Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng | Văn mẫu lớp 12
Phân tích Tây Tiến của Quang Dũng gồm 29 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 4 gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích bài thơ Tây Tiến các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình. Mời bạn đọc đón xem!
56
28 lượt tải
Tải xuống
- Trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông
(vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).
- Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nổi
bật của bài thơ.
- Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với
bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.
- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh,
sinh viên.
- Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây
Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.
!"#$%&'#(%))*+
- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương,
“nhớ chơi vơi”là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
- Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:
Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;
1
Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ
“dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên ... dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, quanh co,
gập ghềnh.
Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải
vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm
tột cùng.
Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man
dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên
đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của
địa hình.
- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai
Pha Luông ...”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em ...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ
nhàng, yên bình.
- Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng
mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi
của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.
- Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là
những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.
,-./0&12345627&1$%))*+
- Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:
Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”,
“hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng
e ấp”.
2
Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật
duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ
mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây
Bắc.
894!:##!";
- Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”, “xanh
màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng
vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi
mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà
làm động lực chiến đấu.
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn
xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”,
“khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
- Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những
nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.
<="1!>6#?#+04@0$%#@
3
- Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến:
“người đi không hẹn ước”, còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh “thăm
thẳm một chia phôi”.
- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân Tây
Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi”
-
- Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ,
hình ảnh thơ
- Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của
núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm không ngại hi sinh
nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ.
- Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa về nhiều lĩnh vực nhưng ông đạt được thành công
nhất ở thơ ca.Thơ ông thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, giàu chất lãng mạn, khả năng
cảm nhận tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người.
- "Tây Tiến" là một trong những bài thơ đặc sắc của Quang Dũng sáng tác cuối năm
1948, khi chia tay với đơn vị cũ của mình là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện một
cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bất tuyệt của nhà thơ về những người chiến
sĩ Tây Tiến một thời gian khổ, hào hùng.
%A!>623@0B#;C#0D$%
- Bức chân dung kiêu hùng của người lính Tây Tiến được dệt nên bởi cảm hứng lãng
mạn trên cái nền hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc : một vùng đất hoang sơ và
4
nguyên thủy. Người lính vượt qua đèo cao, suối sâu với một tư thế đẹp, hùng dũng với
nỗi nhớ "chơi vơi"...
- Bút pháp lãng mạn còn thể hiện qua âm thanh ghê rợn của "thác gầm thét, cọp trêu
người" nhằm tô đậm vẻ hoang dại, bí ẩn của một vùng rừng thiêng, nước độc. Rồi ý
thơ lại đột ngột mở ra một nỗi nhớ ấm áp về những kỷ niệm khó quên "cơm lên khói";
"thơm nếp xôi"...
- Thực - ảo đan xen trong nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ sôi nổi, tưng bừng với
cái nhìn ngơ ngác của những người lính trước hình ảnh của những thiếu nữ Lào duyên
dáng, đáng yêu (Kìa em xiêm áo tự bao giờ). Từ cảnh liên hoan văn nghệ thắm tình
quân dân, nhà thơ chuyển cảnh về một vùng Châu Mộc với sông nước, cỏ cây mênh
mang.Ở đây, bằng bút pháp chấm phá tinh tế, cảnh thơ như được phủ lên bằng một
màn sương huyền thoại, da diết hồn của ngàn lau giống như một bức họa cổ.
- Hùng vĩ và thơ mộng là cái nhìn riêng của chất thơ lãng mạn Quang Dũng.Tác giả
gợi một hoài niệm, một tình yêu bâng khuâng đối với những vùng đất một thời gian
gắn bó sâu nặng...
EF#2>@0B#;C#0D6;GA#$%
- Trong gian khổ, người chiến sĩ Tây Tiến luôn hiên ngang, bất khuất.Trên cái nền
thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, người lính xuất hiện với tầm vóc bi tráng , khác thường (
không mọc tóc; xanh màu lá; dữ oai hùm…).
- Sự hy sinh của họ cũng được bao bọc trong một không khí hoành tráng, trang
nghiêm mà thanh thản (Chiến trường đi khúc độc hành). Họ ra đi trong âm thanh của
dòng sông như một khúc nhạc chiêu hồn tử sĩ thật dữ dội, bi tráng...
- Chính cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng cái nhìn mang tính anh hùng ca
trước chân dung tinh thần của những người chiến sĩ mang một vẻ đẹp tâm hồn, lý
tưởng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
5
- Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên chất sử thi đặc biệt của bài thơ. Bức
chân dung người lính hào hoa, dũng cảm trên nền hùng vĩ, tráng lệ được tác giả hướng
hồn thơ ngưỡng vọng vào một thế hệ anh hùng của thời đại kháng chiến chống Pháp.
,-
- Tóm lại, có thể nói "Tây Tiến" đã để lại những ấn tượng khó quên cho độc giả chính
bởi cái cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng của bài thơ.
- Bởi lẽ, bài thơ đã góp tiếng nói độc đáo cùng với những bài thơ kháng chiến viết về
người lính một thời chống Pháp tất cả làm nên một bức tượng đài về những người
chiến sĩ gian khổ, đau thương nhưng hào hoa, dũng cảm của thơ ca kháng chiến chống
Pháp.Bài thơ gieo vào lòng người đọc những tình cảm yêu thương, ngưỡng vọng về
một thời gian khổ, hào hùng của dân tộc.
,
#@
Giới thiệu tác giả Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến.
H0
9'@A%&"
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến
chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc
Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên
Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều
kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông
chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn
6
vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông
cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” (1986).}
E@0IJ$&D'$%
Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ
niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng
vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.
,K
3.1. Đoạn 1
“ !"#$
%
&'()"*
Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên
miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.
a. Đoạn mở đầu bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy
nhớ nhung và tiếc nuối:
+ !"#$
,-./#012-.*
- Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng
thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.
- Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu
của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo
nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà
nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.
b. Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng.
7
- Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không
còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên không khí núi rừng
xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
- Nhớ con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là
núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút,
sương lấp. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của
những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn
sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường
quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời; Cách ngắt
nhịp 4/3 của câu thơ thứ ba tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ
liên tiếp sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn.
- Nhớ những những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển
trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy biến thung lũng thành ‘xa
khơi”.
- Nhớ âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ
người mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh
thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình
ảnh nhân hóa được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ
dội. Nơi đây thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
=> Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa
lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội
nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên.
c. Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:
- Nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh
“súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh
dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời.
8
Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt
dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức
trẻ Hà Nội.
- Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm
cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh gục bên súng mũ bỏ quên
đời”.
- Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc “Nhớ
ôi… thơm nếp xôi”. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây
quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo
mới. Nhớ ôi! - nỗi nhớ da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa
những con người miền Tây Bắc của tổ quốc với bộ đội kháng chiến.
Nhận xét: Đoạn thơ chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nối nhớ, song cũng đã
kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức
tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Sự gắn bó
của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với
quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người
đồng đội, đồng chí của mình.
3.2. Đoạn 2
+3#40567893
%
#:;<-53838<
Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng.
a. Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm
màu sắc lãng mạn, trữ tình
- Đêm liên hoan được miêu tả bằng những chi tiết lãng mạn:
9
Đêm liên hoan như đêm hội giao duyên, đêm tân hôn của những cặp tình nhân
(hội đuốc hoa)
Nhân vật trung tâm của đêm hội là những thiếu nữ Tây Bắc trong những bộ
trang phục và vũ điệu vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, tình tứ.
Cái nhìn trẻ trung, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê sung sướng của những người
lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa.
Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc,tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu
bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm
thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến
b. Vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước
Châu Mộc
- Không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng
nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại.
- Nổi bật lên trên bức tranh sông nước là cái dáng mềm mại, uyển chuyển của các cô
gái Thái trên con thuyền độc mộc.
- Những bông hoa rừng cũng như đang đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.
- Những bông lau ven rừng như có hồn và gợi nhớ da diết.
3. 3. Đoạn 3
Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng
mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.
- Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn:
Sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: Thân hình tiều tuỵ
vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá
10
Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai
phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ: xanh màu
lá, dữ oai hùm
Trong gian khổ nhưng: vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn “mộng qua biên
giới” – mộng chiến công, khao khát lập công; “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” –
mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.
Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính –
những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ”
ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến
công.
- Vẻ đẹp bi tráng:
Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi,
sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.
Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người
lính Tây Tiến.
Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về
với đất mẹ: “anh về đất”.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành” : Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông
núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn
người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người
lính Tây Tiến.
Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi
không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây
Tiến.
=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người
tráng sĩ anh hùng xưa.
3.4. Đoạn 4
11
- Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch
sử:
Vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi
không trở lại, ra đi không hẹn ngày về.
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là
chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.
- Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về.
Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân
Tây Tiến.
- Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả
4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là
giọng hào hùng đầy khí phách.
8L#/M
Cảm hứng lãng mạn, bi tráng
Sử dụng ngôn từ đặc sắc: từ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt
Kết hợp chất nhạc và họa.
-N
Qua bài thơ, Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà mĩ lệ của
thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian một bức
tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa.
8
- Giới thiệu tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng là một nghệ sĩ đa
tài, Tây Tiến là bài thơ được tác giả viết bằng cả tâm tình của một người từng gắn bó
và trải nghiệm với cuộc đời người lính Tây Tiến).
12
- Dẫn dắt và đi vào phân tích.
O}Đôi nét về tác phẩm:
+ Hoàn cảnh sáng tác:
+ Rời xa đoàn quân Tây Tiến chưa bao lâu, hồi ức kỉ niệm về chiến trường xưa và
đồng đội cũ vẫn đầy ắp trong tim, cứ thế mà trào ra theo nỗi nhớ, tuôn chảy thành bài
thơ.
+ Ban đầu bài thơ có tên: Nhớ Tây Tiến.
- Những nội dung cần làm rõ:
+ Nỗi nhớ khung cảnh chiến trường Tây Bắc của nhà thơ. Một chiến trường vừa dữ
dội ác liệt lại vừa thơ mộng trữ tình.
+ Cảnh đêm liên hoan ở cùng biên giới Việt – Lào tưng bừng, rộn rã và cảnh sông
nước Châu Mộc huyền ảo, thơ mộng hiện lên qua nỗi nhớ tác giả.
+ Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà hào hoa, với lí tưởng đẹp “chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”, với cái chết – bất tử đầy bi tráng.
+ Nhà thơ đã rời xa đơn vị, nhưng vẫn gửi lòng mình gắn bó với đơn vị, với những
ngày tháng đã qua, với một thời đánh giặc anh hùng, rực lửa.
- Nét đặc sắc nghệ thuật:
+ Kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn: thiên nhiên vừa hoang sơ vừa
trữ tình, gắn liền với những kỉ niệm sâu lắng.
+ Cảm hứng lãng mạng và sắc thái bi tráng đã tạo nên tính sử thi đặc biệt cho bài thơ.
+ Một số thủ Pháp nghệ thuật như: đối lập, cường điệu…
+ Ngôn ngữ giàu chất tạo hình và giàu tính nhạc, âm điệu, nhịp thơ biến hóa linh hoạt.
Giọng thơ thay đổi theo cảm xúc.
,-
- Nhận xét chung về nội dung và nghệ thuật bài thơ.
- Phát triển mở rộng (nhận định, suy nghĩ của cá nhân).
KP#QOR
13
=>-54#35;?,7
,@)9:"3">(3
,<A#88BC3D54
5</E5>#8B*
FG<-H,IFJ
Nếu như ở đoạn thơ trên Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến đấu
của những chàng trai Hà thành thì ở bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng sẽ là người tái
hiện trực tiếp chặng đường hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ. Mà chỉ gọi
Quang Dũng là nhà thơ thôi thì chưa đủ, bởi ông đa tài lắm, từ viết văn, làm thơ cho
đến vẽ tranh, soạn nhạc. Đa tài là thế nhưng đời sống của ông vẫn luôn xoay quanh
những câu chuyện bình dị, giản đơn. Độc giả biết đến tên tuổi của Quang Dũng qua
những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có thể nói để lại
nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc chắn hẳn là bài thơ “Tây Tiến”. Nói như Chế Lan
Viên thì “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”. Quang Dũng đã cầm bút đứng hiên
ngang như thế trong mấy thập kỷ. “Tây Tiến” đã đưa tên tuổi ông vào hàng đầu các
nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài
hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật của người lính giữa
núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn vô cùng.
“Hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một giai đoạn nào đó, nó có thể chưa
được tiếp nhận ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.” Vũ Quần Phương đã
dành những lời này để nói về hành trình sáng tác thơ của Quang Dũng, bởi thơ ông
được cho là chưa đủ tiêu chuẩn văn chương thép, chưa rắn rỏi như súng đạn nơi biên
cương nên thời đó làm gì được cấp phép lưu hành. Ấy vậy mà vẫn được truyền lưu
rộng rãi bởi chất liệu bên trong tác phẩm là một bức tranh chân thực, làm sao có thể
ngăn được bước đi của nghệ thuật cho được. Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây
Tiến và làm đại đội trưởng từ đầu năm 1947 cho đến cuối năm 1948 thì phải chuyển
đơn vị. Nỗi nhớ ngày một dâng trào và dòng cảm xúc mãnh liệt đã thôi thúc ông đặt
bút sáng tác “Nhớ Tây Tiến” ngay trong đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu Thanh
(Hà Tây). Về sau, bài thơ được chính tác giả đổi tên thành “Tây Tiến” và chính thức
14
in lần đầu trong tập “Mây đầu ô” năm 1986. Ông đã giải thích với con trai mình là
Quang Vĩnh về sự thay đổi này: “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nhớ rồi. Thế nên để
chữ nhớ là thừa, không cần thiết con trai ạ”. Đúng như thế, “Tây Tiến” nghĩa là đoàn
quân tiến về phía tây, chỉ hai từ mà đã làm sống dậy cả một khúc quân hành, cô đọng
hơn nhiều, nỗi nhớ da diết hơn nhiều.
Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian
khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến
cuộc vận động văn nghệ sĩ năm nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi dấu
bao chiến công oanh tác của quân đội ta. Và thế là Quang Dũng mở đầu một lời gọi
tha thiết:
+ !"#$K
,-./#01-.*L
Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, hay còn
được gọi là sông La, con sông như một dòng chảy xuôi ngược kí ức chảy qua Hòa
Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái cớ vô cùng duyên dáng để Quang Dũng khơi gợi
tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội cũ, bao giọt nước mắt ly tan hay vỡ
òa thắng trận đều từ đó mà ra. Tiếp tục với một tâm hồn hoài niệm, điệp từ “nhớ” lúc
này phát huy cực điểm tác dụng chính của mình là bộc lộ nỗi nhớ, ta có thể hình dung
về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử của tác giả khiến cho nỗi nhớ kia
ngày càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang
vuu vừa lãng mạn trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ, “nhớ rừng núi” cũng chính là nhớ về
những gương mặt sát cánh trên con đường hành quân, là nhớ về Tây Tiến. Từ láy
“chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo độc đáo, nỗi nhớ không cạn, cũng chẳng
tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, huyền ảo như một làn sương hoài niệm chẳng lúc
nào tan biến. Xuân Diệu cũng từng tận dụng từ láy đắt giá này trong bài Nhị Hồ:
+<<(3#05<#A
<<5;56.*
,M?$HNO
15
Là một sự sắp xếp khéo léo hay tình cờ mà điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”, “chơi”,
“vơi” “hơi” cùng tạo ra một âm hưởng mênh mang như càng thêm mở rộng chiều kích
cho nỗi nhớ. phải chăng là một khúc ca mà lữ khách tốn bao nhiêu tâm tư để mời gọi,
hãy vào đây, hãy nhìn đồng đội thân yêu của tôi đi, họ đã mạnh mẽ chiến đấu đến
chừng nào. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu thơ sau”
+P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386*L
Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” để người đọc gần xa ít nhiều
thấy được vẻ heo hút, hoang vu, bí ẩn của vùng đất lạ, thấy được những khó khăn, thử
thách chờ chực, ý chí người lính ra sao. Hình ảnh tả thực “sương lấp” và “đoàn quân
mỏi” cho ta thấy bao vất vả mà đoàn quân Tây Tiến đã phải chịu, họ hành quân trong
sương mù lạnh giá, sương giăng che lấp cả đoàn như phủ lên những tâm hồn mỏi mệt
một lớp chăn mềm mại, chỉ là sao khắc nghiệt quá, một chữ “mỏi” mà khiến bài thơ
như có hồn tâm sự. Cũng bởi vì một chữ “mỏi” mà bao cuộc tranh luận xảy ra giữa
những người cầm bút giành lại giá trị chân chính cho tác phẩm. Khắc nghiệt là thế
nhưng “hoa về trong đêm hơi” lại là một hình ảnh lãng mạn biết bao. Có người nói
“hoa” ở đây là hương hoa rừng còn vương vấn, có người lại cho rằng tác giả ví người
lính là bông hoa thơm dịu, tinh khiết kia, kì thực có một chút không hợp. Nhưng nếu
nói “hoa” trong bài thơ, là ánh sáng chập chờn, phập phồng của ngọn đuốc thì thực sự
khiến hình ảnh thơ trở nên đẹp đẽ vô cùng. Đoàn quân trong đêm tối “đỏ đuốc từng
đoàn” đi đến đâu tan sương đến đó, như những bông hoa đỏ trong đêm vượt màn
sương nở rộ vậy. Một câu thơ mà vừa bi tráng, vừa lãng mạn, chỉ có thể là con triện
riêng của Quang Dũng mà thôi.
Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài hòa
chất hiện thực và lãng mạn, càng cho ta thấy được ngòi bút tài hoa, phóng khoáng của
ông. Nói như nhà thơ Vân Long “Nhà thơ Quang Dũng như “bóng mây qua đỉnh
Việt” và là một áng mây bay qua sống núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu,
hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Con sông chiến trận qua ngòi bút
Quang Dũng cũng trở nên có hồn như vậy đấy.
16
Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài của mình để khắc
họa địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:
+956C1CU:9V
?(31$Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*L
Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian khổ.
Ngang tầm với núi rừng hùng vĩ chính là tinh thần quả cảm của những người lính Tây
Tiến. Điệp từ “dốc” kết hợp với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh
co, hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ bảy chữ mà đến tận năm chữ được gieo
thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi cheo leo, gập ghềnh.
Thậm chí chỉ cần đọc câu thơ lên đã hình dung hình ảnh người lính vất vả, từng hơi
thở gấp gáp giữa sườn núi chông chênh. Từ láy “heo hút” ở đầu câu thơ thứ hai cho
thấy sự hoang sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường như ta có thể cảm nhận âm
vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ. Đảo ngữ một cách khéo léo đã giúp
cho núi Tây Bắc được vẽ ra với khung cảnh đậm chất hùng vĩ, đỉnh núi cao đến mức
ngập vào những cồn mây trắng như ngọn đuốc hiên ngang phía sau tàn sương mà
chiến đấu vậy. Tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần tạo thêm
sự thú vị cho bài thơ, vừa có thể thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà
cùng vừa thấy được sự tinh nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người
lính lạc quan, hài hước.
+,<-5632<-"9
,T<"C*L
Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô cùng, vô
tận của thế núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc dựng đứng,
lên tận cao vót và đổ xuống rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao nhiêu là gian khó.
Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà nhìn lưng chừng sườn núi, “nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh bằng mở ra một không gian xa và
17
rộng. Tưởng chừng như đang đứng ở một vách núi đưa mắt về phía xa, trong màn
sương lại ẩn hiện thấp thoáng những ngôi nhà sàn. Cảnh tượng phút chốc lại trở nên
lãng mạn biết bao, đâu còn những khung cảnh trần trụi tàn khốc nữa. Đây cũng là một
trong những bằng chứng thi trung hữu họa vô cùng đắt giá của Quang Dũng.
Như vậy, bốn câu thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con
đường hành quân của những người lính. Cách gieo thanh bằng trắc và sắp xếp gam
màu nóng lạnh đã gợi ra những nét vẽ gân guốc, mềm mại xen kẽ. Khổ thơ nhờ vậy
mà được xoa dịu, đây không hẳn là che giấu đi hiện thực tàn khốc mà là lấy cái nhìn
lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.
Thế nhưng, dẫu có lạc quan đến mấy cũng không thể nào phủ nhận một sự thật tàn
khốc của chiến tranh:
+T13X7
YSQ1./@9
J9M"<8$534
Z[8B#6@>*
#386</8$H,6<
Là những mất mát, hi sinh, là những lần chia ly âm dương chẳng dám hẹn, nước mắt
chực rơi nhưng phải “trừng mắt” nhìn về phía trước. Và Quang Dũng đã dành những
cảm xúc chân thành nhất để viết:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A*
Hai tiếng “anh bạn” nghe sao thân thương mà chua xót quá, những đồng chí mới vai
kề vai mà quay đi nhìn lại đã chẳng còn nữa. Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình ảnh
hoán dụ “không bước nữa” để giảm đi sự đau thương của những người lính. Đồng đội
vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm đang dần ngã xuống. Các anh biết đồng
đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã xuống cũng sẽ ở một tư thế hiên ngang
nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập nhưng tâm hồn dành cho núi song vẫn còn
18
đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay, đưa mắt hướng về đồng đội lần cuối. Bom
đạn mù mịt che đi những người mà anh yêu quý. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã
làm giảm bớt sự buồn đau của sự việc, thế nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép
của những người lính. Khi họ dứt áo ra đi là đã gạt tình yêu riêng sang một lối nhỏ,
toàn tâm toàn ý cho tình yêu đất nước. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất
của âu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương đâu còn nữa,
nay chỉ còn khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên thôi. Lê
Anh Xuân cũng có những câu thơ:
+\!"98<A,G
,<<_8`56JQ1#6">#a
#3C88`E
>)(35W84B.$*
>8`O,
Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở đó, đồng đội anh chết nhưng động
đội vẫn tồn tại còn đang chiến đấu. Hành trình chưa bao giờ kết thúc:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy chuỗi ngày dài mà bộ đội đối mặt với
gian nan nơi rừng núi Tây Bắc. Chiều cho đến đêm là lúc màn sương bắt đầu bao phủ,
trời cứ thế tối dần mà không biết dưới chân mình là gì. Nhất là “tháng chạp màn
sương trùm Đất Nước”, nguy hiểm chồng chất nguy hiểm, thế mà: “thác gầm thét” thử
thách nỗi sợ của con người. Địa danh Mường Hịch được tác giả khéo léo đưa vào câu
thơ, hai tiếng nặng trịch như tiếng chân hổ bước trong đêm. Hiện thực “hiểm ác” lại
một lần nữa được nhà thơ xoa dịu bởi câu thơ tiếp theo, câu thơ mang nặng tình nghĩa
của người dân Tây Bắc.
+,-56Cb
&'()"*
19
Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài niệm
mãnh liệt về một vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân thật vừa
trữ tình, cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã khắc họa tình
quân dân vô cùng ấm áp. Nhắc đến tình quân dân thì có lần Quang Dũng chứng kiến
người mẹ Hòa Bình tự vắt sữa mình cho đồng đội anh uống, đồng đội anh lúc ấy bị
thương khá nặng. Hóa ra những người lính như Quang Dũng cầm súng trên tay để bảo
vệ những điều bình dị như thế. Tác giả đã vô cùng sáng tạo khi khi dùng từ “mùa em”
đây là một từ từ ghép độc đáo gợi nét trẻ trung, thể hiện tình cảm của mình và đoàn
quân Tây Tiến đối với những con người nơi đây.
Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng mạn,
Quang Dũng đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với đó là
nỗi nhớ da diết về những ngày tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Từ nỗi nhớ “chơi
vơi” lưng chừng trong tâm trí giờ đây đã khẳng định “nhớ ôi Tây Tiến” là cảm xúc
chủ đạo toàn bài. Qua đó, ta có thể thấy tinh thần của những người lính dẫu có “dãi
dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến thắng, vẫn kiêu hùng bước từng bước hiên
ngang chẳng hề lo sợ.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã từng nhận xét “Nếu như Chính Hữu viết về
những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của
người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình
tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của
nó”. Thật vậy nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về đêm liên hoan văn nghệ vui với
đồng bào và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
+3#40567893
PJ("6>303A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng với
những âm thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần này là
20
hoa chúc, hoa của ngọn lửa góp vui cho đêm văn nghệ. Đó là những tâm hồn lạc quan
vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được sống hay không nên cháy hết mình trong
đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn cước bất ngờ xuất hiện
trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa em” cùng với câu hỏi tu từ “tự bao
giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của những người lính, vừa ngạc nhiên,
thú vị vừa tinh nghịch, đáng yêu. Một từ láy “e ấp” đã gợi ra nét thanh thoát e thẹn
ngại ngùng của những cô gái trẻ. Tuy vui vẻ là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn
không quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ thiêng liêng tiến về phía trước phối hợp với
nước bạn bảo vệ biên giới Việt – Lào. Vì vậy mà “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Giọng thơ trở nên vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung nhưng không làm mất đi tinh thần khí
phách của người lính.
Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:
+,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*L
Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là một
buổi chiều sương giăng với nhiều kỉ niệm. Ta có thể thấy khi đoàn quân ăn bước qua
nơi này tâm họ đang lặng để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là đồng đội vừa mất của
họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời thơ ấu về một ánh mắt gieo bao tương tư chờ
đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy” cùng những câu hỏi tu từ
“có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm trong sự hoài niệm. Trong hiện
thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện những khoảng lặng như thế. Tác giả
hỏi người nhưng thật ra là tự hỏi lòng mình tự nói với mình dùng câu hỏi để khẳng
định. Quang Dũng đã xuất sắc để người đọc thấy được luôn có một nỗi nhớ thường
trực trong tâm trí ông. Các cụm từ như “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa
đong đưa” đã làm bức tranh sinh động hơn hẳn. Độc giả có thể hình dung cả vạn bông
lau phất phơ theo gió như có hồn người tiễn chân các anh ra trận. Phía xa là những cô
gái Thái với dáng hình uyển chuyển mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc vượt qua
21
dòng lũ sông Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên dáng đưa câu thơ trở nên có hồn
hơn tình từ hơn. Hình như khung cảnh chiều lộng gió với những nét vẽ đơn sơ, thanh
thoát luôn tạo cảm hứng cho Quang Dũng
+T>5>"8<AeE
?3.44-)65<
T98C>CS5Ab
(.!<<Db/*
]$H
Như vậy, đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây đã mở ra trước mắt người đọc
thế giới của cái đẹp của âm nhạc. Nói như Xuân Diệu thì đọc bài thơ Tây Tiến “ta có
cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”, chất thơ và chất nhạc được Quang Dũng hòa
quyện khéo léo khiến ta cứ say trong một điệu du dương không cần người sướng. Nếu
rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ
làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên). Và thơ của Quang Dũng thì
vừa sâu vừa có ý vừa say cả nhạc.
Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng
thêm phi thường, bi tráng
+83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức của
nhà thơ, lại nhớ về những ngày đầu những anh lính nuôi dưỡng, quý mái tóc phi-lô-
dốp của mình. Các anh vừa tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của mình lắm.
Nhưng tại sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”? Vì các anh còn xông pha
chiến trận còn đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét mà rụng tóc. Hiện
thực khắc nghiệt buộc những người lính đứng dậy với một diện mạo mới chẳng còn
22
dáng vẻ thư sinh của chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh màu lá” cũng là một hình
ảnh thực chỉ màu xanh lá ngụy trang trong lối đánh du kích của quân đội ta và cũng là
màu da xanh xao của người lính chịu cơn sốt rét nhưng vẫn kiên cường.
Câu thơ vừa đối lập lại vừa ẩn dụ vẻ xanh xao trong mắt nhà thơ càng trở thành tựu
văn cường bất khuất. Các anh chiến sĩ giờ đây mang trên mình một khí thế dữ tợn, oai
phong của “chúa sơn lâm”. Cách so sánh này đã từng xuất hiện trong bài thơ “Thuật
hoài” của Phạm Ngũ Lão
+?3QbQC>)CU
RJfC<*
Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về chiến
tranh nhưng sự trần trụi ấy lại đậm tính lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà ta vừa cảm thương
vừa khâm phục những người lính vô cùng. Vẫn là theo mô tuýp bài thơ, sau khi dùng
như ý thơ để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp theo là những câu thơ của một tâm hồn
lãng mạn, tài hoa.
+ E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Trong những ngày ngập chìm bom đạn khói lửa, những lần suýt chết trong gang tấc,
tâm hồn họ lại nhạy cảm và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh “mắt trừng” vừa là
cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn vừa là hoán dụ. Người đọc có thể hình
dung về người lính trong những đêm nhớ nhà, nhớ quê, họ trằn trọc với tấm chân tình
đã phủ khăn từ rất lâu rồi, họ trằn trọc suy tư về con đường hành quân ngày mai. Mặt
khác “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của người lính, họ có thể ngã
xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao giờ dập tắt được. Đều là
những chàng trai Hà thành hào hoa lãng tử, họ đã quên đi mối tình chóng vánh mới nở
ở quê nhà yêu dấu để bước chân lên đường chiến đấu. Phải đánh tan lũ giặc thì mới
bảo vệ được người mình yêu, mới cho người mình thương cuộc sống tự do hạnh phúc.
Ở nơi này “dáng kiều thơm” chỉ dám xuất hiện trong đêm mơ. Câu thơ có vậy mà đã
23
gây ra bút chiến, lại nhớ nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng viết: “Người Đức họ không
cấm thanh niên họ đọc Werther mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh
niên họ đọc Romeo et Juliette mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân
đạo mới tự cấm lấy mình thôi. Nếu cầm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái
đẹp ở đời” Hai câu thơ diễn tả tâm trạng rất thật của người lính trên đất Lào, họ gửi
nỗi nhớ qua biên giới cũng chẳng chờ hồi âm chỉ mong chiến thắng.
Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ lưỡng, đoạn thơ thứ ba đã
khắc họa lên tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa bi tráng lại vừa lãng mạn,
nét bút không ngơi nghỉ mà tạo ra khí thế hào hùng. Nói Quang Dũng là một trong
những nhà thơ hàng đầu thời kỳ chống Pháp Quả là không sai.
Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ trong
giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng quên mình đó
không còn sự bi lụy, thê lương
+gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187*
Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương thì
ngay lập tức được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở đầu câu
thơ kết hợp với những từ Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm bức tranh
nhuốm màu tang thương, một sự thật nghiệt ngã và đau lòng. Đối mặt với bom đạn
tinh thần con người có cao đến mấy cũng chỉ tan xương nát thịt. Cuộc đời của những
chàng trai trẻ mãi mãi bỏ lại nơi xa xôi. Dường như, họ đã phụ lòng chờ đợi của
những người ở quê hương yêu dấu. Đảo cấu trúc “chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh” khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong khô hẳn. Giờ đây chỉ còn tâm
thế cầm chắc súng, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh bảo vệ dân tộc. Hình ảnh hoán dụ
“đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc của người lính ở độ tuổi đẹp nhất họ
cống hiến sức người thanh xuân của mình cho sự nghiệp của Tổ quốc. Đúng, đó chính
24
là tinh thần trong câu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ phủ định “chẳng tiếc” để
khẳng định tầm vóc lớn lao lý tưởng cao đẹp của binh đoàn Tây Tiến. Sương giăng
hay khói lửa cũng chẳng làm mờ đi hình tượng người lính. Tính phi thường trong câu
thơ còn nằm ngay ở cái chết
+h33./8G
!B56C187*
Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu
manh để che đậy. Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Họ
vẫn được xem như những vị quan thời xưa được “da ngựa bọc thây” khi tử trận nơi sa
trường. Hiện thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết vẫn trang trọng qua vần thơ của
Quang Dũng.
Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ trở
về đất mẹ sau một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa “sông Mã
gầm lên” kết hợp từ Hán Việt “khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ đang hào hùng
bi ai bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng. “Sông Mã cọp gầm”, ngay cả chúa rừng xanh
cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sông núi như dâng một khúc ca hoành
tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho khí thế đoàn quân thêm phần
mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải tiếp tục chiến đấu vì lý tưởng vì quê
hương, vì trả thù.
Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã giúp nhà thơ khắc họa chân thực
cái chết của người lính vừa oanh liệt vừa hào hùng. Chân dung người lính qua câu thơ
đã thể hiện nét phi thường từ diện mạo, tâm hồn cho đến khí phách. “Thơ là thơ đồng
thời họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng).
Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng hồi
ức:
+<A8Ci<-
F<A56V7)
25
\56'"G
?$./B,`V./"L*
Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần
quyết chiến của người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Bởi
“đường lên thăm thẳm một chia phôi”, từng mạng từng mạng cứ thế bị bỏ lại phía sau.
Cái giá của chiến thắng thật sự quá đắt. từ láy “thăm thẳm” khiến ta bất giác rùng
mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào mới nói ra lời đanh thép như
thế. Hoặc có thể thấy tác giả rời đơn vị cũng chẳng hẹn ngày gặp lại, đồng đội vẫn tiếp
tục hành trình nhưng chẳng còn xuất hiện trong tâm trí nhà thơ nữa. Ông dùng sự dứt
khoát để dồn nén nỗi nhớ, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ tinh thần quyết thắng của cả toàn
quân. “Mùa xuân ấy” hẳn là mùa xuân thành lập, mùa xuân hi vọng chiến thắng của
đoàn quân Tây Tiến. Dẫu phải xa đơn vị nhưng một lần cùng Tây Tiến đi về Sầm Nứa
thì hồn cũng như tâm trí nguyện đi theo họ, chẳng cần trở về. Chỉ vài câu thơ ngắn
ngủi đã tái hiện toàn bộ hành trình chiến đấu, giọng thơ lãng mạn mà kiêu hùng mấy
thập kỷ, “Tây Tiến” vẫn luôn là một rương kho báu chờ người khai phá. Sự hấp dẫn
lôi cuốn và những bí ẩn trong câu thơ vẫn còn mãi, nó khiến ta “dừng tay trên trang
giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài thơ một lần nữa”.
Nói tóm lại, Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang tầm
chiến lũy”, cho thấy dấu triện riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá. Bản
viết tay với những con chữ nguệch ngoạc trong đêm Phù Lưu Thanh vẫn còn nguyên,
đó là những con chữ xuất thần mang cả hồn rừng núi Tây Bắc và những đêm ngày vất
vả của người lính. Cuộc đời Quang Dũng bình dị như màn sương nhưng cốt cách và
tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm sương ấy vậy. “Hào khí của thời đại
đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của anh có phần âm vang của
hào khí ấy”. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa lãng mạn đến như thế, sau này
chỉ mong những người khai phá con chữ nâng niu vần thơ ông một chút. Hãy bắt đầu
từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành cho hồi ức, hồi ức về những năm tháng
chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là một khúc ca bi tráng, kiêu hùng…
KOR
26
Tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn gắn bó luôn là một đề tài muôn thuở cho các nhà
thơ tìm về miền đất nhiều kí ức. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, những sự hi
sinh, gian lao vất vả mà người chiến sĩ đã trải qua để mang lại cuộc sống yên bình cho
bao người, họ còn bộc lộ những nét đáng yêu, tinh nghịch đậm chất lính. Quang Dũng
cũng đã hòa mình vào với “chất lính cụ Hồ” để xây dựng nên bức tượng đài người
lính vừa đẹp, vừa hùng tráng mà đầy khí phách:
+ !"#$
%
?$./B,`V./"*
Bài thơ “Tây Tiến” như một kí ức đẹp mỗi khi ta nhớ tới Quang Dũng. Tây Tiến là
một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội
Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là
thanh niên Hà Nội. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa
binh đoàn Tây Tiến chưa được lâu, tại Phù Lưu Chanh, với nỗi lòng nhớ Tây tiến da
diết, ông viết bài “Nhớ Tây Tiến”, sau ông đổi tên thành “Tây Tiến”. Bài thơ được tin
trong tập “Mây đầu ô”.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thốt lên:
+ !"#$
,-./#01-.*
Hòa mình vào nỗi nhớ dai dẳng không hồi kết, địa danh Tây Tiến gắn liền với con
sông Mã hào hùng nó không chỉ là một người bạn thân thiết với mỗi người lính mà nó
còn là một chứng nhân lịch sử. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại ở câu thơ thứ hai nhấn
mạnh nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, khi kết hợp với từ láy “chơi vơi” càng tạo điểm nhấn
kéo dài nỗi nhớ ấy, nó như thấm nhuần vào từng ngõ ngách tâm trí của nhà thơ.
