



















Preview text:
Phân tích Thơ duyên của Xuân Diệu hay nhất
Dàn ý phân tích Thơ duyên I. Mở bài
- Hồn thơ Xuân Diệu không bao giờ khép kín mà luôn luôn rộng mở đối với thiên nhiên và con người.
- Niềm khao khát được hòa hợp, giao cảm với cuộc đời thể hiện rõ nét qua một bài
thơ thật hồn nhiên của nhà thơ: Thơ duyên (ghi lại bài thơ). - Chuyển mạch. II. Thân bài
A. Sự giao hòa tuyệt diệu trong thiên nhiên
- Duyên chỉ sự ràng buộc quấn quýt. Đây là cuộc gặp gỡ tình cờ không hẹn trước.
“Thơ duyên” là thơ để làm duyên, để bắc nhịp cầu cảm thông.
- Cũng có thể hình tượng thơ cho thấy nhưng xúc cảm tinh tế của nhà thơ trước sự
hòa hợp tuyệt diệu giữa con người và thiên nhiên, giữa “anh” và “em” trong không
khí của thơ và mộng, trong âm hưởng của nhạc (tiếng huyền) và trong tình yêu mến (nỗi thương yêu).
1. Chiều mộng vừa hiện thực vừa lãng mạn. Một buổi chiều mùa thu với không gian
êm đềm, cảnh vật như đang giao hòa trên nhánh duyên.
- Hình ảnh gợi cảm, thơ mộng:
● Đôi chim hót ríu rít, chuyền trên những cành me.
● Nền trời trong xanh màu ngọc bích đổ ánh sáng qua muôn lá.
- Dường như khắp nơi, thiên nhiên đều dạo lên khúc nhạc chào đón mùa thu:
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.
2. Cảnh vật trở nên nhẹ nhàng, duyên dáng:
- Con đường nho nhỏ với những làn gió xiêu xiêu nhẹ, những cành hoang lả lá dưới ánh nắng chiều...
- Những đám mây biếc bay gấp gấp, làm cho cánh cò trên ruộng cũng phân vân.
“Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều (Lạc hà dữ cô lộ tề phi: Thu
Thủy cộng trường thiên nhất sắc, dịch là: Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc lặng
bay: Nước mùa thu cùng trời mùa thu một sắc) đến con cò của Xuân Diệu không
bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới”
(Hoài Thanh). Vì Vương Bột quan sát, còn Xuân Diệu vừa quan sát vừa cảm nhận
nên có sự cách biệt ấy.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống đầu.
Như nêu bật cảm giác rợn ngợp của cánh chim trước bầu trời cao.rộng, và cảm giác
dịu lạnh của một loài hoa dưới những giọt sương chiều rơi nhẹ.
3. Thiên nhiên trong buổi chiều hôm qua bài thơ thật êm đềm, thơ mộng. Tất cả
dường như có duyên với nhau, giao hòa trong một sự vận động vốn có. Nét đặc sắc
nhất của những câu thơ ở đây là “cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất
một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng” (Hoài Thanh).
Hơn nữa, thiên nhiên như đang chuẩn bị cho những cảm xúc trìu mến để con người
đón nhận những tình cảm thương yêu.
B. Sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Nhân vật trữ tình ở đây là ta, là anh, một chàng thanh niên mới lần đầu rung động
con tim nên cảm thấy tràn ngập tình cảm thương yêu.
Anh đi dưới đất trời - như giữa bài thơ dịu trên con đường nho nhỏ thoảng làn gió
xiêu xiêu trong âm vang của khúc nhạc thu êm ái, lòng chợt rung động bởi một tình
cảm mới lạ, cứ nhịp bước theo em. Tâm hồn anh hòa điệu với em như một cặp vân,
dù ta chẳng quen biết nhau, không có băng nhân mai mối:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Nhân vật trữ tình đang lắng nghe lòng mình hòa điệu với vạn vật, cùng lúc khao khát
giao cảm với cuộc đời, khao khát yêu thương và được thương yêu.
3. Tình cảm yêu thương trong bài thơ gây ấn tượng sâu đậm, như một niềm hạnh
phúc chính đáng mà con người được hưởng, và thơ mộng như trong truyện thần tiên:
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em. III. Kết bài
Khái quát cảm nghĩ của em về bài thơ
Thơ duyên cho thấy bao nét đẹp của một chiều thu quê hương qua những chi tiết
được quan sát, chủ yếu là được cảm nhận thật tinh tế. Đây là một trong số rất ít bài
thơ trong sáng, hồn nhiên của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Phân tích Thơ duyên - Mẫu 1
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các
nhà thơ mới". Bằng hồn thơ trong trẻo, tâm hồn tràn đầy tình yêu cùng khát khao
giao cảm với đời mãnh liệt, Xuân Diệu đã để lại vô vàn tác phẩm giá trị. Trong số đó
phải kể đến bài thơ "Thơ duyên". "Thơ duyên" đã mang đến cho người đọc khung
cảnh tuyệt sắc của thiên nhiên mùa thu và sự giao duyên, kết nối giữa "anh" và "em".
