

Preview text:
- Bài thơ sử dụng thể thơ 5 chữ (ngũ ngôn- thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu; các
chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và
Ngũ ngôn thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật
bằng trắc, niêm và vần.
- Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi đã toát lên những tâm tư, tình cảm của tác giả trước tình cảnh đáng thương của
tác giả trước sự tàn lụi của lớp người từng được đề cao và trân trọng như ông đồ.
- Bài thơ có kết cấu độc đáo, đầu cuối tương ứng. Mở đầu bài thơ là “Mỗi năm hoa đào nở - Lại thấy ông đồ già”,
kết thúc bài thơ là Năm nay hoa đào lại nở - Không thấy ông đồ xưa. Kết cấu này chặt chẽ, tương phản rõ nét, làm
nổi bật chủ đề của bài thơ, từ đó khơi gợi cảm xúc trong lòng người đọc về một văn hóa truyền thống giờ đây đã bị
thay đổi. Quá trình tàn tạ, suy sụp của nền nho học.
- Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa với sự chọn lọc hình ảnh để làm nổi bật tâm tư, cảm xúc của mình: giấy đỏ,
mực nghiên – vốn là những đồ dùng gắn bó thân thiết với ông đồ, mà nay cũng “buồn”, “sầu” trước sự đổi thay của thời thế.
- Lựa chọn hình ảnh giản dị nhưng mang tính biểu tượng, giàu sức gợi: hình ảnh lá vàng rơi trên giấy gợi ra sự tàn
tạ, tiêu điều, buồn tủi. Đó là sự cảm nhận từ trong tâm hồn về sự lãng quên, sự kết thúc của một kiếp người tàn.
- Mạch cảm xúc phát triển theo thời gian, từ cảm xúc về hình ảnh những ông đồ già Nho học thời còn thịnh hành
cho đến hình ảnh những ông đồ khi suy vi và cuối cùng là tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương của tác giả gửi gắm.
Khổ 1,2 nhà thơ với ký ức của mình phác họa lên một ông đồ già viết chữ đẹp, cảnh nhộn nhịp trên đường phố Hà
Nội xưa, cảnh đẹp, đường xá rộn ràng vui vẻ, tấp nập.
- Khổ 3,4 nhà thơ vẽ lại khung cảnh Hà Nội mới, gần tết nhưng không còn tấp nập, đông đúc vây quanh ông đồ
nữa, ông đồ chỉ ngồi đấy, nhìn lá rơi, trời mưa bay mà chẳng hề có ai để ý
- Khổ 5 là hình ảnh thực tại, ông đồ ngày xưa chẳng còn nữa cũng chẳng còn những người xưa
- Tâm tư tác giả thay đổi theo chiều sâu tâm trạng, lúc vui vẻ nhìn đường xá tấp nập, lúc lại buồn nhìn cảnh tiêu
điều, nhớ lại người cũ của tác giả. Tác giả thể hiện niềm cảm thương chân thành sâu sắc trước một lớp người đang
tàn tạ ( ông đồ) và nỗi nhớ cảnh cũ người xưa của tác giả.
Nghệ thuật đặc sắc ở khổ 3
- Từ "nhưng" bắt đầu khổ thơ như 1 cánh cửa khép lại thời kì hoàng kim, mở ra 1 thời kì khác với bao thay đổi
- Từ "mỗi" lặp lại 2 lần trong dòng thơ đầu, nhịp thơ chậm gợi bước đi của thời gian tring sự mòn mỏi, suy thoái
"mỗi năm mỗi vắng", từ "vắng" khép lại câu thơ như 1 sự hụt hẫng, chơi vơi
- Câu hỏi tu từ: "Người thuê viết nay đâu?" -> 1 câu hỏi không có lòi đáp vừa khắc họa cảnh buồn vắng thê lương
của ông đồ khi khách thuê chữ chẳng còn, vừa thể hiện sự ngậm ngùi, tiếc nuối của tác giả
- 2 câu thơ thứ 3 và 4 là 2 câu thơ tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc, tác giả đã mượn đồ vật để gửi gắm tâm sự của con người
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu thơ diễn tả bước đi của thời gian.Nếu như trước đây : “Mỗi năm hoa đào nở”
lại đưa đến cho ông đồ già “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại “mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian
bao hàm cả sự mài mòn, suy thoái.Thanh “sắc” kết hợp với âm “ắng” khép lại câu thứ nhất như một sự hẫng hụt,
chênh chao, như đôi mắt nhìn lên đầy băn khoăn. Để rồi một cách tự nhiên, câu thứ hai phải bật ra thành câu hỏi:
Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa nay đâu cả rồi? Câu hỏi buông ra không bao giờ có lời đáp nên cứ chạp
chớn, cứ ám ảnh mãi. Người thuê viết không còn, giấy đỏ, mực thơm không được dùng đến nên:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Nỗi buồn của con người khiến các vật vô tri vô giác cũng như buồn lây. Mực ssầu tủi đọng lại trong nghiên, giấy
điều phôi pha buồn không muốn thắm. Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng của con người. Bởi
chẳng phải mực và giấy là những đồ vật gắn bó thân thiết nhất với ông đồ hay sao? I. Tác giả:
- Vũ Đình Liên (12/11/1913 - 18/1/1996), ông sinh ra tại Hải Dương.
- Ông là một trong những nhà thơ đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của Phong trào Thơ Mới.