Nỗi nhớ ấy tiếp tục bao trùm lên những câu thơ tiếp theo của Quang Dũng:
27
+P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*
Trong những khổ thơ này, chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến các địa danh đã đi cùng
năm tháng với người lính: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Những địa danh mà
đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua, dừng chân nghỉ ngơi. Nhà thơ đã sử dụng một loạt
từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để miêu tả địa hình khó khăn mà người
lính phải hành quân qua. Bên cạnh đó, hình ảnh “súng ngửi trời” như là một chi tiết
đắt giá sáng rõ nhất cho cả khổ thơ trên. Súng biểu tượng cho chiến tranh, lại đang
“ngửi trời”, khát vọng hòa bình, tự do của loài người. Đây cũng là một nét tinh nghịch
của người lính trong thơ Quang Dũng. Đứng trên đỉnh dốc cao, hun hút, họ nhìn
xuống “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” thấy thiên nhiên thật hùng vĩ, tráng lệ
nhưng cũng đậm chất trữ tình “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Chỉ với 8 câu thơ đầu, Quang Dũng đã lột tả được nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Tiến, về
người lính Tây Tiến vừa đẹp đẽ lại chân thực. Nhà thơ tiếp tục lia ngòi bút sắc bén của
mình để phác họa hình ảnh người lính có những lúc mệt mỏi:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68AK
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*
28
Hình ảnh người lính Tây Tiến trên đường hành quân có những lúc tưởng chừng như
phải khuất phục trước thiên nhiên hay hi sinh “gục lên mũi súng bỏ quên đời”. Có
người cho rằng ý của nhà thơ ở chỗ này thể hiện các anh chiến sĩ do mỏi mệt quá nên
gục xuống nghỉ ngơi nhưng cũng có người cho rằng họ hi sinh, họ chìm vào một giấc
ngủ ngàn thu tươi đẹp. Nhưng dù nhìn vào khía cạnh nào ta cũng thấy sự khốc liệt của
thiên nhiên, của chiến tranh đã đưa đẩy những người chiến sĩ vào vòng xoáy của sự
đấu tranh sống còn vì tương lai của đất nước. Từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” càng
lột tả được sự hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, nơi luôn đầy rẫy những khó
khăn, thử thách đang rình rập người lính. Để rồi đoàn quân Tây Tiến vẫn vượt qua:
+,-56Cb
& '()"*
Hai câu thơ rất đỗi giản dị miêu tả cuộc sống thi vị hàng ngày với hình ảnh “cơm lên
khói”,” nếp xôi”.
Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về đoàn quân hào hùng ấy với nét lãng mạn, hào hoa
pha chút tinh nghịch:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$
,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<=
29
Câu thơ có cả hình ảnh, âm nhạc “khèn”, ánh sáng của ngọn “đuốc”, đối lập hoàn toàn
với những cảnh khó khăn nguy hiểm mà người lính đã trải qua ở phần trên.
Nhà thơ không chỉ chú trọng tới hình ảnh người lính đã mang màu sắc lãng mạn mà
còn khắc họa chân dung bức tượng đài người lính sừng sững oai phong với ngôn ngữ
gai góc, sắc nhọn mà chân thực:
+83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h332./8G
!B56C187*
Chỉ với 8 câu thơ Quang Dũng đã lột tả được sự gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết núi
rừng Tây Bắc với căn bệnh sốt rét hoành hành khiến cho đoàn binh “không mọc được
tóc”. Rồi họ vẫn mơ mộng, nhớ về người thân nơi quê nhà, nhớ tới người thân của họ
nơi tiền tuyến. Họ không chỉ phải đối mặt với thời tiết kinh hoàng mà họ còn phải
đánh đổi cả mạng sống của mình để bảo vệ quê hương. Hình ảnh ẩn dụ “áo bào” thay
chiếu như mang một nỗi niềm xót xa. Những người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh thân
mình, họ đã anh dũng nằm lại với đất mẹ. Đất mẹ ôm ấp vỗ về họ như những đứa con
cần được bao bọc, chở che. Đây là đoạn thơ mang âm hưởng hào hùng bi tráng nhất
bài thơ. Đến cả “Sông Mã” cũng phải gầm lên bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn.
+<A8Ci<-
F<A56V7)
30
\56'"G
?$./B,`V./"*
Kết thúc bài thơ là một nỗi buồn còn đọng lại trong lòng người đọc – một nỗi buồn
nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Tây Tiến vẫn như đang mời gọi, gieo vào lòng nhà thơ
một cảm giác khó nói thành lời.
Phân tích Tây Tiến của Quang Dũng, chúng ta có thể hình dung ra hình ảnh thiên
nhiên hùng vĩ mà tráng lệ đồng thời cũng xây dựng một bức tượng đài người lính
hùng dũng đáng ngợi ca, khâm phục. Bằng ngòi bút sắc sảo, giọng thơ sâu lắng nhiều
tình cảm, “Tây Tiến” như một ngọn gió mới thổi vào thơ ca Việt Nam một luồng gió
mới – một miền kí ức hào hùng sâu sắc.
KOR,
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong
tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử
thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến
còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của
Hồng Nguyên, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây
Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường
Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang
sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người
ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một
bài hát thời đó:
F3OR9R75B#82
,3bQ>8#k./L
31
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí
thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà
Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp thoáng xuất hiện một
khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội
ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say
mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quý tộc”
ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
!8(3`3
hay
](3>ia$3L
Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi
gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang
Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn
vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội,
nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ
những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên
trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
!"#$K
,-./#01-.L
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những
kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng
gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ
về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn
tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng
phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu
thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. Nhớ chơi vơi! hai liếng
chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có
32
lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt
gặp không chỉ một lần trong ca dao:
g./-4.
hoặc:
,-ff$$2
,<8`895W2<$89L
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của
mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy
thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi
rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"CL
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng
biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình
dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đoạn thơ cứ thanh bằng thanh
trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh.
Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng,
tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa
danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử
thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn
33
quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của
con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi
lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả
những đặc điểm ấy diễn tả nỗi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó
ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt. Quang Dũng có
những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nối
thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe
thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư
cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh
điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mắt ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn
quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
,T<"C
Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên
núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang
trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn
tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi
cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<AL
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng
núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe dọa con người. Hai chữ Mường Hịch
đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này
bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay.
Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc
nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải
vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao của con đường Tây Tiến
chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
34
^8432<<-6L
lF<A"`^Cb82Cb56[#A"mL
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây
Tiến phải chịu đựng.
\4:!:BC<-@
]^56Q12SR68AK
Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên
con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến
đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ
vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành
trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của
thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những
người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau.
Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử
thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải
gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng
chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái
gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây
Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến
một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải,
những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể
nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông
nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội
Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả
nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói
hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ
35
mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ
dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không
trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
T3"3Qb.ne'
]5_')D.L
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con
người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng
đáng nhớ hơn:
,-56Cb
LLLL
#:;<-53838<L
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống
trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại
nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc
sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hồn dần ấm lại sau những
phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi
gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng
kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sức nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến.
Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi
của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến tranh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây
hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến .
Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết
rằng sẽ còn tiếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa
hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong
số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ
đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón
nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp
36
nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là
chuyện bình thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với
tâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một
dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất bình
thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng
không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vào tâm hồn người lính Tây Tiến, là
nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:
83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm của đoàn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại
khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở
nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi
tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần
nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên
ngang. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá
trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng
sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và gợi nhớ
đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Po8!56O[2
F;<@@RL
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó
không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm
hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm. Cái khí phách hào
hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ
thơ trên, người lính chịu sự đe dọa của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng
cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như
37
ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào
hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu
người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đấu dũng mãnh như thế, nhưng người lính
Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:
E#0W7R6-
F6?,7:>C/L
Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu
phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ.
Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ thơm
được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng
ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã
giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm lí phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ấy là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đấu để
giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp
nhận sự hi sinh:
gD#>6<$.I"`
&#<A8V#A"L
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm
đến vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc
đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên
con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi
và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của
người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Những câu thơ sau như một lực nâng
vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi
tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của
người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi
chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưởng cao đẹp:
38
chiến đấu vì Tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận,
cái chết được xem nhẹ tựa lông hồng:
h33./8G
!B56C187L
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ
không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc
thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến
trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản
về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất
như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông
Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra
đi chiến đấu lại đón anh về:
<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./B,`V./"L
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó
cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ
không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy.
Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.
KOR8
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, tài hoa. Là nhà
thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là
39
tác phẩm tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ của tác
giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính Tây Tiến anh hùng.
+ !"#$K
,-./#012-.
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386*L
Trong tâm trí nhà thơ, Tây Tiến là một vùng đất đầy ắp kỉ niệm nên mở đầu bài thơ là
tiếng gọi thể hiện nỗi nhớ tha thiết, bâng khuâng ; gợi nhắc một địa danh đong đầy
bao kí ức của đời lính. Sông Mã là nỗi nhớ đầu tiên của Quang Dũng. Vì con sông Mã
là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt chặng đường hành quân, chứng kiến bao
buồn vui, mất mát, hi sinh, vất vả của người lính Tây Tiến. Gọi tên Tây Tiến là gọi tên
đồng đội, gợi nhớ bạn bè của một thời chinh chiến.
“Tây Tiến ơi!” – câu cảm vang lên là tiếng lòng da diết gắn liền với bao kỉ niệm thân
thương về đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ đó vừa cụ thể vừa gắn liền với địa danh Tây
Bắc: “nhớ về rừng núi” : vừa xa xôi vừa không định hình. Cụm từ “nhớ chơi vơi” tạo
âm hưởng kéo dài, lan rộng, gợi mở một tâm trạng, cảm xúc vang xa đến mênh mông
vô tận. Nghệ thuật sử dụng vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm
hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai
lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Đặc biệt là cách nói
“nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể
bấu víu vào đâu được. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm
mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó
là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không
yên.
Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của
một thời gian khổ. Ta bắt gặp ở đó con đường hành quân đầy gian khổ nhưng thật trữ
tình nơi núi rừng miền Tây hùng vĩ, thơ mộng. Liệt kê hai cái tên: “Sài Khao”,
40
“Mường Lát” xa lạ, Quang Dũng như gieo vào lòng người đọc ấn tượng về một vùng
đất xa xôi, hoang dã.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” giàu sức gợi tả. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày
đến độ “lấp” cả đoàn quân. Chữ “lấp” là động từ mạnh gợi cảm giác về sự khắc nghiệt
dữ dội của thiên nhiên. Đoàn quân đi trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ
“mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi, rã rời.
Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng. Hình ảnh “hoa về
trong đêm hơi” không chỉ gợi ra cái giá lạnh mà còn là một hình ảnh nên thơ. Đoàn
quân Tây Tiến mất hút trong “sương lấp” rồi lại xuất hiện trong khung cảnh “hoa về
trong đêm hơi” đầy lãng mạn. Chữ “hoa về” rất gợi, có thể là hoa đang nở, hương hoa
đang dậy lên trong đêm; mà cũng có thể là bó đuốc trên tay người lính qua “đêm hơi”
trở nên lung linh như hoa; cũng có thể hiểu – mỗi anh lính như những bông hoa đang
về với bản làng.
956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C
Điệp từ “dốc” cùng cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm
thẳm” tạo thành hai vế gợi cảm giác những con đường dốc nối tiếp nhau. Dốc cao
dựng đứng hiểm trở, dốc tiếp dốc, trùng điệp. Những từ láy tạo hình “khúc khuỷu”,
“thăm thẳm” đặt trong câu thơ nhiều thanh trắc góp phần miêu tả cảnh hùng vĩ, đầy
hiểm trở của núi rừng miền tây. Con đường hành quân qua dốc núi vừa gập ghềnh,
trắc trở; vừa cao vừa sâu hun hút, con đường như dài ra theo bao nhiêu nguy hiểm khó
khăn, vất vả với “cọp trêu người” (“chiều chiều”, “đêm đêm”) và thác cao nghìn
thước.
41
Các từ láy tạo hình “khúc khuỷu” (quanh co, khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ
sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người) gợi hình ảnh những con dốc quanh co,
gập ghềnh. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc
thăm thẳm” khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành
quân với đoàn binh vậy.
Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” cho thấy đỉnh núi mù sương cao vút. Núi
cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh
được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng
mạn. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao
mà đi tới.
Điệp từ “ngàn thước”, “lên” đối lập “xuống”, nhịp thơ 4/3 như tô đậm chiều cao, độ
sâu và tạo một nét gãy đầy ấn tượng của núi đèo. Chiều cao và chiều sâu của dốc núi
dựng đứng đã đặc tả được sự nguy hiểm đối với chiến sĩ. Dường như trong thế đứng
hùng vĩ ấy, trong âm hưởng câu thơ có cả dáng mệt mỏi và nhịp thở đứt quãng nhọc
nhằn của chiến sĩ Tây Tiến. Vất vả, gian lao nên không ít người đã mệt mỏi “Gục lên
súng mũ bỏ quên đời”. Cách nói giảm làm dịu bớt đau thương – họ hi sinh như đi vào
giấc ngủ thanh thản – nhưng cũng không che giấu bớt những gian khổ, nhọc nhằn đã
vắt kiệt sức của các chiến sĩ. Tuy vậy, trên đỉnh núi cao, họ vẫn giữ cho mình cái nhìn,
cách nói hóm hỉnh, vui tươi của một tâm hồn trẻ trung “súng ngửi trời”.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa
xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát
của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68AK
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A
42
Cái chết đậm chất bi hùng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ
quên đời”. Từ láy “dãi dầu” tả gian khổ, vất vả. Ba chữ “bỏ quên đời” gợi tâm thế
ngang tàng, kiêu bạc, coi thường cái chết, coi thường hiểm nguy. Chết trong tư thế
đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người
lính, chết không rời bỏ đội hình, đội ngũ.
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A
Hai câu thơ gợi hình ảnh núi rừng hoang sơ, huyền bí. Âm thanh dữ dội của tiếng thác
buổi chiều “gầm thét” hòa điệu với tiếng gầm của cọp beo “đêm đêm” hợp thành một
bản hòa tấu rùng rợn vang động núi rừng. Điệp từ: “Chiều chiều, “đêm đêm” chỉ thời
gian, sự lặp lại, nhưng còn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến luôn phải đối mặt với
những hiểm nguy ngày đêm rình rập, đe dọa.
,-56Cb
&'()"
Hai câu thơ cuối gợi cảm xúc bồi hồi tha thiết. “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm
dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ đậm tình quân dân. Hai
tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó gợi lên vẻ đẹp xuân
tình, nồng nàn hương sắc, hương xuân của những thiếu nữ Mai Châu và còn hàm chứa
trong đó là bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ
trở nên ấm áp.
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Câu
thơ với nhiều thanh bằng như tiếng thở phào nhẹ nhõm, thanh thản sau khi vượt qua
khó khăn. Từ đỉnh núi, ánh nhìn vươn dài theo cơn mưa rừng xa tận Pha Luông,
không gian thơ mộng mở ra với những mái nhà thấp thoáng gợi tình cảm gia đình ấm
áp, gần gũi; tiếp thêm sức mạnh vật chất và tinh thần cho người chiến sĩ sau chặng
đường dài.
43
Cách nói “mùa em” vừa nhẹ nhàng, tình tứ vừa mới lạ, độc đáo. Tâm hồn lãng mạn,
tinh tế của người lính Tây Tiến đang hòa một nhịp với những sinh hoạt bình dị và tấm
lòng của người dân vùng cao dành cho chiến sĩ. Những bữa cơm đầm ấm tình quân
dân, những bát xôi nếp thơm nồng kỉ niệm khiến câu thơ cuối khổ như một tiếng lòng
da diết, khắc khoải của hoài niệm.
3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$L
Từ “bừng lên” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội,
ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” gợi không khí hạnh phúc, ấm cúng.
“Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là
tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Không chỉ thế người lính Tây Tiến
còn mê say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ. Từ “kìa em” thể hiện sự ngạc
nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng
lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, Thái, Lào xinh đẹp,
duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu”
đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng
giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm
văn nghệ. Câu thơ cuối tả độ phiêu du của âm nhạc, cái phiêu du của hồn người đang
thăng hoa cùng văn hoá Tây Bắc – “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<
44
“Chiều sương ấy” là một buổi chiều đặc biệt, đầy kỉ niệm đáng nhớ. Từ “ấy” gợi thời
gian hoài niệm, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói, gợi nỗi buồn man mác, bâng
khuâng. Lau lách vốn vô tri, không có hồn nhưng dường như nó đã nhuốm màu tâm
trạng nên nó mang linh hồn người: “hồn lau nẻo bến bờ”.
Giữa không gian ấy, con người xuất hiện khoẻ khoắn, kiên cường. “Độc mộc” là một
loại thuyền được làm từ thân gỗ lớn, dài. “Dáng người trên độc mộc” phải chăng là
dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc đang đua chiến
sĩ vượt sông hay dáng người kiêu hãnh, hiên ngang của người lính đang chèo thuyền
tiến lên phía trước. Hình ảnh ấy càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng.
Dòng sông Mã với Tây Bắc ẩn chứa biết bao dữ dội nay lại hiện lên “dòng nước lũ”:
“trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai hai vế tiểu đối:
“dòng nước lũ” tương phản với “hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” gợi ấn tượng sâu
sắc. “Đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”, “đong đưa” vừa tả được chuyển động
của hoa, vừa gợi được nét quyến rũ của hoa rừng Tây Bắc, vừa gợi cánh hoa rừng Tây
Bắc cũng như quyến luyến con người. Điệp từ: “Có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc
hoạ thêm nỗi nhớ bồi hồi, lưu luyến.
83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
Quang Dũng dùng bút pháp hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính. Đầu
tiên có thể thấy cái bi thương: Ngoại hình người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc
“không mọc tóc”, da dẻ xanh như màu lá “quân xanh màu lá”. Đoàn quân trông thật kì
dị. Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, dấu ấn của những
trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.
45
Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình
ốm yếu và tâm hồn đã làm nên cái chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn
binh không mọc tóc”, câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui:
không cần tóc mọc . Lại có thêm “quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”.
Cả ba nét vẽ đều sắc, góc cạnh. Hình ảnh những “vệ túm”, “vệ trọc” một thời gian khổ
được nói đến một cách hồn nhiên.
Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà
quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp
kinh hồn bạt vía. Cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ
thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng”
trong thơ Tố Hữu, của “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (sức mạnh ba quân nuốt trôi
trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm”, gợi dáng vẻ oai phong lẫm liệt,
người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc
nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “Mắt trừng” dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ,
nung nấu ý chí diệt thù.
Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn của chất lãng mạn của chàng trai
Hà Nội mang tâm hồn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Người lính Tây
Tiến không chỉ biết cầm súng, cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào
hoa. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ
về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu
thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một “dáng kiều thơm”, bóng dáng
của những người con gái Hà thành yêu kiều, diễm lệ.
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h332./8G
!B56C187
46
Câu “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả
về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên
dọc đường quân hành nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những
người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái
bi thương, bi lụy.
Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh
của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến
sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ
quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề
sông núi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Phép tương phản: chiến trường – đời xanh. “Chiến trường” là đạn bom, chết chóc, hi
sinh, gian khổ. “Đời xanh” là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp tuổi trẻ, tuổi hoa niên. Bốn từ “chẳng
tiếc đời xanh ” vang lên khảng khái, vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời
đại “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước
của dân tộc. Bởi vì hơn ai hết người lính hiểu rằng: Không gì quan trọng bằng Tổ
quốc, hai tiếng giản dị mà thiêng liêng đến vô cùng:
+ZfR96<>M
,<i<._<$
Zf9B
&3ne13Q*
Chói ngời hơn nữa ở bức tượng đài người lính bộ đội Cụ Hồ là thái độ hi sinh. Quang
Dũng viết về cái chết thật nhẹ nhàng như một khúc tráng ca:
+h33./8G
!B56C187*L
47
Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh áo bào và sự hy
sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông.
Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi
thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là sự trở về với đất mẹ, đất mẹ giang
rộng vòng tay đón lấy các anh để từ đó:
+,<AQ8G$Q
><Abe55@8A*L
Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông Mã gầm lên khúc
độc hành”. Cái chết không chỉ làm xúc động lòng người mà còn làm cảm động đến cả
thiên nhiên Tây Bắc. Vì thế khúc độc hành của dòng Sông Mã như lời tiễn đưa các
anh bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những
anh hùng về với non sông tổ quốc.
<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./B,`V./"L
Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì
nghĩa lớn. Vì vậy, cái chết với họ nào có là gì khi hồn của họ đã hòa vào hồn thiêng
sông núi, bay lên, bay lên mãi, “hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Dù chết, linh hồn họ
vẫn theo đồng đội hành quân, chiến đấu. Quang Dũng khẳng định cái ý niệm “nhất
khứ bất phục hoàn” trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả
một thời kỳ, một thế hệ con người. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ vẫn
hào hùng.
Với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, cách sử dụng từ ngữ đặc sắc, kết hợp chất nhạc
và chất họa, bài thơ “Tây Tiến của Quang Dũng khắc họa thành công hình tượng
48
người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng
người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành
trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta
KOR<
“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính
là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong
binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm
1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn cũ và sáng tác ra
bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp
hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây
Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.
p !"#$K
,-./#012-.
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C
\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68AK
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A
,-56Cb
&'()"*
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến “sông Mã” và đoàn quân “Tây Tiến” với một
tiếng gọi thật tha thiết, trìu mến. Tiếp đến, điệp từ “nhớ” đã cho thấy cảm xúc chủ đạo
của bài thơ - nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng. Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát,
49
Pha Luông” gợi về những cuộc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo
hút. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên thật hùng vĩ. Từ láy “khúc khủy”, “thăm thẳm”
nhằm khắc họa hình ảnh con dốc hiểm trở. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người lính vẫn
hiên ngang - mũi súng trên vai được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời”. Họ
hành quân trong đêm mưa không biết mệt mỏi, trong tiếng thác nước dữ dội hòa với
tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang âm hưởng của đại ngàn. Sau những
đêm hành quân gian khổ, họ dừng chân bên xóm làng, mùi thơm hương nếp mới và
ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ.}
Đến khổ thơ thứ hai, Quang Dũng đã khắc họa đêm vui liên hoan văn nghệ và bức
tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo:}
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$
,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc
hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai
chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những cô gái Tây
Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong. Tiếng khèn mang linh
hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.
Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông,
đầy hoang dại, huyền ảo. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là tả thực những bông hoa khẽ
lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp
của các cô gái Tây Bắc.
Khổ thơ thứ ba là bức chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào
hoa, sự hy sinh mất mát:}
+83RCeb
"5>:@3'
50
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187L*
Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản
nhất. Chính vì vậy, họ đã chủ động chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện
cho cuộc sống. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”
còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho
người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm”
gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy
trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh
khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của
cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi
những cơn sốt rét rừng. Cả hai cách hiểu đều cho thấy sự khó khăn mà người lính đã
phải trải qua trong chiến đấu.
Họ không chỉ dũng cảm, mà còn rất thơ mộng. Những người lính Tây Tiến đều xuất
thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở
thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên.
Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và
quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ
quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - đó là
những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc
câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai
cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc
họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.
Bốn câu thơ sau khắc họa sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến. Nghệ thuật
đảo ngữ: “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và từ Hán
Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn.
Hình ảnh này gợi ra đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Khắp nơi trên
51
mảnh đất này đều có mộ của những chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng dù đồng đội của các
anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu
thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính
nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng
tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được? Họ
mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý
tưởng cách mạng người lính vẫn nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai
cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để
chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo
bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến
tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như
những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh
không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Cuối cùng
là hình ảnh con sông Mã: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy,
con sông Mã - con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây
Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã
vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh
khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.
Khổ thơ cuối cùng là lời Khái quát những ngày Tây Tiến và những kỷ niệm không thể
nào phai. Tây Tiến người đi không hẹn trước/Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
như một lời báo hiệu về sự ra đi mà không có lời hẹn trước, tinh thần sẵn sàng chiến
đấu cho tổ quốc. Hai câu thơ cuối: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi” gợi nhắc về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến không thể nào
phai mờ.
Như vậy, bài thơ Tây Tiến đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào
hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc
hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.
KORS
52
"Chiến tranh – Người lính” là đề tài muôn thuở trong các sáng tác thơ ca của nhiều
nhà thơ. Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì
đến Quang Dũng, ông đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn, đem đến
men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Quang Dũng được biết đến là một
người nghệ sĩ đa tài : viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc…thế nhưng phải nói đến
ông là một hồn thơ phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế nhưng đầy
lãng mạn. Ông đã rất thành công khi viết về đề tài người lính và “Tây Tiến” là bài thơ
tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa thể hiện nỗi nhớ da diết của
chính nhà thơ về cuộc chiến đấu gian khổ, hào hùng của người lính binh đoàn Tây
Tiến, vừa ca ngợi phẩm chất anh hùng, tinh thần yêu nước của những người chiến sĩ
Cách mạng thời kháng chiến chống Pháp.
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu
là những thanh niên tri thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào
đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào và một phần của tỉnh Sầm Nứa. Sau
khi dời đơn vị cũ chưa được bao lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này, lúc đầu bài
thơ có tên “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau nhà thơ đổi lại thành “Tây Tiến”. Tây Tiến,
tên gọi ấy của bài thơ gợi lên âm hưởng quân hành vào thời đặc biệt phát triển những
khúc hát Nam Tiến, Tiến quân ca, …Phải chăng nhà thơ đã xóa mất chữ Nhớ để khiến
cảm giác về hành khúc mạnh mẽ hơn? Nỗi nhớ da diết ấy luôn rạo rực, hiện lên trong
từng câu thơ, từng nét bút của Quang Dũng - đó là nét cảm hứng lãng mạn xuyên suốt
tác phẩm.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc,
nỗi nhớ về những con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất mộng mơ, trữ
tình qua 14 câu thơ dạt dào cảm xúc. Hai câu thơ đầu chính là nỗi nhớ về Tây Tiến da
diết trong tâm tưởng nhà thơ và cũng là nguồn cảm xúc chủ đạo bao quát toàn bài :
!"#$K
,-./#01-.
53
Hình ảnh con sông Mã hiện lên trong tâm thức nhà thơ, con sông gắn liền với chặng
đường hành quân dài đằng đẵng của những người lính. Câu thơ cảm thán “ơi!” và điệp
từ “nhớ” như đang khắc họa đậm nét hơn về nỗi nhớ : Nhớ đồng đội, nhớ núi rừng
Tây bắc. “Nhớ chơi vơi”, hai tiếng chơi vơi ở đây được nhà thơ sử dụng rất đắt –đó là
nỗi nhớ không có hình, không có tượng tưởng chừng nhẹ tênh mà nặng nề vô cùng.
Bởi nó không đo được, chỉ biết lửng lơ, đầy ắp, ám ảnh trong tâm trí thi nhân. Trong
thơ văn rất ít ai diễn tả cảm xúc như thế, ca dao cũng chỉ có một lần nhắc về nỗi nhớ
ấy "Ra về nhớ bạn chơi vơi”. Nỗi nhớ về dòng sông Mã –một chứng nhân lịch sử, nỗi
nhớ về Trung đoàn tây tiến năm nào đã trải qua biết bao gian khổ cùng nhà thơ cũng
chính là nỗi nhớ da diết về núi rừng Tây Bắc. Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cho
người đọc cảm giác bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ khi nhớ về những năm tháng
xưa.
Khi những kí ức mãnh liệt, nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Chính vì thế mà từ
câu thơ thứ ba, những hình ảnh sống động như xuất hiện trong hiện tại, chính điều này
đã làm cho bài thơ phảng phất dáng dấp của một khúc quân hành hơn là một hồi
tưởng. Và cứ như thế, từng kí ức lại ùa về được Quang Dũng vẽ lại bằng một bức
tranh thơ qua sáu câu thơ tiếp theo- đó là bức tranh hùng vĩ, dữ dội nhưng đầy thơ
mộng của núi rừng Tây Bắc :
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C
Trong đoạn thơ trên, hàng loạt tên bản làng, địa bàn hoạt động của người lính Tây
Tiến được nhà thơ nhắc tới : Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…tất cả đều là những
địa danh in đậm dấu chân đoàn quân Tây Tiến anh hùng. Không phải ngẫu nhiên mà
Quang Dũng lại nhắc về những địa điểm ấy mà đó là cảm hứng của cả một thời Cách
54
mạng phát hiện ra đất nước “Những tên làng, tên núi, tên sông / Những cái tên đọc lên
nghe muốn khóc”, một nhà thơ cùng thời với Quang Dũng đã viết như thế !
Tây Tiến dẫn con người lên đến độ cao, vào chốn thâm u của biên giới. Ấn tượng đầu
tiên về núi rừng Tây Bắc chính là sương : sương muối, sương lạnh, sương mù phủ
khắp nơi, che lấp luôn cả đoàn quân đang vội vã hành quân ngày đêm vượt ải núi
rừng. Cách ngắt nhịp 4/3 làm cho phần nghỉ của câu thơ rơi vào động từ “lấp” và kết
thúc ở từ “mỏi”, ta như có cảm giác chính sương đã làm cho đoàn quân thêm phần khó
khăn, vất vả. Thế nhưng trong cái gian truân ấy lại xuất hiện nét lãng mạn với hình
ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào đêm khuya,
phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính trẻ.
Bức tranh thiên nhiên ấy còn hùng vĩ và dữ dội hơn cả khi suốt chặng đường hành
quân của người lính chỉ toàn dốc đèo hiểm trở: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”.
Câu thơ tạo nên cảm giác trúc trắc, chênh vênh, vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến tính
mạng con người. Câu thơ được nhà thơ sử dụng toàn thanh trắc lại càng tạo thêm hiệu
ứng, tạo thêm chất nhạc cho bài thơ. Điệp từ “dốc” cùng với cách ngắt nhịp 4/3 làm
cho phần nhấn của câu thơ rơi vài từ dốc giúp ta hình dung được độ dốc, đèo tiếp đèo,
dốc tiếp dốc cứ thế lên cao rồi xuống thấp đang thử thách sự kiên nhẫn, dũng cảm của
những người lính đi qua đây. Những con dốc cao đến độ "Heo hút cồn mây súng ngửi
trời” làm cho độ nguy hiểm càng tăng lên. Biện pháp nhân hóa đã làm tăng hiệu quả
diễn đạt cho câu thơ. Cách nói “súng ngửi trời” thể hiện vẻ đẹp hiên ngang của người
lính Tây Tiến, họ là những chiến binh dũng cảm đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên
nhiên. Từ đó cho thấy vẻ đẹp của con người lúc này sánh ngang với tầm cao của vũ
trụ. Chính vì nét hiên ngang ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến
không bị mờ đi mà nổi bật lên đầy thách thức :
,<-5632<-"9
Hết lên cao lại xuống thấp, câu thơ tạo thành hai vế tiểu đối như bị bẻ đôi làm cho con
dốc hiện lên với chiều cao, chiều sâu, rợn ngợp, chót vót. Câu thơ hoàn toàn không đề
cập đến con người nhưng ta vẫn thấy rất rõ bóng người mệt mỏi, bao quanh họ là
55
những nguy hiểm đang đe dọa dình dập. Dẫu vậy mà những người lính ấy vẫn âm
thầm, kiên trì vượt qua để rồi vỡ òa trước cảnh thôn quê êm đềm phía trước :
,T<"C
Câu thơ được dệt lên bởi những thanh bằng như kéo dài thêm con đường hành quân
của người lính nhưng lại tạo cảm giác êm ái nhẹ nhàng, không còn "khúc khuỷu”,
nguy hiểm khi vượt đèo, vượt dốc. Nhà thơ Xuân diệu đã từng nhận xét về bài thơ Tây
Tiến "Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm nhạc trong miệng”. Quả thật không sai, đọc
sáu câu thơ trên ta thấy rất rõ nét tài năng của nhà thơ Quang Dũng ta vừa thấy được
nét đẹp dữ dội, hùng vĩ của thiên nhiên vừa thấy được vẻ đẹp trữ tình, đầy chất lãng
mạn qua ngòi bút miêu tả ấn tượng của ông. Qua những nét vẽ bức tranh thiên nhiên
núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã bày tỏ nỗi nhớ da diết của mình khi liên tưởng về những
hồi ức cũ, đó là nỗi nhớ luôn hiện lên trong tâm trí ông suốt một thời gian dài.
Hết nhớ về thiên nhiên, cảnh vật nơi rừng núi nguy hiểm, Quang Dũng lại nhớ về
những đồng đội cũ đã cùng ông vượt qua bao gian khổ hành quân. Cũng từ đó hình
ảnh người lính lại hiện lên với bao khó khăn, gian khổ, thiếu thốn :
\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A
Bốn câu thơ đã miêu tả rõ nét sự hi sinh giữa bao gian khổ, thiếu thốn của những
người lính Tây Tiến. Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Trong
những gian khổ, các anh phải “dãi dầu”, có những người "không bước nữa”, đã “gục
lên súng mũ bỏ quên đời” vùi thân mình nơi rừng núi âm u…Cách nói giảm nói tránh
của tác giả về sự hi sinh để nói về sự hi sinh của những người lính, phần nào giảm đi
sự bi lụy mà thay vào đó là chất bi tráng, hào hùng. Dù có mất mát, đau thương thì họ
vẫn dũng cảm, tiến về phía trước bởi ở đó là nền độc lập, tự do của nước nhà. Đọc
56
những câu thơ trên của nhà thơ Quang Dũng ta lại liên tưởng tới cứ như khi đọc mấy
câu thơ trong “Thục đạo nan” của Lý Bạch:
+^8432<<-6K*
lF<A"`^Cb82CbD56#A"m
Tây Bắc đâu chỉ có rừng núi cheo leo, nguy hiểm mà còn biết bao thách thức của núi
rừng với cái vẻ hoang sơ, bí ẩn : "Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm
Mường Hịch cọp trêu ngươi”. Biện pháp nhân hóa "cọp trêu ngươi- thác gầm thét”
làm tăng thêm phần dữ dội, hoang vu, bí hiểm của núi rừng. Điệp từ "chiều chiều”,
“đêm đêm” đã gợi ra một không gian và thời gian về khuya với những nguy hiểm luôn
dình dập người lính. Trên chặng đường hành quân từ Pha Luông về Mường Hịch,
nguy hiểm lúc nào cũng dình dập họ nhưng ở những người lính ấy vẫn hiện lên vẻ lạc
quan, hóm hỉnh, nhưng cũng rất gan dạ, kiên cường, sống hết mình vì lí tưởng cao
đẹp.
Đoạn thơ kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ về những bản
làng Tây Bắc thân yêu :
,-56Cb
&'()"
Sự chuyển biến của tứ thơ còn thể hiện qua sự chuyển biến về hình ảnh. Vẫn là hình
ảnh sương khói trong sáu câu thơ đầu nhưng giờ đây đã là "cơm lên khói”. Tất cả ấm
lại, giờ đây sau chặng đường hành quân vất vả chỉ còn là ánh sáng, là ngọn lửa ấm áp
nơi bản làng. Cụm từ “nhớ ôi” như chứa đựng tình cảm dạt dào cũng như tiếng lòng
của những người lính Tây Tiến. Sau chặng đường hành quân vất vả, họ dừng chân và
quay quần cùng với niềm vui, hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm mùi gạo mới.
Tình cảm quân dân gắn kết yêu thương nhau hiện lên một cách gần gũi, chân thật qua
ngòi bút của tác giả. “Mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn từ của nhà thơ Quang
Dũng để chỉ vẻ đẹp của những cô thôn nữ Mai Châu xinh đẹp, đảm đang. Tất cả đã
hòa quyện vào nhau để tạo nên nỗi nhớ bâng khuâng đọng lại trong lòng tác giả.
57
Mười bốn câu thơ đầu tiên đã để lại một ấn tượng đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự
thành công của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ nhân hóa,
điệp từ, phép đối cùng những động từ mạnh, từ láy tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao…
Tất cả đã tạo nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc qua nỗi nhớ của nhà thơ vừa dữ dội,
hùng vĩ nhưng rất đỗi thơ mộng, từ đó hiện lên vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến.
Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ thấm tình quân dân và
cảnh chia tay trên bến sông tĩnh lặng của những người lính. Không còn là cảnh núi
rừng hoang vu, hiểm trở nữa mà ở tám câu thơ này đều là những nét vẽ mềm mại,
uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng :
3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$
Trên con đường hành quân đầy gian khổ, những người lính Tây Tiến dừng chân dựng
trại và được sự đón tiếp nồng hậu, thân tình của người dân. Đối với Quang Dũng nói
riêng và những người lính nói chung, không khí vui tươi của đêm liên hoan văn nghệ
đậm tình gắn kết quân nhân là kỉ niệm khó quên vô cùng. Hai từ “bừng lên” trong câu
thơ như điểm thêm phần tưng bừng, náo nhiệt, ấm áp. Ở đây, nhà thơ đã có cách ví
von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. Đuốc hoa trong Hán Việt có nghĩa là nến
hoa chúc-biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Có lẽ nhà nhà muốn gợi lên sự ấm áp,
niềm vui trong lòng các chiến sĩ trẻ. Trong cuộc đời đầy ắp sự lung linh chất thơ như
vậy, nhưng những nhà thơ có thể chớp lấy nó như Quang Dũng lại không nhiều.
Trong cái tưng bừng của không khí lễ hội ấy, hình ảnh những cô gái hiện lên thật lộng
lẫy với những bộ ‘xiêm áo” nhiều màu sắc. Hai từ “kìa em” cùng câu hỏi tu từ “tự bao
giờ” như nhấn mạnh sự ngạc nhiên và hào hứng trước vẻ đẹp của những cô sơn ca núi
rừng. Đó là một vẻ đẹp đến ngỡ ngàng, vẻ đẹp e ấp của những cô gái nơi đây. Tiếng
khèn, tiếng nhạc lại thi nhau hòa âm, tạo cho tâm hồn người lính thăng hoa. Mọi cảm
58
giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là sự lạc quan, yêu đời, là động lực giúp họ
tiếp tục chiến đấu vì lí tưởng bảo vệ đất nước.