Có thể nói, "Thơ duyên" đã khơi gợi sự hòa hợp, gắn bó đầy chất thơ giữa vạn vật
trong thiên nhiên. Trước hết, điều này được thể hiện rõ nét thông qua nhan đề.
"Duyên" mà thi sĩ muốn nhắc tới ở đây là sự gặp gỡ, giao hòa giữa thiên nhiên với
thiên nhiên, thiên nhiên với con người và con người với con người. Từ đó, Xuân
Diệu không chỉ miêu tả vẻ đẹp trời thu mà còn khắc họa những mối duyên tình hài hòa.
Ở khổ thơ đầu, khung cảnh chiều thu được tái hiện thật êm ả, nên thơ:
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."
Sự kết hợp giữa đường nét "nhánh duyên", âm thanh "ríu rít", màu sắc "xanh ngọc",
hình ảnh "cặp chim chuyền" đã cho thấy đôi mắt tinh tế cùng nét bút tài tình của
Xuân Diệu. Bằng tất cả các giác quan, "ông hoàng thơ tình" vẽ nên bức tranh mùa
thu tươi mát, dịu êm. Từng chi tiết, từng sự vật hoạt động tách rời nhưng lại có sự
hài hòa, gắn kết với nhau. Tất cả cùng tạo nên một buổi chiều mộng ảo, đồng thời
báo hiệu khoảnh khắc thu tới "nơi nơi động tiếng huyền.". Âm thanh mùa thu như
tiếng đàn tiếng ca, vang vọng khắp nơi, làm lòng người thêm chộn rộn, bâng khuâng hơn bao giờ hết.
Cảnh thu tiếp tục được gợi tả qua:
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều;
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu."
Hàng loạt các từ láy "nhỏ nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" vừa phác họa đường nét mềm mại
của cảnh vật, vừa gợi nỗi xao xuyến của lòng người. Dường như mọi thứ đều song
hành, song đôi cùng nhau. Cảnh thu, tình thu đã khéo léo đưa chủ thể trữ tình
ngược về "buổi ấy lòng ta nghe ý bạn". Đi giữa trời thu, lắng nghe âm hưởng xa xưa
vọng lại, lòng người bồi hồi nhớ đến "Lần đầu rung động nỗi thương yêu". Khoảnh
khắc trái tim đập rộn ràng, chủ thể trữ tình đã biết đây chính là cảm giác rung động trong tình yêu:
"Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần."
Giây phút "anh" và "em" đi trên con đường nhỏ trông thật xa cách. Nếu như "em"
điềm nhiên bước đi chẳng chút vướng bận thì "anh" lại lững đững, thong dong theo
sau. Nhìn bên ngoài, hai ta có vẻ cách xa nhưng bên trong đã có sự kết nối như
"một cặp vần". Đôi ta tưởng xa hóa lại gần, gắn bó, giao hòa mật thiết, không thể
tách rời. Khung cảnh trở nên đẹp đẽ nhờ sự giao duyên của con người. Bức tranh
mùa thu huyền diệu càng thêm tươi tắn, nhẹ nhàng tình thu, tình người. Bức tranh
ấy đã ẩn chứa một trái tim rung động cùng tình yêu rạo rực ở "anh".
Ta còn cảm nhận được nỗi ám ảnh về sự chảy trôi của thời gian trong thơ Xuân
Diệu được thể hiện ở "Thơ duyên":
"Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần."
Phía cao xa, từng đám mây màu biếc đã bắt đầu "gấp gấp" bay đi. Dưới ruộng
đồng, mấy con cò cũng chuyển sang trạng thái "phân vân", không biết nên đi hay ở.
Trên khoảng trời rộng lớn, đàn chim nghe lời nhắc nhở mà giang rộng đôi cánh tìm
về nơi trú. Chiều thu buông xuống, cảm giác lạnh lẽo như vấn vương đâu đây "hoa
lạnh chiều thưa sương xuống dần". Sự hối hả, giục giã của cảnh vật như lan tỏa tới
lòng người. Và rồi, nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến càng làm "anh" khao khát
được giao cảm, hòa hợp.
Chẳng thể níu giữ bước đi của thời gian nhưng "anh" đã:
"Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em."
Chiều thu đến thật êm ả, bình yên nhưng ra đi lại sôi nổi, hối hả. Nhưng nhờ đó,
duyên "anh" và duyên "em" mới có thể tìm đến nhau. Đôi ta từ người xa lạ mà trở
nên đồng điệu về tâm hồn, biết rung động, thổn thức trước tình yêu. Sự kết nối của
"anh" và "em" thật diệu kì làm sao. Trước mối giao hòa của thiên nhiên đất trời, hai
ta cũng xích lại gần nhau mà chẳng cần "băng nhân gạ tỏ niềm". Từ đây, chủ thể trữ
tình bày tỏ tấm chân tình "Lòng anh thôi đã cưới lòng em". "Anh" coi "em" như mảnh
ghép còn thiếu của đời mình. Như vậy, duyên tình đôi ta thêm bền chặt nhờ "cưới".
