ở sáu câu thơ trên, Nguyễn Du lồng cảm xúc, nỗi đớn đau của mình vào Tiểu Thanh, thương tim
cho thân phận người con gái tài sắc là để ẩn ý tự thương mình, hai câu thơ cuối nhà thơ nói thẳng với độc giả bằng một câu hỏi:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Nguyễn Du đã đặt câu hỏi ra với đời, với muôn đời: liệu ba trăm năm lẻ, có thể là hơn ba trăm năm sau, có
ai khóc Tố Như (hiệu của Nguyễn Du) chăng? Nàng Tiểu Thanh sau ba trăm năm thì đã có ít ra một người
là nhà thơ khóc thương nàng. Câu hỏi đặt ra cho đời cũng là cho mình mà không lời đáp, bị rơi vào hư
không. Nói với quá khứ, nói với tương lai như thế, thổn thức về một người phụ nữ cách ngàn dặm, chết đã
ba trăm năm, ta như thấy Nguyễn Du thổn thức trăn trở biết bao!
Không phải chỉ một người, mà là cả dân tộc ta, cả nhân loại tiến bộ nữa chỉ hai trăm năm, đã long trọng kỉ
niệm ngày sinh của thi hão, ghi tên ông vào danh sách những danh nhân văn hóa của thế giới. Hắn là,
Nguyễn Du và những "nàng Kiều", "nàng Tiểu Thanh" ở dưới suối vàng cũng ngậm cười, "nỗi hờn kim
cổ" của họ đã được trả, thân phận con người, nhất là người phụ nữ đã được giải phóng khỏi những áp bức,
bất công và đã được coi trọng về tài năng, địa vị xã hội, đã được tự do yêu thương và sống hạnh phúc.