Miên man trong dòng hồi tưởng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, nhà thơ tiếp tục
nhớ về những cảnh sắc đẹp đẽ, nên thơ nơi núi rừng Tây Bắc. Đó là khung cảnh chia
tay trên miền sông nước hoang vắng, tĩnh lặng, có đôi nét buồn thi vị :
,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<
“Người đi’ là những người lính trẻ Tây Tiến, họ ra đi vào không gian buổi chiều, xung
quanh đều là sương khói. "Sương ở đây không phải là “sương lấp” mà là không gian
núi rừng mờ trong sương. Hình ảnh "chiều sương ấy” làm hiện lên trong ta nhiều liên
tưởng về một miền kí ức sâu thẳm, vừa thực vừa mộng. Sự xuất hiện của câu hỏi tu từ
với các động từ “có thấy”, “có nhớ” như khắc sâu vào trong lòng người đọc cảm giác
xao xuyến khó tả, nó như gợi hỏi tới những người đồng chí, đồng đội, hoặc cũng là
hỏi chính nhà thơ có nhớ tới mảnh đất đã từng vào sinh ra tử này không? Biện pháp
nhân hóa “hồn lau” gợi cảm giác hoang vắng nhưng vẫn rất giàu chất thơ bởi cảnh vật
nơi đây đều có hồn. Hồn lau có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là tâm trạng
buổi chia tay nhuốm lên cả hoa lau, cảnh vật xung quanh, nghĩa thứ hai cuộc đời
người lính gắn với hoa lau, nay xa rồi nên xao xuyến, bâng khuâng.
Khung cảnh trữ tình ấy đã làm nền cho sự xuất hiện của con người "Có nhớ dáng
người trên độc mộc”. Ở đây người đọc có thể liên tưởng tới những cô gái vùng cao
duyên dáng hay những người dân với tình cảm gắn bó gần gũi với những người lính
trẻ. Câu thơ cuối khép lại khổ thơ là hình ảnh “hoa trôi đong đưa”như khắc sâu vào
lòng người nỗi nhớ khôn nguôi.
Đoạn thơ thứ hai là một khúc nhạc đầy chất họa. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh tiếng
khèn, cũng chính là tâm trạng của người lính. Hình ảnh thơ được tạo nên bởi những
59
đường nét tài hoa, độc đáo mang chất trữ tình, lãng mạn của nhà thơ đã phần nào cho
thấy tâm hồn đầy lạc quan, yêu đời của những người lính trẻ và tinh thần gắn kết quân
nhân bền chặt.
Bên cạnh tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và nỗi nhớ da diết của mình về cảnh
vật, đồng đội thì ở bài thơ Tây Tiến, nhà thơ còn tập trung khắc họa hình tượng người
lính đầy bi tráng, oai hùng. Nếu như có hình tượng người lính mang nét đẹp chân thực
như trong thơ Chính Hữu hay Nguyên Hồng thì ở đây hình tượng người lính trong thơ
Quang Dũng còn mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng được thể hiện qua dáng vẻ, tinh
thần, lí tưởng và sự hi sinh. Và hình tượng ấy được nhà thơ tái hiện rõ nét qua khổ thơ
thứ ba đầy hào hùng :
83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người
lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn
bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.
Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh
quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy
lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc
đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của
những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt
như những con hổ chốn rừng thiêng. Ta cũng từng bắt gặp những khó khăn của người
lính trong thơ Tố Hữu:
60
=]e$#
#6>.O*
Bởi xuất thân từ những học sinh, sinh viên lại ra đi từ Hà Nội, chính vì vậy mà trong
cuộc sống gian khổ những người chiến sĩ trẻ ấy vẫn hiện lên những tâm hồn mang
nhiều nét "mộng và mơ”. Họ đều là những chàng trai Hà Thành lạc quan, yêu đời
nhưng vô cùng dũng cảm, luôn hướng về lí tưởng cao đẹp "khi đất nước cần, chúng
tôi sẵn sàng đứng lên”. Hình ảnh “mắt trừng” gợi lên cho người đọc liên tưởng về đôi
mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù của những người lính trẻ. Đôi mắt ấy gửi mộng
qua biên giới, đôi mắt ấy thao thức nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội thơm mùi hoa
sữa. Điều đó cho ta thấy rằng những người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đi
theo tiếng gọi của tổ quốc mà còn rất hào hoa, lãng mạn.
Hai câu thơ tiếp theo, tác giả đã nêu bật lên lí tưởng của những người lính "quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh”
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 4/3 khiến trọng tâm rơi vào chữ mồ, gợi nên ý niệm về
cái chết. Ngoài ra tác giả còn khéo léo sử dụng từ Hán Việt "biên cương”, “viễn xứ”
không chỉ gợi nên cảm giác cổ kính mà còn gợi cả không gian xa xôi nơi biên cương
hẻo lánh, nơi những chiến sĩ trẻ làm nhiệm vụ. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự thật khốc
liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết một cách chân thực không né tránh đúng như nhà
thơ Trần Lê Văn từng nhận xét "Tây Tiến phảng phất nét buồn đau, nhưng buồn đau
mà không hề bi lụy”. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi
nhân cách của người đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ
biết báo hiệu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết
như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Bốn từ “chẳng tiếc đời
xanh” cất lên đầy hào khí đồng thời mang vẻ đẹp của lí tưởng "quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh” của người lính. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày về, giống như lời một
bài hát rất thịnh hành ngày đó:
61
+F3.OR9R75B#8
,3bQ>8#k./%*
Hai câu thơ cuối, nhà thơ đã viết về sự hi sinh bi tráng của người lính trên chiến
trường
h33./8G
!B56C187
Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa cho sự hi sinh quên mình của
người lính. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh
quang thì người lính tây tiến với hình ảnh "áo bào thay chiếu" đấy sức mạnh ngợi ca.
Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không
có, huống chi là "áo bào". Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng
mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái
chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm
trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được
bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Quang
Dũng cũng từng tâm sự rằng "Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh
vải liệm. Nói áo bào là theo cách nói của thơ xưa để an ủi những người đã nằm
xuống”. Con sông Mã lại hiện lên như một chứng nhân lịch sử, người bạn đồng hành
của người lính Tây Tiến, nhưng giờ đây nó như đang cảm thương, gầm lên khúc độc
hành đưa tiễn những người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.
Đoạn thơ cuối cũng như khép lại nỗi nhớ thương đồng đội của nhà thơ, tác gải cũng
thể hiện tình cảm của mình về đoàn quân Tây Tiến, đồng đội trong những năm tháng
gắn bó chiến đấu một cách đầu trân trọng. Đó là khúc vĩ thanh của nỗi nhớ. Hai câu
thơ đầu đã thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và
những người đã ngã xuống:
<A8Ci<-
F<A56V7)
62
Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh
Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau
tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân
Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó
khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương
đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Qua
cách nói "một chia phôi”, “không hẹn trước”, tác giả đã thể hiện sự thương mến, cảm
phục và nỗi xót xa về những người vệ quốc quân ra đi không trở về. Nhà thơ càng cảm
thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình.
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn,
từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn
gắn bó với Sầm Nứa:
\56'"G
?$./B,`V./"L
“Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ
nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân
Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất
biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó.
Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao
nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại.
Câu thơ với sự kết hợp linh hoạt các thanh bằng như một bản hòa âm đầy da diết về
cuộc đời người lính, dù họ ngã xuống ở đâu thì vẫn sẽ có những người đồng đội tiếp
tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Câu thơ còn vang vọng âm hưởng của "Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” …
Bằng việc sử dụng bút pháp sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng mạn, âm hưởng bi
tráng, hào hùng bài thơ Tây Tiến đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa
mang vẻ hào hùng nhưng đầy lạc quan, yêu đời. Họ là những người lính trẻ mang
trong mình lí tưởng cao đẹp, quyết hi sinh thân mình bảo vệ tổ quốc. Bài thơ còn thể
63
hiện tài hoa trong cách sử dụng các động từ mạnh, các từ láy mang tính biểu cảm cao
và các biện pháp điệp từ, nhân hóa. Đọc bài thơ ta liền nhớ tới những câu thơ về người
lính Tây Tiến được nhà thơ Giang Nam viết
6<A5WCb
85-)5-)87#0
G3<AG
9!8A.-1Q
Quả đúng như Nguyễn Đình Thi đã nhận xét "Quang Dũng đã đem đến tượng đài
người lính Tây Tiến giữa ngàn non ngàn mây, ngàn cây Tây Bắc …”. Vừa thể hiện
thành công bức tranh thiên nhiên Tây Bắc oai hùng, dữ dội, nhà thơ còn khắc họa lên
hình tượng người lính đầy bi tráng, nhưng cũng rất đỗi lạc quan, yêu đời. Tây Tiến là
đóa hoa thơ vào loại đẹp nhất của thơ ca những năm tháng kháng chiến chống thực
dân Pháp, là một bài thơ vừa có giá trị về nội dung và nghệ thuật để lại cho người đọc
nhiều suy tư về sự hi sinh quên mình của những con người dũng cảm, kiên cường ấy
đến mãi muôn đời sau.
KORT
Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ
với đầy những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình
tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang
vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng tử của những người con Hà thành. Bài thơ Tây
Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà
người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi
bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời
và chiến đấu anh dũng kiên cường.
Quang Dũng (1921 – 1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê gốc ở Hà Tây (nay là Hà
Nội). Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc.
Thế nhưng nhắc đến Quang Dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông
64
vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần lãng mạn hào hoa, đặc biệt là khi ông viết
về người lính Sơn Tây của mình. Những sáng tác chính của ông gồm có: Mây đầu ô
(1986), Thơ văn Quang Dũng (1988). Năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị
khác, tại Phù Lưu Chanh ông đã viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến sau đổi tên thành Tây
Tiến và được in trong tập thơ Mây đầu ô.
Mở đầu bài thơ tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang
sơ mà mĩ lệ cùng với cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến. Những người
lính trẻ chẳng ngại hiểm nguy họ cứ tiến về phía trước với tinh thần hồn nhiên, lạc
quan của tuổi trẻ :
+ !"#$K
,-./#012-.
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C
\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68AK
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A
,-56Cb
&'()"*
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là nỗi nhớ da diết của tác giả khi nghĩ về
những kỷ niệm xưa, tại đơn vị cũ của mình. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ cất
lên như tiếng lòng nhà thơ, tiếng gọi tha thiết đầy tiếc nuối và chứa đựng đầy những
hoài niệm trong quá khứ huy hoàng. Nhà thơ nhớ Tây Tiến bằng nỗi nhớ “chơi vơi”
thật da diết, mênh mông và sâu nặng. Nỗi nhớ luôn thường trực, bao trùm lên cả
không gian và trái tim người lính.
65
Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sống động với những địa danh “sông Mã”, “Sài
Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “ Mai Châu” đây là những địa
danh gắn bó với binh đoàn, là địa bàn hành quân của những người lính Tây Tiến. Một
vùng đất xa xôi, hiểm trở nhiều lần tưởng chừng như làm lu mờ ý chí chiến đấu của
người lính cụ Hồ, “sương lấp đoàn quân mỏi” địa hình núi cao cùng với những lớp
sương dày đặc phủ kín lối đi, đoàn quân đang mệt mỏi giờ đây lại phải đối diện với
cái lạnh cắt da của Tây Bắc. Địa hình núi non hiểm trở “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm
thẳm” đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh
khúc khuỷu, có khi lại “thăm thẳm” như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính
có thể bỏ mạng ngay tức khắc. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại
thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn
rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một
cách tài tình để miêu tả sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc “Ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống” những câu thơ sinh động đầy sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung
cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy “oai
linh thác gầm thét”, đêm đêm “cọp trêu người”.
Quả là một nơi “rừng thiêng nước độc” thế nhưng những khó khăn ấy cũng chẳng thể
nào cản bước chân người lính, họ vẫn đi với sự anh dũng kiên cường và trong đôi mắt
người lính thì miền Tây Bắc lại là một vùng đất thơ mộng trữ tình và chứa chan tình
người. Những hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, “mưa xa khơi” thật huyền ảo tạo xúc
cảm thư thái, nhẹ nhàng cho người đọc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị,
nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây
Tiến.
Quang Dũng miêu tả thiên nhiên núi rừng rộng lớn mênh mông, hiểm trở như thế
chính là để làm nổi bật lên hình tượng người lính trên chặng đường hành quân gian
khổ, hy sinh của họ. Đoàn quân đã đi ròng rã nhiều ngày liền họ thật sự đã kiệt sức,
lúc này đây “đoàn quân mỏi” cần được nghỉ ngơi để lấy lại sức lực, tinh thần bước
tiếp. Hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” là cách nói giảm, nói tránh của
Quang Dũng, có những người lính đã hy sinh nơi chiến trường chẳng thể nào bước
66
tiếp cùng với đồng đội. Tác giả nhắc đến cái chết một cách gián tiếp để tránh gây nỗi
đau quá sâu sắc, làm giảm đi ý chí chiến đấu của đoàn quân. Những người lính thật
đáng khâm phục họ sẵn sàng hy sinh quên mình cho Tổ quốc, họ trẻ trung ngang tàn
và rất yêu đời “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chẳng thể
làm người lính run sợ, tâm hồn họ vẫn bay bổng tinh nghịch xen lẫn sự lãng mạn tài
hoa.
Những khổ thơ tiếp theo tác giả gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp, sâu nặng của tình
quân và dân trong những đêm liên hoan tưng bừng náo nhiệt:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$
,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
Binh đoàn Tây Tiến gắn bó với chiến trường suốt nhiều năm trời, có biết bao kỷ niệm
hằn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Sau những ngày chiến đấu vất vả, gian lao
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” những chàng trai cô gái nắm tay nhảy điệu nhạc
“e ấp” của dân tộc thiểu số vùng cao. Vẻ đẹp của con người nơi đây thật lung linh, bí
ẩn có chút hoang dại làm say đắm tâm hồn biết bao người lính trẻ hào hoa, lãng tử nơi
Hà thành. Cùng với đó là cảnh sông nước Tây Bắc một chiều sương thật lãng mạn
nhưng phảng phất nét buồn, như nỗi khắc khoải lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh
của dân tộc, trước tình hình chiến sự đang đến hồi cam go quyết liệt.
Đoàn binh tiếp tục cuộc hành quân chiến đấu, những người lính được tác giả khắc họa
như những tượng đài hiên ngang bất diệt, chân dung họ hiện lên với vẻ đẹp vừa bi
tráng lại rất tài hoa, lãng mạn :
67
+83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h332./8G
!B56C187*
Chất bi tráng lẫm liệt được thể hiện với khí thế ngút trời “Tây Tiến đoàn binh không
mọc tóc” đây là một hình ảnh dữ dội và hết sức mạnh mẽ của người lính, dù ở trong
rừng sâu đối diện với căn bệnh sốt rét hoành hành, da có xanh nhợt đi vì bệnh tật thì
chưa bao giờ họ thôi quyết tâm, kiên cường chiến đấu. Người lính khoác trên mình bộ
quân phục màu xanh lá mang theo bao ước mơ, hy vọng vào một tương lai tươi sáng,
một đất nước không còn bóng quân thù. “Mắt trừng”, “dữ oai hùm” thể hiện khí thế
ngang tàn, mạnh mẽ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Thế nhưng đau xót thay, người
lính Tây Tiến cũng có khi bỏ mạng nơi chiến trường “rải rác biên cương mồ viễn xứ”,
những nấm mồ vô danh nơi biên giới họ nằm xuống khi tuổi đời còn quá trẻ, bỏ lại cả
tương lai, bỏ lại cả mẹ già đang trông ngóng nơi quê hương yêu dấu. Người lính thật
đáng trân trọng, họ hy sinh cho Tổ quốc mà chẳng một phút nao núng sợ hãi “chẳng
tiếc đời xanh”. Sự ra đi của họ khiến cho trời đất phải tiếc thương đưa tiễn, dòng sông
Mã lại xuất hiện cuối bài như tấm lòng trân trọng của nhà thơ muốn gửi gắm tiễn đưa
người lính ở những phút giây cuối đời, những người lính vô danh ấy đã vĩnh viễn nằm
lại nơi chiến trường khốc liệt.
Chân dung người lính còn được tác giả miêu tả qua vẻ hào hoa, lãng tử. Họ đều là
những chàng trai thành phố vì nghiệp lớn mà rời bỏ nơi nơi phồn hoa đô thị. Những
chàng ấy đang còn tuổi trẻ rạo rực với những mộng tưởng, khát khao yêu đương “gửi
mộng qua biên giới”, họ mơ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp, dịu dàng như nàng
Kiều. Tất cả tạo nên một hình ảnh người lính trẻ trung, yêu đời với những khát khao
hạnh phúc mãnh liệt của tuổi trẻ.
68
Đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng định quyết tâm của đoàn
binh, đó cũng là lời thề trung thành với tổ quốc sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc :
“<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./B,`V./"L*
Người lính Tây Tiến kiên cường, tự tin thể hiện một tinh thần chiến đấu đầy nhiệt
huyết “người đi không hẹn ước”, họ ra đi chẳng hẹn ngày trở lại, đi với khí thế sẵn
sàng hy sinh để bảo vệ cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù biết chặng đường có
“thăm thẳm” chia phôi thế nhưng người lính đã thề với đất nước một lời thề sắc son
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Tâm hồn người lính dường như đã vượt qua những
mơ ước cá nhân tầm thường, giờ đây họ mang trên vai mình trọng trách sứ mệnh vô
cùng to lớn: Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho độc lập dân tộc.
Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao
mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây
dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hai chất thơ ấy không
thể tách rời mà hoà quyện vào nhau tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Hình tượng
thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ được xây dựng làm nền góp phần tô đậm vẻ đẹp của
người lính Tây Tiến lạc quan, yêu đời.
KORU
Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Thơ của ông thường viết
về thời kỳ kháng chiến với sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người,
đặc biệt là vẻ đẹp của người lính. Bài thơ Tây Tiến chính là một trong những tác phẩm
xuất sắc nhất của ông.
Tây Tiến sáng tác năm 1948 gợi cảm hứng từ nỗi nhớ về thiên nhiên và người chiến
binh Tây Tiến. Gợi tả về những vẻ đẹp ấy, ngòi bút Quang Dũng đã thể hiện rất xuất
sắc với sự chứa chan về cảm xúc.
69
= !"#$K
,-./#01-.
P3Q<5G)83RS2
<AT>3./#386L=
Hai câu thơ đầu gợi lên toàn bộ cảm xúc về nỗi nhớ và hoài niệm của tác phẩm. Câu
thơ thứ nhất sử dụng nhịp 2/2/3 là tiếng gọi thân thương với cảm xúc nhớ nhung dâng
trào . Quang Dũng gọi tên sông Mã vì sông Mã chính là địa danh gắn với chặng
đường hành quân và chứng kiến bao kỷ niệm vui buồn. Câu thơ thứ hai là nỗi nhớ
chơi vơi không thể định hình được cứ mãi luẩn quẩn trong tâm trí nhà thơ và vẽ về
điều gì đó xa xôi, mất mát, hụt hẫng. Sài Khao, Sương Lát là những địa danh rất nổi
tiếng ở Tây Bắc được tác giả sử dụng để gợi lên nỗi nhớ chơi vơi của mình. “Mường
Lát hoa về trong đêm hơi” là câu thơ với toàn thanh bằng độc đáo tái hiện hình ảnh
hoa hiện ra mờ mờ trong sương.
=956C1CU:9V2
?(31$2Q1W#AL
,<-5632<-"92
,T<"CL=
Bức tranh thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp hùng vĩ , hiểm trở với những khu vực đồi núi
cao, vực thẳm: “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, “súng ngửi trời” cùng với âm
thanh rùng rợn khiến cho sự dữ dội ấy được tăng lên hàng ngàn lần. Bên cạnh đó,
thiên nhiên nơi đây cũng rất êm dịu, huyền ảo “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, người
lính được hòa mình vào cuộc sống gia đình, quây quần bên bếp lửa chiều tối. Đoạn
thơ tiếp theo vẻ nên hình ảnh người lính anh dũng, hào hoa và cũng rất đỗi lãng mạn:
=\4:!:BC<-@2
]^56Q1SR68AK
&//35>Bj2
F686 <A?Me)#6<AL
70
,-56Cb2
&'()"L=
Người lính phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách, hi sinh. Dù can trường trong
gian khổ nhưng trên con đường hành quân không ít người phải hy sinh nơi núi cao,
vực thẳm. Họ hi sinh trong tư thế hiên ngang, vẫn cầm chắc súng trên tay: “Anh bạn
dãi dầu không bước nữa, gục lên súng mũ bỏ quên đời!” Vẻ hoang dại của núi rừng
tây bắc luôn là hiểm nguy của biết bao con người: “đêm đêm Mường Hịch cọp trêu
người”. Tuy nhiên người lính vẫn mang trong mình một tâm hồn hào hoa, lãng mạn,
họ hòa mình vào thiên nhiên để trút bỏ mọi nhọc nhằn thể xác. Cái nhìn lãng mạn đã
giúp Quang Dũng tạo nên màu sắc bi tráng trong hình ảnh người lính Tây Tiến.
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Buổi liên hoan văn nghệ với hình ảnh ánh lửa bập bùng xua tan cái tối tăm, lạnh lẽo
của núi rừng và thể hiện được sự rạo rực, niềm vui trong lòng người. Chính trong
không khí âm nhạc, vũ điệu đã góp phần chắp cánh cho tâm hồn hào hoa, lãng mạn
của người chiến sĩ. Tiếp theo là hình ảnh không gian sông nước tĩnh lặng và đầy thi vị.
+,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
Quang Dũng sử dụng bút pháp mềm mại, tinh tế như để chia sẻ buồn vui với người
chiến sĩ trên con đường hành quân. Trong màn sương mờ với từng mảng ký ức của
hoài niệm, đó là một sáng tạo mới về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn của nhà thơ.
+83RCeb
"5>:@3'
71
E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Con đường hành quân thật gian khổ biết bao khi người lính phải đối diện với những
căn bệnh nguy hiểm. Bằng thủ pháp đảo ngữ, Quang Dũng nhấn mạnh vẻ đẹp của
từng người chiến binh, thông qua cách miêu tả của tác giả những căn bệnh đó không
còn đáng sợ nữa. Hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp tâm hồn hào hoa của những chàng
trai Hà Nội. Người lính dù có ở bất cứ nơi nào vẫn luôn hướng về quê hương thân yêu
của mình.
=gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187L
Cái chết của người lính là cái chết oai hùng mang tầm sử thi, đó chính là lý tưởng cao
cả nhất trong cuộc hành trình gian khổ của người lính. Hiện thực nơi đây thật khốc liệt
nhưng lại rất hào hùng và không trở nên quá bi lụy.
=<A8Ci<-2
F<A56V7)L
\56'"G2
?$./B,`V./"L=
Cuộc hành trình chiến đấu của người lính là một hành trình dài và khó khăn, thử
thách. Người lính ra đi tìm đường bảo vệ tổ quốc phải trải qua bao thử thách của tự
nhiên, của quân thù tưởng chừng như không thể hẹn ước ngày gặp lại. Quang Dũng đã
kết thúc bài thơ với nhịp thơ chậm và tràn đầy cảm xúc.
Bài thơ sử dụng các biện pháp tu từ sáng tạo, bút pháp lãng mạn, từ ngữ chọn lọc, độc
đáo đã thể hiện vẻ đẹp của người lính trên con đường hành quân và ngợi ca ý chí
chiến đấu cao cả của họ.
72
Tây Tiến là bài thơ hay và sẽ mãi ghi dấu trong lòng người đọc về hình ảnh người
chiến sĩ anh dũng vượt mọi khó khăn, hiểm nguy để bảo vệ biên cương tổ quốc.
KORV
+&b7C32
F3/:n-q
&bC3D63
VJ<q*
(Trần Đình Chính)
Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ
thương mà Hoàng Cầm đã gửi lại mảnh đất của mình trong bài thơ “Bên kia sông
Đuống”, là nỗi nhớ thương của người con xa quê qua bài thơ “Bếp lửa” của Bằng
Việt. Đôi khi đó còn là nỗi nhớ thương trong tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi
cho người bên này trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Và Quang
Dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không phải là một ngoại lệ khi đặt tình cảm của
mình nơi những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”.
Nói về Quang Dũng là ta nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc viết về đề tài người lính
của ông - Tây Tiến. Có lẽ do nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là
một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, với nhiệm vụ phối hợp với Lào, bảo vệ
biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ
Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến năm
1984, Tây Tiến giải thể, thành lập Trung đoàn 52, Quang Dũng cũng chuyển sang đơn
vị khác ở Phù Lưu Chanh – 1 làng ven bờ ở sông Đáy. Trong nỗi nhớ về đơn vị cũ của
mình, ông sáng tác thành công bài thơ với cái tên lúc đầu là “Nhớ Tây Tiến” nhưng
một thời gian sau, khi in lại trong trong tập “Mây đầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” trong tiêu
đề vì suốt cả bài thơ là mạch dòng cảm xúc của nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết, cồn cào,
chỉ với hai từ “Tây Tiến” cũng đủ để gợi lên cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, đó là
nỗi nhớ.
73
Bài thơ bắt đầu bằng những câu thơ mang âm điệu trầm, buồn và sâu lắng. Ẩn sâu
trong đó là nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về con đường hành quân
hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình của một thời Tây Tiến đã qua!
Nỗi nhớ ấy thể hiện qua hai câu đầu của nhà thơ được thốt lên thành tiếng gọi:
+ !"#$K
,-./#01-.*
Mở đầu bài thơ, tác giả đã đề cập đến hình ảnh sông Mã. Và ta cũng thấy rằng, sông
Mã xuất hiện ở đầu tác phẩm và gần cuối tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối
tương ứng, bắt mạch vòng với nhau để thể hiện một điều rằng sông Mã gắn liền với
suốt đoạn đường hành quân của người lính Tây Tiến từ vùng địa bàn này sang vùng
địa bàn khác. Mặt khác, con sông Mã ấy còn được nâng tầm để trở thành một chứng
nhân lịch sử ghi lại tội ác tày trời của kẻ thù và những chiến công vẻ vang của người
lính Tây Tiến. Như nhà thơ Phan Quế đã nhận xét: “Câu thơ như một tuyết bút thiên
nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang
của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc
binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ tứ thơ”. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên
đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm, tri kỷ” để nhà thơ có thể giãi
bày tâm sự. Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ” diễn tả nỗi nhớ quay quắt,
cồn cào đang ùa vào trong tâm trí Quang Dũng, khiến cho nỗi nhớ ấy cứ bồng bềnh
như một dải lụa, vương vấn trong lòng người đọc mãi không nguôi. Nỗi nhớ ấy đâu
chỉ riêng về dòng sông Mã, mà đó còn là nỗi nhớ về Trung đoàn Tây Tiến đã cùng nhà
thơ trải qua mọi khó khăn gian khổ, nỗi nhớ ấy cũng đồng thời là nỗi nhớ về địa bàn
hoạt động, là nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng
vừa trữ tình Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” đã khắc họa nên cái hồn của câu thơ.
Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả. Ca dao có câu:
+,-ff$$
,<8`895W2<$89*
74
Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, tiếc nuối về
một thời đã xa, về những khoảng thời gian, những kỷ niệm của một thời tươi đẹp, bởi
những điều ấy sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa
khoảng không rộng lớn, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu
là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, không đầu, không cuối, không có
thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bâng khuâng làm cho
con người có cảm giác đứng ngồi chẳng yên. Vần “ơi!” kết hợp với từ “chơi vơi” đó là
tiếng gọi tha thiết về đoàn binh Tây Tiến, diễn tả một nỗi nhớ sâu lắng, mênh mang,
chênh chao giữa hai bờ hư thực, nỗi nhớ không nổi hình nổi khối, khi cụ thể, lúc chìm
khuất trong hư ảo, chơi vơi. Nó còn vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ - nỗi nhớ thấm
vào cảnh vật, thấm vào không gian, thấm cả vào thế giới mênh mông của những hoài
niệm. Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mai Châu,…Tất cả đều là những nơi họ từng đi qua và dừng chân trên bước
đường hành quân gian khổ, những địa danh ấy đã in đậm dấu chân của đoàn binh Tây
Tiến. Càng nhiều địa danh hiện lên thì nỗi nhớ thương lại càng da diết, mà càng da
diết thì lại tạo cảm giác xa xôi, hoang vu, bí ẩn.
Trước hết là miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành quân gian nan, vất vả. Tuy
thời tiết sương mù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:
+P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386*
Nói đến Tây Bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Ấn
tượng đầu tiên về thiên nhiên nơi đây chắc chắn phải là sương. Trên đỉnh Sài Khao,
sương dày đến độ che lấp luôn cả đoàn quân Tây Tiến đang ngày đêm vượt núi, băng
sông khiến họ không nhìn rõ mặt nhau. Động từ “lấp” làm ta như có cảm giác chính
sương đã khiến cho đoàn quân khó khăn thêm phần khó khăn hơn, bị trĩu xuống trong
mỏi mệt. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần họ không hề có chút sự mỏi mệt, nản lòng
nào, bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho họ trở nên kiên cường, bất khuất
hơn. Quang Dũng thật tài tình khi dùng hình ảnh sương để khắc họa sự khắc nghiệt
75
của thiên nhiên vùng Tây Bắc. Cũng miêu tả sương, Chế Lan Viên đã viết trong
“Tiếng hát con tàu”:
+,-DQ<2-8c3)
,3R25;54V6<
Pk2r58Gk
P828G8!b$*
Nhưng cũng thật bất ngờ, trong cái gian truân, vất vả ấy vẫn có nét lãng mạn với hình
ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào lúc đêm phảng
phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính. Nhưng ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây
chính là những người lính Tây Tiến trở về, bởi Bác Hồ đã từng nói: “Con người ta là
hoa đất, con người ta là đẹp nhất”, mặt khác hình ảnh hoa là một hình ảnh ẩn dụ chỉ
những bó đuốc bình thường đang chập chờn, lung linh, huyền ảo mà người lính cầm
trên tay để soi đường chỉ lối trong những đêm dài hành quân nung nấu. Cái hay của
nhà thơ là không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói đêm sương mà nói “đêm
hơi”. Cách dùng từ ngữ đã chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội
cụ Hồ là một tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Ngoài sự giá lạnh của sương thì dốc và đèo là những thứ không thể bỏ qua khi nhắc về
thiên nhiên miền Tây Bắc. Quang Dũng tả cảnh vượt dốc, băng đèo, đường đi nguy
hiểm với dốc cao, vực thẳm, tuy hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, huyền
ảo:
+956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*
Tác giả sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua.
Với hàng loạt những từ láy tượng hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”,
“heo hút” diễn tả một cách đắc địa sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường hành
quân luôn có sự nguy hiểm đang rình rập. “Khúc khuỷu” ý chỉ đường đi hiểm trở,
76
nhiều gấp khúc. “Thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu nhưng tác giả lại dùng để chỉ độ cao,
cao đến rợn người. Quang Dũng đã khéo léo khi không sử dụng từ “chót vót”, bởi như
thế thì người đọc có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì
khó ai có thể hình dung được nó sâu như thế nào. Để có thể đem lại một cảm giác
chân thật như thế thì điểm nhìn của anh phải ở từ dưới lên mới có thể thấy dốc khúc
khuỷu, nhìn từ trên xuống mới biết dốc sâu thăm thăm, mà để có được cái nhìn như
vậy thì buộc các anh phải trải nghiệm, phải hành quân đi lên những ngọn núi, con dốc
đầy nguy hiểm ấy. Kết hợp với nhịp thơ 4/3 gập đôi câu thơ giúp bạn đọc hình dung
các anh đang phải treo mình trên những triền núi đá, một bên là vực sâu thăm thẳm,
một bên là núi cao chót vót. Ở câu thơ đầu có 7 chữ thì đã tận 5 thanh trắc, gợi nên
cảm giác chênh vênh, gập ghềnh, vô cùng nguy hiểm. Ta nghe như có tiếng thở mệt
nhọc của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực sâu. Đây cũng là chất nhạc trong thơ
Quang Dũng, làm ta liên tưởng đến tiếng nhạc trong bài hát “Nhạc rừng” của nhạc sĩ
Hoàng Việt. “Cồn mây heo hút” thể hiện sự vắng vẻ, không có bóng người. Quang
Dũng đã viết “súng ngửi trời” chứ không phải là “súng chạm trời”, bởi “chạm” hay
“đụng” thì ý câu thơ sẽ yếu hẳn đi, đồng thời “súng ngửi trời” cũng thể hiện vẻ đẹp
hiên ngang của chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên,
chinh phục nơi mà ít người lui tới. Khi người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh
núi, mũi súng của các anh dường như đã chạm đến đỉnh của bầu trời, khoảng cách
được thu hẹp đến mức ngắn nhất giữa súng và trời, đó là hiện thực nhưng qua cách nói
này làm tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người lính Tây Tiến, đồng thời đây cũng là
những giây phút đùa vui, tếu táo, có nét tinh nghịch của người đồng đội trẻ với nhau.
Quang Dũng sử dụng phép đối ở câu thơ thứ ba, đối “lên cao” với “thước xuống”, dấu
phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ một cách đột ngột tạo thành hai vế đối lập nhau. Thế núi
bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay lập tức
gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu thăm thẳm, khoảng cách
giữa đỉnh dốc và mặt đất như xa “ngàn thước’ vạn dặm. Dẫu vậy, những người lính
vẫn âm thầm tiến lên phía trước, đứng trên độ cao ấy, phóng mắt nhìn ra xa để rồi chợt
vỡ òa vui sướng trước cảnh thôn quê êm đềm trải dài trước mắt: “Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”. Trong làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà
ẩn hiện, cứ bồng bềnh giữa biển khơi của mưa và sương đọng lại. Nhìn từ góc độ hội
77
họa thì nó như một bức tranh thủy mặc có những cái tả sắc nét nhưng cũng có những
khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. “Nhà ai” là những mái nhà, bản làng của người
vùng cao, các anh luôn luôn được đón tiếp nồng hậu và đây cũng là địa điểm nghỉ
chân của các anh. Vẻ đẹp này ta cũng từng bắt gặp trong bài “Bao giờ trở lại” của
Hoàng Trung Thông:
+&>./>G.
><A
g7#"bS
&>./<0#<-s
T-)8(-k(3Q
iM#M>3
83S#0Q-./*
Đó là cảm giác bình yên của người lính khi được nhìn thấy những mái nhà của đồng
bào miền cao. Và vui hơn nữa khi các anh được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng
ấm.
Bốn câu thơ này được phối hợp với nhau rất đặc biệt, sau ba câu thơ được vẽ bằng nét
gân guốc thì câu thơ thứ tư lại được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Không phải ngẫu
nhiên mà tài năng hội họa của Quang Dũng lại được mọi người yêu mến đến vậy. Bởi
quy luật sử dụng những gam màu trong hội họa là giữa những gam màu nóng phải pha
chút gam màu lạnh để tạo sự hài hòa cho bức tranh, thì ở đây nhà thơ cũng sử dụng
đúng như vậy trong thơ ca của mình từ các thanh bằng – trắc. Không chỉ là tranh mà
những hình ảnh ấy còn là nhạc, sau những nốt lên cao lại là nốt trầm thấp, bởi vậy nói
như Xuân Diệu: “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm âm nhạc trong miệng” cũng là
một nhận xét thật tinh tế.
Tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp vô vàn khó khăn, gian nan đến tột bậc
nhưng ta vẫn thấy ở các anh có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người
nối người, băng lên phía trước. Uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị
78
con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự
hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68AK*
“Tây Tiến” đã từng có một thời gian không được đưa vào chương trình giảng dạy bởi
tác phẩm đã đề cập đến đề tài nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời chiến tranh,
đó là viết về cái chết, viết về sự hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn chương muốn thuyết
phục lòng người thì trước hết phải chân thật. Dù là viết về chiến tranh nhưng Quang
Dũng không nề hà, né tránh sự thật đau thương. Vì vậy mà “Tây Tiến” được một lần
nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng “ anh
bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy
“dãi dầu” thể hiện vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác
giả không viết “bị gục xuống” mà ông lại viết là “không bước nữa”, biến các anh từ
thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc
ngủ mà thôi. “Súng mũ” là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng dù có ra đi, các
anh vẫn không quên mình vẫn là một người lính, dù có gục cũng phải “gục lên” súng
mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về
người lính anh dũng hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:
+#3C88`E
>)(35W84B.$*
Dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm
của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của cả những người tham gia kháng
chiến. Họ đã hy sinh trên chặng đường hành quân, đã có những người lính nằm xuống,
rõ ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò
đùa, có người ra đi thì có người hi sinh, đó là điều rất đỗi bình thường. Người lính ra
đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên đời” là cách nói giảm nhẹ sự mất mát,
tang thương. Khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. Cách nói
giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng của
79
những người lính Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì sự hi sinh
ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của
người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót
xa, thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm cảm “!” cuối câu như một
nén nhang tâm tình gửi lại.
Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn
suối lũ mà còn biết bao thử thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của các anh
qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là để thử thách bước chân của
người lính :
+&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*
Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời
điểm bộc lộ rõ nhất sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ
tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm
nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành quân qua những mảnh đất rừng thiêng
nước độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước gầm thét dữ dội. Ở nơi
xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” với
sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng cọp vờn người,
cọp ăn thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh
của người lính thì bóng nổ ấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện
qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.
Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ
này, chúng ta vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn
binh Tây Tiến. Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua.
Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ,
nỗi nhớ ấy phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:
+,-56Cb
&'()"*
80
Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá
những gian khổ, kỉ niệm gắn bó với các đồng đội của mình trong suốt những năm
tháng kháng chiến cùng nhau nên Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như
vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng
trại ở một bản làng có tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây các thiếu nữ dân tộc
trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh quay quần ngồi
bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây là khung cảnh
đậm đà tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ
cho một cảnh sinh hoạt vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải
chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên
khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa
em”thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các anh bộ đội cụ
Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn
cước. Cũng nói về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, Chế Lan Viên đã viết
trong bài “Tiếng hát con tàu”:
+E"R(G@#0
FGYE>Cb5M
Y@"8B;S-'<*
Nhớ mùi hương thơm của lúa gạo là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa,
nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Mười bốn câu đầu của bài thơ “Tây Tiến” một trong những bài thơ hay nhất viết về
người lính trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên
hoành tráng, trên đó nổi bật là hình ảnh chiến sĩ đầy bản lĩnh và lạc quan, đang dấn
thân vào máu lửa. Nửa thế hệ trôi qua, bài thơ vẫn giữ được trị của mình. Như bốn câu
thơ của Giang Nam:
+6<ACb5W
85-)5-)87#0
81
G23<AG
Q98A.-1Q*
Cảnh núi rừng hoang vu, chênh vênh, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn, nhường
bước cho một thế giới hoàn toàn khác của núi rừng Tây Bắc. Những nét vẽ mềm mại,
uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất
trong đoạn thơ thứ hai. Đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ và vẻ
đẹp huyền hồ của thiên nhiên miền Tây Bắc. Mở đầu phần hai là sự tiếp nối cái hương
vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, trở
thành hành trang trong tâm hồn của các chiến binh Tây Tiến. Trên con đường hành
quân gian khổ, các anh dừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nồng hậu, thân tình
của người dân. Đối với Quang Dũng cũng như những người lính, không khí tươi vui
của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân với ánh lửa sáng bừng luôn là những
kỉ niệm khó có thể quên:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực.
Không gian ở bốn câu thơ không còn rộng lớn như đoạn thơ đầu, mà không gian giờ
đây được thu hẹp lại thành “doanh trại” – một không gian bình yên, được coi là mái
nhà của người lính. Ở đây, những người lính không phải gồng mình lên để chiến thắng
những khó khăn, vất vả mà tâm hồn họ thực sự được thư giãn. Hai từ “bừng lên” trong
câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ, ngập tràn ánh sáng.
“Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng, “bừng” cũng có nghĩa là
tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Ở đây, Quang Dũng đã có cách ví
von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong Hán Việt có nghĩa là
nến hoa chúc – một biểu tượng hạnh phúc của các đôi uyên ương, là từ ngữ được dùng
trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Nhưng
thật ra, “đuốc hoa” ở đây chỉ là những bó đuốc bình thường trong những đêm giao lưu
82
văn nghệ của người lính Tây Tiến, khi có gió thổi qua làm cho những bó đuốc ấy phát
ra các tia lửa và nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì lại trở thành đuốc
hoa, khiến cho ta liên tưởng đến lễ cưới. “Kìa em” là sự ngắm nghía, đồng thời là lời
thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô gái miền cao. Đằng sau từ “kìa”
là thấy cả ánh mắt, nụ cười hết sức yêu đời, tình nghịch, phong độ và tài hoa của
người lính Tây Tiến. “Xiêm áo” chính là những bộ trang phục đẹp của người con gái
miền cao, nhưng ta có thể hiểu đây là hình ảnh vô cùng vui tươi, tinh nghịch của
người lính khi các anh mặc những bộ xiêm y của phụ nữ cùng nhau vui đùa, nhảy múa
xung quanh ngọn lửa trại. Từ xa xưa, những chiếc khèn bè đã được dùng làm nhạc
đệm trong hầu hết các làn điệu dân ca, làm nền cho những điệu dân vũ, điệu múa lăm
vông, hát đối, giao duyên, trong các dịp lễ Tết, lễ hội hay tiếng khèn dùng để gọi bạn
tình đêm khuya của những chàng trai cô gái Lào khi yêu nhau. Tiếng khèn bè trầm
bổng, sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, náo nức cả không gian yên ắng. Khi tiếng khèn cất
lên làm người nghe thấy da diết, sâu lắng, ngân nga trong sáng như tiếng suối reo, gió
hát, hiện nên vẻ hoang sơ,hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bởi thế, Quang Dũng đã
không khỏi say sưa và quyện vào tiếng nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa mang tính
sơ khai mà đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Từ “man điệu” mà tác giả sử dụng ở đây
cũng rất tài hoa, người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa
Âu Lạc. Trong những đêm sinh hoạt ấy có trang phục đẹp, có cả âm nhạc, có những
điệu múa, điệu nhảy vui tươi và không khí ở đây là không khí say mê ngây ngất. Điều
đó được chứng tỏ khi ban đầu ông dùng từ “em” sau ông lại chuyển sang dùng từ
“nàng”. Từ cách sử dụng ấy, ta cảm nhận em như một nàng tiên kiều diễm và ta như
lạc cõi thần tiên với một không khí say mê đến ngây ngất. Những thiếu nữ
Mường,Thái xinh đẹp, duyên dáng “e ấp” xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với
tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ”, xây cả nỗi nhớ bâng khuâng trong lòng
những người lính trẻ. Địa danh Viêng Chăn không phải là địa danh của Việt Nam, mà
đó là thủ đô của Lào. Ta nhận thấy được sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của
người lính Tây Tiến. Họ không chỉ chiến đấu trên nước ta, mà còn cầm súng trên đất
bạn Lào. “Nhạc về” tạo nên độ phiêu du phiêu lãng khiến tâm hồn người lính trở nên
thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là lòng yêu đời, yêu cuộc
83
sống. Chính những phút giây ấy đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hành
quân phía trước.
Ở đoạn thơ này, tác giả đã làm xuất hiện một thế giới khác của Tây Bắc, thiên nhiên
giờ đây không còn khốc liệt, dữ dội nữa mà nó hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng và trữ
tình. Ngòi bút của Quang Dũng có sự thay đổi, bên cạnh nét vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn
thì vẫn có những đường nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Tất cả làm cho bức tranh
thiên nhiên và con người miền Tây hiện lên rất rõ.
So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh
sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng
thơ tiếp theo, Quang Dũng đã đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi
rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương. Một không gian bảng làng khói sương như
trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng thị hóa.
Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ
mộng:
+,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
“Người đi” chắc hẳn là người lính Tây Tiến. Ngòi bút Quang Dũng không tả mà chỉ
gợi. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh của một “chiều sương” cho ta thấy nét đặc trưng
vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương lúc này không phải là sương lấp, sương
che hay sương phủ, mà chỉ là những làn sương bình thường mở ảo, nó gợi màu sắc
bảng lảng, khói sương và có chút man mác buồn. Địa danh duy nhất trong khổ hai
chính là Châu Mộc, bởi ở đây có cảnh sắc thiên nhiên rất đẹp, nơi đây có núi sông
diệu lệ, có lung lũng lúa chín vàng, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ. Mở ra
ở đó là một không gian buổi chiều được giăng mắt lên là mùa của sương khói hiện ra
như một miền cổ tích, chính vì vậy mà Châu Mộc là nơi để lại cho các anh nhiều ấn
tượng, kỷ niệm sâu sắc nhất. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương, nhấn
84
mạnh rằng đây là một buổi chiều rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ
niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” ở
câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm điệu câu thơ như bị trĩu xuống như một nút
nhấn. Nữ thi sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang
Dũng nhớ về “hồn lau”, nhớ về cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời,
những cây lau giăng khắp mọi nẻo bến bờ, hiện ra như những đôi bờ tiền sử. Trong
văn chương Nguyễn Tuân thì cảnh vật không hề vô tri vô giác, bởi đó là nghệ thuật
nhân hóa “hồn lau”. Nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng khuếch tán vào
cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn đôi bờ cũng có hồn của nhà thơ, Ta nhớ thơ
Chế Lan Viên:
+\566-35;(3.-
5#Erb7J
Y4#Ek['As
978A.-b3#*
Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “bến bờ” và “hoa đong đưa” kết hợp
với cách hỏi “có thấy, có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong ký ức.
Sương mờ giăng khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại như một bờ tiền sử, trên
sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi
của người đi trên thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong
dòng nước. Điệp ngữ “có thấy-có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào nỗi nhớ da diết,
cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ cây gỗ lớn dài, dáng
người trên chiếc thuyền độc mộc ấy có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của
những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Nhưng ta cũng có thể xem
đây là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền
vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều để lại trong lòng Quang
Dũng một cách khó phai nhòa. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu. Ai nói rằng đất
Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây
Bắc ngấm vào hồn. Câu thơ cuối được tác giả dùng từ rất tinh tế, ông đã dùng từ láy
hoa “đong đưa” chứ không phải là “đung đưa” hay “đu đưa”, bởi nếu viết “hoa đung
85
đưa” thì cảnh vật ở đây vô tri vô giác, gợi đến một sự chuyển động về cơ học khô
khan, còn “hoa đong đưa” thì lại có hồn người, thể hiện sự chuyển động duyên dáng,
tình tứ, bông hoa lau trở thành những sinh thể có hồn đang làm duyên, làm dáng trên
mặt nước sóng sánh, chòng chành. Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người,
cánh hoa ấy như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn các anh vượt sông đi đánh giặc.
Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm đà màu sắc cổ tích và huyền
thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta thấy như trước mắt mình một bức tranh sơn
thủy hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô
cùng yêu mến và gắn bó với mảnh đất miền Tây trong tâm hồn Quang Dũng. Đồng
thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái
đẹp.
Tám câu thơ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ,
thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng hòa quyện chặt chẽ với nhau
trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của tác giả đều mềm mại,
tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang
Dũng trong bài tổng thể bài thơ.
Giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình là hình
ảnh người lính Tây Tiến với những gian khổ thiếu thốn được thể hiện qua khổ thơ thứ
ba. Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián
tiếp, nói đến gian khổ, hy sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện
lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã trở thành khuôn sáo khi đề cập đến
sự can trường của các chiến binh:
+83Ceb
"5>:@3'*
Đó là bức tượng đài bi tráng về những chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ sẵn
sàng ra đi với lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai câu thơ
trên nói về ngoại hình của người lính Tây Tiến, mang vẻ đẹp ở đây là viết về cái ốm
nhưng không hề yếu. Nhà thơ miêu tả, khắc tạc cả một tập thể của mình, những con
86
người anh hùng được tác giả gọi bằng cái tên khá thú vị - “Đoàn binh không mọc tóc”,
cái hào hùng hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “đào binh” thay vì là “quân ấy”
nhằm gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn, khẳng định một lực
lượng đông đảo, hừng hực khí thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội
của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt – “Tiểu đội xe không kính”,
qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước.
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi: Chiến sĩ Tây
Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít
mà chết bệnh thì nhiều, có những con suối khiến họ rửa chân rụng lông, gội đầu rụng
tóc. Câu thơ cũng mang đến một nét nghĩa nữa là người lính Tây Tiến họ tự cạo trọc
đầu trở thành những anh “vệ trọc” để giữ vệ sinh trong cuộc kháng chiến thiếu thốn
trăm bề và cũng dễ thuận lợi trong việc đánh giáp lá cà. Và nhà thơ còn đề cập đến
một căn bệnh đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn chương của thời kì kháng chiến
chống Pháp, căn bệnh khiến cho các anh bị rụng tóc đó là bệnh sốt rét rừng. Một căn
bệnh nguy hiểm đã hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ chết đường chết bệnh
còn nhiều hơn là chết trận. Thơ ca kháng chiến đã từng ghi lại những hình ảnh thật
cảm động về sự tiều tụy của người chiến sĩ vì sự nguy hiểm của căn bệnh này, không
chỉ người lính trong “Tây Tiến” mà ngày trong cả bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
cũng có nhắc đến:
+\.-0-54
9#<A.B#><-$*
Quang Dũng thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không
mọc”, bởi “không mọc tóc” được ông sắp xếp từ ngữ để chỉ cái ngang tàng, ngạo
nghễ, tinh thần vượt lên trên sự khốc liệt của cuộc chiến ở người lính nhưng có nét
hóm hỉnh, đùa vui là không cần mọc tóc, nhìn qua lăng kính lãng mạn của tác giả
chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong trang thơ
của Quang Dũng đó là vẻ đẹp của những anh vệ trọc đáng yêu, tuy ốm nhưng chẳng
hề yếu.
87
Trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da đang bị ốm, làn da xanh
xao, vàng vọt, bủng beo. Điều này ta có thể thấy sự tương đồng trong bài “Cá nước”
của nhà thơ Tố Hữu:
+]ee$#
#6>.O
\.OR9R
36*
Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng có nhắc:
+Po8!56O[
F;<@@3*
Đâu chỉ riêng những người lính trong thơ Quang Dũng mới bị mắc bệnh, mới phải
chết vì căn bệnh ác liệt này. Thế nhưng một lần nữa thông qua lăng kính lãng mạn của
Quang Dũng, màu xanh ấy không còn là màu của làn da đang bị ốm nữa mà nó trở
thành màu xanh của áo lính, màu xanh của lá cây ngụy trang, xanh sắc mạ non, xanh
lũy tre làng. Quang Dũng đã dùng từ “dữ oai hùm” một cách rất sáng tạo, tạo nên âm
hưởng mạnh mẽ cho câu thơ khiến người đọc cảm nhận được sức mạnh tinh thần, khí
thế oai hùng khiến cho kẻ địch khiếp sợ của đoàn binh. Hình ảnh người lính Tây Tiến
trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời Tây Bắc, đạp đổ mọi gian khổ, khó
khăn để tiến về phía trước, họ mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt như mãnh hổ ngự trị chốn
rừng xanh rộng lớn. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập giữa “quân xanh màu lá” với
“dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn, khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh
hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên một âm hưởng
mạnh mẽ, hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra
trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Như Vũ Quần Phương nhận xét:
“Quân xanh màu lá, màu áo hay màu da? Chắc cả hai! Chỗ này tả lính rất khéo, nói
được lính ôm mà không yếu, có tóc rụng, có da xanh, nhưng ấn tượng lưu lại là dữ oai
hùm”. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi
88
thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân
của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến”.
Dưới ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, các chiến sĩ không còn là nạn nhân mà trở
nên thật chủ động, ngạo nghễ: không mọc tóc, da xanh xao là để thích nghi với hoàn
cảnh chiến đấu. Vũ Quần Phương có nhận xét: Quang Dũng miêu tả lính Tây Tiến ốm
mà không hề yếu. Đầu không mọc tóc không phải là hình ảnh gây cười hay nói chính
xác hơn là cười mà xót xa, không cầm được nước mắt, bởi răng tóc là gốc con người,
ai cũng muốn chăm sóc cho vẻ đẹp ngoại hình của mình. Từ biệt Hà Thành ra đi chiến
đấu khi màu tóc còn xanh, da còn hồng hào. Vậy mà giờ đây họ chấp nhận hy sinh
mái tóc, tuổi thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân vĩnh viễn của Tổ
quốc.
Khó khăn gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những
tình cảm lãng mạn. Nếu hai câu thơ trên như nét khắc, nét chạm vào không gian của
tác giả để tạo nên bức tượng đài với ngoại hình ốm mà không yêu, thì hai câu thơ sau,
tác giả lại nói về vẻ đẹp tâm hồn của họ. Và tâm hồn chính là sức mạnh nội tâm, là khí
phách của những người lính Tây Tiến. Dù cuộc sống có vất vả thiếu thốn nhưng
không vì thế mà từ bỏ lý tưởng “mộng chinh phu, mộng giai nhân”:
+ E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Cùng một lúc ta có thể thấy xuất hiện hai hành động trong tâm hồn của người lính Tây
Tiến đồng thời xảy ra. Đó là “mắt trừng”, đó là “gửi mộng”. Hai câu thơ nhốt trọn hai
thế giới, hai giấc mộng của người lính Tây Tiến. Người ta vẫn thường nói: “Đôi mắt là
cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy nghĩ”. Vì vậy, khi bắt gặp đôi mắt trừng đã
gợi cho ta nhiều liên tưởng. Đôi mắt của các anh mở to nhìn thẳng về phía quân thù
mà bắn với chí khí thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới –
mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình.Ban ngày các anh gửi ánh mắt trừng
đầy căm thù tới kẻ địch. Hình ảnh “mắt trừng” là ánh mắt mở to, đầy dữ dằn hướng về
phía trước, ánh lên sự quyết tâm, khát vọng chiến đấu giành chiến thắng. Đôi mắt ấy
89
còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. Một
hình ảnh ước lệ làm tôn lên khí thế oai phong lẫm liệt, kiêu hùng của đoàn binh như
trong bài thơ “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn từng viết:
+'CK 7B#_
Y80;CG)^8A
Y8M89;Rt54
#3>5W$"GO7.;3*L
Nhiều người cho rằng: “dáng kiều thơm” là nỗi nhớ của Quang Dũng về quán kiều
trên phố Hàng Bông, nơi mà ông hay lui đến để đàm đạo văn chương. Hay có người
cho rằng đó là những người lính đang nhớ về những thiếu nữ Hà Thành, nhớ người
yêu của mình với vẻ đẹp “sắc nước hương trời”, với các chiến sĩ thì nỗi nhớ ấy là sự
cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, chứ không
phải nhớ những điều ấy mà quên đi nhiệm vụ cao cả, nhớ để mà thối chí nản lòng.
Vậy mà một thời câu thơ “đẹp một cách lãng mạn”như thế này đã khiến cho tác giả
của nó và chính bài thơ trải qua bao gió dập, sóng dồi. Từng một thời bị phê phán bởi
thói tiểu tư sản, nhưng thực ra nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có sức mạnh vượt
qua mọi gian khổ. Quang Dũng đã tạo nên một nét tương phản hết sức đặc sắc. Những
con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời
sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đi theo tiếng
gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn,
trái tim họ vẫn rung động trong nỗi nhớ về một dáng kiều thơm. Bức tượng đài người
lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa
hiện thực vừa lãng mạn. Tại sao cấm những người lính xuất thân từ thành thị sống với
những tâm tình riêng của mình, trong khi những người lính xuất thân từ nông dân thì
lại được phép nhớ giếng nước, nhớ gốc đa, nhớ người thân của họ. Vấn đề là nỗi nhớ
ấy có ảnh hưởng đến ý chí, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ hay không? Hay họ
vẫn hiên ngang chắp tay súng tiêu diệt kẻ thù. Có lẽ đa phần người lính Tây Tiến đều
là học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, tuổi đời còn rất trẻ nên hành trang
mang theo khi ra chiến trường không chỉ có súng đạn mà còn là một thế giới tâm hồn
90
đầy mộng mơ. Nỗi nhớ ấy cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong bài
“Đất nước”:
+,@86:RG
Yn$$-E<A6*
Tuy nhiên, thơ hay ta không nên truy theo nghĩa riêng để làm mất đi vẻ đẹp của bài
thơ ấy, ta phải truy theo nghĩa chung. Dù có đến quán kiều như Quang Dũng, dù có
nhớ dáng hình yêu kiều của người con gái đi chăng nữa thì tất cả những người lính
đều nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội với những con đường nồng nàn hoa sữa:
+0k<8ks
,<-8GT3*
KORW
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa
một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của
đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và
“Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên
một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những
người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử
cùng thời gian
+ !"#$K
%
?$./B,`V./"*
Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông –
Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội
thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở
91
Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh
đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị
khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh 1
làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài
thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì cả bài thơ đã là một
nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo trong
toàn bộ bài thơ.
Là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và
chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng
nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho
ông không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của
nhà thơ.
+ !"#$K
,-./#01-.*
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi
sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên
đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” không đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt
động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân
lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. “Tây
Tiến” không chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri
kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn
cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ
và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của
nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng
bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
+g./-4.,-4#D
,-4u*
92
Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào
dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông… - địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm hưởng
của rừng núi hoang vu và man dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một
vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có
những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương
giăng, không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý
chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên
kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào
đây để khắc họa rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài
lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con
tàu”:
+,-DQ<2-8c3)
,3R5;54V6<
Pkr58Gk
P88G8!b$*
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ
đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có
những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang
Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà không dùng từ “chót vót”. Bởi nói
“chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm
93
thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình
ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc
cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ
“ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có
chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên
hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử
dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh
quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ
nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống.
Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối
xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gập lại:
+,<-5632<-"9*
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên
thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi
núi rừng:
+,T<"C*
Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung
lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người
lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình
hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa
khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với
7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh
thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình
hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”
+?JC(1B"
F`54f2G)8543
<8B1f/<:@:7
,<-5;C(d3Q9;Q*
94
8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây
Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí
ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói
riêng và của những người lính nói chung.
Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí
phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ
Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến.
Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những tổn
thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây
Tiến có những phút giây mệt mỏi:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A*
Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió,
hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây
đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải
chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu
đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ.
Có những người bạn của Quang Dũng gục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu
tả động thái rất nhanh,biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng
dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ: “gục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một
giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.
Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức
tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự
gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp với chất
bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba
chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem
như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng
95
miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai
trở về)
Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không
gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của
đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo
chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”
+&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*
Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây
Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi
đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài
thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời.
Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ
hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí
của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội
quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.
+,-56Cb
&'()"*
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp
thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền
Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân
guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi
hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành
quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi
xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói rơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều.
Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào
một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.
96
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới,
khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say
mê, lãng mạn trong đêm hội:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$
,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn toàn với
những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn...
Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào
những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian Tây Bắc chơi vơi trong một miền tâm
thức, với dáng người trên độc mộc, với dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc sâu, ghi tạc
trong tâm hồn người chiến sĩ. Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không
gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. Ngòi bút tả thực của
Quang Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng,
thiết tha.
Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời
sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang
Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác
phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt
những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để
khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng
của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa
một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
97
+83RCeb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187L*
Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: ”Sài Khao
sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên
hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc
da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc
mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm
tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải
họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần
của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa
đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính
với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc
sống. Bởi vì câu thơ:
+83Ceb*
Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làm
âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ
“đoàn binh” – âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng.
Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu
màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách
thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi
người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan
98
kỳ hổ khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:“Nghĩa
binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân“
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để
câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức
mạnh truyền thống của Dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như
nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông Á.
Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn,
say mê trong những giây phút thơ mộng. Ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư
chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình tượng người
lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này
chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
+ E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh
“mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn
chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới và Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách
rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những khát vọng
diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm”
và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó
không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình
yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm
lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay
viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt
trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều
thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ
vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính
trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên
một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt
99
thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây
Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào
hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ
về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta bỗng nhớ
đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm
thương nhớ đất Thăng Long”
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh
với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết
sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những
đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự
hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những
không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí
phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ trước
cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh
trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt “biên cương,
chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như những nén tâm
hương trước họ. Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng
trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì có chiếc áo bào nào. Vậy
mà Quang Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”.
Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm nhưng
sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những mảnh chiếu cuốn thân,
nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ.
Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một
cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn. Cụm từ “anh
về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại
bằng hình ảnh tráng lệ. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền
và dõi theo con đường hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh. Sự ra đi của
người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng
100
nỗi đau với con người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc hành” giống như
một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Sự hi sinh ấy được đặt giữa
đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh hùng dạo lên
khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.
Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng
mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ
điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của
người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ
vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện
lên đường vì đất nước.
=<A8Ci<-2
F<A56V7)L
\56'"G2
?$./B,`V./"L=
Hơn năm mươi năm qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm
nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến chống
Pháp. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi
gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được
hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét
hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc
bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của
mình.
KOR
"Tây Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm
kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ
ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948,
khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường
kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
101
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén
chặt, bỗng trào dâng:
= !"#$2K
,-./#012-.=L
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu
lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai điểm nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng
khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ
đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây
Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng
chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên
mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm
xao xuyến hồn người chiến sĩ:
=P3Q<5G)83RSL
<AT>3./#386=L
Những Sài Khao, Mường Lát những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân
đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong "sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn
dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối
ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của
núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt
mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi
mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái
lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành
quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu",
"thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao
của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước
tiến của đoàn quân:
102
+956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như
những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân
không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa
phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ
gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng:
"Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại
xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao "
ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn
thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng
lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn
về xa qua màn mưa rừng: "Nha ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm
điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
=\4:!:BC<-@L
]^56Q1SR68AK=L
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong
những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước
nữa",. vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn
nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi
tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm
trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh"
bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời!", nhưng vẫn trào lên nỗi
xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang
103
Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương trái
lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao
chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt "gục lên
súng mũ…" như vậy!
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa
ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời
mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp
đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác. Trên một không gian mênh
mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình
rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng
thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can
trường các chiến binh Tây Tiến:
=&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A=L
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình
quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp
xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện
theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng
"nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
=,-56Cb
&'()"=
Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những chiều
sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình
"có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến
được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trở từ xa, gợi
nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái
Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân
104
tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình
quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng,có khúc nhạc du dương
"xây hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa
rừng" đang múa, đang múa lăm- vông:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những
ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng
khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền
độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc
mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc
gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ,
tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn
ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ
độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến
sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc
quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự cảm
nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực
hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
=,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
105
Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh
Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong
màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng
giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
+83RCeb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187L*
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của
một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân
thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên
ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc
tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô
cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ
ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ
Lão), "Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ
- Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi). Và những năm đầu kháng chiến chống
Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí
lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh
những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo
thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ như vậy!
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của
36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng…" ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp. Mộng chiến công. Mộng
đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm
106
liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành
trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời.
Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội
thân yêu.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người
lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng Chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ
hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước gốc
đa.. Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên là cả một
mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
%=Y#$W54R6<2
>5/2
s86#<A2
T98G8S2
v/<A._#d
;6943C=%
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay
tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một
tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang
theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản thì mới thật buồn thay. Thời gian và
độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp
phần làm phong phú thêm chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống
Pháp.
Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc,
được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng
ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: "Tổ quốc hay là
chết" đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người.
Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với "áo bào
thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc thây" như những tráng sĩ thời xưa, các
107
anh đã thanh thản "về đất", vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ - Tổ quốc thân yêu. Các anh
đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Hai chữ "về đất" rất sáng tạo. Tiếng thác sông
Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó
như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng
chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những
anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ,
câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng
thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí
tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một
niềm tin mãnh liệt: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
"Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của
Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội đã
bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang
Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí những anh hùng vô
danh, những anh hùng thời đại, ra trận với "tình sông núi", với quyết tâm "Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu
xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao,
rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu
và cả "đời xanh" hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm
thương tiếc, tự hào!
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung
lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
=<A8Ci<-2
F<A56V7)L
\56'"G2
?$./B,`V./"L=
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn
binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục
108
hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy
máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn
Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn
ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có
tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là "Đèo Cả" của Hữu Loan, là "Nhớ"
của Hồng Nguyên, "Đồng chí" của Chính Hữu, "Tây Tiến" của Quang Dũng, và nhiều
tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo
vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp
lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang
Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ
vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người
liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà
thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
KOR
Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất
hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ
Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời Quang
Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn
52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị
khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà đông) anh viết
bài thơ Tây Tiến.
109
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là
một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ
biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây
Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các
tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thành Hóa sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi
vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm
trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp
khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này).
Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc
men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và
hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất
yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát
huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại,
những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái
hùng vĩ và tuyệt mĩ.
Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ
đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình
ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ
mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao
cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.
Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được thể hiện
bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
110
Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Ngay từ
khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ.
Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng
rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn anh hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời
gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn
nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó
trong lịch sử văn học.
Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. Bài
thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ
niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ,
hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những
kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ
niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và
tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và người đọc
có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không
gian và thời gian:
+ !"#$K
,-./#012-.
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386*
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi.
Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ;
khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, liên tiếp xuất hiện những
câu thơ sau:
+
956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
111
,<-5632<-"9
,T<"C*
Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ) (3). Chỉ bằng bốn
câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và
dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân
Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn
mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời
của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo
bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng
chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao
dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn
tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống
sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng
chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng
sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa
biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ
được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu
thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu
trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gang màu lạnh làm dịu
lại như xoa mát cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu
thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại
cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo
nan của Lý Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi
nan, nan ư thướng thanh thiên!).
Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà
thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được
112
khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con
người:
+&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với
đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ. Những tên
đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị
tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu
bằng những câu có nhiều vần bằng ớ cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn
ý, làm hiện hình thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền tây
tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
+,-56Cb
&'()"*
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo
đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây
quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp
ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh
hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho
người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu
hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên
dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ
này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của
Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí
ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên
113
trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh
một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông
nước mênh mang.
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa
phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất
ảo:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu.
Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh
vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa
em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân
vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất
ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa
tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả
hồn vía những chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì
cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:
w,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước,
bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích,
huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên
114
chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng
“đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua
ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo
bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên
nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm
nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên từ tâm hồn
ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này,
chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó,
Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm
nhạc trong miệng.
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ
mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những
người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:
+83RCeb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187L*
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính
Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả
đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa
quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng – thần
thái chung của cả bức tượng đài.
115
Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét
hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
+\.-0-542
9#<A.B#><-$*
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình
ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên
ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu
những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của
người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu
tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu
không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản
phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa đựng một sự thật nghiệt
ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau
giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói
khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai
phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫm liệt ấy còn được
thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây
Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim.
Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai
hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu
đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang
Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng
những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm
hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến
không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi
chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng
mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến
sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi
116
nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”;
mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân
vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”).
Họ có vẻ tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng
dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm:
những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che
thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng
(5). Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong
tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
+h33./8G
!B56C187L*
Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của
người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương
vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một
thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng
thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
=<A8Ci<-2
F<A56V7)L
\56'"G2
?$./B,`V./"L=
Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư
tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người
lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua.
“Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.
117
Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến
nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
KOR,
Trong quãng đời người lính của Quang Dũng và có lẽ trong suốt cả đời của người
nghệ sĩ tài hoa ấy - những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến chắc chắn
là quãng thời gian đáng nhớ nhất, in dấu sâu đậm hơn. Và thật là may mắn cho Quang
Dũng và cho chúng ta, bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc, bao nhiêu vẻ đẹp và cả sự bi tráng
của một quãng đời không thổ quên ở nơi miền Tây Tổ quốc cùng những người đồng
đội đã được nhà thơ lưu giữ mãi mãi với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc: Tây
Tiến. Bài thơ gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng,
để khi nói tới Quang Dũng là nhớ ngay tới Tây Tiến, mặc dù ông cũng còn có những
thi phẩm đặc sắc khác.
Bài thơ được hình thành và kết tinh từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người
đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính nhà thơ
trong đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng.
Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức để kết tinh thành những hình ảnh sống
động. Thường thì những hình ảnh trong kí ức được gợi ra khó mà có một trật tự rõ
ràng, nó có thể xáo trộn trình tự thời gian, không gian nhưng vẫn có một trình tự khác,
đó là mạch cảm xúc của chủ thể. Ở đây mạch hồi tưởng đã làm lần lượt hiện lên
những hình ảnh về Tây Tiến theo một trình tự vận động của tâm lí. Khởi đầu là hình
ảnh những cuộc hành quân dãi dầu gian khổ giữa một khung cảnh miền Tây Tổ quốc
hoang sơ, hùng vĩ, bí ẩn. Tiếp đó nỗi nhớ gợi về những hình ảnh tươi đẹp, rực rỡ,
mềm mại và thơ mộng. Nổi bật lên trong đó là hình ảnh những thiếu nữ miền Tây
trong đêm liên hoan lửa trại và vẻ đẹp huyền ảo trong sương khói buổi chiều tiễn biệt
nơi Châu Mộc. Đến đây nỗi nhớ phải được kết tinh lại trong sự khắc hoạ tập trung,
cận cảnh bức chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh của họ. Nỗi nhớ đã đi trọn
mạch hồi tưởng của nhà thơ, đến kết thúc, tác giả muốn gửi trọn hồn mình lên với Tây
Tiến và mảnh đất miền Tây. Nếu xem hành động sáng tạo thi ca là một sự giải toả
những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ (cảm xúc ấy được ngưng kết từ sự
118
sống đã chất chứa trải nghiệm của chính tác giả) thì Tây Tiến có thể coi là một ví dụ
điển hình.
Bài thơ bắt đầu bằng nỗi nhớ, nỗi nhớ chất đầy trong lòng nhà thơ, cất lên thành lời:
+ !"#$K*
Câu thơ vang lên như một lời bộc-bạch, lại như lời gọi trong đó chứa đựng cả sự nhớ
nhung, tiếc nuối. Câu thơ bảy chữ mà có bốn chữ là tên riêng, và đó cũng là nơi gửi,
chốn về của nỗi nhớ vùng đất miền Tây (mà sông Mã là đại diện) và đoàn quân Tây
Tiến. Câu thơ mở đầu này đã định hướng cho toàn bộ cảm xúc của bài thơ. Toàn bài
sẽ là sự thể hiện cụ thể của hai hình tượng kết đọng nỗi nhớ của tác giả: miền Tây và
người lính Tây Tiến.
Nỗi nhớ về một miền rừng núi đưa nhà thơ vào trạng thái đặc biệt, được gọi tên là nỗi
"nhớ chơi vơi". Trong nỗi nhớ ấy mọi kí ức hiện lên thành hình ảnh khi thì rõ nét, khi
lại mờ ảo, nhưng đều sống động, lung linh.
Hình ảnh hiện lên trước hết là những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên nền
cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ, dữ dội vừa thơ mộng của miền Tây:
+956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C
Câu thơ đầu bảy chữ có đến năm chữ là thanh trắc (sắc, hỏi), gợi tả rất thành công con
đường hành quân với những đèo dốc quanh co, khúc khuỷu, lên cao mãi. Câu thơ tiếp
theo vẽ ra được độ cao thăm thẳm của đỉnh núi ngập vào trong những cồn mây. "Súng
ngửi trời" vừa rất thực, lại vừa là cách nói rất tự nhiên, đậm chất lính. Câu thơ thứ ba
như được ngắt làm đôi, vẽ ra hai chặng của con đường hành quân: "Ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống". Câu thứ tư chỉ toàn thanh bằng chủ yếu là thanh không, mở
ra một không gian xa, rộng ở bên dưới tầm mắt. Trong màn mưa phủ khắp đất trời,
thấp thoáng hiện lên một vài đốm nhà, như bồng bềnh trên một biển mưa giăng khắp
119
núi rừng. Bốn câu thơ tả cuộc hành quân này thuộc số những câu đặc sắc nhất của bài
thơ. Bút pháp tạo hình gần với lối vẽ tranh thuỷ mặc, vừa làm nổi lên một vài điểm
nhấn trên bức tranh bằng các chi tiết đặc tả, lại vừa tạo được không gian với ba chiều:
cao, rộng, xa, bằng những nét vẽ mờ ảo, những khoảng trắng.
Những cuộc hành quân gian khổ, khắc nghiệt, triển miên đã khiến các chiến sĩ phải
vắt kiệt sức lực và không ít người đã ngã xuống trên con đường hành quân. Cảm hứng
lãng mạn của Quang Dũng không hề bỏ qua sự khốc liệt ấy.
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68AK*
Lâu nay, hai câu thơ này vẫn được hiểu là nói về sự hi sinh của người lính trên đường
hành quân. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây chỉ là hình ảnh vẽ sự mệt mỏi, kiệt sức
với những giây phút thiếp đi của người lính giữa chặng hành quân. Dù là cách hiểu
nào thì cũng đểu nói lên sự gian khổ, khắc nghiệt của những cuộc hành quân. Cần chú
ý giọng điệu và từ ngữ ở hai câu thơ này: vừa thấm thìa, có một chút xót xa, nhưng lại
có cái cứng rắn, hơi chút ngang tàng (bỏ quên đời). Cái dữ dội, hoang sơ và âm u, bí
ẩn của thiên nhiên miền Tây được diễn tả rất ấn tượng trong các câu thơ 11, 12:
+&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<AL*
Đó cũng là những ấn tượng in đậm trong kí ức người lính Tây Tiến về miền Tây qua
những cuộc hành quân, đặc biệt là ở những chiều, những đêm - có lẽ chính bởi trong
những thời khắc này, cái hoang dã, bí ẩn, thâm u của rừng núi mới hiện ra rõ nhất.
Hai câu cuối của đoạn 1 tạo một bước ngoặt về hình ảnh và cảm xúc, đồng thời lại
chuẩn bị cho đoạn 2. Điểm đến của các cuộc hành quân, cũng là nơi đoàn quân có thể
dừng lại nghỉ ngơi, thường là những làng bản. Một bữa cơm nóng bốc khói, hương vị
ngọt thơm của xôi nếp, đó là niềm mong mỏi, niềm vui ấm áp của người lính sau một
chặng dài hành quân. Bây giờ nó đã hiện ra trong kí ức, trong nỗi nhớ như có cả
hương vị ngọt ngào:
120
+,-56Cb
&'()"L*
Cần chú ý nét đặc sắc của câu thơ cuối đoạn 1: các kết hợp từ mới mẻ, việc lặp lại phụ
âm đầu ở hai từ "Mai Châu", "mùa em", câu thơ gồm hầu hết các tiếng có thanh bằng
gợi cảm giác vương vấn, lan toả.
Đoạn 2 của bài thơ mở ra những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên và con người nơi
miền Tây: nét đẹp thơ mộng, mơ màng của thiên nhiên và cái đẹp của tình quân dân
thắm thiết, đậm đà.