Khổ thơ đã cho ta thấy khát khao giao hòa tuyệt đối trong tâm hồn con người.
Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, thi sĩ Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc
những hồn thơ trong trẻo, căng tràn nhựa sống. Các biện pháp tu từ như đảo ngữ
"Cành me ríu rít cặp chim chuyền", so sánh "Anh với em như một cặp vần" kết hợp
với rất nhiều hình ảnh độc đáo "Lả lả cành hoang nắng trở chiều", "Hoa lạnh chiều
thưa" không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn gợi sự
giao hòa, gặp gỡ và gắn kết của vạn vật.
"Thơ duyên" đã thể hiện sâu sắc khát khao giao cảm với cuộc đời ở Xuân Diệu. Qua
bài thơ, ta lại càng khâm phục khả năng cảm nhận tinh tế cùng ngòi bút tài hoa của
thi sĩ. Mong rằng, bài thơ sẽ mãi in lại dấu ấn trong lòng bạn đọc.
Phân tích đánh giá bài Thơ duyên - Mẫu 2
Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình’ với những vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh
liệt về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và
ấn tượng riêng. “Thơ duyên” là bài thơ tràn đầy cảm hứng mê say, tin tưởng và đầy
phấn khởi cho những giây phút rung động trong tình yêu.
Ngay ở nhan đề tác phẩm, người đọc đã cảm nhận được nét “duyên” của con chữ
và nét duyên ngầm trong lòng người. Cảm xúc bao trùm bài thơ chính là niềm hăng
say, vui tươi, phơi phới khi có những giây phút rung động đầu đời của một chàng trai
mới biết yêu. Người đọc chắc chắn sẽ mê mẩn với những dòng cảm xúc vừa nhẹ nhàng vừa sôi nổi:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng một không gian thật nên thơ và lãng mạn. Hình
như không phải một buổi chiều như một ngày mà là “chiều mộng”. Một buổi chiều
lãng mạn, tràn đầy chất thơ, chất nhạc, khiến lòng người say đắm. Một buổi chiều
mùa thu nhẹ nhàng, tinh tế có cặp chim đang chuyền nhau trên cành cây mẹ. Một
sự hòa quyện, giao thoa thật tuyệt vời giữa thiên nhiên và đất trời. Giọng thơ tuy
nhẹ nhàng nhưng tràn đầy hứng khởi.
“Nhánh duyên” trong câu thơ đầu tiên khiến người đọc liên tưởng đến một mối nhân
duyên ngầm nào đó nhưng vẫn còn e thẹn, ngượng ngùng.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền
Hai câu thơ như tan ra cùng đất trời, mùa thu hiện hữu rõ từng đường nét và lắng
nhẹ vào lòng người. Màu xanh của bầu trời như đang “đổ” xuống vạn vật, tạo nên
một màu “ngọc” thật trong lành và dịu mát. Từ “đổ” khiến cho câu thơ bừng sáng
lên. Đó như báo hiệu một mùa thu ngọt ngào, tinh tế đã đến. Dường như trời đất
của mùa thu luôn có sức hút mạnh mẽ như vậy. Một buổi chiều thật nên thơ, đầy
tình tứ sẽ thêm thi vị hơn khi có câu chuyện tình đôi lứa:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Hoa ra sự vui tươi của đất trời đều xuất phát từ nỗi rung động “lần đầu” ấy. Hình ảnh
con đường “nho nhỏ’ trong câu thơ có điểm xuyết những cành lá đâm ngang như
phác họa nên một bức tranh thu nhẹ nhàng, tinh tế đến lạ kỳ. Một không gian khiến
cho người đọc ngỡ như mình đang lạc vào cảnh tiên thi vị. Dường như cảnh vật
đang tạo cảm giác lâng lâng, nhẹ nhõm của người đang tràn ngập tình yêu. Câu thơ
chợt bừng lên niềm reo vui thật khẽ nhưng thật sâu. Thơ Xuân Diệu cứ nhẹ nhàng
nhưng đằm thắm như duyên con gái vậy. Ở những vần thơ tiếp theo, nhân vật chính
của tình yêu lần đầu ấy xuất hiện thật nhẹ:
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững thững chẳng theo gần
Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần
Anh chàng thi sĩ đi giữa một con đường mà như có cảm giác đang lạc vào một niềm
say mê, đắm đuối với tâm thế “lững thững” rất bình tâm, rất nhẹ nhàng và có chút gì
đó lưỡng lự. Chàng trai ấy giữ một khoảng cách vừa đủ để cảm nhận được tình yêu
đang tan chảy ra cùng mùa thu dịu ngọt, êm ái. Cả “anh” và “em” đều “vô tâm”
nhưng dường như ai cũng muốn xích lại gần hơn, gần thêm chút nữa. Bởi ẩn sâu
trong suy nghĩ thì câu chuyện tình nhẹ nhàng đó đã như một cặp vần. Những câu
thơ nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai gieo vào lòng người niềm hân hoan,
vui tươi. Cảnh vật trong bài thơ duyên rất duyên, huyền diệu và tràn đầy vui tươi,
làm nền cho tình cảm trở nên lâng lâng:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngác vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Mùa thu “êm” như khẽ khàng đi vào trái tim của những kẻ đang yêu, chẳng ai bày tỏ
nỗi niềm nhưng lại khiến cho mọi thứ lâng lâng. Buổi chiều mưa thu “ngơ ngác”
nhưng nhà thơ đã khẳng định chắc nịch “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Một Xuân
Diệu thật duyên, là duyên ngầm, nhưng cũng thật mãnh liệt. Không phải anh cưới
em mà là “lòng anh cưới lòng em”.