- Thơ ông thường mang nặng niềm hoài cổ và tình yêu thương đối với con người. ************* II. Tác phẩm Ông đồ:
1. Xuất xứ bài thơ Ông đồ:
- Bài thơ "Ông đồ" sáng tác năm 1936 được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc trong Phong trào Thơ mới.
- Bài thơ in trong cuốn "Thi nhân Việt Nam" của tác giả Hoài Thanh Hoài Chân năm 2012.
2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ:
Nhà thơ Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ "Ông đồ" trong hoàn cảnh những năm đầu thế kỉ XX, hình ảnh của ông đồ
già ngày một biến mất trên đường phố mỗi khi tết đến xuân về.
3. Nội dung bài thơ Ông đồ: Bài thơ miêu tả tình
4. Thể thơ bài thơ Ông đồ:
Bài thơ "Ông đồ" được viết theo thể thơ năm chữ.
5. Phương thức biểu đạt bài thơ Ông đồ:
Phương thức biểu đạt chính của bài thơ "Ông đồ" là biểu cảm.
6. Ý nghĩa nhan đề bài thơ Ông đồ:
Ông đồ là những người thuộc nền văn hóa Nho học. Nhan đề bài thơ gợi ra hình ảnh về người viết thư pháp trên
phố mỗi khi Tết đến xuân về.
7. Bố cục bài thơ Ông đồ:
- Bài thơ "Ông đồ" có bố cục 3 phần:
+ Khổ 1, 2: Hình ảnh ông đồ khi Nho học được ưa chuộng.
+ Khổ 3,4: Hình ảnh ông đồ khi Nho học thất thế.
+ Khổ 5: Cảm xúc của tác giả khi thấy tình cảnh đáng thương của ông đồ. 8. Giá trị nội dung:
Bài thơ cho thấy tình cảnh đáng thương của ông đồ già khi Nho học không còn chiếm được ưu thế. Qua đó, nhà thơ
thể hiện nỗi xót thương, đồng cảm trước truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang đứng trước nguy cơ lụi tàn. 9. Giá trị nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ ngắn gọn.
- Hình ảnh thơ trong sáng, bình dị. - Ngôn từ tinh tế.
- Cách ngắt nhịp linh hoạt, gieo vần chân "già" - "qua", "đâu" - "sầu", "hay" - "bay".
- Câu hỏi tu từ "Người thuê viết nay đâu?" và "Hồn ở đâu bây giờ?". *********
1. Hình ảnh ông đồ khi Nho học được ưa chuộng.
- "Mỗi năm hoa đào nở": thời gian Tết đến xuân về.
- "Lại thấy ông đồ già": từ "lại" cho thấy sự lặp đi lặp lại nhiều lần -> hình ảnh ông đồ mỗi dịp Tết đã trở nên thân quen.
- "Bày mực tàu, giấy đỏ": những đồ vật hành nghề chữ viết quen thuộc của ông đồ, là nét đặc trưng của những người viết thư pháp.
- "Bên phố đông người qua": không gian nhộn nhịp, tấp nập của đời sống.
- "Bao nhiêu người thuê viết": Khi Nho học giữ vị trí quan trọng thì ai nấy đều trọng dụng và mong muốn có được chữ viết treo trong nhà.
- "Tấm tắc ngợi khen tài/ "Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa, rồng bay": ông đồ với tài năng viết chữ đẹp
khiến bao người yêu thích, say mê.
=> Tám dòng đầu tiên đã khắc họa hình ảnh ông đồ trong thời kì Nho học vẫn được coi trọng và phát triển. Đây
được gọi là những tháng ngày huy hoàng, rực rỡ của người viết thư pháp.
2. Hình ảnh ông đồ khi Nho học thất thế.
- "Nhưng mỗi năm, mỗi vắng": câu thơ cho thấy sự thưa thớt của những người thuê viết mỗi khi tết đến xuân về.
- Câu hỏi tu từ "người thuê viết nay đâu" có thể là câu hỏi của ông đồ cũng có thể là câu hỏi của nhân vật trữ tình
đặt ra để mô tả tình cảnh đáng thương khi Nho học dần lụi tàn.
- "Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu": biện pháp nhân hóa khiến đồ vật mang nặng cảm xúc.
Nó không đơn thuần dùng để khắc họa sự buồn trẻ, thưa thớt người thuê viết mà còn thể hiện nỗi buồn của ông đồ xưa.
- "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay": sự xuất hiện của ông đồ không còn quan trọng đối với những người đi đường nữa.
- "Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài giời mưa bụi bay": trái ngược với khổ đầu, câu thơ diễn tả không gian mùa xuân
lạnh lẽo nhằm nhấn mạnh sự cô độc, lẻ loi, buồn tủi của ông đồ già.
=> Khi Nho học lụi tàn, người viết chữ không còn được coi trọng. Họ trở nên cô độc, đáng thương hơn bao giờ hết.
3. Cảm xúc của tác giả khi thấy tình cảnh đáng thương của ông đồ.
- "Năm nay đào lại nở": Câu thơ dùng để chỉ thời điểm hiện tại: một mùa xuân nữa lại tới.
- "Không thấy ông đồ xưa": Tuy nhiên, hình ảnh ông đồ đã không còn xuất hiện trên phố.
- "Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?": Câu hỏi tu từ "Hồn ở đâu bây giờ" là câu hỏi tác giả đặt ra cho
chính mình. Nhà thơ luôn mang nặng nỗi trăn trở, lắng lo cho những "người xưa, kẻ cũ" trong xã hội mới.
=> Khổ thơ cuối là lời xót thương của tác giả đối với những người lưu giữ truyền thống tốt đẹp của dân tộc.