Một đêm liên hoan thắm tình quân dân được tả bằng những hình ảnh lung linh, rực rỡ
dưới ánh đuốc và say sưa, lôi cuốn trong tiếng nhạc, điệu khèn. Những chữ bừng lên,
hội đuốc hoa, kìa em liên tiếp nhau đã diễn tả niềm hào hứng, say sưa, ngỡ ngàng,
thích thú của người lính trong đêm liên hoan và trước sự xuất hiện của các cô gái
trong những bộ trang phục dân tộc rực rỡ. Bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp quyến rũ
đầy tình tứ : Các cô gái dân tộc hiện ra đẹp lộng lẫy trong xiêm y rực rỡ, dưới ánh lửa
đuốc lung linh, nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp; tất cả những vẻ đẹp ấy càng sống động,
lôi cuốn trong tiếng khèn, điệu nhạc đặc trưng của các dân tộc. Chất tình tứ còn được
thể hiện ở những hình ảnh, từ ngữ gợi liên tưởng đến một lễ cưới, hội đuốc hoa, nàng
e ấp. Câu thơ "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" có thể gợi cho thấy cuộc liên hoan
này diễn ra ở bên kia biên giới Việt - Lào. Nên nhớ rằng địa bàn hoạt động của đoàn
quân Tây Tiến không chỉ ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam mà còn ở cả nhiều vùng thuộc
các Xiêng Khoảng của Lào (ở đoạn kết bài có câu: "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi").
Bốn câu thơ tiếp theo (từ câu 19 đến 22) tả một cuộc tiễn đưa người đi Châu Mộc
trong một chiều sương. Những câu thơ này lại mở ra một vẻ đẹp thật thơ mộng của
thiên nhiên, cảnh vật đều nhoè mờ nhưng dường như chính vì thế mà có hồn hơn,
mềm mại hơn. Những bông lau chập chờn, lay động trên những bến bờ như cũng có
hồn, hay chính tâm hồn nhà thơ đã nhập cảm vào cảnh vật mà thấy được hồn của cảnh
trong mỗi bông lau khẽ lay động, phơ phất. Cũng như vậy, những bông hoa dập dềnh
trên dòng nước lũ cũng mang hồn cảnh vật, quyến luyến, tình tứ (hoa đong đưa chứ
121
không phải là đung đưa). Nổi lên trên nền cảnh của bức tranh thiên nhiên thơ mộng là
hình ảnh một dáng người vững chãi trên con thuyền độc mộc, giữa dòng nước lũ. Hình
ảnh ấy tạo thêm một nét đẹp rắn rỏi, khỏe khoắn cho bức tranh thiên nhiên thơ mộng,
mềm mại.
Bút pháp trong đoạn 2 cũng có những biến đổi so với đoạn 1. Nét bút linh động, biến
ảo, sử dụng ánh sáng và âm thanh tạo nên vẻ lung linh và nồng nàn tình cảm của một
đêm liên hoan quân dân. Ở những câu thơ về một chiều Châu Mộc, vẻ đẹp thơ mộng,
mơ màng trong chiều sương của ngàn lau, thác lũ lại được vẽ bằng những nét bút tinh
tế, mềm mại như những nét vẽ trong một bức tranh lụa hay tranh thuỷ mặc xen với đôi
nét chấm phá tạo ấn tượng.
Cao trào trong mạch cảm xúc của bài thơ và cũng là hình ảnh trung tâm trong nỗi nhớ
về Tây Tiến của tác giả là ở đoạn 3, khắc hoạ hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng,
lẫm liệt và bi tráng. Bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ bằng những nét có vẻ
phi thường, khác lạ:
+83Ceb
"5>:@3'L*
Cảm hứng lãng mạn, anh hùng đã giúp cho nhà thơ phát hiện và khắc hoạ được vẻ đẹp
kiêu hùng của người lính, vượt lên, xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn. Hai câu thơ có
âm hưởng độc đáo. Chữ đoàn binh có âm vang và mạnh hơn chữ đoàn quân, còn
không mọc tóc thì gợi ra nét ngang tàng, độc đáo, như là người lính không cần, không
thèm mọc tóc (mà thực ra thì chủ yếu là vì sốt rét làm rụng hết tóc). Câu thơ tạo được
một hình ảnh mang vẻ hiên ngang, dữ dội, lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến. Câu tiếp
theo: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" càng tỏ đậm thêm hình ảnh ấy. "Xanh màu lá"
là nước da xanh xao do sốt rét, thiếu thốn, gian khổ nhưng qua cảm hứng anh hùng và
bút pháp lãng mạn của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ dữ dội của núi rừng
chứ không hề gợi lên vẻ tiều tụy, ốm yếu.
Hai câu thơ tiếp theo lại bổ sung một nét đẹp khác cho hình ảnh người lính Tây Tiến:
nét hào hoa của những chàng trai Hà Nội với tâm hồn giàu mơ mộng. Trong những
122
ngày tháng chiến đấu ở nơi núi rừng miền Tây xa thẳm và cực kì gian lao, khắc
nghiệt, Hà Nội với những dáng kiều thơm vẫn hiện về trong giấc mơ là nỗi nhớ da
diết, là cõi đi về trong mộng. Người lính cách mạng trong thơ Nguyễn Đình Thi cũng
đã từng bộc lộ nỗi nhớ bồn chồn về đôi mắt người yêu giữa đêm dài hành quân.
Nhưng Tây Tiến thuộc số ít những bài thơ nói về điều đó một cách thấm thía bằng
cảm hứng bi tráng. Cái chết, dù là sự hi sinh, cũng không thể nào không gợi lên cảm
xúc bi thương. Hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương viễn xứ lại càng nhân
lên cảm xúc bi thương ấy. Nhưng câu thơ tiếp đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của
tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận, mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng
dâng hiến cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc: "Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh". Đây không phải là một cách nói của thi ca mà thực sự đã là dũng khí tinh
thần và hành động của nhiều thế hệ Việt Nam trong những năm kháng chiến.
Cũng hiếm có trong thơ những câu thơ tả trực tiếp giờ phút vĩnh biệt những người
đồng đội, như hai câu:
+h33./8G
!B56C187L*
Người lính ngã xuống nơi chiến trường thiếu thốn, đồng đội chỉ có thể khâm liệm
bằng chính áo quần đơn sơ của những chiến sĩ ấy ("Áo bào thay chiếu" cũng có người
hiểu là dùng chiếu thay cho áo bào bọc thây, nhưng cách hiểu ấy có lẽ không đúng với
hiện thực của đoàn quân Tây Tiến). Chữ áo bào gợi lên một nét cổ kính, trang trọng,
nhưng không quá xa cách. Chữ về gợi tình cảm gần gũi, yêu thương: người lính hi
sinh là trở về với đất mẹ, trong lòng Tổ quốc. Trong giây phút thiêng liêng về với đất
mẹ của những linh hồn chiến sĩ, cũng là giây phút vĩnh quyết những người đồng đội,
vang lên tiếng gầm của dòng sông Mã như một khúc độc hành bi tráng. Chỉ bằng âm
thanh ấy, Quang Dũng đã truyền được vào câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và
nỗi đau xót trong lòng người chiến sĩ khi phải vĩnh biệt đồng đội. Nhiều nhà thơ cũng
dùng hình ảnh thiên nhiên để nói về sự hi sinh của người chiến sĩ. Tố Hữu khẳng định
sự bất tử của những người cách mạng đã hi sinh bằng những hình ảnh thiên nhiên rộng
123
lớn, trường tồn: "Những hồn Trần Phú vô danh - Sóng xanh biển cả, cây xanh núi
ngàn". Vũ Cao mượn hình ảnh bông hoa để bất tử hoá sự hi sinh của cô gái làng Xuân
Dục:
+xQy53#68r1
Y9'!8b3L*
Còn Nguyễn Đức Mậu thì ví cây trầm với cuộc đời người chiến sĩ:
+9<93/J:M
Q8G2#AL*
Những hình ảnh biểu tượng như thế thiên về ngợi ca sự cao cả và bất tử của sự hi sinh,
làm mờ đi nỗi đau mất mát. Với hình ảnh "Sông Mã gầm lên khúc độc hành", Quang
Dũng nói được nỗi đau thương ghê gớm nhưng không bi luỵ mà mãnh liệt, đầy sức
mạnh.
Đến đây, mạch hồi tưởng những kỉ niệm về Tây Tiến đã đi trong quá trình vận động
của nó, và nhà thơ lại trở về với hiện tại. Hiện tại, đó là sự xa cách vời vợi với những
người đồng đội cũ, với mảnh đất miền Tây Tổ quốc:
+<A8Ci<-
F<A56V7)*
Đó là sự xa cách dằng dặc trong không gian và thời gian. Nhưng vượt lên mọi sự xa
cách, Tây Tiến đã trở thành một phần không thể chia lìa trong tâm hồn nhà thơ. Hay
nói một cách mạnh mẽ và thấm thía hơn, thì tâm hồn nhà thơ đã mãi mãi lưu luyến với
mảnh đất miền Tây, với Tây Tiến. Câu thơ chuyển sang dùng đại từ phiếm chỉ "ai",
bởi điều đó không chỉ riêng cho nhà thơ mà cũng là chung của tất cả những ai đã từng
gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây.
Tây Tiến là một thi phẩm xuất sắc, kết tinh tâm hồn tài hoa và tài năng sáng tạo của
cây bút thơ Quang Dũng trên nhiều phương diện nghệ thuật: hình ảnh, ngôn ngữ,
giọng điệu.
124
Hình ảnh trong bài thơ khá đa dạng và dược sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau,
tạo nên sắc thái thẩm mĩ phong phú. Trong bài thơ có hai loại hình ảnh chính: thiên
nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, đồng thời còn có hình ảnh về cuộc sống của
đồng bào miền Tây gắn với người lính Tây Tiến. Xem xét kĩ hơn, có thể nhận thấy ở
mỗi loại hình ảnh (thiên nhiên, con người) cũng lại có hai dạng chính, tạo nên hai sắc
thái thẩm mĩ phối hợp, bổ sung cho nhau. Thiên nhiên thì có cái dữ dội, khắc nghiệt,
hoang sơ, hùng vĩ ("Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây súng ngửi
trời"; "Chiều chiều oai linh thác gầm thét - Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người",
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"). Bên cạnh đó lại có những hình ảnh thiên nhiên
đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương khói, trong màn mưa, đong đưa bóng hoa... ("Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi - Mường Lát hoa về trong đêm hơi", "Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi", "Châu Mộc chiều sương", "hồn lau nẻo bến bờ", "dòng nước lũ
hoa đong đưa"). Hình ảnh con người cũng hiện ra với nhiều sắc thái, mà chủ yếu là
hào hùng và hào hoa. Hào hùng là ở ý chí, tư thế hiên ngang, vượt lên và coi thường
những gian khổ, thiếu thốn, hi sinh. Còn hào hoa là ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên
nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát khao, mơ mộng. Tác giả đã sử dụng
nhiều bút pháp trong miêu tả, dựng hình ảnh. Có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi
tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng
khoáng và hùng vĩ của miền Tây. Nếu hình dung theo cách của hội hoạ thì có thể thấy
hai bút pháp chính: có những nét bút mạnh, bạo, khoẻ, lại có những nét vờn mềm mại
tạo nên vẻ đẹp ẩn hiện mờ nhòe.
Đặc sắc trong ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hoà trộn của nhiều sắc thái
phong cách với những lớp từ vựng đặc trưng. Có thứ ngôn ngữ trang trọng, có màu
sắc cổ kính (chủ yếu là ở đoạn 3 miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây Tiến và sự
hi sinh bi tráng của họ; lại có lớp từ ngữ thông tục, sinh động của tiếng nói hằng ngày,
in đậm trong phong cách người lính: nhớ chơi vơi, súng ngửi trời, anh hạn, bỏ quên
đời, cọp trêu người, ...). Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ của bài thơ là có những kết
hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ: nhớ chơi
vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, Mai Châu mùa em, hoa đong đưa, dáng
kiều thơm, về đất, ...). Sử dụng địa danh cũng là một nét đáng chú ý trong ngôn ngữ
125
của bài thơ. Các địa danh vừa tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên
nhiên và cuộc sống con người, lại vừa gợi được sự hấp dẫn của xứ lạ phương xa.
Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những
hình ảnh với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu
phù hợp với mỗi trạng thái cảm xúc. Ở đoạn 1, giọng chủ đạo là tha thiết, bồi hồi được
cất lên thành những tiếng gọi, những từ cảm thán ("Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!",
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói"). Ở đoạn 2, khi tái hiện kỉ niệm về những đêm liên
hoan thắm tình quân dân thì giọng thơ chuyển sang hồn nhiên tươi vui, rồi lại bâng
khuâng, man mác khi gợi lại cảnh chia tay trong một chiều sương mờ bao phủ nơi
Châu Mộc. Giọng thơ trở nên trang trọng, kiêu hùng., rồi lắng xuống bi tráng ở đoạn
3, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh của họ. Ở đoạn cuối, giọng thơ
trở lại bâng khuâng, đau đáu một nỗi nhớ da diết trong sự xa cách, chia phôi với
những người đồng đội và miền Tây.
Tây Tiến là một đài kỉ niệm bất hủ bằng thơ, khắc ghi những hình ảnh và rung động
của một thời hào hùng, khốc liệt, của một thế hệ trẻ đã từng "Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh".
KOR8
Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945 -1954, Quang Dũng là một
trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực
thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây
Tiến.
Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng
mạn, yên bình:
“ !"#$
,-./#01-.*
Nhà thơ gọi tên sông Mã – con sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con
sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong
126
cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng
hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm
của một thời bão lửa đã lùi xa vào dĩ vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn
nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà
thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của
mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén,
những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về
đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:
+,-./#01-.*
Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong
lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân
của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong
đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là
nỗi nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta
có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao
cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:
+g./-!.*
Hay Xuân Diệu cũng từng viết:
+<<5;56.*
Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại
trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó
bâng khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm
hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dường như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm
chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:
+P3Q<5G)83RS*
127
Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: "những tên
đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà
đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc
hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nét cuộc hành
trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như
chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt
của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong
sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới
lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:
+ <AT>3./#386*
Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa
nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, đó là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa
hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng
nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về
trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra một không gian lung
linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nên
đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nét vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm
nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng.
Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tế, lãng mạn lắm mới có thể cảm
nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không
làm mất đi ở họ nét phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của
bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người
bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra
tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.
+956C1CU:9V
%
,T<"C*
128
Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang
Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bức tranh thiên
nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày
đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là
cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc
trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khuỷu” gợi những con dốc
trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh
lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe
thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành
quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây, mũi súng chạm trời. Câu thơ không
những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy
chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:
+,<-5632<-"9*
Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là một dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy
khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với
muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối lập độc
đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước. Lên cao thì cao tít tắp mà
xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực
thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng
quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng
cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng để tô
đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.
Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi
hàng loạt thanh bằng:
+,T<"C*
Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để
hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình trong những triền
núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhìn thấy
129
những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con
nơi chiến trường gian khổ.
Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường
như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh
những người lính hiện lên thật ấn tượng.
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A*
Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục súng mà ngủ nhưng
cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong
chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ
nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc
ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, súng vẫn cầm
trên tay. Dường như ta đã từng bắt gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ:
+C88`E
>)<5W84B.$*
(Lê Anh Xuân)
Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh
sắc thiên nhiên miền Tây Bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:
+&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*
Thiên nhiên miền Tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng thác gầm thét tiếng cọp
trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng
cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường
như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây Tiến phải trải
qua. Thiên nhiên miền Tây Bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng
130
can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đã viết về cuộc hành quân của những người lính
Tây Tiến bằng chính sự thấu hiểu của một người từng trải.
+,-56Cb
&'()"*
Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới
hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con
người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm
của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi mà như vẫn còn tươi mới đây thôi.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi
vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:
+3#40567893
%
,>./6"$*
Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm
tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như
cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã
lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu
nhạc rộn ràng, tươi vui.
Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp hào
hùng và hào hoa:
+83Ceb
"5>@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ
"đoàn binh" cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.
131
Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”,
bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người lính không mọc được. “Quân xanh màu
lá” đây có thể hiểu là màu xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da
của người lính trở nên xanh xao.
Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành
quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ
tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.
+ E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “mắt trừng”
gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây Tiến, khao khát được xả thân vì
từng tấc đất của quê hương tổ quốc, ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.
+gD#>6<$.I"`*
Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì
Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi
sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt làm sang trọng cái chết
của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những
người lính Tây Tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính
vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hùng hơn ở những câu thơ tiếp theo:
“&#<A8V8A"*
Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính Tây Tiến, các anh đã dâng
hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng
tiếc” vừa gợi sự ngang tàng, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của
người lính.
Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:
132
+h33./8G
B56C187*
Chiếc “áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận.
Thực tế những người lính Tây Tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm.
Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng
của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính
vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương
dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng
gầm của dòng sông Mã:
+ !B56C187*
Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của
con người dành cho con người thì ở đây Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên
nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng
liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên,
những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.
Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự
ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện
thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây
dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng
người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây Tiến ta sẽ thấu hiểu
hơn vẻ đẹp của những người lính chống Pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ
trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn
những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.
KOR<
“Có một bài ca không bao giờ quên…” - Có một bài ca như thế. Cũng có những năm
tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm
nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân
133
tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược.
Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do
hay trở về với cuộc đời cũ? Đó là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do,
những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị tham gia
kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại. Trong những năm tháng đáng
nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng
đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là
người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh
chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị.
Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa
lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác
giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm
những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ
của người lính Tây Tiến. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội,
Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất
gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:
= !"#$K=
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh
lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tiến?
Không ! Đó là tiếng lòng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lòng thì vẫn tha
thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như
xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với
nỗi nhớ Tây Tiến:
",-./#01-.=
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi” ! Hình như trong ca dao ta cũng từng
bắt gặp:
134
=g./-4.=
Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi
nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra không gian để xoáy
vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang
Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn
nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lí. Cũng vẫn sử dụng vần “ơi”, câu thơ có sức
lan tỏa rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.
Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại
dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi: "Nhớ về rừng
núi…". Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu.
Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn
ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ
mà mình đã từng nếm trải:
=P3Q<5G)83RS
LLLLLLLLLLL
,T<"CL=
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng
trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có
những câu thơ:
=,<Q>86C3j12B2<:B2.E
>#7'3
]C12C;K=
Tố Hữu mô tả thẳng thắn cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang
Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai
cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với
135
những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi như càng trở
nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như
toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn
là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong
cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ. Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.
=P3Q<5G)83RSL=
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc
đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân
lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao
sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự
mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi
trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:
+ <AT>3./#386*
Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước.
Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:
=956C1CU2:9V
?(31$Q1W#A
,<-563<-"9=
Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá! “Dốc
thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm
thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút
cồn mây” đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng
vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:
=,T<"CL=
136
Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn
thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ
kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ. Cả
khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước
bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?
=\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<AL=
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây
Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để
ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút
rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất
xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
=\4:!:BC<-@=
Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính không chịu
nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người
chiến sĩ:
=]^56Q1SR68A=
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính
từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ
đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
=\!"9#3C88`E
>)(35W84B.$=
137
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng
chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ
trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham
gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của
những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại
tiếp bước. Những khó khăn lại đến:
=&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<AL=
Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa
danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn,
nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là
chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính
vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.
+,-56Cb
&'()"L=
Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ
hình như có cái gì náo nức, rộn rã:
=3#40567893
LLLLLLLLLLL
#:;<-53838<L=
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những
kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của những chàng
thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e
ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười
thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng
138
người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui
tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ,
giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một
khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ. Quang
Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như
nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về
người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong
máu thịt tác giả:
+83RCeb
"5>:@3'*
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ
trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt
rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nổi da xanh xao “màu lá”.
Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:
=9#<A.B#><-$L=
Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác
giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ sống để chiến
đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao
nhiêu khó khăn người lính vẫn "Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Nét dữ tợn của người
chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong
ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì
dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn
quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá”, câu thơ trên giúp cho câu thơ sau
tiếp tục:
= E#0W7R6-
F6?,7:>C/=
139
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng
là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của
quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng
mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề
mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc,
đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa
ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn;
nhưng cái buồn ở đây không làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết
tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hoà mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn
người chiến sĩ một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử,
vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiến
chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ
thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những
mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ
chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !
Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã
ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã
xuống vì chiến đấu.
=gD#>6<$.I"`L=
Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người
qua lại, chẳng bao giờ về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã
xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi
những con người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của
rừng núi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng
ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình,
nhưng ngược lại:
=&#<A8V8A"=
140
Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ.
Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan
biến mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo
“chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng
mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không
phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê
hương. Còn người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người
lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:
+h33./8G
!B56C187*
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh
ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất”.
Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngoài ý giảm nhẹ sự đau
thương ? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người
lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như
vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người
lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê
hương thì sự ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ
giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ ngủ trong vòng tay mẹ. Như vậy
anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét
bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên
tiễn đưa anh:
= !B56C187*
Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng
kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hòa vào đất mẹ. Người
lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con
người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và
mỗi chúng ta.
141
=<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./QB`V./"L=
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng
điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã
gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống
mãi. Ấy là Tây Tiến! Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí
dân tộc.
KORS
Tây Tiến là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm
kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ
ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948,
khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường
kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
Tây Tiến nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng
vào sinh ra tử một thời trận mạc.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén
chặt, bỗng trào dâng:
= !"#$2K
,-./#012-.=L
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu
lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nút nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng
khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ
đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây
142
Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng
chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên
mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm
xao xuyến hồn người chiến sĩ:
=P3Q<5G)83RSL
<AT>3./#386=L
Những Sài Khao, Mường Lát… những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân
đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong "sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn
dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối
ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của
núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt
mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi
mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái
lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành
quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu",
"thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao
của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước
tiến của đoàn quân:
=956C1CU2:9V2
?(31$Q1W#AL
,<-563<-"9
,T<"C=L
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như
những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân
143
không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa
phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ
gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng:
"Ngàn thước lên cao / Ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại
xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao "
ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn
thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng
lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn
về xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm
điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
=\4:!:BC<-@L
]^56Q1SR68AK=L
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong
những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước
nữa" … vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh
viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô
cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng
còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ
"hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời!", nhưng vẫn trào
lên nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ
của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm
thương trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà
có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt
"gục lên súng mũ…" như vậy.
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa
ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời
mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp
144
đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người". Trên một
không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu,
cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được
nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để
thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:
=&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A=L
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình
quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp
xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện
theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng
"nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
=,-56Cb
&'()"=
Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những chiều
sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình
"có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến
được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trở từ xa, gợi
nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái
Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân
tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình
quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng, có khúc nhạc du dương
"xây hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa
rừng" đang múa xòe, đang múa lăm- vông:
=3#405678932
PJ("6>3a3A2
145
Pc568O(G)2
,4./6&"$=L
Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những
ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng
khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền
độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc
mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc
gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ,
tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn
ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ
độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến
sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc
quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự cảm
nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực
hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
=,<A8&7/Q<G2
&bG$5d3A2
&b-:><A#68772
#:;<-53838<=L
Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh
Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong
màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng
giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
146
=83Ceb2
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/=L
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của
một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân
thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên
ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc
tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô
cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ
ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ
Lão), "Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ
- Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi), … Và những năm đầu kháng chiến chống
Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí
lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh
những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo
thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hào sảng như vậy.
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của
36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng…" ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:
= E#0W7R6-2
F6?,7:>C/=L
Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi
tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc!
Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao
147
giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều
thơm", nơi Hà Nội thân yêu.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người
lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng Chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ
hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước gốc
đa… Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên là cả một
mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
+Y#$W54R6<2
>5/2
s86#<A2
T98G8S2
v/<A._#d
;6943C*
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay
tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một
tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang
theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản… thì mới thật buồn thay. Thời gian
và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó
góp phần làm phong phú thêm chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến
chống Pháp.
Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc,
được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng
ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: "Tổ quốc hay là
chết" đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:
=gD#>6<$.I"`
148
&#<A8V8A"L
h33./8G
!B56C187=L
Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với "áo bào
thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc thây" như những tráng sĩ thời xưa, các
anh đã thanh thản "về đất", vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ - Tổ quốc thân yêu. Các anh
đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Hai chữ "về đất" rất sáng tạo. Tiếng thác sông
Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó
như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng
chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những
anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ,
câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng
thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí
tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một
niềm tin mãnh liệt: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
"Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của
Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội đã
bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang
Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí những anh hùng vô
danh, những anh hùng thời đại, ra trận với "tình sông núi", với quyết tâm "Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu
xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao,
rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu
và cả "đời xanh" hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm
thương tiếc, tự hào!
Sau này trong bài thơ "Sông Lào" cũng nói về những "nấm mồ viễn xứ" của những
người con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:
149
=R@3QT38r9.3
]o)JG7
#DT33 X89##3K
,54N6zz6#S8GQ?$
,54N6zz)51e
YbC7)2bu5(JbeL
&#,XYJk6HC
,j<5.-<#0
,@>T38)B7
&><0B.15H.%=
Đúng là "Có cái chết hóa thành bất tử" (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó
có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh
oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh.
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung
lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
=<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./B,`V./"=L
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn
binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục
hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời
150
xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy
máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn
Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn
ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có
tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là Đèo Cả của Hữu Loan, là Nhớ của
Hồng Nguyên, Đồng chí của Chính Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng, và nhiều tác
phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ
Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp
lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang
Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ
vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người
liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà
thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
KORT
Viết về hình ảnh những người lính thời kháng chiến chống Pháp không thể không
nhắc đến bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Bài thơ với âm điệu hào sảng, oai hùng,
bi tráng giúp cho chúng ta như sống về những năm tháng, cùng đồng hành cùng với
các anh lính “quyết tử vì tổ quốc sinh”. Từ đó, giúp mỗi con người chúng ta biết trân
trọng những giá trị hiện tại, tri ân muôn đời với sự hy sinh cao cả của các anh.
Quang Dũng, một con người đa tài, không chỉ giỏi vẽ tranh, làm thơ mà ông hát cũng
rất hay. Nhưng mọi người biết nhiều đến ông qua những bài thơ và trong số đó phải kể
đến bài thơ Tây Tiến. Với phong cách thơ hào hùng, bi tráng mà vẫn lãng mạn, Tây
Tiến đã đi vào người vào lòng người qua bao thế hệ.
151
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ như ùa về, không kìm nén được mà nhà thơ Quang Dũng đã
viết lên:
+ !"#$K
,-./#01-.
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386*
Quên sao được những ngày hành quân, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Đó không chỉ là
nỗi nhớ của riêng mình nhà thơ mà còn là nỗi nhớ của tất cả anh em đồng chí. Một nỗi
nhớ đặc biệt “chơi vơi”, người đọc như có thể cảm nhận được trạng thái cụ thể của nỗi
nhớ. Cảnh vật như vẫn còn hiện ngay trước mắt, quên sao được “sông Mã”, “Mường
Lát” “Sài Khao”... Đặc biệt khi mà tác giả dùng từ cảm thán “ơi” và lặp vần “ơi”
khiến cho nỗi nhớ lại càng da diết, khôn nguôi. “Mường Lát hoa về trong đêm rơi”,
một câu thơ đầy chất nghệ thuật. Sự đặc biệt ở đây là việc sử dụng từ “hoa” của nhà
thơ Quang Dũng. Có phải đó là những bông hoa rừng được các anh nhìn thấy trong
ánh sáng hiu hắt của màn đêm. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp, của ánh sáng hy vọng
trong đêm tối, cho chính cuộc chiến đấu sẽ giành được thắng lợi. Hay từ “hoa” là
nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho những người lính hay phải chăng là những bó đuốc chỉ
đường trong đêm tối?
Cuộc hành quân không ngừng nghỉ, qua nắng rừng sương đêm, qua những ngọn núi
đầy trắc trở. Bốn câu thơ đã vẽ lên một bức tranh của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
mang vẻ đẹp hùng dũng, hoành tráng nhưng cũng đầy hiểm trở, gian nan.
+956C1CU:9V
?(31$2Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*
Chặng đường hành quân thật lắm chông gai không chỉ “khúc khuỷu” mà còn “thăm
thẳm”. Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” với nhịp 4/4 như bẻ đôi câu
thơ khiến cho người đọc tiếp tục cảm thấy những khó khăn đang chồng chất khó khăn
152
mà các chiến sĩ phải trải qua. Thế mà các anh vẫn hóm hỉnh, yêu đời lắm. Trong phút
chốc dừng chân trên ngọn núi cao hàng ngàn thước tưởng chừng như chạm đến mây,
đầu mũi súng hướng lên trên mà các anh ví von như “súng ngửi trời”. Các anh cũng
nhẹ nhàng phóng tầm mắt mình ngắm đất trời, ngắm những ngôi nhà của làng Pha
Luông xa xa trong màn mưa rừng, sương núi bao quanh.
+\4:!:BC<-@2
]^56Q1SR68AL*
Thế rồi các anh lại tiếp tục cuộc hành trình của mình vượt qua những dãi dầu của
nắng, mưa. Ý chí của các anh vẫn không ngừng tiến bước nhưng những khắc nghiệt
đã níu chân người chiến sĩ.
Nhà thơ Quang Dũng đã dùng biện pháp tu từ nói giảm nói tránh về sự hi sinh của các
anh “không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Cái chết ấy nó nhẹ nhàng tựa như các anh chỉ
đang đi vào giấc ngủ mà thôi, chợp mắt một lúc “gục lên súng mũ” để chuẩn bị cho
cuộc hành trình tiếp theo. Sự hy sinh cao ấy ta còn bắt gặp trong tác phẩm “Dáng
đứng Việt Nam”
+C88`E
>)(35W84B.$*
Các anh đẹp lắm, các anh chấp nhận cái chết, hiểu đó là điều tất yếu để có được hòa
bình. Nỗi đau để lại cũng như đó cũng chính là sức mạnh tiếp bước cho các đồng đội
tiếp tục hoàn thành sứ mệnh quốc gia dân tộc.
Dường như núi rừng Tây Bắc vẫn không dịu đi trước sự ra đi của một số chiến sĩ đồng
đội.
+&//35>Bj2
F686 <A?Me)#6<A*
Không phải là con thác êm đềm nước chảy, róc rách tiếng nước kêu, nhà thơ Quang
Dũng đã nhân hóa con thác ấy “gầm thét” dữ dội, thiên nhiên bí hiểm thách thức cả
153
con người “cọp trêu người”. Sự nguy hiểm, dữ tợn ấy không chỉ diễn ra một lần mà
thường xuyên, liên tục lặp lại ngày này qua ngày khác “chiều chiều”, “đêm đêm”. Các
từ láy chỉ sự lặp lại vô hạn của thời gian ấy khiến cho chúng ta cảm thấy được những
nguy hiểm, sự rình rập của cái chết sẵn sàng bủa vây các anh lính bất cứ lúc nào của
thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
Bài thơ là nỗi nhớ Tây Tiến, đồng đội của nhà thơ, có lẽ vì thế mà các câu thơ bị cảm
xúc đó chi phối.
+,-K56Cb2
&'()"L*
Nhớ sao Tây Tiến thân thương qua việc sử dụng từ cảm thán “nhớ ôi” nhẹ nhàng
nhưng mãnh liệt. Quên sao được những “đặc sản” của binh đoàn “cơm lên khói”. Dù
có thiếu thốn, nhưng tình đồng chí, đồng đội quay quần bên nhau mới là tất là, là
những bữa cơm tinh thần tiếp bước cho các anh sức mạnh. Nhà thơ vẫn không quên
những đợt hành quân qua Mai Châu, được gặp những cô gái Thái, được thưởng thức
những hạt gạo nếp của vụ mùa thu hoạch đầu tiên. Câu từ của nhà thơ miêu tả thật thi
vị “mùa em”, “thơm”, đó không chỉ nét đẹp của cô gái Thái, vị ngon thanh nhã của xôi
mà các anh như cảm nhận được tấm chân tình của những con người Tây Bắc dành cho
chính mình.
Theo cảm xúc của nỗi nhớ nhà thơ lại nhớ về:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Để tiếp sức cho người lính, binh đoàn luôn có những trạm dừng chân để cho các anh
giao lưu với người dân. Một không khí lãng mạn được thổi bùng lên trong đêm văn
nghệ hiếm có ấy. Các anh như tạm quên đi súng đạn, hòa mình vào không khí vui tươi
của tiếng khèn, những điệu múa… Ánh sáng rực rỡ, cháy đượm nồng nàn của những
154
ngọn đuốc mà nhà thơ thấy như “hội đuốc hoa”. Những cô gái xinh xắn khoác lên
mình những bộ váy áo xinh nhất mà các anh ngỡ ngàng tự thốt lên “tự bao giờ”. Các
cô gái chính là trung tâm của đêm hội mang vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên
dáng đã thu hút hồn vía của các chàng trai Tây Tiến. Thật đẹp làm sao giữa tình quân
dân, của tình yêu nhiệt huyết đầy mộng mơ tuổi trẻ. Đêm hội lửa chắc chắn rất vui, rất
thơ mộng dù ở biên giới Việt Lào. Có lẽ theo tình yêu gửi trọn đến phương xa vì thế
mà nó đã có thể “về Viên Chăn xây hồn thơ”.
+,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
Trong cảm xúc nhớ thương về khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc mà nhà thơ đặc biệt
nhớ về Mộc Châu. Câu hỏi tu từ được nhà thơ sử dụng thật độc đáo “Có thấy hồn lau
nẻo bến bờ?” dường như nhà thơ không phải để hỏi bất cứ ai mà nhằm khẳng định
mình không thể quên được nó. Nó ở đây là những bông lau cũng có “hồn” có tâm tư
tình cảm như con người. Người ra đi, mang theo nỗi buồn mang mác khiến cho cỏ cây
cũng thấm đượm nỗi buồn đó. Dáng người khỏe khoắn của con người Tây Bắc trên
chiếc thuyền độc mộc tạo cùng những bông hoa rừng trôi theo dòng nước lũ. Tất cả đã
tạo nên một bức tranh đẹp mang chút lãng đãng, hờ hững của buổi chiều sương giăng
lối của miền sơn cước.
Thật ấn tượng khi những hiện thực khó khăn mà các chiến sĩ phải trải qua qua ngòi
bút của nhà thơ Quang Dũng:
+83RCeb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Những trận sốt rét rừng thật ghê rợn, nó khiến cho tóc các anh rụng hết đi. Thế mà nhà
thơ lại có cách nói rất tinh nghịch “không mọc tóc”. Sốt rét rừng còn thậm chí khiến
155
da các xanh xao. Màu xanh ấy giống như màu xanh của lá cây rừng, những chiếc áo
ngụy trang của các anh càng làm tăng thêm “oai hùm”. Phong thái kiên quyết, không
một chút u mỳ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Phải chăng cái “mắt trừng” ấy là
lời đe dọa đến quân đội Pháp đang đóng chiếm ở Thượng Lào. Và một giấc mộng tươi
đẹp về sự hòa bình sẽ sớm được lập lại giữa hai nước Việt – Lào, quyết tâm đánh đuổi
giặc Pháp.
Các chiến sĩ vốn xuất thân là chàng trai Hà Thành, tuổi mới đôi mươi vẫn còn tình yêu
mãnh liệt của tuổi trẻ. Nhưng nghe theo tiếng gọi của tuổi trẻ, các anh ra đi để lại gia
đình, bạn bè và tình yêu của mình ở lại. Để rồi trong giấc mơ của mình các anh lại trở
về với tình yêu của mình.
Trên con đường hành quân gian khổ, bom đạn của kẻ thù, của những cơn sốt rét rừng,
sự nguy hiểm của thú dữ và muôn vàn khó khăn khác các anh đã nằm xuống:
+gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187L*
Nơi các anh nằm xuống là “biên cương” xa xôi, “rải rác” trên chặng đường hành quân.
Sự thiếu thốn của tư trang, thiết bị “đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ (bài thơ Đồng
Chí), để khi về với đất mẹ, các anh chỉ có tấm chiếu mỏng manh. Nhưng dưới con mắt
của nhà thơ, chiếc chiếu mỏng manh ấy chính là “áo bào”. Cách nói “áo bào thay
chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của người lính. Các anh chả hề
khó khăn, sợ cái chết ở độ tuổi nhiệt huyết, tươi mới nhất “đời xanh”. Tính chất bi
tráng thể hiện rõ trong đoạn thơ này, sự hy sinh của các anh khiến cho “sông Mã gầm
lên khúc độc hành”, thiên nhiên phải gào thét lên. Tất cả đã tôn vinh cho sự ra đi đầy
hiên ngang, bất khuất của những chiến sĩ can trường, chẳng tiếc chi tuổi trẻ, thanh
xuân.
=<A8Ci<-2
F<A56V7)L
156
\56'"G2
?$./B,`V./"L=
Đọc bốn câu thơ cuối, chúng ta như cảm nhận được một không gian mở, nỗi nhớ ấy sẽ
mãi không ngừng, chứ không vụt tắt đi. Những con người từ mọi miền đất nước nghe
theo tiếng gọi để trở thành một binh đoàn Tây Tiến đầy sức mạnh. Sự chia xa ấy có
thể là khoảng cách, không gian nhưng trong tâm trí các anh luôn nhớ về, mãi luôn
trong tâm trí của nhau. Con người, thiên nhiên Tây Bắc cũng như nước bạn Lào
dường như đã “bắt cóc” tâm hồn chiến sĩ: “Hồn về Sầm Nứa” chẳng về xuôi”. Và đó
cũng chính là một lời thề chắc nịch, thủy chung của các chiến sĩ cho miền đất ấy.