“Thơ duyên” của Xuân Diệu là bài thơ tràn đầy niềm tin yêu và tràn nhựa sống. Một
bài thơ tình nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.
Phân tích Thơ duyên - Mẫu 3
Xuân Diệu đã viết về mùa xuân với tất cả sự say đắm, nồng nàn:
... "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần...
... Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi"...
Thi sĩ cũng đã đến với mùa thu trong bâng khuâng, man mác. Viết về mùa thu, Xuân
Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái
hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. "Thơ duyên" là một bài thơ thu độc đáo nhận
diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn.
"Thơ duyên" - một thi đề rất thơ. Cái "duyên" được thi sĩ nói đến là sự tương giao
nhiệm mầu của vũ trụ, thiên nhiên và con người, trước hết là những chàng trai, cô
gái "hồn xanh như ngọc bích".
Một buổi chiều thu tuyệt đẹp - "chiều mộng" - êm ái, nhẹ nhàng như ru, tạo vật như
đang "hóa thơ trên nhánh duyên". Nhành cây mềm mại đung đưa duyên dáng theo
làn gió thu nhẹ giữa sương khói tà dương. "Con gió xinh thì thào trong lá biếc" ("Vội
vàng"), cả một trời thu "nơi nơi động tiếng huyền". Tiếng nhạc, tiếng đàn du dương,
dịu ngọt như ru hồn người vào cõi mộng. Tiếng gió hoà điệu với tiếng chim ríu rít.
Trên ngọn me "cặp chim" vừa chuyền cành vừa hót, biết bao âu yếm và yêu thương.
Cây me cũng như cây sấu là hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội. Ta như
được sống lại phố cũ yêu thương của đất Tràng An hơn nửa thế kỉ trước. Đã từng
biết "khúc nhạc thơm"; "khúc nhạc hường", giờ đây ta lại được thưởng thức "tiếng
huyền" của buổi "chiều mộng":
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đồ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền".
Cảnh thu có gió reo, chim hót. Còn có trời thu xanh trong, đẹp như ngọc; tất cả màu
xanh ấy của trời thu như "đổ" xuống, như tràn qua muôn lá, cỏ cây ánh ngời lên sắc
ngọc với trời thu, sắc ngọc ấy ai có thể quên? Sau này, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng viết
trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ”: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"... Màu ngọc của lá
cũng là sắc thu làm nên cái hồn thu.
Khổ một nói đến gió, cây và cặp chim chuyền - cảnh vật hòa hợp tương giao, gắn
bó; cái "duyên” ấy được cảm nhận qua tâm hồn một thi sĩ hào hoa, đa tình . Khổ hai
nói về con đường và trái tim "rung động nỗi thương yêu". "Nhỏ nhỏ"... “ xiêu xiêu"...
"lả lả" - bây nhiêu nét vẽ tinh tế hiện lên trên một gam màu vàng nhạt của ngày thu
tàn "nắng trở chiều". Hồn thu của bức tranh quê gợi một nỗi buồn đẹp. "Buổi ấy", trái
tim "ta" xao xuyến, "rung động" một tình thu. Thi sĩ đi giữa đất trời, lắng nghe tiếng
đập nhẹ của con tim, tâm hồn rộng mở giao hòa đi vạn vật, với con người, một thiếu
nữ đang nhẹ bước trên đường:
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu".
"Em" và "anh" cùng dạo bước trên đường. "Em" bước đi "điềm nhiên", trông tự
nhiên, hồn nhiên, duyên dáng. Anh cũng đang say sưa ngắm cảnh đất trời, bước
chân "lững đững" - thong thả, ung dung. Cuộc ngẫu gặp của đôi lứa thanh tân,
tưởng "vô tâm" mà hình như đã có cái "duyên" trời sắp sẵn. Chẳng hò hẹn gì mà nhiều bâng khuâng!
"Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần".