Bài thơ là một bản anh hùng ca của những chiến sĩ. Sự tài tình trong bút pháp lãng
mạn hòa trong bút pháp tả thực đã lột tả được những khó khăn mà người lính phải trải
qua nhưng các anh vẫn luôn mang trong mình nét tươi vui, trẻ khỏe của độ tuổi hai
mươi. Đất trời Tây Bắc dẫu có khắc nghiệt mà vẫn mang vẻ đẹp thơ mộng , thân
thương.
KORU
Kháng chiến chống Pháp đã qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa
một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của
đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và
“Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của nhà thơ Quang Dũng cũng
đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc
kháng chiến trường kỳ. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu
nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.
+ !"#$K
%
?$./B,`V./"*
157
Thật vây, nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, không ai không thể không nhớ đến Tây
Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội
thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở
Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh
đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị
khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh
một làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt
bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì cả bài thơ đã là
một nỗi nhớ và chỉ với hai từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo
trong toàn bộ bài thơ.
Là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và
chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng
nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho
ông không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của
nhà thơ.
+ !"#$K
,-./#01-.*
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi
sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên
đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” không đơn thuần là một con sông – nơi đã từng là địa bàn
hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một
chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn,
được mất. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một
người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Câu thơ thứ hai với điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt,
cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ
nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết
158
của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái
bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
+g./-4.
,-4#D
,-4u*
Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào
dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
+P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*
Ở đây, Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông…- địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm hưởng
của rừng núi hoang vu và man dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một
vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có
những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương
giăng, không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý
chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên
kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào
đây để khắc họa rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài
lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con
tàu”:
159
+,-DQ<2-8c3)
,3R5;54V6<
Pkr58Gk
P88G8!b$*
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ
đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có
những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang
Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà không dùng từ “chót vót”. Bởi nói
“chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm
thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình
ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc
cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ
“ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có
chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên
hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử
dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh
quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ
nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống.
Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối
xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
+,<-5632<-"9*
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới
lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi
núi rừng:
+,T<"C*
160
Xa xa , lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung
lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người
lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình
hơn. Nhà thơ đã thông minh , sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa
khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với
7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh
thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình
hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”
+?JC(1B"
F`54f2G)8543
<8B1f/<:@:7
,<-5;C(d3Q9;Q*
Tám câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội
Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1
kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến
nói riêng và của những người lính nói chung.
Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí
phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ
Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến.
Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những tổn
thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây
Tiến có những phút giây mệt mỏi:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A*
Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió,
hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây
161
đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải
chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu
đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ.
Có những người bạn của Quang Dũng gục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu
tả động thái rất nhanh,biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng
dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ: “gục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một
giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.
Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức
tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự
gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp với chất
bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba
chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem
như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng
miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai
trở về)
Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không
gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của
đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo
chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”
+&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*
Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây
Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi
đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài
thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời.
Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ
hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí
162
của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội
quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.
+,-56Cb
&'()"*
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp
thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền
Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân
guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi
hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành
quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi
xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều.
Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào
một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.
Ở đoạn thơ thứ hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp
mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng
say mê, lãng mạn trong đêm hội:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$
,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
163
Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn toàn với
những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn…
Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào
những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian Tây Bắc chơi vơi trong một miền tâm
thức, với dáng người trên độc mộc, với dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc sâu, ghi tạc
trong tâm hồn người chiến sĩ. Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không
gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. Ngòi bút tả thực của
Quang Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng,
thiết tha.
Quang Dũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình
cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc
biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của
mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp
như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để khắc tạc một
cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước,
của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không
gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
+83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187*
164
Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: ” Sài Khao
sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên
hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc
da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc
mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm
tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải
họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần
của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa
đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính
với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc
sống. Bởi vì câu thơ:
+83Ceb*
Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làm
âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ
“đoàn binh” – âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng.
Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu
màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách
thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi
người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan
kỳ hổ khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:”Nghĩa
binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân”
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để
câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức
mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như
nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn,
say mê trong những giây phút thơ mộng. Ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư
165
chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình tượng người
lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này
chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
+ E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh
“mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn
chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới & Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách
rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những khát vọng
diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm”
và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó
không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình
yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm
lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay
viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội.
Hình ảnh người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm
thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ,
người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính
có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp
của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc –
những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có
một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm
gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu
thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ
đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh
với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết
166
sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những
đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự
hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những
không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
+gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187*
Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí
phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ trước
cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh
trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt “biên cương,
chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như những nén tâm
hương trước họ. Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng
trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì có chiếc áo bào nào. Vậy
mà Quang Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”.
Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm nhưng
sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những mảnh chiếu cuốn thân,
nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ.
Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một
cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn.
Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi
thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã
đã luôn gắn liền và dõi theo con đường hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh.
Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên
nhiên hòa cùng nỗi đau với con người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc
hành” giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Sự hi sinh
167
ấy được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã
anh hùng dạo lên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.
Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng
mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ
điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của
người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ
vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện
lên đường vì đất nước.
+<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./B,`V./"*
Hơn năm mươi năm kháng chiến chống Pháp trôi qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức
quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên của
lịch sử dân tộc. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài
tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên
được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và
nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc
tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước
của mình.
KORV
Xantukop Sedrin Sedrin đã từng viết: “Nghệ thuật nằm ngoài định luật băng hoại, chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết.”. Thật đúng là như vậy! Và bài thơ “Tây Tiến”
cũng nằm trong số đó. Quang Dũng là một nghệ sĩ tài ba: làm thơ, viết văn, vẽ tranh
và soạn nhạc. Ông đã trưởng thành trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ông có một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, lịch lãm và tài hoa. Tiêu biểu
168
cho hồn thơ lãng mạn ấy là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ là nỗi nhớ về đơn vị cũ của
nhà thơ.
Tây Tiến là đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947. Lực lượng tham gia là học sinh,
sinh viên, trí thức của đất Hà Thành. Nhiệm vụ của đoàn binh Tây Tiến phối hợp với
bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào đánh tiêu hao lực lượng của địch, hoạt động
trong một địa bàn rất rộng từ Châu Mai, Châu Mộc đến Sầm Nứa (Lào) rồi vòng về
phía tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn gian
khổ, thiếu thốn thuốc men, đạn dược, quân tư trang lại thêm sốt rét rừng hoành hành
dữ dội nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời. Hoạt động được một thời gian, đoàn binh Tây
Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng,
sau đó ông chuyển sang đơn vị khác tại làng Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ đồng chí,
đồng đội đến cồn cào da diết ông đã viết “Tây Tiến” vào năm 1948. Bài thơ lúc đầu có
tên là “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến” và in trong tập “Mây đầu ô”.
Với cảm hứng lãng mạn nhuốm màu sắc bi hùng, bi tráng, Quang Dũng đã khắc họa
thành công bức tượng đài nghệ thuật và hình tượng người lính Tây Tiến trên nền thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội đồng thời là nỗi lòng của nhà thơ
khi hướng về đồng chí, đồng đội, về miền đất đã từng sống, chiến đấu và gắn bó. Chạy
dọc bài thơ là nỗi nhớ, nỗi nhớ dõi theo từng con đường hành quân, nỗi nhớ vượt qua
không gian xuyên suốt thời gian. Và rồi men theo dòng cảm xúc ấy, người đọc sẽ
thấm thía hơn một thời Tây Tiến.
Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc với những chặng đường hành quân:
+ !"#$K
,-./#01-.*
Bài thơ cất lên bằng tiếng gọi tha thiết đắm sâu vào tâm hồn người đọc. “Tây Tiến ơi”
như chứa đựng cả một trời thương nhớ với bao bâng khuâng, hụt hẫng, nuối tiếc. Âm
“ơi” như ngân vang vọng ra từ vách đá của núi rừng Tây Bắc, ngân vang trải dài đến
đâu mang theo tâm tư, tình cảm của Quang Dũng lan ngấm thấm tràn đến đó. Sông
169
Mã, Tây Tiến đã “xa rồi”, xa cả về không gian, thời gian nhưng những gì thuộc về
Tây Tiến vẫn còn sống, neo đậu, khắc tạc nơi sâu thẳm cõi lòng nhà thơ. Dòng sông
Mã lồng vào tiếng gọi Tây Tiến thể hiện sự gắn bó như không thể tách rời bởi đó là
dòng sông đã từng chia ngọt sẻ bùi, cùng Tây Tiến một thời tắm nắng, gội mưa và
cũng là dòng sông đã từng đưa tiễn người lính về với đất mẹ. Dường như dòng cảm
xúc không thể kìm nén đã bật lên thành nỗi nhớ. Từ “nhớ” được láy lại hai lần trong
một câu thơ như nốt nhạc trầm chở nặng tâm tư. Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua từ láy
“chơi vơi” giàu sức gợi tả. “Chơi vơi” diễn đạt đến “độ chín” của nỗi nhớ, nhớ đến
đau đáu, dằng dặc, triền miên, nỗi nhớ như những đợt sóng liên tiếp gối đầu nhau vô
hồi vô hạn. Nó cồn cào, da diết, choáng ngợp cả tâm hồn. Từ nỗi nhớ của Quang
Dũng gợi ta nhớ về nhân vật trữ tình trong ca dao:
+,-ff$$
,<8`895W<$89*
Nỗi nhớ trong ca dao đến đỏ lòng, sốt ruột, còn nỗi nhớ của Quang Dũng dành cho
đồng đội cứ lặng lẽ, chảy trôi đến vô chừng. Từ nỗi nhớ ấy, bức tranh thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ cứ dần dần hiện lên.
+P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386*
Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, những bản làng xa xôi hẻo lánh, heo hút,
lạnh lẽo – nơi mà lính Tây Tiến đã từng hành quân hay có khoảnh khắc dừng chân
ngơi nghỉ. Dù xa xôi nhưng vẫn cắt hình rõ rệt trong những ai đã một sống cùng Tây
Tiến. Tây Bắc là thế – chỉ một cái tên thôi cũng đủ làm ta xúc động rồi, hơn nữa, ngạn
ngữ Hi Lạp có câu: “Mảnh đất lưu giữ được tâm hồn con người khi ở đó chôn cất một
người thân hoặc gửi gắm một phần trái tim họ” hay Chế Lan Viên đã từng chiêm
nghiệm:
+Pkr58Gk
170
P88Gnb$*
Vì thế mà mỗi miền đất không chỉ gắn với Tây Tiến mà còn gắn bó máu thịt với cuộc
đời Quang Dũng. Sài Khao – mảnh đất lắm sương nhiều khói, sương che đường đi,
sương phủ kín bóng người, sương như tấm áo choàng lảng bảng, từng con sông, ngọn
suối sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa núi rừng hiểm trở cheo leo có hơi thở mệt mỏi
của những chàng trai đất Hà thành, nhọc nhằn trên những chặng đường chông chênh.
Thế mà trái tim nhạy cảm, tình yêu tha thiết với đất và người Tây Bắc, họ như nghe
được hơi thở, nhịp đập trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống. Quang Dũng
như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước phim núi
non hùng vĩ, hiểm trở, cheo leo:
+956C1CU:9V
?(31$Q1W#A
,<-5632<-"9*
Giọng thơ bỗng trở nên gân guốc, rắn rỏi, dồn dập, góp phần nhấn mạnh vào địa thế
hiểm trở, đồng thời giúp người đọc cảm nhận bước chân chắc nịch của đoàn binh Tây
Tiến in hằn trên sỏi đá. Một loạt những từ láy giàu chất tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm
thẳm”, “heo hút” mở ra trước mắt một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm
trở, núi non trùng trùng điệp điệp. Điệp từ “dốc” láy lại hai lần trong một câu thơ góp
phần thể hiện đắc địa một địa thế cheo leo, chênh vênh, lắm thác, nhiều ghềnh. Thì ra
Tây Bắc là nơi ngự trị của núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, dốc cứ dốc, đèo cứ
đèo, núi cao chót vót, vực sâu thăm thẳm khôn xiết.
Khi miêu tả thiên nhiên, Quang Dũng sử dụng nhiều thanh trắc phối hợp với giọng thơ
rắn rỏi hòa cùng những từ giàu chất tạo hình để đẩy Tây Bắc lên tới đỉnh cao của
chênh vênh, cheo leo trở thành mối thử thách lớn đối với con người. Vậy nên đoàn
binh Tây Tiến hành quân là chặng đường chinh phục thiên nhiên, chinh phục khó
khăn và trên hết là chinh phục chính mình. Thật vậy, đối với con người không có đỉnh
cao nào là không chinh phục được, để rồi lính Tây Tiến khi khúc xạ dưới lăng kính
171
tâm hồn đầy lãng mạn của Quang Dũng, họ trở nên kì vĩ hơn: “Súng ngửi trời” – đây
là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh, tân kỳ và mang đậm chất lính. Một chút tếu táo
của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn như minh
chứng cho ý chí vượt trội, cho sức mạnh phi thường, cho khát khao chinh phục. Thật
đúng là:
+Fc33Jo8c33
#c356-8r38c3*
Đặc biệt câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” như bẻ đôi bởi cách ngắt
nhịp 4/3 tạo thành tiểu đối giữa “cao” và “sâu”, giữa “lên” và “xuống”, dường như câu
thơ có sự chuyển động căng đầy ra hai phía: Núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu khôn
cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một ẩn số đối với con
người. Câu thơ chắt lọc từ “Chinh phụ ngâm khúc” – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị
Điểm:
+?JC(1B"
F`85492G)8543*
Tây Bắc – địa danh nào, cảnh vật nấy, nhà thơ viết về Tây Bắc bằng nỗi nhớ mà gợi
được cả cái thần, cái hồn của cảnh – điều đó xuất phát từ một trái tim nặng nghĩa nặng
tình với đất và người nơi đây. Để lấy lại cân bằng cảm xúc cho người đọc, Quang
Dũng đã hạ bút với câu thơ toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ, ngước mắt nhìn lên, núi cao lưng trời,
đưa ánh mắt nhìn xuống, vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn mưa rừng
sương núi có cảm giác như những ngôi nhà Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa trốn
xa khơi. Cảnh vật bỗng trở nên nửa hư, nửa thực, chập chờn như trong cõi mộng. Chất
lãng mạn phủ kín cảnh vật. Đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
Tây Bắc không chỉ hùng vĩ mà còn rất huyền bí.
+&//35>Bj
172
F686 <A?Me)#6<A*
“Chiều chiều”, “Đêm đêm” là những từ láy chỉ thời gian có ý nghĩa chuyển giao liên
tục cũng là liên tiếp những khó khăn mà lính Tây Tiến phải đối mặt. Ban ngày lội
suối, trèo đèo, băng rừng vượt núi; chiều về rùng mình ghê sợ trước sự trỗi dậy của
thác nước, tiếng gầm thét của thác đổ như oai linh, trỗi dậy, ngự trị, trùm phủ cả núi
rừng; đêm đến phải đối mặt với chim kêu, vượn hú, thú dữ hoành hành, dường như
trên đất Mường Hịch vẫn còn lởn vởn đâu đây dấu chân cọp dữ. Xoa dịu đi cảm giác
sợ hãi về một Tây Bắc dữ dằn là hai câu thơ nhiều thanh bằng lại ấm tình quân dân:
+,-56Cb
&'()"*
Trong hàng trăm hàng nghìn nỗi nhớ Quang Dũng đặc biệt dành một phần trái tim
mình cho đất Mai Châu khi bước vào mùa mới. Quên sao được cảm giác ấm tình quân
dân bên các bản làng khi dừng chân ngơi nghỉ. Chẳng thế mà giọng thơ êm đềm tha
thiết như khúc nhạc tâm tình gợi nhớ gợi thương, như mãi vấn vương một nỗi niềm.
Thử hỏi rằng mùi hương nếp xôi có gì mà sao làm bồn chồn, thao thức tâm hồn Quang
Dũng đến vậy? Đơn giản lắm! Đó là hương vị tích tụ từ sự mặn mòi của đất, từ những
giọt mồ hôi mặn chát của con người, từ thần khí thiêng liêng của xứ sở anh hùng. Hơn
nữa, hương nếp xôi còn hòa trộn cả tình người ấm áp, keo sơn. Vì thế mà theo suốt
cuộc đời những ai đã một thời sống cùng Tây Tiến, hương nếp xôi đã trở thành nhịp
cầu nối bắc quá khứ, hiện tại và tương lai để thêm một lần nhà thơ được trở về với
Mai Châu, được sống với những kỉ niệm của một thời chinh chiến. Còn lại sau một
chặng đường dài hành quân người đọc không nghe hơi thở mệt mỏi, chẳng nghe một
lời than vãn mà chỉ thấy dìu dịu, ngọt lành trong hương nếp xôi, trong tình người thắm
nghĩa. Hoàng Cầm khi xa rời Kinh Bắc mang theo “lúa nếp thơm nồng”, Nguyễn Đình
Thi rời xa Hà Nội mang theo mùi hương cốm mới, còn Quang Dũng xa Tây Bắc nhớ
lắm “hương nếp xôi” – Đây là điểm gặp gỡ với Chế Lan Viên:
+\E(9':M
173
E"R(G@#0
FGYE>Cb5M
Y@"8B;S-'<*
Ta hiểu vì sao Tô Hoài hơn một lần tâm sự: “Đất Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi
nhiều lắm”. Tiếp tục với dòng cảm xúc của Quang Dũng, người đọc nhận ra giữa
không gian núi rừng heo hút, giữa cái thăm thẳm của chốn đại ngàn vẫn hiện lên vẻ
đẹp chân dung người lính Tây Tiến:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A*
Biết bao khó khăn, gian khổ của lính Tây Tiến được Quang Dũng dồn nén vào từ “dãi
dầu” thể hiện sự từng trải nám sạm nắng mưa, dạn dày sương gió. Thế nhưng vẫn phớt
lờ, coi thường hiểm nguy, coi thường cái chết “bỏ quên đời”, thì ra họ là những chàng
trai giàu đức hi sinh, coi cái chết nhẹ, chỉ như khoảnh khắc thiếp đi vì mệt mỏi mà
thôi. Nhà thơ đã thổi bùng lên ánh sáng của lí tưởng anh hùng, của khát vọng diệt thù,
của đấng nam nhi với chí làm trai.
+&5#:oJ:a
](3>:<ia$3*
Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa, lãng mạn, cái nhìn tinh tế, sâu sắc của một họa sĩ
kết hợp với cảm xúc yêu mến nhớ nhung chân thành, Quang Dũng đã làm sống dậy
một thời chinh chiến gian khổ giữa núi rừng hùng vĩ hoang sơ.
Những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo, giọng thơ rắn rỏi với nhiều thanh trắc đã lùi dần,
nhường chỗ cho những nét vẽ tinh tế, mềm mại, uyển chuyển để mở ra một thế giới
mới của Tây Bắc. Tây Bắc không chỉ cheo leo, hiểm trở, lắm thác, nhiều ghềnh mà
Tây Bắc còn rất diễm lệ, có sức hấp dẫn lôi cuốn bởi cảnh thơ mộng, người duyên
174
dáng vì thế mà làm nên giọng thơ ngọt ngào như chất men say, lại du dương chất nhạc
hòa cùng cảm xúc lãng mạn:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Cả không gian đang im lìm, lòng người lắng lại trong sự chờ đợi để được hòa mình
vào đêm văn nghệ ấm tình quân dân. Với những chi tiết tả thực kết hợp với cái nhìn
lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện đêm sinh hoạt văn hóa nơi rẻo cao vùng núi đẹp như một
câu chuyện cổ tích làm say sưa, ngả nghiêng lòng người. Động từ “bừng” diễn tả sự
chuyển biến mau lẹ, đột ngột, một sự đổi thay kì diệu bừng lên ánh sáng, xua tan đi
màn đêm tăm tối của một góc rừng, sưởi ấm không gian, xua tan sương sa lạnh giá
của một miền sơn cước, đồng thời đổi thay tâm trạng của đoàn binh Tây Tiến. Bởi sau
một chặng đường dài, không có một lời than vãn, một hơi thở mệt mỏi mà là niềm vui,
hồ hởi, phấn khởi. Quang Dũng thật khéo léo khi sử dụng từ “bừng” đem đến một
luồng sinh khí mới, hơi thở, nhịp đập của sự sống, của niềm vui, của tình người chứa
chan, của chất men say say người say cảnh. Trước đây, Tố Hữu cũng sử dụng từ
“bừng” để đánh dấu bước ngoặt cuộc đời, khi có ánh sáng lí tưởng cách mạng chiếu
rọi vào tâm hồn… Còn Quang Dũng sử dụng từ “bừng” diễn tả đêm văn nghệ thật
giàu cảm xúc giàu chất thơ. Đêm văn nghệ quần chúng ấy đã trở thành đêm “hội” lung
linh ánh sáng, lóng lánh sắc màu, rộn rã âm thanh và náo nức lòng người. Đặc biệt,
lửa đuốc bập bùng mang hơi thở văn hóa của đồng bào biên cương khi qua lăng kính
tâm hồn nhà thơ đã trở thành “hội đuốc hoa”. “Đuốc hoa” vốn là từ cổ chỉ ngọn nến
thắp sáng trong đêm tân hôn, lúc này trở thành ánh sáng của đêm hội, đêm văn nghệ,
khung cảnh hiện lên vừa cổ kính, vừa hiện đại để lính Tây Tiến như được bước vào
thế giới của huyền thoại để được hòa mình trong cái đẹp đầy bí ẩn của đất và người xứ
lạ phương xa. “Kìa” là biểu hiện của sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng khi có sự xuất hiện
của những cô gái người dân tộc Thái với xiêm y lộng lẫy. Họ đến đêm hội bằng niềm
175
đam mê, bằng vẻ đẹp ban sơ của những con người sinh ra, lớn lên trên xứ sở đại ngàn.
Giọng thơ êm đềm tha thiết đọng lại ở từ “em” nghe thật ân cần, chất chứa bao tình.
Vậy là những thiếu nữ dân tộc Thái trở thành nơi ngưng đọng ánh mắt, tâm hồn của
những chàng trai Hà thành lãng mạn hào hoa, nhạy cảm trước cái đẹp, khao khát kiếm
tìm hạt ngọc trong tâm hồn Tây Bắc. Có lẽ núi rừng cũng thức trọn đêm để cùng
người lính say sưa ngả nghiêng trong tiếng khén, nhịp phách. Giữa ánh sáng lung linh
của “đuốc hoa”, những thiếu nữ đẹp như Hằng Nga lạc giữa vườn cổ tích, như sơn nữ
giữa rừng già trầm mặc, như thiên thần trong sử thi. Tây Bắc là thế, biết níu giữ chân
ai đã một lần đến, biết đánh thức khát khao… Từ tình yêu dành cho đất và người Tây
Bắc nên những câu thơ của Quang Dũng có sự hóa thân của một tài năng, có sự hiện
hình của chất họa; có giai điệu của chất nhạc, có vẻ đẹp e ấp, tình tứ duyên dáng của
con người, có cái kín đáo, e lệ của thiếu nữ miền sơn cước. Giữa “man điệu” – giai
điệu xứ lạ phương xa con người càng trở nên đẹp đẽ hơn, thiếu nữ càng trở nên kín
đáo, dịu dàng hơn trong từng nhịp bước của vũ điệu Lăm-vông đậm chất văn hóa của
núi rừng. Khúc nhạc của rẻo cao vùng núi như lan ngấm thấm tràn, lan tỏa đến vùng
miền đất bạn Lào xa xôi để xây đắp nên hồn thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa,
phóng khoáng. Ai đã một lần sống cùng Tây Tiến, được hòa mình vào đêm văn nghệ,
tâm hồn đều hóa thành thi sĩ.
Chỉ với bốn câu thơ Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh vừa phong phú về đường
nét vừa đa dạng về âm thanh, vừa làm sống dậy bản sắc, phong tục, tập quán của đồng
bào rừng núi, vừa gợi lên vẻ đẹp tâm hồn lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến
đồng thời thêm một lần nhận ra tình quân dân thắm thiết mặn nồng. Cảm nhận về
đoạn thơ này, Xuân Diệu viết: “Đọc đoạn thơ ta như được ngậm nhạc trong miệng,
chẳng hiểu sao thứ nhạc ngân nga trầm bổng của núi rừng Tây Bắc cứ len lỏi thấm sâu
vào lòng người.”.
Nếu đêm văn nghệ đem đến cho người đọc một không khí say mê thì cảnh sông nước
Châu Mộc lại gieo một cảm giác buồn man mác bâng khuâng khi đối mặt với không
gian hoang dại mênh mang:
+,<A8& 7/Q<G
176
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
Đất Châu Mộc vào một buổi chiều sương năm ấy đã trở thành điểm hẹn của nỗi nhớ –
nhớ buổi chiều hành quân đến xứ sở lắm sương nhiều khói. Sương giăng mắc khắp
chốn muôn nơi, sương che lấp đường đi, che khuất bóng người, sương như tấm áo
choàng lảng bảng trùm phủ từng con sông, ngọn suối, sườn đèo. Có lẽ sương khói của
thời gian không đủ để nhòa đi sương khói của Châu Mộc bởi: “Kỉ niệm chẳng là gì
khi thời gian vội xóa – Nhưng sẽ là tất cả khi luôn nhớ về nhau”. Trong kí ức của
Quang Dũng miền đất Châu Mộc luôn luôn ấm nóng cho dù cái địa danh xa xôi cách
trở, hoang sơ, lạnh lẽo mênh mang như bờ tiền sử. Một loạt những từ hỏi: “có thấy”,
“có nhớ” cứ thế trỗi dậy như những lời tự vấn, hỏi chính mình, hỏi để đánh thức một
vùng kỉ niệm, hỏi để dặn lòng mình, hỏi để thêm một lần được sống cùng đồng chí,
đồng đội, sống với miền đất đã từng đặt chân để nhận ra rằng: “Nơi nào quả lòng
chẳng lại yêu thương”. Ấn tượng về Châu Mộc không chỉ là sương khói mà còn là
ngàn lau trắng xóa, nở rộ làm nên đặc trưng của đất biên giới. Lúc này sương giăng,
hồn lau cứ xôn xao trong nỗi niềm nhà thơ tạo cảm giác bâng khuâng xa vắng phảng
phất một nỗi buồn. Lau trắng chiếm lĩnh cả tâm hồn để rồi xao xác, xào xạc mãi trong
tâm hồn những ai đã từng đến rồi đi. Ví như Hoàng Hữu:
+,<A"))G$5b
f#E#A<Cb)*
Quang Dũng không chỉ miêu tả cảnh mà còn gợi được linh hồn của cảnh. Điều đó chỉ
có thể có thể có ở một người nhạy cảm, lắng nghe từng hơi thở của đất trời, tạo vật.
Chẳng thế mà giữa khung cảnh sông nước mênh mang vẫn thấp thoáng đâu đây bóng
dáng con người thật mềm mại, duyên dáng trên chiếc thuyền “độc mộc”. Đó là bóng
dáng của những cô gái dân tộc Thái – sự xuất hiện của họ làm cho nỗi nhớ trở nên vời
vợi hơn, đầm ấm hơn. Phải chăng là sơn nữ đã một thời chở lính Tây Tiến qua sông
177
làm nhiệm vụ, hay là bóng dáng của người mà lính Tây Tiến một thời trộm nhớ, thầm
thương. Con người như đang làm duyên với cảnh, tôn lên cái thần, cái hồn của cảnh.
Đây là nét chấm phá nghệ thuật độc đáo làm nên sự hòa quyện giữa con người với
thiên nhiên – một mối giao cảm. Có người từng nói: “Cảnh dù đẹp đến đâu mà không
xuất hiện tín hiệu của cuộc sống con người thì cũng là cảnh chết”. Để rồi đến lượt
mình, cảnh làm duyên với người – nét tinh tế ấy được Quang Dũng họa trong vẻ
“đong đưa” của những bông hoa dại ven suối. “Đong đưa” chứ không phải “đung
đưa”, “đong đưa” làm cho hoa tự nhiên có nét cử chỉ, điệu bộ, duyên dáng như thiếu
nữ. Dòng nước lũ chảy trôi để lại đôi bờ cỏ cây lau sậy, đặc biệt là những bông hoa
dại ven suối như khẽ vươn mình để làm duyên với nước, làm duyên với người. Từ ý
thơ của Quang Dũng gợi ta nhớ về bông hoa tím giữa dòng sông xanh trong thơ Thanh
Hải. Nếu như Hương Giang là tấm gương để hoa tím soi mình, khoe mình thì trong
thơ Quang Dũng những bông hoa dại – đẹp nguyên sơ của núi rừng – không chỉ làm
duyên với dòng sông mênh mang mà còn làm duyên với con người. Bức tranh sông
nước thật đăng đối, hài hòa chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc dưới bàn tay họa sĩ
tài ba.
Bốn câu thơ là một bức họa thật đơn giản nhưng toàn bích, vừa tinh tế mềm mại, vừa
duyên dáng, thơ mộng và đắm say. Đằng sau bức tranh ấy là khoảng trời riêng dành
cho nỗi nhớ, cảnh thế, tình thế làm sao mà không nhớ, không yêu cho được?
Người lính cụ Hồ đã trở thành bến đậu nghệ thuật, điểm dừng chân khơi nguồn cho
sức sáng tạo không bao giờ vơi cạn trong trái tim người nghệ sĩ. Vẫn còn đó hình ảnh
anh bộ đội áo vải chân không đi lùng giặc đánh trong thơ Tố Hữu hay người lính
miệng cười buốt giá chân không giày trong thơ Chính Hữu. Và rồi Quang Dũng đã
làm nên “Tây Tiến” – một bài ca không bao giờ quên, bài ca ấy đã thắp sáng lên ngọn
lửa của lí tưởng, bài ca soi sáng rạng ngời chân dung người lính cụ Hồ và cũng là bài
ca neo đậu trong sâu thẳm trái tim người dân đất Việt mỗi khi tìm về lịch sử. Quang
Dũng đã tinh lọc những nét khái quát nhất, tiêu biểu nhất để tạc dựng một bức tượng
đài nghệ thuật bất hủ về hình tượng người lính Tây Tiến. Bức tượng đài ấy viết lên
bằng cảm hứng lãng mạn nhuốm màu sắc bi hùng, bi tráng chứ không hề bi thương, bi
178
lụy. Chân dung người lính Tây Tiến được nhà thơ khắc họa bằng những nét vẽ gân
guốc, kì lạ, khác thường:
+83Ceb
"5>:@3'*
Cái lạ hóa, gân guốc bắt nguồn từ hiện thực, thực đến từng chi tiết, biểu hiện qua cụm
từ “không mọc tóc”. Thoáng đầu, người đọc cứ ngỡ họ là những “quái đản”, những
khổng lồ không tim. Nhưng không! Đây là hậu quả của căn bệnh sốt rét rừng tác oai,
tác quái đến mức rụng hết tóc đầu, biến họ trở thành những anh “vệ trọc”. Từ hiện
thực nghiệt ngã ấy, ta nhận ra cái dữ dội khốc liệt của chiến tranh và tội ác của thực
dân Pháp, đồng thời nhận ra ý chí vượt trội của những chàng trai đất Hà thành ngày
đêm đối mặt với bom rền đạn réo, vật lộn với sốt rét để giành giật lấy sự sống. Mặc dù
vậy nhưng từ giọng thơ ta vẫn nhận ra khẩu khí của người lính cụ Hồ phớt lờ, coi
thường cái chết. Căn bệnh sốt rét đã hơn một lần xuất hiện trong thơ, Chính Hữu viết:
+\.-0-54
9#<A.B#><-$*
Còn hình ảnh anh vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu thì:
+]ee$#
#6>.O*
Dường như những dằn vặt, khổ đau vì sốt rét được Chính Hữu, Tố Hữu nén vào ngôn
từ để vơi đi vẻ tiều tụy. Còn Quang Dũng không hề né tránh, che đậy mà hiện thực
trần trụi của cuộc kháng chiến chống Pháp được khúc xạ qua bút pháp lãng mạn trở
thành cách nói riêng mang khẩu khí, mang chất lính. Nói như tiến sĩ Đoàn Hương thì:
“Thơ có sức hấp dẫn bởi vị muối của đời – suy cho cùng cái vị mặn ấy chính là hiện
thực.”. Vậy nên hiện thực mặn chát của cuộc kháng chiến chống Pháp được Quang
Dũng tái hiện nổi hình, nổi sắc trong thơ. Từ vẻ bên ngoài của người lính Tây Tiến gợi
ta nhớ về hình ảnh quân đội nhà Trần bừng sáng hào khí Đông A: “Tam quân tì hổ khí
179
thôn ngưu”. Thật vậy cho dù đầu rụng hết tóc, da dẻ xanh xao vàng vọt lên màu bệnh
tật: “quân xanh màu lá” nhưng lính Tây Tiến vẫn giữ được vẻ uy nghi lẫm liệt như
hùm hổ chốn rừng thiêng, như chúa tể sơn lâm “dữ oai hùm”. Bao nhiêu sức mạnh nội
lực, vẻ cam trường của người lính như dồn nén vào câu chữ để tôn lên sức mạnh kì
diệu của con người bắt nguồn từ lòng yêu nước đang rần rật chảy trong từng đường
gân, thớ thịt của những chàng trai Hà thành. Quang Dũng đã phát huy triệt để hiệu quả
của biện pháp đối lập giữa vẻ bề ngoài và nội tâm, nhìn vẻ ngoài người lính vừa tiều
tụy, vừa cam trường, vừa mang khí phách của một hiệp sĩ, vừa như những người
khổng lồ không có trái tim. Thế nhưng đó chỉ là lớp vỏ bao bọc hạt ngọc tâm hồn –
tâm hồn hào hoa, lịch lãm, lãng mạn và giàu đức hi sinh:
+ E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Ánh “mắt trừng” chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải chăng đó là ánh mắt căm phẫn,
uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ thù xâm lăng, cũng có thể là ánh mắt đau đáu
hướng về quê hương, ánh mắt bồn chồn, thao thức thăm thẳm suy tư nặng trĩu nỗi
niềm. Đằng sau ánh mắt ấy là cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng chiến
thắng, hứa hẹn ngày trở về, đôi khi giữa ánh mắt xa xăm, rạo rực, khắc khoải xen lẫn
giấc mơ về Hà Nội, nhớ Hà Nội – dải đất thiêng ngàn năm văn hiến, nhớ Hà Nội bởi:
+,-86#88G#A95W
&D81>Q5<
,@#<#E_'
?$<A)<)G)A8SE*
Những ai đã từng sống và gắn bó với Hà Nội khi đi xa đều vương vương một nỗi
buồn, đều mang theo một nỗi nhớ; nhớ phố cổ thâm nghiêm, nhớ lá vàng rơi trên vai
người thiếu nữ, lá vàng đậu trên rèm cửa. Ai đó lại xao xác trong tâm hồn bởi tiếng
rao đêm hay Nguyễn Đình Thi nhớ nhiều và thật nhiều “mùi hương cốm mới” mỗi độ
180
thu về. Còn người lính Tây Tiến xa Hà Nội mang theo “dáng kiều thơm”. Một cách
cảm nhận thật nho nhã, lịch lãm, nỗi nhớ trở nên vời vợi hơn, đằm thắm, ngọt ngào, da
diết hơn. Dáng kiều thơm – bóng dáng của những thiếu nữ Hà thành dịu dàng trong tà
áo dài duyên dáng bên Tây Hồ. Phải chăng đó là bóng hồng, bóng liễu đã một thời để
nhớ, để thương. Vì thế mà nỗi nhớ còn đượm mùi sách vở, tôn lên vẻ lịch lãm của
người Hà Nội:
+&V{3
C5M<A#\*
Đây không phải là cái “mộng rơi mộng rớt” của những trí thức tiểu tư sản mà là vẻ
đẹp tâm hồn rất hào hoa, lịch lãm, lãng mạn của những chàng trai “xếp bút nghiên lên
đường bảo vệ Tổ quốc”. Do đó chính nỗi nhớ về thiếu nữ Hà thành đã tiếp thêm sức
mạnh để người lính cất cánh bay lên, chiến đấu, chiến thắng trở về. Đây không chỉ
đơn thuần là vẻ đẹp tâm hồn lính Tây Tiến mà còn là phẩm chất của người lính cụ Hồ
thời chống Pháp. Ví như người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài
hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”. Hay Chính Hữu tưởng
tượng nơi quê nhà: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Quang Dũng viết về lính Tây Tiến không chỉ bằng chất liệu hiện thực mà bằng nguồn
cảm hứng lãng mạn bay bổng, bằng sự lí tưởng hóa để rồi hơn một lần ta nhận ra lính
trong thơ ông không chỉ lãng mạn mà còn giàu đức hi sinh:
+gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"*
Giọng thơ bỗng nhiên lắng xuống da diết hơn, đắm sâu vào cõi lòng người đọc, dấy
lên nỗi mất mát tang tóc đau thương được dồn nén trong từ “rải rác”. Thật vậy! Trên
những chặng đường hành quân bao đồng chí, đồng đội của Quang Dũng ngã xuống,
gửi thân xác mình nơi khe suối sườn đèo, cứ thế nỗi đau triền miên, nỗi đau này chưa
vơi, nước mắt này chưa ráo thì nỗi đau khác đã tới cọ cứa vào trái tim những người
còn sống. Một loạt những từ Hán Việt: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” được sử dụng
181
để trang trọng hóa, cổ kính, vĩnh hằng và bất tử hóa đức hi sinh của lính Tây Tiến. Có
biết đâu những nấm mồ xanh cỏ, nơi ải nước xa xôi, hoang vu, lạnh lẽo mãi trở thành
mộ chí tôn nghiêm mà đời đời Tổ quốc ngợi ca, ngưỡng vọng. Người xưa có câu: “Cổ
lai chinh chiến kí người hồi – Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về” – Đó là hiện thực
tất yếu từ ngàn đời nay, đặc biệt trong thời đại Hồ Chí Minh nối tiếp trang sử truyền
thống cha ông càng không thể làm ngơ trước họa xâm lăng. Lính Tây Tiến cũng vậy,
họ nằm xuống nhưng không mất đi mà hóa thành hồn thiêng sông núi để sống muôn
đời với dân tộc Việt anh hùng. Nói như Nguyễn Khoa Điềm thì “không ai nhớ mặt đặt
tên nhưng họ đã làm ra đất nước”. Từ câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” gợi ta
nhớ về người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”- Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm:
+?$WQXb''f
o)#:s:s(3
&)WQXG<A
,34o23e$*
Nếu như tử sĩ, chinh phu nằm lại chiến trường trong sự lãng quên vì chiến tranh phi
nghĩa thì lính Tây Tiến ngã xuống – đức hi sinh thầm lặng ấy mãi mãi in dấu trong
lịch sử, trong trái tim mỗi thế hệ. Nhà thơ tiếp tục khắc họa đứ hi sinh của đồng chí
đồng đội – những con người sẵn sàng hiến dâng cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình
cho non sông đất nước: “chẳng tiếc đời xanh”. Ý thơ vút lên từ giọng điệu trầm hùng
bộc lộ ý chí tư thế, tâm thế của lính Tây Tiến vào chiến trường làm nhiệm vụ hiến
dâng cuộc đời mà không mảy may nuối tiếc cho dù họ là học sinh, sinh viên, trí thức ở
tuổi hai mươi lăm ước mơ, nhiều khát vọng:
+?<f8:3:4>
?<f$R#3b!3*
Thế mà khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc trong giờ phút lâm nguy, họ sẵn
sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; lấy máu mình tô thắm cho lá cờ Tổ quốc,
182
xương trắng rơi, máu đào rỏ để gìn giữ hoa độc lập, trái tự do. Âm hưởng của câu thơ
đưa ta trở về với hào khí thời kì chống Pháp để âm vang đâu đây lời bài hát: “Đoàn vệ
quốc quân một lần ra đi – Nào có chi đâu ngày trở về”. Với cái nhìn lãng mạn, nhuốm
màu sắc bi hùng bi tráng, người lính trong thơ Quang Dũng còn mang dáng dấp của
tráng sĩ thời chiến quốc cương quyết, dứt khoát ra đi vì nghĩa lớn.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đầy cam go, khốc liệt với bao mất mát, đau thương,
song chính lí tưởng anh hùng của những con người sẵn sàng xả thân như lính Tây
Tiến đã làm nên dáng hình Tổ quốc để rồi ta thấm thía hơn lời dặn của Đặng Thùy
Trâm: “ Có một ngày nào đó, bạn nắm tay người thân đi trên một con đường chớ quên
rằng dưới chân mình là đá sỏi, là hòn đất thấm máu cha ông. Có một ngày nào đó, bạn
cùng người thân ngắm nhìn một vì sao trên trời, sẽ có lúc vì sao ấy màu đỏ – màu máu
của biết bao người đã xếp ước mơ vào balo rồi nằm yên trong lòng đất mẹ.”. Lính Tây
Tiến là những người như thế.
Đoạn thơ khép lại một lần nữa tô đậm đức hi sinh của những chàng trai đất Hà thành
được Quang Dũng thể hiện qua âm hưởng thơ trầm hùng, bi tráng:
+h33./8G
!B56C187*
Quang Dũng đã có lần tâm sự: “Lính Tây Tiến ngã xuống, manh chiếu không đủ che
thân, đồng chí, đồng đội vào những bản làng xa xôi để xin chiếu, khi hiểu rõ mục đích
của việc sử dụng chiếu, già làng không cầm được nước mắt, họ cùng nhau đan những
phên nứa cho các anh bó gối thi hài đồng đội”. Vậy là “áo bào” được lý tưởng hóa –
một hình ảnh tượng trưng để xua đi cái bi thương, bi lụy, lấy lại cái bi hùng, tráng lệ,
đồng thời để trang trọng, vĩnh hằng, bất tử hóa. Áo bào vốn được dùng cho vua chúa
xưa để khơi gợi con người mang trong mình lí tưởng đẹp. Trong những năm bom rơi
đạn nổ, chất lãng mạn, bay bổng vượt lên trên hết thảy trở thành nơi trú ngụ của
những tâm hồn đẹp. Vậy nên hình ảnh “áo bào” trong câu thơ như một liều thuốc xoa
dịu nỗi đớn đau, an ủi vong hồn người đã khuất.
183
Cụm từ “về đất” là cách nói giảm, nói tránh, gợi sự thanh thản, coi như các anh đã
hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó để về tựu nghĩa anh hùng như An Dương Vương
sau khi đắp lũy xây thành, phân biệt rạch ròi việc nước tình nhà để rồi cùng Rùa Vàng
về với biển khơi; như Thánh Gióng năm xưa nhổ tre đại phá giặc Ân rồi cưỡi ngựa
bay về trời để bao ánh mắt ngước lên đầy ngưỡng vọng. Hôm nay, lính Tây Tiến về
với đất mẹ, đất mẹ sinh ra anh, đất cũng mở rộng vòng tay đón các anh về trong tình
yêu thương, đùm bọc, nâng đỡ và sẻ chia. Vâng! Cho dù khâm liệm bằng manh chiếu,
phên nứa nhưng các anh sẽ được sưởi ấm bằng chính tình yêu của mảnh đất mà: “Mẹ
Âu Cơ đã đi một vòng Trái Đất – Và chọn hình tia chớp để sinh con”. Quang Dũng đã
khơi gợi những tình cảm sâu xa đến tận đáy lòng người đọc để thấm thía hơn những
người con đã hi sinh hóa hình Tổ quốc.
Tiễn đưa các anh về với đất mẹ không phải là những giọt nước mắt bi ai, não nuột của
đồng chí, đồng đội, dường như nước mắt đã lặn vào trong, đọng thành khối chôn chặt
nơi sâu thẳm trái tim đồng đội – những người còn sống: “Tiễn anh không nước mắt –
Mà lòng đau như cắt”. Đưa tiễn người lính là tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã,
như khúc nhạc trầm hùng mà thiên nhiên tấu lên xua tan bi thương. Dường như tất cả
nội lực của câu thơ được dồn vào từ “gầm” nghe như tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào
của thiên nhiên sự hóa thân của lính Tây Tiến vào sông núi. Có lẽ đức hi sinh của các
anh đã vang thấu đến tận trời cao, thấm sâu vào lòng đất mẹ, động địa cả núi rừng Tây
Bắc. Vì thế mà sông Mã “độc hành” tiễn đưa. Một lần nữa Quang Dũng bất tử một
thời Tây Tiến bởi chừng nào dòng sông Mã còn tồn tại trên dải đất hình chữ S này, thì
chừng ấy những gì thuộc về Tây Tiến vẫn còn neo đậu, còn sống, khắc tạc trong lòng
bao thế hệ. Hôm qua, hôm nay và mãi mãi mai sau dòng sông Mã khi dữ dội, khi hiền
hòa và tha thiết chảy, chảy đến đâu, mang theo một thời Tây Tiến đến đó. Tố Hữu
viết:
+&b@)1565MQW
&b>bGW
&b@5Ae
184
&b3<A<5|Q#*
Lính Tây Tiến là thế đó, họ đã làm nên lịch sử, họ đã trở thành bất tử và chính họ đã
viết lên bài ca cuộc đời của những con người biết hi sinh vì Tổ quốc.
Đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của Quang Dũng, tô đậm những nét phi
thường, sử dụng triệt để thủ pháp tương phản giữa hình thức và nội tâm, giữa hiện
thực khốc liệt với tư thế kiêu hùng kết hợp với cách sử dụng từ Hán Việt, nghệ thuật
nói giảm nói tránh, cường điệu… Tất cả đủ sức tạc dựng bức tượng đài nghệ thuật về
hình tượng người lính Tây Tiến tiêu biểu cho anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ chống Pháp.
Cảm nhận về bài thơ “Tây Tiến”, Giang Nam viết:
+6<A5WCb
85-)5-)87#0
3<AG2G
Q98A.-1QL*
KORW
Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng
mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận
ngày nay. Và "Tây Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà thành.
Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác chính là
Quang Dũng. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu
Chanh, ông viết bài thơ" Nhớ Tây Tiến" sau in trong "Mây đầu ô" đổi tên thành Tây
Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở
đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
= !"#$2
,-./#01-.=
185
Tác giả gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành quân của
đoàn quân. Quang Dũng nhớ về đồng đội, "nhớ về rừng núi". Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào,
da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi". Đặc sắc nghệ thuật của hai câu thơ
đầu chính là cách gieo vần "ơi" và từ láy "chơi vơi". Bằng sự thành công của đặc sắc
ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lòng của mình. Nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn
cào, da diết khôn nguôi. Nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân.
Một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: Sài Khao, Mường Lát,
Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là những địa danh heo hút, hoang vu, là
những minh chứng cho chặng đường đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.
=P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386=
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang Dũng. Trong
đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã "mỏi" nhưng con đường hành
quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mộng "hoa về trong đêm hơi". Những câu thơ tiếp theo
thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành quân. Một loạt các từ ngữ
diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã diễn tả một cách chân thực về thiên nhiên
hoang sơ nơi rừng núi:" dốc lên khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm đường đi heo hút".
Câu thơ "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" như bị chặt đôi đã diễn tả thật rõ sự gập
ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ "ngàn
thước lên cao ngàn thước xuống". Chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp
nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kì vĩ ấy là hình ảnh "súng ngửi trời". Đây
là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên
nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như
mũi súng có thể chạm đến đỉnh trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của
người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù
nào cũng đánh thắng". Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất
vững vàng:
186
=\4:!:BC<-@
LLLLLLLLLLLL
F686 <A?Me)#6<A=
Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của cuộc hành
quân. Đã biết bao người đã ra đi "anh bạn dãi dầu không bước nữa". Nhưng hình ảnh
ấy qua lời thơ Quang Dũng không hề bi thương mà hào hùng "gục lên súng mũ bỏ
quên đời". Người chiến sĩ hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang
"chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào
lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng không ngoa "tượng đài tự do được
xây bằng máu và nước mắt". Những khó khăn mới lại đến với đoàn quân. Đó là hiểm
nguy rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập "cọp trêu người", "thác gầm thét". Nhưng
không vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ còn lạc quan nhớ đến sự
ấm áp của con người nơi đây "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm
nếp xôi". Cặp từ sáng tạo "mùa em" đã chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.
Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:
=3#40567893
LLLLLLLL
#:;<-53838<=
Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. Với âm hưởng vui tươi lạc quan,
tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm liên hoan văn
nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang Dũng khiến ông không
thể nào quên. Hình ảnh những cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, e ấp trong điệu
nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng "kìa em". Bằng tâm hồn lãng
mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của Châu Mộc trong chiều sương với "hồn
lau", "hoa đong đưa". Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh cô lái đò trên dòng
187
nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh vật đã được vẽ thành bức
họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.
Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:
=83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/=
Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. "Đoàn binh
không mọc tóc", "quân xanh màu lá" là kết quả của những trận sốt rét rừng. Thời kì
này, chiến sĩ của ta chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn lương
thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu "áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh
vá”, "chân không dày". Chiến sĩ ta nhiều khi chết bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù
với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, uy hùng không hề yếu ớt "
dữ oai hùm", "mắt trừng". Đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của
nhà thơ. Quyết tâm giết giặc "gửi mộng qua biên giới" không làm giảm sự lãng mạn
của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người con gái Hà thành.
=gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187=
Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao trùm khổ
thơ. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. Cái
chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi "chẳng tiếc đời xanh"
để đem lại nền độc lập cho dân tộc. Họ ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu
máu nóng nhiệt huyết. "Áo bào thay chiếu anh về đất" như một cách nói giảm nói
188
tránh. Người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh sông
Mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.
=<A8Ci<-
F<A8V7)
\56'"G
?$./B,`V./"=
Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến. Họ ra đi
không hề "hẹn ước". Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm giành lại độc
lập cho dân tộc. Tinh thần " một đi không trở lại" của người lính Tây Tiến cũng như
những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ.
Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã tạo ra
một thi phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rất rõ qua
lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, "Tây Tiến" xứng
đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.
KOR
Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ
với đầy những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình
tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang
vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng tử của những người con Hà thành. Bài thơ Tây
Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà
người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi
bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời
và chiến đấu anh dũng kiên cường.
Quang Dũng (1921 – 1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê gốc ở Hà Tây (nay là Hà
Nội). Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc.
Thế nhưng nhắc đến Quang Dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông
189
vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần lãng mạn hào hoa, đặc biệt là khi ông viết
về người lính Sơn Tây của mình. Những sáng tác chính của ông gồm có: Mây đầu ô
(1986), Thơ văn Quang Dũng (1988). Năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị
khác, tại Phù Lưu Chanh ông đã viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến sau đổi tên thành Tây
Tiến và được in trong tập thơ Mây đầu ô.
Mở đầu bài thơ tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang
sơ mà mĩ lệ cùng với cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến. Những người
lính trẻ chẳng ngại hiểm nguy họ cứ tiến về phía trước với tinh thần hồn nhiên, lạc
quan của tuổi trẻ :
+ !"#$K
LLLLLLL
&'()"*
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là nỗi nhớ da diết của tác giả khi nghĩ về
những kỷ niệm xưa, tại đơn vị cũ của mình. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ cất
lên như tiếng lòng nhà thơ, tiếng gọi tha thiết đầy tiếc nuối và chứa đựng đầy những
hoài niệm trong quá khứ huy hoàng. Nhà thơ nhớ Tây Tiến bằng nỗi nhớ “chơi vơi”
thật da diết, mênh mông và sâu nặng. Nỗi nhớ luôn thường trực, bao trùm lên cả
không gian và trái tim người lính.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sống động với những địa danh “sông Mã”, “Sài
Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “ Mai Châu” đây là những địa
danh gắn bó với binh đoàn, là địa bàn hành quân của những người lính Tây Tiến. Một
vùng đất xa xôi, hiểm trở nhiều lần tưởng chừng như làm lu mờ ý chí chiến đấu của
người lính cụ Hồ, “sương lấp đoàn quân mỏi” địa hình núi cao cùng với những lớp
sương dày đặc phủ kín lối đi, đoàn quân đang mệt mỏi giờ đây lại phải đối diện với
cái lạnh cắt da của Tây Bắc. Địa hình núi non hiểm trở “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm
thẳm” đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh
khúc khuỷu, có khi lại “thăm thẳm” như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính
190
có thể bỏ mạng ngay tức khắc. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại
thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn
rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một
cách tài tình để miêu tả sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc “Ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống” những câu thơ sinh động đầy sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung
cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy “oai
linh thác gầm thét”, đêm đêm “cọp trêu người”.
Quả là một nơi “rừng thiêng nước độc” thế nhưng những khó khăn ấy cũng chẳng thể
nào cản bước chân người lính, họ vẫn đi với sự anh dũng kiên cường và trong đôi mắt
người lính thì miền Tây Bắc lại là một vùng đất thơ mộng trữ tình và chứa chan tình
người. Những hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, “mưa xa khơi” thật huyền ảo tạo xúc
cảm thư thái, nhẹ nhàng cho người đọc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị,
nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây
Tiến.
Quang Dũng miêu tả thiên nhiên núi rừng rộng lớn mênh mông, hiểm trở như thế
chính là để làm nổi bật lên hình tượng người lính trên chặng đường hành quân gian
khổ, hy sinh của họ. Đoàn quân đã đi ròng rã nhiều ngày liền họ thật sự đã kiệt sức,
lúc này đây “đoàn quân mỏi” cần được nghỉ ngơi để lấy lại sức lực, tinh thần bước
tiếp. Hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” là cách nói giảm, nói tránh của
Quang Dũng, có những người lính đã hy sinh nơi chiến trường chẳng thể nào bước
tiếp cùng với đồng đội. Tác giả nhắc đến cái chết một cách gián tiếp để tránh gây nỗi
đau quá sâu sắc, làm giảm di ý chí chiến đấu của đoàn quân. Những người lính thật
đáng khâm phục họ sẵn sàng hy sinh quên mình cho Tổ quốc, họ trẻ trung ngang tàn
và rất yêu đời “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chẳng thể
làm người lính run sợ, tâm hồn họ vẫn bay bổng tinh nghịch xen lẫn sự lãng mạn tài
hoa.
Những khổ thơ tiếp theo tác giả gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp, sâu nặng của tình
quân và dân trong những đêm liên hoan tưng bừng náo nhiệt:
191
+3#40567893
LLLLLLLLL
#:;<-53838<*
Binh đoàn Tây Tiến gắn bó với chiến trường suốt nhiều năm trời, có biết bao kỷ niệm
hằn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Sau những ngày chiến đấu vất vả, gian lao
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” những chàng trai cô gái nắm tay nhảy điệu nhạc
“e ấp” của dân tộc thiểu số vùng cao. Vẻ đẹp của con người nơi đây thật lung linh, bí
ẩn có chút hoang dại làm say đắm tâm hồn biết bao người lính trẻ hào hoa, lãng tử nơi
Hà thành. Cùng với đó là cảnh sông nước Tây Bắc một chiều sương thật lãng mạn
nhưng phảng phất nét buồn, như nỗi khắc khoải lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh
của dân tộc, trước tình hình chiến sự đang đến hồi cam go quyết liệt.
Đoàn binh tiếp tục cuộc hành quân chiến đấu, những người lính được tác giả khắc họa
như những tượng dài hiên ngang bất diệt, chân dung họ hiện lên với vẻ đẹp vừa bi
tráng lại rất tài hoa, lãng mạn :
+83Ceb
2LLLLLLLLLLLL
!B56C187*
Chất bi tráng lẫm liệt được thể hiện với khí thế ngút trời “Tây Tiến đoàn binh không
mọc tóc” đây là một hình ảnh dữ dội và hết sức mạnh mẽ của người lính, dù ở trong
rừng sâu đối diện với căn bệnh sốt rét hoành hành, da có xanh nhợt đi vì bệnh tật thì
chưa bao giờ họ thôi quyết tâm, kiên cường chiến đấu. Người lính khoác trên mình bộ
quân phục màu xanh lá mang theo bao ước mơ, hy vọng vào một tương lai tươi sáng,
một đất nước không còn bóng quân thù. “Mắt trừng”, “dữ oai hùm” thể hiện khí thế
ngang tàn, mạnh mẽ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Thế nhưng đau xót thay, người
lính Tây Tiến cũng có khi bỏ mạng nơi chiến trường “rải rác biên cương mồ viễn xứ”,
những nấm mồ vô danh nơi biên giới họ nằm xuống khi tuổi đời còn quá trẻ, bỏ lại cả
192
tương lai, bỏ lại cả mẹ già đang trông ngóng nơi quê hương yêu dấu. Người lính thật
đáng trân trọng, họ hy sinh cho Tổ quốc mà chẳng một phút nao núng sợ hãi “chẳng
tiếc đời xanh”. Sự ra đi của họ khiến cho trời đất phải tiếc thương đưa tiễn, dòng sông
Mã lại xuất hiện cuối bài như tấm lòng trân trọng của nhà thơ muốn gửi gắm tiễn đưa
người lính ở những phút giây cuối đời, những người lính vô danh ấy đã vĩnh viễn nằm
lại nơi chiến trường khốc liệt.
Chân dung người lính còn được tác giả miêu tả qua vẻ hào hoa, lãng tử. Họ đều là
những chàng trai thành phố vì nghiệp lớn mà rời bỏ nơi nơi phồn hoa đô thị. Những
chàng ấy đang còn tuổi trẻ rạo rực với những mộng tưởng, khát khao yêu đương “gửi
mộng qua biên giới”, họ mơ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp, dịu dàng như nàng
Kiều. Tất cả tạo nên một hình ảnh người lính trẻ trung, yêu đời với những khát khao
hạnh phúc mãnh liệt của tuổi trẻ.
Đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng định quyết tâm của đoàn
binh, đó cũng là lời thề trung thành với tổ quốc sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc :
+<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./B,`V./"L*
Người lính Tây Tiến kiên cường, tự tin thể hiện một tinh thần chiến đấu đầy nhiệt
huyết “người đi không hẹn ước”, họ ra đi chẳng hẹn ngày trở lại, đi với khí thế sẵn
sàng hy sinh để bảo vệ cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù biết chặng đường có
“thăm thẳm” chia phôi thế nhưng người lính đã thề với đất nước một lời thề sắc son
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Tâm hồn người lính dường như đã vượt qua những
mơ ước cá nhân tầm thường, giờ đây họ mang trên vai mình trọng trách sứ mệnh vô
cùng to lớn: Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho độc lập dân tộc.
193
Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao
mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây
dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hai chất thơ ấy không
thể tách rời mà hoà quyện vào nhau tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Hình tượng
thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ được xây dựng làm nền góp phần tô đậm vẻ đẹp của
người lính Tây Tiến lạc quan, yêu đời.
KOR
Quang Dũng là một nhà thơ rất đặc biệt, bởi ông không chỉ là một nhà thơ cầm bút
sáng tác mà còn là một người lính cầm súng đánh giặc. Có lẽ bởi vì vậy mà những bài
thơ của Quang Dũng luôn gắn liền với hình ảnh những người lính, cũng là những
người đồng đội của ông. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Tây Tiến.
Với bút pháp lãng mạn xen lẫn với tả thực, bài thơ đã khắc họa thật thành công hình
ảnh đoàn binh Tây Tiến với khí thế hiên ngang, tâm hồn thơ mộng trong thời kì kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết với đoàn quân của mình được vang lên trong tâm
thức của nhà thơ:
} !"#$2K
,-./#012-.L=
Nhớ về đồng đội của mình, nhà thơ nhớ ngay đến con sông Mã, nó là con sông đã
cùng những người chiến sĩ đi qua bao khó khăn, thử thách, là chứng nhân lịch sử cho
cuộc chiến đấu anh dũng, oai hùng của các anh. Bởi lẽ, dòng sông Mã là con sông
chảy dọc theo một loạt các địa điểm mà những người lính hành quân ở vùng biên giới
phía Bắc: Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn. Mỗi một nơi dừng chân mà người
lính đi qua, họ có thể không nhớ hết nhưng hình ảnh con sông luôn in hằn trong tâm
thức của những người chiến sĩ. Nhớ về sông Mã, nhà thơ cất tiếng gọi thân thương:
"Tây Tiến ơi!" Nỗi nhớ như tràn về, nhà thơ nhớ núi rừng, nhớ những người bạn đồng
194
hành trong những năm tháng gian lao, một nỗi nhớ chơi vơi không nắm bắt được. Bao
nhiêu kỉ niệm dần hiện lên trong trí nhớ của Quang Dũng:
=P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386L=
Nếu ở hai câu thơ đầu, khi kí ức chưa rõ ràng, nhà thơ nhớ về hình ảnh hiện hữu nhiều
nhất là con sông Mã thì ở đây, mọi thứ đã dần hiện ra rõ nét hơn. Tác giả nhắc lại
những tên làng, tên bản, nơi những người chiến sĩ dừng chân. Đêm xuống, đoàn binh
Tây Tiến đã thấm mệt sau cả một ngày dài chinh chiến. Trong khoảnh khắc dừng chân
ngắn ngủi, người lính vẫn cảm nhận được thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc thật thơ
mộng, trữ tình "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những chặng đường hành quân khó khăn, gian khổ khiến người lính mỏi mệt được
khắc họa ở các câu thơ tiếp theo:
=956C1CU:9V
?(31$Q1W#A
,<-563<-"9
,T<"C=
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" như vẽ lên
một khung cảnh thiên nhiên với địa hình hiểm trở, như thách thức sự chịu đựng của
con người. Núi rừng Tây Bắc hoang vu, khó lường với những khó khăn chồng chất
dọc trên đường hành quân của người lính. Nhà thơ đã rất khéo léo khi sử dụng biện
pháp nghệ thuật đối lập: "Ngàn thước lên cao" - "Ngàn thước xuống", gợi tả độ cao
cũng như độ sâu hiểm hóc, chỉ một bước sẩy chân cũng có thể để lại hậu quả khôn
lường. Nhưng trong khó khăn ấy, qua con mắt của người lính, ta vẫn thấy có chút gì
đó thật thơ mộng "súng ngửi trời". Đứng trên độ cao có thể nhìn thấy mọi cảnh vật,
người lính đánh mắt nhìn ra phía xa, thấy một căn nhà của bản làng như là nỗi nhớ với
quê hương của mình: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
195
Phải chịu đựng vô vàn những thách thức, đã có lúc người lính gục xuống:
=\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A=
Cụm từ "bỏ quên đời" cho thấy khí thế bất khuất, oai hùng của các anh, trong phút
giây nghỉ chân dọc đường, người lính quên hết mọi âu lo bộn bề của cuộc sống. Hình
ảnh thơ còn ngụ ý nói đến cái chết của những người lính, họ đã hi sinh vì Tổ quốc
nhưng nhà thơ lại miêu tả sự hi sinh ấy thật hiên ngang. Những tưởng bao khó khăn
của người lính chỉ dừng lại ở đó, nhưng Quang Dũng còn hé lộ thêm cho người đọc
những hiểm nguy khác mà đoàn binh Tây Tiến phải đối mặt:
=&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A=
"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa khắc họa những hiểm
nguy đe dọa tính mạng người lính. Vượt lên nghịch cảnh đó, người chiến sĩ nhớ đến
những gì đã thúc đẩy các anh có động lực để bước tiếp:
=,-56Cb
&'()"=
Hai câu thơ cuối của khổ thơ đầu tiên là hình ảnh thơ đầy thi vị. Nỗi nhớ lại cất thành
lời "nhớ ôi" là một nỗi nhớ da diết của người lính, các anh nhớ về những bữa cơm
thơm mùi khói, mùi nếp của những người dân nơi núi rừng Tây Bắc đã tiếp đón các
anh. Dù thiếu thốn nhưng họ vẫn chiêu đãi các anh bằng những gì chân thành nhất,
làm sao quên được những bữa cơm thắm đượm tình dân - quân chỉ có trong lịch sử.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ là những kỉ niệm của người lính trong đêm liên hoan văn
nghệ:
=3#4056e893
196
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$=
Cụm từ "bừng lên" gợi tả một không khí vui tươi, náo nhiệt, những người chiến sĩ
cùng với người dân thắp sáng ngọn đuốc, làm nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh "ngọn
đuốc hoa". Câu chữ, lời thơ tình tứ "kìa em" cho thấy cách xưng hô thân mật, gợi tả
tình cảm thắm thiết giữa quân và dân. Người lính say mê những khúc hát, điệu nhảy
của người dân tộc ở nơi đây. Đó là những khúc hát dân ca Thái, dân ca Lào. Tất cả
như xây đắp nên tâm hồn người lính, khiến cho họ trở nên lãng mạn, bay bổng hơn
bao giờ hết. Chất thơ của người chiến sĩ được thể hiện qua cái nhìn với thiên nhiên ở 4
câu thơ tiếp theo:
=,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<=
Hình ảnh "người đi" là sự chia tay của người lính với những người dân đã cưu mang
họ, người lính ra đi trong một chiều sương mờ ảo. Trong làn sương ấy thấp thoáng
những hình ảnh "cỏ lau", "dáng người trên độc mộc" và đặc biệt là hình ảnh "hoa đong
đưa". Thiên nhiên hiện lên thật buồn, đó là nỗi buồn man mác, lưu luyến khi phải chia
xa. Người lính phải tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ.
Nhà thơ Quang Dũng miêu tả hình ảnh chân dung người lính Tây Tiến thật ngang tàn
ở khổ thơ cuối:
=83Ceb
"5>:@3'
197
E#0W7R6-
F6?,7:>C/=
Chân dung người lính hiện lên thật khác lạ "không mọc tóc". Nhà thơ đã đảo từ
"không" lên phía trước, cách nói "không mọc tóc" chứ không phải "tóc không mọc"
cho thấy tinh thần bất khuất, hiên ngang của người chiến sĩ Tây Tiến. Quân xanh màu
lá ngụ ý chỉ làn da xanh xao của họ. Như vậy, người lính phải chịu những cơn sốt rét
rừng, khiến cho làn da của họ không còn hồng hào mà trở nên xanh xao, gầy guộc
cùng với mái tóc rụng hết. Trong hiện thực tàn khốc đó, người lính vẫn thản nhiên,
ung dung với khí thế ngang tàn, không thèm mọc tóc.
Nhưng nhà thơ Quang Dũng không chỉ miêu tả chân dung người lính Tây Tiến mà còn
cho thấy tâm hồn của họ:
= E#0W7R6-
F6?,7:>C/=
Người lính nhớ về quê hương tha thiết. Khi nhớ về quê hương, trong tâm thức của
người chiến sĩ hiện ra hình ảnh "dáng kiều thơm", đó có lẽ là hình ảnh người yêu,
người đang mong ngóng ngày họ trở về. Nhưng họ cũng chẳng rõ ngày mình trở về có
được toàn vẹn hay không:
=gD#>6<$.I"`
LLLLLLLLLLL
?$./B,`V./"=
Cái chết, sự ra đi vì quê hương, đất nước là minh chứng cho việc các anh đã chiến đấu
hết mình. Ở nơi chiến trường kia, biết bao người lính đã hy sinh không tiếc tuổi xuân
của mình cho dân tộc. Hình ảnh "áo bào thay chiếu" cho thấy sự tiếc thương của nhà
thơ dành cho họ, các anh đã yên tâm về với đất mẹ thân thương, để được đất mẹ chở
che mãi mãi. Chứng kiến chặng đường của người lính, nay lại chứng kiến cả cái chết
198
của các anh, sông Mã như gầm lên đau xót, tiếng thét vang lên mang âm hưởng tiếc
thương sâu sắc với cuộc đời còn dài ở phía trước của họ. Nhưng dù có biết trước rằng
mình có thể sẽ hy sinh, người lính Tây Tiến vẫn chẳng thể nào bỏ cuộc, bởi thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc đã lấy đi tâm hồn, chiếm được trái tim của các anh mất rồi:
=\56'"G
?$./B,`V./"L=
Bài thơ Tây Tiến với ba khổ thơ, lần lượt khắc họa những khó khăn, những khoảnh
khắc vui tươi cũng như chân dung và tâm hồn người lính. Qua đó làm hiện lên cho ta
hình ảnh một đoàn binh oai hùng, bất khuất trong thời kì chiến tranh. Ta thầm cảm ơn
những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất nước nền độc lập
như ngày hôm nay
KOR,
Chiến tranh, người lính luôn là đề tài không bai giờ cũ đối với những nghệ sỹ thời
chiến. Chúng ta bắt gặp hình ảnh những người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu,
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng có lẽ ấn tượng, trữ
tình và chân thực là hình ảnh người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
Với cách khắc họa hình tượng người lính thành công, người đọc đã không thể quên
được hình ảnh những người lính cụ hồ thời kì kháng chiến chống pháp.
Bài thơ cũng chính là nỗi nhớ của chính tác giả về những năm tháng chiến tranh ác liệt
nơi chiến trường xưa. Bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết:
!"#$
,-./#01-.
Phù Lao Chanh là mảnh đất mà trước đây đoàn quân đã từng đi qua. Quang Dũng
cùng rất nhiều thanh niên khác ở Hà Thành đã xếp bút nghiên lên đường ra chiến
trường theo tiếng gọi của tổ quốc. Câu thơ cất lên như một tiếng gọi tha thiết về quá
khứ từng trải qua. Sông Mã là con sông lớn, in dấu nhiều cuộc chiến tranh đổ lửa cũng
199
như để lại bao nhiêu hoài niệm thời xa vắng của tác giả. Nỗi nhớ trong lòng tác giả là
một nỗi nhớ “chơi vơi”. Một từ ngữ rất nhẹ nhưng dường như lại khiến cho nỗi nhớ
thêm đầy, không thể nào vơi đi bớt.
Quang Dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ đó bằng những hình ảnh còn đọng lại trong ký ức
về vùng đất chiến tranh ác liệt này:
P3Q<5G)83RS
LLLLLLLLLLL
,T<"CL
Với những địa danh quen thuộc như “Sài Khao” và “Mường Lát” gợi nhớ về những
năm tháng chiến tranh đó. Hai câu thơ với giọng rất êm, hình ảnh rất thi vị, nhẹ nhàng
khiến cho người đọc cảm nhận được sự thi vị và lắng sâu. Đoàn quân Tây Tiến hành
quân trong khói sương mù mịt, cái lạnh dường như len lỏi vào sâu trong tim. Một
khung cảnh lãng mạn, trữ tình giữa chiến tranh ác liệt thật khiến nhiều người ngưỡng
mộ. Đó chính là một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc về thiên nhiên giữa núi rừng thăm
thẳm.
Giữa thiên nhiên thơ mộng, trữ tình, hình ảnh kì vĩ, bao la của thiên nhiên và đất trời
được phác họa qua nét bút của tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống
gian khổ, cuộc chiến khó khăn của đoàn quân. Từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đã
phần nào diễn tả được sự gồ ghề, khó khăn, khập khiễng của núi rừng. Có cảm giác
như đoàn quân phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi, đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy
mới có thể giành được chiến thắng.
Có một hình ảnh rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên “súng ngửi trời”. Thật thi vị và trữ tình.
Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh mang tính chất nghệ thuật cao, gợi nên
khung cảnh thật nên thơ. Nó hoàn toàn đối lập với cuộc chiến tranh đang diễn ra ác
liệt ở ngoài kia.
200
Chiến địa ác liệt, thiên nhiên hùng vĩ và nguy hiểm là những thử thách mà đoàn quân
Tây Tiến cần vượt qua để chiến thắng được kẻ thù. Dù trong mưa bom bão đạn nhưng
đoàn quân vẫn luôn lạc quan.
Câu thơ cuối cùng dường như lắng lại, bình dị, êm đềm:
,T<"C
Một câu thơ toàn vần bằng gợi lên những lúc nỗi lòng của đoàn quân không vướng
bận bất cứ điều gì. Câu thơ diễn tả trận mưa rơi nhẹ tênh, phủ trắng xóa giữa núi rừng.
Màn mưa ấy che kín lối đi, phủ kín những con đường mà đoàn quân đi qua.
Sự tàn khốc ác liệt của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<AL
\4:!:BC<-@
]^6Q1SR68A
Thiên nhiên giữa núi rừng qua nét bút của Quang Dũng đã phần nào gợi lên sự khắc
nghiệt, khó khăn, gian khổ, đầy những hiểm ngụy. Và có rất nhiều chiến sỹ, nhiều
đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, tuổi trẻ dở dang ước mơ dở dang. Sự trầm lắng của
câu thơ tạo cho cả bài thơ sự thành kính và thiêng liêng đối với những người đã khuất.
Nối tiếp dòng cảm xúc đó là nỗi nhớ về những năm tháng êm đềm, với những con
người bình dị, nghĩa tình nơi đấy. Những kỉ niệm khó lòng quên được:
,-56Cb
#:;<-53838<%
Hình ảnh những mái nhà tranh khi chiều muộn về có những làn khói trắng lan tỏa ra
tạo thành từng lớp trắng lảng bảng ở trên núi. Nhớ mùa nếp xôi ấm lòng, gần gũi biết
201
bao nhiêu. Những thước phim đó cứ cuồn cuộn, chảy mãi trong lòng người lính Tây
Tiến.
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên ngày càng rõ nét và chân thực:
83RCeb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F67:>C/L
Một nét vẽ thật táo bạo, chân thực về lính Tây Tiến. Sự gian khổ, sự khắc nghiệt của
thời tiết đã khiến cho những thanh niên Hà Thành trai tráng trở nên mạnh mẽ, chai lì.
Mặc dù “không mọc tóc” nhưng nét dữ dằn cũng khiến cho quân giặc phát sợ. Họ vẫn
hiên ngang, mạnh mẽ chống chọi lại với quân thù và thời tiết khắc nghiệt/. Dù cuộc
chiến có đầy bão giông thì vẫn không khiến cho những người lính thôi mơ mộng, Họ
từng là những thanh niên Hà Thành xếp bút nghiên lên đường đi đánh trận, ở nơi xa
vẫn có những bóng dáng để họ nhớ, họ mong, làm động lực để họ bước tiếp. Đây là
điều đáng trân trọng đối với những người lính.
Quang Dũng nhận ra sự khắc nghiệt của chiến tranh, những mất mát phải đánh đổi,
những hi sinh phải đối mặt:
gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187
Có lẽ đây là đoạn thơ hào hùng, mang âm hưởng bi tráng nhất bài thơ. Những người
chiến sỹ đã anh dũng nằm lại với đồng đội, với đất mẹ. Tuổi xuân của họ còn đó
202
nhưng vì đất nước mà hi sinh thì “chẳng tiếc”. Những con người vô danh nhưng họ
luôn sống mãi trong lòng người ở lại.