Cặp câu song hành bình đối nhiều ý vị "Anh với em" đẹp như một cặp vần trong "bài
thơ dịu". Cặp vần ấy ngân lên "rung động nỗi thương yêu". Một so sánh độc đáo nói
lên cái "duyên" lứa đôi:
"Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần".
Cảnh vốn đẹp, giờ thêm người đẹp, sự giao hòa, giao cảm càng muôn phần tăng
lên, sắc thu trong sáng, tình thu thanh khiết mơ màng. Bức tranh thu được dệt thêu
bằng cái duyên của sự sống và một tình yêu rạo rực, xôn xao. Đúng như nhà văn
Hoài Thanh đã nhận xét: "Xuân Diệu say đắm cảnh trời... khi vui, khi buồn đều nồng nàn, da diết...”
Khổ bốn nói về cảnh thu trên một không gian rộng và lạnh. Một áng mây chiều và
một cánh cò thân thuộc của đồng quê. Không phải là mây xám. Cũng không phải
"Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi" ("Lầu Hoàng Hạc" - Thôi Hiệu). Mà là mây biếc,
mây tuyệt đẹp. Hai chữ "về đâu" đầy gợi cảm. Hỏi mây hay hỏi nàng thiếu nữ? Cảnh
vừa thực vừa mộng, nhiều man mác, bâng khuâng. Câu thơ "Con cò trên ruộng
cánh phân vân" là một sáng tạo rất độc đáo của Xuân Diệu. Hình tượng thơ là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị Đường thi và thơ mới. "Từ con cò của Vương
Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân
vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới" (Hoài Thanh). Hình
ảnh "cánh phân vân" đặc tả dáng cò đang lững lờ đôi cánh, không biết nên bay cao
hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay đậu xuống...
Chiều thu tàn, bầu trời như trải rộng thêm ra. Cảm nhận ấy được diễn tả qua hai câu thơ tuyệt bút:
"Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần".
Lấy cái hữu hạn, cô đơn, bé nhỏ (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn, mênh mông (bầu
trời) là một nét vẽ tài hoa. "Chim nghe...” - sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Cánh
chim nhỏ nhoi, bay miết, in dáng trên nền trời chiều bao la. Hoàng hôn buông xuống,
sương thu chớm lạnh. Hoa khép cánh dần...
Thời gian nhẹ nhàng trôi "bước thu êm". Tâm hồn thi nhân dào dạt tình thương mến.
Chan hòa cùng đất trời, tạo vật. Mọi tâm hồn sẽ tự tìm đến với nhau và "thắm lại"
(Xuân Hương), cần chi băng nhân? Nhà thơ khe khẽ reo lên: "Lòng anh thôi đã cưới
lòng em". Phải chăng ý câu thơ này: "Anh đã phải lòng em" như có người đã hiểu?
"Thơ duyên" đã tồn tại hơn nửa thế kỉ mà vẫn "duyên" vẫn đẹp. Bởi lẽ cảnh thu tuyệt
đẹp, thơ mộng. Tình thu trong sáng, bâng khuâng. Từ chùm thơ thu của Nguyễn
Khuyến đến "Thơ duyên", hơn bao giờ hết, ta cảm nhận sâu sắc rằng, "Xuân Diệu
mới nhất trong các nhà thơ mới”. Chim đã có đôi, có cặp rồi, cho nên "Lòng anh thôi
đã cưới lòng em" vậy. Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. "Thơ duyên" là một bài
thơ tình của Xuân Diệu. Trong tuyển tập "100 bài thơ tình", "Thơ duyên" mang vẻ
đẹp một "hoa khôi" sáng giá.
Phân tích Thơ duyên của Xuân Diệu - Mẫu 4
Có ai đó đã nói “Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu”. Quả đúng là như thế dù trong
suốt cuộc đời cho đến những giây phút cuối, Xuân Diệu không được hưởng trọn vẹn
cái ngọt ngào say đắm của tình yêu, hạnh phúc như trong thơ ông thì cái chan chứa,
cái say mê của tình yêu tuổi trẻ với nhiều cung bậc khác nhau. Từ mỗi đam mê
cuồng nhiệt của mối tình nồng cháy đang ở độ chín muồi như: xa cách đến những
rung động ban đầu của một tâm hồn còn nguyên sơ trong trắng với trái tim đang e
ấp yêu đương như trong Thơ duyên. Đây là một bài thơ tình yêu rút trong tập thơ
đầu tay Thơ thơ của Xuân Diệu diễn tả sự hòa hợp giữa hai trái tim đang yêu với
tình yêu vừa chớm nở rất tinh tế và cũng rất thơ mộng. Bài thơ mở đầu bằng một
bức tranh thiên nhiên đẹp rực rỡ:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền
Bức tranh về một buổi chiều tuyệt đẹp như mộng: có âm thanh ríu rít của tiếng chim,
có màu xanh ngọc suốt bầu trời trút qua ngàn lá, có cả đường nét hài hòa. Vần thơ
hòa xao xuyến trên “nhánh duyên” chiều mộng và hơn nữa có cả âm thanh huyền
diệu, đất trời ngân vang tiếng đàn tình yêu rạo rực. Bức tranh ấy được vẽ ra bởi một
người với trái tim lần đầu rung động. Hình như hơi thở tình yêu làm cho lòng người
vui hơn. Tình yêu thổi vào cảnh vật hơi ấm và sự sống tràn trề nhuốm vào cảnh vật
vẻ đẹp diệu kì làm cho cảnh sắc bừng lên tươi tắn:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Câu thơ nghe rạo rực tiếng lòng một con người đang tràn ngập hạnh phúc. Chiều
trong mắt người sao mà đẹp thế, không phải là một buổi chiều bình thường mà là
buổi chiều mộng - chiều đẹp - đẹp như giấc mơ tình yêu. Những vần thơ trữ tình
ngân nga trong lòng người cũng như xao xuyến, hòa quyện, quấn quýt trên cành
cây ngọn lá, xao xuyến cả trời chiều. Và những nhánh cây cũng trở thành “nhành
duyên”, nhánh cây tình yêu - nhánh cây mang màu hạnh phúc. Khắp không gian rộn
vang những âm thanh tươi vui của chim chóc
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Không là chim chuyền ríu rít mà là ríu rít chim chuyền, đảo từ “ríu rít” đã là cho âm
thanh tiếng chim vang hơn, rộn ràng hơn, tươi vui hơn, âm thanh như chan hòa cả
vào trời chiều thơ mộng. Đâu phải chỉ có con người mới tìm về hạnh phúc, đâu phải
chỉ có con người mới say đôi lứa, đâu phải chỉ có con người ngây ngất với tình yêu,
mà chim chóc cỏ cây cũng có đôi lứa, cũng hạnh phúc ấm êm “cặp chim chuyền”.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền
Gam màu pha nắng những thanh tạo cho bức tranh màu rực rỡ mà không làm cho
người đọc chói mắt bởi “màu xanh ngọc” của trời. Bầu trời trong mắt con người
đang yêu xanh một màu xanh trong suốt, thanh khiết vời vợi như rót qua muôn ngàn
cây lá, đôi mắt mênh mang của người yêu khiến người ta như muốn hứng lấy, uống
lấy màu trời. Cảm tưởng dòng xanh đang thấm dần dịu ngọt trong tâm khảm, có
người cho rằng “tiếng huyền” ở đây là tiếng đàn mùa thu đến, nơi nơi ngân vang
tiếng đàn, có lẽ là tiếng đàn thật nhưng cũng có lẽ là tiếng đàn của đất trời, cỏ cây
cảnh vật - những âm thanh huyền diệu của không gian. Tình yêu chớm nở giữa mùa
thu đem đến cho đất trời lung linh những âm thanh tuyệt diệu, náo nức vui tươi, như
âm thanh chỉ có thể nghe thấy được bởi trái tim đang rạo rực niềm yêu:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều,
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nói thương yêu
Rõ ràng bức tranh thiên nhiên ở đây không phải là một bức tranh tĩnh mà là một bức
tranh động, một bức tranh thiên nhiên biến đổi rất tinh tế. Ngòi bút nhạy bén của
Xuân Diệu đã miêu tả rất chính xác những biến thái tinh tế đó. Những từ láy “nho
nhỏ”, “xiêu xiêu”? “lả lả” diễn tả sự chuyển động nghiêng nghiêng của cảnh vật dưới
một con mắt nhìn say say gần như là chuếnh choáng: phải chăng đó là cái say của
tình yêu, độ nghiêng của trái tim trong hạnh phúc? Con đường như nhỏ đi chật hẹp
với tình yêu của hai người, gió lướt làm lung lay cành lá, cảnh vật chuyển động thật tự nhiên:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Hình như người con trai cũng ý thức được rằng người bạn gái đó cũng rất mến
mình, dễ chừng trái tim kia cũng dạng hồi hộp “đập”. “Hai trái tim chung một điểm
tình” và trái tim anh xao xuyến những nhịp rung của tình yêu đầu: “lần đầu rung
động nỗi thương yêu”
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Xuân Diệu thật tài tình khi đi sâu miêu tả tâm trạng của hai người. Tác giả hóa thân
vào cả hai nhân vật, tự phân tích diễn biến của lòng mình, cũng là tâm lí chung của
bao nam thanh nữ tú buổi đầu tiên biết yêu. Cả hai đều cố tỏ ra vô tâm, vô tình.
Người con gái thẳng thắn bước đi như không để ý đến ai, như chẳng quan tâm đến
ai và cũng chẳng cần biết có ai quan tâm đến mình. Anh con trai cũng thế: “lững
đững bước theo sau”, không tiến nhanh cũng không đi chậm thẳng thắn bước có ý
dè chừng người con gái, luôn luôn giữ một khoảng cách nhất định dù chỉ đủ để nhìn
thấy người con gái chứ không dám làm phiền người mình yêu.
Song đằng sau cái “điềm nhiên không vướng chân” ấy, đằng sau cái “lững đững
chẳng theo gần” ấy là tất cả những rung động e ấp mà thiết tha, trìu mến của tình
yêu chớm nở. Đến đây câu thơ như có sự bộc bạch:
Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần
Xuân Diệu đã sáng tạo ra một hình ảnh rất mới lạ và độc đáo. Tình giữa “anh và em”
như một cặp vần quấn quýt như giữa bản nhạc êm. Cuộc đời là một bài thơ dịu, một
bài thơ không lời, êm ái và hai người như cặp vần, như đôi nốt nhạc hòa quyện vào
nhau dìu dắt. Còn gì tha thiết hơn thế.
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Nét bút tác giả chuyển hướng sang tả cảnh, nhịp thơ có sự chùng xuống, cảnh cũng trầm buồn hơn.
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Ở đây có sự đối lập giữa mây và cánh cò, mây thì bay gấp gấp còn cánh cò thì lại
“trên ruộng cánh phân vân”, nửa muốn bay nửa muốn không. Hai hình ảnh trái
ngược của thiên nhiên hay là mâu thuẫn trong lòng người. Cuộc sống đang hối hả
trôi, con người muốn bay gấp tới tình yêu nhưng lại rụt rè e lệ, thậm chí còn xen cả
sự lo lắng. Tác giả hiểu và biểu hiện tế nhị điều này. Cái phân vân của cánh cò trên
ruộng lúa đồng quê được đặt đối xứng với cái bay gấp gấp của mây biếc tạo nên
một vẻ đẹp mới lạ của thơ ca truyền thống.
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu
không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế
giới (Hoài Thanh). Hai câu sau, sự can thiệp của chủ thể trữ tình đã rõ hơn nhưng
vẫn rất tế nhị, khéo léo:
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
Trời dần về chiều, không gian xám trong màn sương giăng giăng, trời càng như
rộng hơn, cánh chim nhỏ như đuối sức. Hai con người bỗng cảm thấy cuộc tình
mênh mông quá, đời người như đôi cánh chim bé nhỏ ngợp mình giữa mênh mông
trời đất muốn giang rộng thêm để bay giữa bầu trời bao la.
Mặc cảm buồn thoáng hiện kín đáo trong câu thơ trên thì đến câu thơ tiếp theo đã
thấm dần vào hồn người qua cảm giác lạnh của hoa trong sương và trong ánh nhạc
ban chiều. Bài thơ kết thúc bằng những vần thơ dịu dàng, êm ái, bằng một khúc
nhạc tình không lời mà tha thiết:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng búng nhắn gạ tô niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Chiều thu theo bước chân âm thầm của hai người kết nên một mối tình lặng lẽ, mối
tình bắt đầu từ hai trái tim hòa hợp gắn bó, mối tình không cần mai mối. Đây chính
là một mối tình hiện đại lí tưởng, biểu hiện của một tình yêu đích thực lần đầu tiên
xuất hiện trong thơ. Giữa buổi chiều thơ mộng ấy, dù là từ sớm nở “buổi ấy lòng ta
nghe ý bạn” dù chẳng nói nên lời “ai hay tuy lặng bước thu êm” nhưng đã hứa hẹn
một điều gì rất tha thiết bền chặt “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.
Có thể nói Xuân Diệu đã rất thành công khi diễn tả tinh tế những biến thái tinh vi của
cảnh sắc thiên nhiên và của lòng người. Những hình ảnh từ ngữ mới lạ rất thơ, rất
Xuân Diệu đã giúp chủ thể trữ tình tự phân tích thế giới tâm hồn mình một cách tinh
tế để biểu hiện một tình yêu chớm nở chưa hẹn thề, còn e ấp nhưng đã tha thiết gắn
bó. Bài thơ cũng nói đến sự giao duyên của đất trời, đó là sự hòa quyện giao cảm
của tâm hồn người đang yêu với thiên nhiên vũ trụ.
Bài thơ kết thúc nhưng dư âm của một tình yêu tha thiết thì vấn vương mãi. Những
rung động tinh tế, những xúc cảm mới mẻ của chủ thể trữ tình trước một tình yêu
say đắm khiến cho bài thơ thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Bài thơ đẹp mãi
trong lòng người đọc, đặc biệt là trái tim tuổi trẻ và biết đâu nó đã chẳng là lời thổ lộ
tâm tình lúc ban đầu của duyên thầm bao lứa đôi.
Phân tích bài Thơ duyên - Mẫu 5
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan
sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn
thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và
"Thơ duyên" là một trong những bài thơ như vậy. Ở bài thơ, người đọc có thể cảm
nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn
thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.
"Thơ duyên" là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ "duyên" có thể hiểu là
sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ
rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng
sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ
sang thu. Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập "Thơ
thơ" độc giả cũng đã bắt gặp "nàng thơ" với sự "ngẩn ngơ", u sầu trong "Đây mùa
thu tới". Còn "Thơ duyên" bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."
Nhìn tổng thể cảnh vật mùa thu qua khổ một có thể thấy đây là một bức tranh sinh
động và nên thơ. Với không gian là buổi "chiều mộng" - lãng mạn, êm ái hòa vào đó
"thơ trên nhánh duyên" gợi nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cũng vui
mừng, hò reo khi thu về khi có "cặp chim chuyền" đang ríu rít trên "cây me". Động từ
"ríu rít" lột tả được phấn khởi, vui vẻ khi chúng liên tiếp "chuyện trò" với nhau. Hình
ảnh cây me cũng gợi nhớ lại Hà Nội xưa cũ, một phần của quê hương xứ sở. Cùng
lúc đó cả "bầu trời", "lá" đều chuyển sang màu ngọc. Sắc màu này đã từng được
nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến qua "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" (Đây thôn
Vĩ Dạ). Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ "đổ" tạo cảm giác dứt
khoát, lan tràn. Bây giờ không gian không chỉ nhuốm màu xanh mà còn tươi vui, rộn
rã với "động tiếng huyền". Cụm từ "thu đến" như một tiếng reo vui mừng, phấn khích
cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.
Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp
nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu."
Từ tầm nhìn trên cao tác giả "kéo" không gian của mình xuống gần hơn. Thi sĩ liên
tiếp sử dụng từ láy hoàn toàn như "nho nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" gợi sự đáng yêu trên
nền nắng chiều. Động từ "trở" đầy sức gợi, mang đến cảm giác chuyển mình. Nếu
từ "chiều" ở khổ một còn mang nét huyền huyền ảo ảo thì với khổ thơ này nó mang
nét mạnh mẽ, "đậm nắng" hơn. Trong cái sắc hương của trời đất khi sang thu, thi sĩ
nhớ lại lần rung động đầu tiên của mình. Thêm một động từ nữa cũng kích thích trí
tò mò của độc giả không kém là "nghe". "Nghe" ở nghĩa tường minh tức là sử dụng
thính giác để lắng nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng ở nhân vật "ta" hành động
"nghe" lại chỉ ra được tâm ý, sự thầm thương, phải lòng "cố nhân". Đó là cách dùng
từ vô cùng đặc sắc của tác giả.
"Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần."
Hình ảnh của sự "rung động" ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật "em" và "anh" cùng
dạo bước trên con đường nhỏ. "Em" thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận
tâm gì. Còn "anh" thì "lững đững" - trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người
xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!
"Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần."
"Vô tâm" phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao
lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của
mình về chữ "duyên". Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người
say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một "cặp bài trùng khác" là sự giao
duyên giữa con người với nhau. Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì
về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì
người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như "cặp vần" - gắn bó khăng khít,
không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ!
"Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần."
Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của
thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy "gấp gấp" tạo cảm giác hối
hả, thúc giục. Tuy nhiên cụm từ "về đâu" lại đặt ra câu hỏi cho nơi đến của mây.
Cùng với mây, con cò dường như cũng "phân vân", đắn đo không biết nên bay lên
cao hay xuống thấp, bay gần hay bay xa. Chiều thu tàn bắt đầu có chút gì đó bâng
khuâng, bầu trời trải rộng ra và dường như cánh chim cũng đã thích nghi với điều
này để rồi "giang thêm cánh". Thi sĩ gán cho chim với động từ "nghe" như để sinh
vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên rồi từ đó điều chỉnh để thích
nghi. Cách nhà thơ sử dụng cái hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời)
là một thủ pháp hay và ý vị. Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim
không mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều
thu, sương càng rơi xuống nhiều. "Hoa lạnh" vì có thể do "đẫm sương" hoặc do cơn
gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.
Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình lại hồi tưởng về mối tình đầu của mình, về
những rung động đầu đời lồng ghép vào trong hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh nhân
hóa "bước thu êm" như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của nàng thu. Từ "êm"
gợi cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền thu dịu dàng , e ấp "anh" lại nói về sự rung
động của mình khi gặp em - "lòng anh thôi đã cưới lòng em". Động từ "cưới" như
một sự chắc nịch rằng anh đã phải lòng em và tấm lòng của anh chỉ hướng tới em.
Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem "em" như là "mảnh ghép" còn lại của đời mình.
Bài thơ "Thơ duyên" không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở khía cạnh hình thức bài
thơ cũng đã làm rất "tròn vai" của mình. Bên cạnh việc sử dụng các từ láy, phép
nhân hóa, các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu.
Thường thường ở thơ bảy chữ mà có bốn câu thì chỉ chấm kết thúc ở dòng cuối
cùng ở mỗi khổ nhưng với "Thơ duyên" thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu
chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Tức là hai
dòng sẽ tạo thành một câu. Đây là một nét lạ và sáng tạo của Xuân Diệu.
Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý,
nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với
nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết
nên sự rung động đầu đời của mình - sự giao cảm, kết nối giữa những con người