Họ ra đi nhưng lời hẹn ước hòa bình ngày xưa sẽ để những người còn ở lại tiếp bước
mà chiến đấu và cống hiến hết mình.
Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng thực sự gieo vào lòng người nhiều cảm xúc. Là
sự ngưỡng mộ, khâm phục cũng như xót xa cho những gì đã xảy ra trong chiến tranh.
KOR8
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những dư vang dư hình của nó thì vẫn luôn còn đó, sống
mãi bên đời. Người ta sẽ chẳng thể quên “có cái chết đã hóa thành bất tử” khi gặp ở
trang thơ Tố Hữu, càng không thể quên hình ảnh người chiến sĩ “đứng cạnh bên nhau
chờ giặc tới” đã in sâu trong thơ Chính Hữu. Tự bao giờ, người lính đã trở thành
những tượng đài bất tử như thế trong thơ? Đi qua gian khó, bước tới vinh quang,
những người lính Tây Tiến cũng trở thành những hình tượng “còn mãi”, “sống mãi”,
“đẹp mãi”. Ta gặp lại họ trong những vần thơ thấm đẫm cảm xúc mà Quang Dũng gửi
lại đoàn quân, cùng theo đó là bao nỗi nhớ…
Vốn là một trong những chiến sĩ của đoàn quân, Quang Dũng viết bài thơ bằng tất cả
nỗi nhớ một người đồng chí, một người từng cộng khổ và sánh vai, chứ không phải
của một người miền xuôi từng lên thăm miền ngược. Nỗi nhớ gửi từ Phù Lưu Chanh
gọi về bao cảm xúc…
Nhớ về Tây Tiến, trước hết là nhớ về những tháng ngày đoàn quân ròng rã trên chặng
đường hành quân. Nỗi nhớ trào dâng ngay từ những câu mở đầu:
+ !"#$
,-./#01-.*
Tiếng gọi thân thương đi cùng bước chân kí ức. Sông Mã – nơi chứng kiến và chia sẻ
những buồn vui. Sông Mã – nơi đựng đầy những kỉ niệm và hoài ức. Hành hương về
quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ.
203
Nỗi nhớ trải rộng theo thời gian và ngút ngàn trong không gian, theo những cung
đường Tây Bắc.
Hiện lên trong nỗi nhớ là bức tranh về núi rừng Tây Bắc vừa hoang vu, hiểm trở, lại
vừa thơ mộng, trữ tình. Cái hoành tráng dữ dội hiện lên ngay ở những cái tên mới mẻ
lạ lẫm: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch; ở những hình ảnh thiên nhiên
độc đáo, lạ thường: sương lấp, cồn mây, heo hút, khúc khuỷu…Bằng lối diễn tả độc
vận, lối phối thanh bằng trắc linh hoạt, Quang Dũng đã diễn tả thành công cái thế heo
hút của đèo cao, cái thế mênh mang của mây rừng. Đọc những câu thơ, ta như mường
tượng ra những nơi thâm sơn cùng cốc, nơi hang cùng thủy tận, nơi đoạn đường trúc
trắc, nơi đèo cao gồ ghề mà đoàn quân từng đi qua. Trong câu thơ Quang Dũng viết:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ta nhìn thấy cả một dốc núi mở ra, hai miền
không gian đối cực nới dài, cao chót vót và sâu khôn cùng. Những hiểm trở ấy của
cảnh rừng từng có lần ta gặp trong thơ Thế Lữ:
+,-DQ5bD
-b32.-e$j1
-CjC1#<A:@:7L*
Nơi rừng thiêng nước độc cũng từng có bao tuổi xanh phải bỏ lại, bao mất mát hi sinh
luôn còn đó, để khi nhớ lại người ta vẫn phải nhói lòng:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68A*
Hai chữ “dãi dầu” dồn tụ trong đó bao nhiêu gian lao. Nói đến hi sinh, nhà thơ không
tô đậm cái buồn thương mà nhấn vào cái kiêu bạc của những người lính vốn xuất thân
từ Hà Thành hoa lệ. Bởi thế mà dẫu là bỏ lại tuổi trẻ nơi chiến trường khi đầu hãy còn
xanh thì những người lính vẫn phải nhìn thấy trong đó những động lực để bước tiếp.
Và như một lẽ tất nhiên, với những con người nhạy cảm như người lính Tây Tiến,
không khi nào họ chỉ nhìn thấy cái khốc tàn của núi rừng. Ngay trong sự hoang vu,
204
hiểm trở, những vẻ đẹp trữ tình vẫn ngời lên lấp lóa dưới đôi mắt tinh tế của những
chàng trai Hà Thành. Đó là kí ức “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, là nỗi nhớ thấp
thoáng về “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một đêm hơi với hoa về trong tay, nó
lãng mạn biết nhường nào. Là “đêm hơi” chứ không phải đêm khuya, cũng không phải
đêm sương, dường như nó vừa gợi thời gian, vừa gợi một cảm giác mờ ảo – mờ đi
trong tâm hồn người chiến sĩ. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” được buông
nhẹ ra bởi một loạt những thanh bằng như làm dịu lại nhịp thơ, gợi cảm giác bâng
khuâng, nhè nhẹ, vừa gần gũi, vừa ấm áp tình thân, tựa bước chân dừng nghỉ sau
những chặng đường dài. Nhớ về cái nên thơ ấy, nhà thơ không bỏ quên cảm giác ấm
áp tỏa ra từ hương vị riêng của núi rừng, được gợi lên từ thứ “cơm lên khói” vẫn
đượm mùi “thơm nếp xôi”.
Kí ức chiến tranh không chỉ lưu giữ những chiến công, những tàn tích, mà còn lưu giữ
bao kỉ niệm đẹp về tình quân dân thắm thiết, về những chặng đường dừng chân yêu
thương ngọt ngào. Tây Tiến trên những chặng đường dừng chân sau bao ngày hành
quân nhọc nhoài tự bao giờ cũng trở thành một phần không thể bỏ quên trong nỗi nhớ.
Hồi ức về những đêm liên hoan dần dần sống dậy:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Đoạn thơ lung linh, rộn rã với đuốc, hoa, với nếp xiêm áo dịu dàng của các cô gái
vùng cao đang uốn lượn theo tiếng khèn dìu dặt, bổng trầm như nâng lên hồn rừng sâu
núi thẳm. Hai chữ “bừng lên” thật giàu ý nghĩa, giàu sức gợi. Bừng lên trong những
ngọn đuốc sáng, bừng lên trong niềm vui người lính Hà Thành đến từ xứ lạ phương
xa, bừng lên trong tiếng reo vui khi người phụ nữ bất ngờ hiện ra vừa lộng lẫy, vừa
tình tứ. “Đuốc hoa” mà người lính mang về trên tay, là hoa lửa đuốc thắp sáng như
ngọn đèn rừng, hay là chúc hoa vẫn rọi sáng niềm tin người chiến sĩ? Những đêm liên
205
hoan cứ ấm nồng như thế không chỉ rực rỡ sắc màu của lửa đuốc, của xiêm áo mà còn
rộn rã âm thanh của “khèn lên”, của “nhạc về”. Những câu thơ thắm tình quân dân,
tựa như cá gặp nước, tựa như con một nhà. Từng hơn một lần ta gặp thứ tình cảm ấm
nồng êm đẹp đó trong thơ:
+&>./>G.
><A#7#"bS*
Hay:
+<QE5'
Y>QdWQ8E)'*
Nhưng nếu những câu thơ của Hoàng Trung Thông và Tố Hữu viết bằng cảm hứng
hiện thực với những hình ảnh dịu dàng thì câu thơ của Quang Dũng lại mang một vẻ
đẹp bay bổng lãng mạn. Âm hưởng lãng mạn đó còn tiếp tục ngân dài ở những câu thơ
sau:
+,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<L*
Xa Tây Tiến, nhà thơ không bao giờ quên những nét đặc trưng của cảnh, của người
nơi đèo cao núi thẳm. Những chiều sương bảng lảng hoàng hôn, bạt ngàn sắc trắng
hoa lau, những ngọn lau phơ phất như bàn tay vẫy gọi dáng người trên độc mộc. Âm
điệu thơ ở đây thay đổi, không còn vui tươi như trong đêm liên hoan lửa trại mà dần
trở nên man mác bâng khuâng. Hình ảnh thơ cũng không còn rực rỡ tươi sáng mà trở
nên ảo mờ, mơ hồ. Những nét dáng mảnh mai duyên dáng từ lâu đã trở thành linh hồn
riêng của Tây Bắc. Một Mai Châu mênh mang sương sớm, phơ phất hồn lau, đong
đưa dòng nước. Sự quyện hòa giữa cảnh và người qua vài nét chấm phá đã đủ gọi về
206
không khí Tây Bắc đầy lãng mạn, đọng lại trong nỗi nhớ bao cảm xúc chơi vơi. Thấm
đẫm trong từng nét vẽ là một hoài niệm sâu nặng khó quên, bâng khuâng không nói
hết. Tất cả đã thay bằng lời “có thấy”, “có nhớ” ngọt ngào chân thành.
Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm
sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành
những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những đoàn binh
không mọc tóc:
+83Ceb
"5>:@3'*
Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên
khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian
khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái
trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ
sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến
rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề
cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng
đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang
trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để
gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không
mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ
ngại khó.
Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng
chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba
phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng
qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về
cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ
không phải trong ý thức, đó là động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà
thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:
207
+,@86:RG
Yn$$-E<A6L*
Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hi sinh, nhưng
hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng
cảm hứng bi tráng:
+gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187L*
Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ
xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hi sinh.
Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hi sinh là chí khí người anh hùng
“chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với
bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc
mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hi sinh nào cao quý hơn, đáng ca
ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu
tráng sĩ thời xưa:
+&5#:oJ:a
](3>Qia$3*
Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây
và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về
đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến
trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có
manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà
chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của
208
sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ
đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.
Những câu thơ cuối khép lại bài được viết như những dòng thường ghi trên mộ chí,
cũng là lời hẹn thế của một người lính từng gắn bó sâu nặng với đoàn quân:
+<A8Ci<-
F<A8V7)
\56'"G
?$./B,`V./"L*
Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Cái tinh thần “một
đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến.
Không vấn vương, bịn rịn chuyện riêng tư, tất cả cho nhiệm vụ cứu nước. Tây Tiến
mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về.
Tây Tiến là vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, vừa
chứa vẻ đẹp hào hùng. Quang Dũng đã góp thêm cho nền thi ca kháng chiến một tuyệt
phẩm về người lính mà ai đi qua cũng phải lưu lại những ấn tượng cho riêng mình.
KOR<
Chiến tranh đã lùi xa nhưng những ký ức về một thời đau thương nhưng cũng đầy vẻ
vang của dân tộc vẫn còn lưu lại. Ngày ấy, trong hàng vạn bộ đội tham gia cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, có một đoàn quân được đặt tên là “Tây Tiến”. Đoàn quân
ấy có nhiệm vụ hành quân lên bảo vệ vùng biên giới Việt Lào cũng như hỗ trợ quân
đội Lào tham gia chiến đấu.
Trong cuộc chiến đó có những người đã vĩnh viễn nằm lại nơi núi rừng Tây Bắc, có
những người vẫn còn sống và chuyển tới những đơn vị khác tiếp tục chiến đấu .
“Quang Dũng “ là một trong những người lính may mắn còn sống đó. Một ngày ở đơn
vị mới, ngồi nhớ lại chiến trường xưa, đồng đội cũ ông đã viết bài thơ “ Tây Tiến” với
209
những tình cảm vô cùng thiêng liêng và chân thành.Trong đó, hình ảnh người lính
hiện lên bi tráng và đẹp nhất qua những câu thơ:
+83CebL
"5>:@3'L*
Những năm 1947, đoàn quân Tây Tiến được thành lập.Họ hành quân lên vùng rừng
núi phía Tây Bắc bảo vệ vùng biên giới nơi đây. Ở nơi hoang vu, lạnh lẽo của vùng
rừng núi, những đồng đội của Quang Dũng trong đơn vị phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn, thiếu thốn.
Thời điểm ấy căn bệnh sốt rét đang hoành hành khắp các đơn vị quân đội của chúng
ta. Do địa hình đóng quân sâu trong rừng, muỗi rất nhiều lại thiếu trang bị thuốc men
nên dịch sốt xuất huyết ngày càng lan rộng. Để rồi hình ảnh đoàn quân trở thành
“đoàn binh không mọc tóc”.Không mọc tóc hay nói đúng hơn là tóc đã rụng gần hết.
Những năm tháng kháng chiến, bộ đội chúng ta thiếu thốn rất nặng nề, chiến đấu trong
điều kiện vô cùng gian khổ. Thế nhưng, tinh thần của người lính không bao giờ bi
quan, lo sợ, nhụt chí. Bởi họ hiểu rằng đó là hoàn cảnh chung của đất nước lúc bấy
giờ. Nếu không vượt qua chút khó khăn đó, không vượt qua được những sự đau đớn
của bệnh tật thì liệu rằng có thể đi đến thắng lợi cuối cùng hay không ?
Trong những thời khắc gian khó, tình yêu Tổ Quốc đã tiếp cho họ thêm sức mạnh và
niềm tin sắt son vào thắng lợi của cách mạng .Dù cơ thể có xanh xao gầy mòn vì thiếu
ăn đến thế nào đi nữa thì họ vẫn hiên ngang cầm súng tiến vào trận đấu với hình ảnh
vô cùng bi tráng “ quân xanh màu lá dữ oai hùm”.Vẫn ngạo nghễ và oai hùng như
chúa tể rừng xanh .
+ E#0W7R6-L
F6?,7:>C/L*
“Mắt trừng gửi mộng “ hình ảnh liên tưởng thật bay bổng và giàu cảm xúc. Trong
rừng hoang sâu thẳm, những ánh mắt người lính vẫn sáng rực và trào dâng niềm khát
210
khao. Họ gửi giấc mộng về bên kia biên giới về viễn cảnh cuộc chiến sẽ thắng lợi. Rồi
một ngày họ sẽ được trở về Thủ Đô yêu dấu. Hà Nội hào hoa và thanh lịch, thủ đô
ngàn năm văn hiến với hoa sữa ngào ngạt, với những “dáng kiều thơm”.
Ngày trở về ấy sẽ không còn xa nữa đâu. Giữa những khắc nghiệt của cuộc chiến đấu,
giữa mong manh sự sống và cái chết, thì giấc mơ đó thật ngọt ngào và lãng mạn. Giấc
mơ càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực trước mắt lại tàn khốc bấy nhiêu. Khi những
người đồng đội cùng chung chiến hào lần lượt ngã xuống .Nhịp thơ bỗng nhiên sâu
lắng:
+gD#>6<$.I"`L
&#<A8V8A"L*
Hai câu thơ mang sắc thái cổ điển bao trùm khi tác giả liên tục sử dụng những từ Hán
Việt : biên cương, viễn xứ .Điều này mang lại cho người đọc cảm xúc sâu lắng và
thiêng liêng .Những người lính đã ngã xuống ở nơi biên cương xa xôi và lạnh lẽo .Họ
ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ chỉ mới mười tám, đôi mươi. Chiến tranh khắc nghiệt,
hôm nay còn sống nhưng mai có thể là chết. Khi lên đường ra trận, đã thề quyết tử cho
Tổ Quốc quyết sinh, thì cái chết đối với họ không có chút gì sợ hãi và lo lắng.
Vì Tổ Quốc gọi tên, lớp lớp thanh niên xung phong ra trận với tâm thế “Chúng tôi ra
đi chẳng tiếc đời mình”.Tuổi xuân này đã lựa chọn vì Tổ quốc, thì bất cứ sự hy sinh
nào cũng đáng trân trọng và ngợi ca .Chỉ nặng trĩu một điều khi giấc ngủ cuối đời
không được nằm trên đất mẹ yêu thương. Không được về an nghỉ nơi chôn rau cắt rốn.
Đọc đến câu thơ này chúng ta cảm thấy xót thương và trân trọng vô cùng cho sự hy
sinh cao đẹp của người lính.Các anh đã trở thành bất tử trong trái tim mỗi người Việt
Nam.
+h332./8GL
!B56C187L*
211
Sông Mã ơi còn nỗi đau nào hơn khi phải tự mình chôn cất những đồng đội. Nơi biên
giới xa xôi và lạnh lẽo ấy, các anh ra đi cũng chỉ đơn sơ bằng một manh chiếu mỏng,
thậm chí nhiều khi thiếu thốn đến mức manh chiếu cũng không có. Nhưng các anh ra
đi giữa vòng tay đồng đội yêu thương, sự hy sinh của các anh là thiêng liêng, cao cả .
Yên nghỉ nhé đồng đội, những người ở lại sẽ thay các anh cầm súng chiến đấu đến hơi
thở cuối cùng .Rồi mai đây dòng sông Mã thân yêu sẽ gầm lên dữ dội, cùng dân tộc
quét sạch bóng quân thù. Để Hà Nội yên bình và hoa lệ sẽ trở lại không chỉ trong giấc
mơ.
Thơ Quang Dũng là vậy, giữa bom đạn, đau thương nhưng thơ ông hiện lên vẫn vô
cùng lạc quan và lãng mạn. Hình ảnh người lính qua ngòi bút của ông hiện lên bi tráng
và hào hùng. Nhớ tới ông, chúng ta nhớ về Tây Tiến, khúc tráng ca bi hùng và lãng
mạn về người lính cụ Hồ.
KORS
Kháng chiến chống Pháp đã đi qua, nhưng qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có
thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang
Dũng với tác phẩm "Tây Tiến" đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồng gió
mới. Thông qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm,
đau thương nhưng đầy mộng mơ của những người lính tri thức bấy giờ.
Quang Dũng thuộc lớp nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Không chỉ
viết thơ hay, ông còn được biết đến là một nghệ sĩ tài năng với khả năng viết văn, soạn
nhạc, vẽ tranh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tâm hồn nhà thơ vì thế cũng đầy mơ
mộng. Cũng bởi thế mà thơ của ông phóng khoáng mà hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã tập trung khắc họa lại núi rừng Tây Bắc và đoàn
quân Tây Tiến. Điều đặc biệt là khung cảnh ấy hiện về trong ký ức của người lính trẻ:
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Qua hồi ức của tác giả, hình ảnh "Sông Mã", "Tây Tiến" giờ đây đều như trở thành
những người thân thương ruột thịt. Mà với nơi đây, Quang Dũng dành trọn vẹn tình
212
cảm nhớ thương} của mình. Cụm từ "nhớ chơi vơi" gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng. Đó
là nỗi nhớ của những người lính đến từ phố thị xa hoa, nỗi nhớ làm tim như chững lại,
chơi vơi, không có điểm dừng. Nỗi nhớ ấy vừa nhẹ nhàng, lại vừa mãnh liệt đến lạ.
Dường như núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính trẻ biết bao
điều. Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời và hơn cả, đó cũng
là nỗi trống trải, lạc lõng, đậm nỗi nhớ và nỗi buồn man mác trong lòng thi sĩ Quang
Dũng.
Sau hai câu thơ đầu miêu tả nỗi nhớ, hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành
quân gian khổ của những người lính được miêu tả rõ nét. Qua ngòi bút tài hoa của
Quang Dũng, không gian hiện lên đầy chất thơ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."
"Sài Khao", "Mường Lát" đều là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của
binh đoàn Tây Tiến. Nó càng làm nhân lên nỗi nhớ "chơi vơi" của tác giả với hình ảnh
"sông Mã" ở đầu. Thế nhưng đến đây, không gian đã được mở rộng hơn, với nhiều chi
tiết khơi gợi kỉ niệm hơn. Vùng núi Sài Khao sương giăng kín lối, dường như chôn lấp
đi hình ảnh "đoàn quân mỏi" sau chặng đường dài. Cùng với sự "mỏi" sau chặng hàng
quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều là những kỉ niệm khơi gợi và chứng
minh nỗi nhớ vô cùng của tác giả. Quang Dũng đã sử dụng động từ "hoa về" thay vì
"hoa nở", "đêm hơi" chứ không phải "đêm sương". Cách kết hợp từ này gợi tả không
gian đầy trữ tình, huyền ảo, lung linh như không có thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà
thơ như dàn trải khắp không gian rộng lớn. Mỗi nơi mà bước chân người lính đã đi
qua, họ đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, khiến chúng trở thành những
kỷ niệm khắc sâu trong lòng mãi mãi không thể quên.
Địa hình núi non hiểm trở "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" đoạn đường đi cũng
chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại "thăm
thẳm" như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể mất đi mạng sống của
mình. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của
mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn rơi xuống phảng phất cái
lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự
sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí
213
hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy "oai linh thác gầm thét", đêm đêm "cọp trêu
người".
Quả là một nơi "rừng thiêng nước độc" thế nhưng những khó khăn đó không thể cản
bước chân người lính, họ vẫn đi với sự anh dũng kiên cường và trong đôi mắt người
lính thì miền Tây Bắc lại là một vùng đất rất đỗi trữ tình và chan chứa tình người.
Những hình ảnh "hoa về trong đêm hơi", "mưa xa khơi" thật huyền ảo tạo xúc cảm thư
thái, nhẹ nhàng cho người đọc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình,
họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây Tiến.
Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp
giàu bản sắc văn hóa, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân
thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.
Tiếp theo, đoạn thơ thứ 3 của bài thơ Tây Tiến đã dựng lên bức tượng người lính Tây
Tiến bất tử với thời gian. Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây
Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.
Hình ảnh những người chiến sĩ sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh
tật: thân hình tiều tụy vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến "không mọc tóc, xanh
màu lá". Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai
phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ "xanh màu lá, dữ
oai hùm". Mặc dù, chiến đấu trong gian khổ nhưng các anh quân dân vẫn hướng về
nhiệm vụ chiến đấu, vẫn "mộng qua biên giới" - mộng chiến công, khao khát lập
công; "mơ Hà Nội dáng kiều thơm" , mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người
thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch. Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng
mạn của người lính - những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc
"mộng" và "mơ" ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên
nhiều chiến công. Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên
cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng "đời xanh" cho Tổ quốc mà không hề tiếc
nuối. Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của
người tráng sĩ anh hùng xưa.
Khổ thơ cuối cùng, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì
đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về. Vẻ đẹp của người lính
Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là minh chứng đẹp đẽ của thời
214
đại chống thực dân pháp. Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra
đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường
gian lao của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện
ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng
khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.
Qua bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa được thiên nhiên Tây Bắc với đầy đủ
sắc thái khác nhau. Từ đó làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và
những người lính trẻ nói chung. Họ sẵn sàng từ bỏ ánh đèn phố thị, buông bút nơi
giảng đường để cầm súng chiến đấu. Dù khó khăn, gian khổ chất chồng thì sự quyết
tâm, tinh thần lạc quan và tâm hồn mơ mộng vẫn không hề vơi bớt.
KORT
+D36& 7-Cq
7A5#d$<"L
S '2YE25%
PUO"<n#E3QEL*
(Nhớ Tây Bắc, Phạm Ngọc San)
Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao
người, đặc biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây
Bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến
thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ
hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo
những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của
Hồng Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây
Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân
đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất
rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào),
trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ
dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian
215
thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại
đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến
cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây Tiến (1948).
Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm
những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ
của người lính Tây Tiến. Nổi bật trong tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của
từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
+ !"#$K
,-./#01-.L*
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén
chặt, bỗng trào dâng. Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một “chứng
nhân lịch sử” trong suốt chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là tên một
đoàn quân mà nó đã trở thành một người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông Mã xa
rồi Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một bầu trời thương nhớ với bao bâng khuâng hụt
hẫng và nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang ra từ vách đá của núi rừng Tây Bắc, ngân
vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư tình cảm của Quang Dũng lan ngấm thấm tràn
đến đó. Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên mênh
mang, chơi vơi. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
+g./-4.
,-4#D
,-4u*
Có lẽ nếu diễn tả “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những đợt sóng cồn cào, có vẻ không
đúng. Hai chữ “chơi vơi” không để diễn tả sự dồn dập, thắm thiết, diết da. Vốn dĩ nó
diễn tả những thứ như không có điểm tựa, chênh vênh, mênh mang. Và có lẽ nỗi nhớ
ở đây cũng vậy, ấy là thứ cảm xúc như lan tràn, mênh mang, không điểm tựa. Nó như
sự hẫng hụt, lại mang đến sự bồn chồn, xôn xao trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ
mới quay quắt, mới khiến người ta nhói lòng.
216
Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh
Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa,
Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ
niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng
xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn
người chiến sĩ:
+P3Q<5G)83RSL
<AT>3./#386*L
Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà lính Tây Tiến
đã hành quân qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm
sương nhiều khói, sương che lấp đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm
áo choàng bảng lảng trùm lên con sông, ngọn suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa
núi rừng hiểm trở cheo leo có những hơi thở mệt mỏi của những chàng trai đất Hà
thành nhọc nhằn trên từng chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim nhạy cảm,
tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp
đập thậm chí là cái khe khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn
đêm buông xuống.
Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển
sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu
xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong
đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả
cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng
đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người
đọc một thước phim về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:
+956C1CU2:9V2
?(31$Q1W#AL
217
,<-563<-"9
,T<"C*L
Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như
những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân
không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). Cả câu thì có 5 chữ mang thanh trắc “Dốc
lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” nhằm nhấn mạnh cuộc hành quân của đoàn quân Tây
Tiến đi qua địa bàn đèo dốc quanh co, lên cao mãi, vô vùng khó khăn, khốc liệt.
Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được
đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên
cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như
câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy ra hai phía là núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu
thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một
ẩn số đối với con người.
Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản
mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả
cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc
quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn
như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút
tếu táo của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như
minh chứng cho ý chí, sức mạnh phi thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:
+Fc33Jo8c33
#c356-8r38c3*
Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi cao lưng
trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta có
218
cảm giác những ngôi nhà trên đất Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa chốn xa khơi.
Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn
như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
+&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*
Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”,
“gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và
những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng
làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên
nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”.
Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt,
khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc
cho nên rất nhiều chiến sĩ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và
những ước mơ dở dang:
w\4:!:BC<-@
]^6Q1SR68A*
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính
lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ
đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau trong thơ Lê Anh Xuân:
+\!"9#3C88`E
>(35W84B.$L*
Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến
chống Mĩ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ
trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham
gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của
219
những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại
tiếp bước.
Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một
bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi
sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay.
Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu
hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn
giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn
sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng
không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa
bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm
áp tình quân dân:
+,-56Cb
&'()"L*
Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu, càng quý trọng nghĩa tình. Hình
ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu
tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế.
Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng.
Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả
một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay
bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.
Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn
thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương
đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật.
Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính
Tây Tiến.
220
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới,
khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say
mê, lãng mạn trong đêm hội:
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
Đây là kỉ niệm đẹp về tình dân quân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng. Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên
từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. “Hội đuốc hoa” là cảnh thực. Đêm
liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn
đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này
trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa
lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không
gian ấy “em” xuất hiện.
+PJ("6>3a3A*
“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón
mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực
rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền
thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của
họ. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba
xuất hiện, lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
+Pc568O(G)L*
Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được
chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu
của Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã
221
chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và
cảnh.
Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:
+,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<L*
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của
khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một
miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc
hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá
vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Cách sử dụng từ ngữ “ hồn lao, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng
với nhau, sao lại là “ hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà
ở đây là cảm nhận. Cách đặt câu hỏi thật đặc sắc “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ, Có
nhớ dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh khỏe khoắn trẻ trung và đầy sức sống, “ hoa
đong đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũng như là đang hấp dẫn những người trên
đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của tác giả. Cảnh vật như
thiêng liêng, tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng
thiêng nước độc, xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc
ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn
nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây
Bắc và yêu Tây Bắc.
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của
bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn
thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung
222
người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn,
lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng
đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
+83Ceb
"5>:@3'L
E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
Làn da xanh mái tóc không mọc do bệnh sốt rét rừng. Số người chết vì sốt rét nhiều
hơn chết vì chiến trận, do điều kiện thiếu thốn khó khăn thiếu nước. Chiến tranh đi
liền với nước mắt và đau thương, cũng như bao nhiêu người chiến sĩ khác người lính
Tây Tiến phải chịu bao nhiêu khó khăn Tuy vậy họ vẫn hiên ngang ngang tàn bi
nhưng không lụy, họ luôn ở tư thế chủ động sẵn sàng là “ không mọc tóc” chứ không
phải là rụng tóc. Khẩu khí coi thường gian khổ, họ ốm nhưng không yếu. “Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đây là đặc trưng riêng là
mộng và mơ” của những chàng lính Hà Nội. Ý chí quyết tâm “Mắt trừng” giết giặc lập
công, mơ giấc mơ thắng trận trở về gặp những dáng kiều thơm, nhưng bóng dáng
duyên xinh. Hẳn họ không phải là những người lính khô khan cứng rắn à còn rất lãng
mạn.
+gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187*
Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó
là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà
nhiều người lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là
không rơi vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà
thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải cho câu trước. Những
223
nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào
khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả màn chiếu
bọc thây. Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi
chào vĩnh biệt bằng những tiếng gầm đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã
ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.
+<A8Ci<-
F<A56V7)
\56'"G
?$./B,`V./"L*
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ như lời thề gắn bó với Tây Tiến. Tinh thần thắm
đượm tư tưởng và tình cảm cảm của người lính Tây Tiến, tinh thần sẵn sàng hi sinh
cống hiến. Tình cảm gắn bó máu thịt của tác giả đối với binh đoàn Tây Tiến, đại từ
phiếm chỉ “ai” có thể là Quang Dũng có thể là thành viên của binh đoàn Tây Tiến,
hoặc là bất cứ ai đã từng gắn bó với Tây Tiến với mảnh đất Tây Bắc. Sự chiến đấu vì
lý tưởng cao cả tinh thần Tây Tiến thì bất diệt.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang
Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.
Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây
Tiến là lịch sử. Lịch sử của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử
của một dân tộc. Và lịch sử của một con người, một nhà thơ. Tây Tiến trở thành lịch
sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần một giống nòi. Nó đã biến đoàn quân thành
bất tử.
224
KORU
Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Pháp như Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Hồng Nguyên,
Trần Mai Ninh, Chính Hữu … Quang Dũng nổi tiếng với hai bài thơ: “Tây Tiến” và
”Đôi mắt người Sơn Tây”. Bài thơ” Tây Tiến” được sáng tác vào năm 1948 khi ông
rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một thời với Tây Tiến. Đoàn quân Tây
Tiến bao gồm hầu hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở một địa bàn rộng lớn ở
vùng núi biên giới Việt – Lào. Hào hoa mà anh dũng.
Đoạn đầu của bài thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến,
những cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ,
thơ mộng:
}
+ !"#$K
,-./#01-.
P3Q<5G)83RS
<AT>3./#386
956C1CU:9V
?(31$Q1W#A
,<-5632<-"9
,T<"C*
}
Quang Dũng chịu ảnh hưởng sâu đậm nhạc điệu của thơ cổ điển. Có thể nói nhà
thơ Quang Dũng, hiện thực là hiện thực kháng chiến (chống Pháp) được phô
diễn bằng một tâm hồn lãng mạn và âm điệu cổ điển. Qua hai câu thơ mở đầu
của bài “Tây Tiến” ta nắm bắt được hồn thơ Quang Dũng:
}
+ !"#$K
,-./#01-.*
}
Âm điệu của câu thơ thất ngôn bát cú như từ thời Lí Bạch. Tình cảm thì dào dạt
như các nhà thơ lãng mạn thời Thơ mới. Có điều là trong dòng thơ hoài niệm ấy
đã xuất hiện một cái tên lịch sử. Tây Tiến ! Mà đã nói đến Tây Tiến là phải nói
đến sông Mã, con sông hùng vĩ đã chứng kiến những vui buồn của cuộc đời
người chiến binh, là phải nói đến rừng núi với những chặng đường hành quân
cheo leo bên núi cao, bên vực thẳm, đi trong sương mù, trong hương hoa. Nỗi
nhớ dâng trào như nỗi nhớ của các nhà thơ lãng mạn. Đây là câu thơ của Xuân
Diệu:
}
+<<5;56.*
Còn đây là câu thơ của Quang Dũng:
225
+,-./#01-.*
}
Có điều là một đằng thì nhớ người yêu, một đằng thì nhớ những kỉ niệm kháng
chiến.
}
Những kỉ niệm về Tây Tiến, về kháng chiến cứ đậm dần lên trong sự hài hoà
giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực của thơ Quang Dũng. Những địa danh
miền sơn cước như Sài Khao, Mường Lát gợi bao cảm xúc mới lạ. Những
+Q<*2+3* từng hiện diện với thi nhân, với tình yêu thì nay hiện diện với
đoàn quân, gian khổ mệt mỏi đấy nhưng không thiếu những giây phút lãng mạn.
Thủ pháp đối lập được Quang Dũng triệt để sử dụng. +P3Q<5G)83
RS* gian khổ biết bao! + <AT>3./#386* thi vị biết bao
! Tưởng chừng như thiên nhiên ban thưởng cho người lính một chút hương hoa
để có sức mạnh mà vượt qua đèo dốc.
}
+956C1CU:9V
?(31$Q1W#A*
Những thanh trắc (dốc, khúc, khuỷu, thẳm) tức ngược miêu tả được thế núi
hiểm trở. Và hay nhất là miêu tả chiều sâu thăm thẳm để tả chiều cao của +:9
56C1CU*L Cao đến nỗi người lính có cảm giác mình ngự trên mây +(3
1$* và +Q1W#A*. Cách nhân hoá thú vị cũng là để nói cách đo
chiều cao riêng của những người lính.
}
Ta lại thấy một ông Lí Bạch trong thơ Quang Dũng. Cảm hứng lãng mạn tô đậm
cái phi thường. Câu thơ +,<-5632<-"9* có khác gì
câu thơ của Lí Bạch +,<-V"9<-* trong bài thơ +N
E>1T<*. Ta cũng lại nghe âm điệu của Tản Đà trong giai điệu buông
thả mê li của Quang Dũng:
}
+,T<"C*
với +]$6#6R6<* của Tản Đà
Mơ mộng đó mà gian khổ cũng đó. Qua những chặng đường hành quân, vượt
qua đèo cao lũng sâu, người lính sao tránh khỏi những giây phút mệt mỏi.
Quang Dũng không tránh né thực tế khắc nghiệt của người lính trong những
năm đầu kháng chiến chống Pháp:
+\4:!:BC<-@
]^56Q1SR68AK
&//35>Bj
F686 <A?Me)#6<A*L
226
}
Thật là bi tráng ! Hình ảnh người lính +]^56Q1SR68A* cho ta
thấm thía thêm những nỗi gian lao, vất vả, hi sinh của người lính Tây Tiến.
Hình ảnh núi rừng hoang vu, huyền bí tăng thêm chất bi tráng. Thiên nhiên đổi
thay theo sắc màu của thời gian. Những nét lạ, những chi tiết rùng rợn càng tăng
sức hấp dẫn của bút pháp lãng mạn. Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều
hoà điệu với âm thanh rùng rợn của tiếng +e)#6<A* đêm đêm thành một
bản hoà tấu vang động cả núi rừng. Rồi tất cả lại trở về dịu êm với những kỉ
niệm của con người và bản làng thân thương:
}
+,-56Cb
&'()"*
}
Sợi khói ấm áp giữa núi rừng hoang vu, đó là chất thơ của đời sống chiến sĩ làm
sao mà không nhớ ? Kỉ niệm cứ như trôi trong mộng:”Mai Châu mùa em thơm
nếp xôi”. Chữ của thơ thật lạ, có những chữ đã cũ mèm mà được đặt vào đúng
văn cảnh thì lại dậy lên ý lạ. Chữ +(* thì có gì là mới, vậy mà thay vào đó bất
cứ chữ nào khác thì câu thơ cũng mất hết linh hồn. Nói kiểu Pautopxki là Quang
Dũng đã trả lại cho chữ +(* cái trinh bạch ban đầu. Hương nếp hay là hương
em đã làm bâng khuâng cả núi rừng, bâng khuâng cả lòng người ?
}
Nhà thơ nhớ lại một đêm liên hoan lạ lùng giữa rừng biên cương:
}
+3#40567893
PJ("6>3a3A
Pc568O(G)
,4./6&"$*
}
Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng lại được dịp miêu tả những nét lạ: y phục
lạ (xiêm áo), nhạc cụ lạ (khèn), âm điệu lạ (man điệu), dáng vẻ lạ (nàng e ấp).
Tình quân dân nơi rừng núi xa xôi càng thêm sức mạnh cho người lính Tây
Tiến.
}
Cùng với dòng hồi tưởng đó, tác giả nhớ lại hình ảnh người lính Tây Tiến,
những hình ảnh độc đáo không thể nào phai nhoà:
}
+83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
}
227
+F3Ceb* quả là kì dị ! Thời đó, đoàn quân Tây Tiến hoạt
động trong rừng núi phía Tây, bệnh sốt rét hoành hành. Tóc rụng đến nỗi không
mọc lên được. Da xanh bủng như màu lá rừng. Tác giả miêu tả bằng cách đối
lập giữa cái bên ngoài và cái bên trong. Bên ngoài người lính thì da xanh bủng
ốm yếu, nhưng tinh thần thì vững vàng. Khí phách của người lính Tây Tiến
chẳng những lấn át cả bệnh tật ốm yếu mà còn +:@3'* làm khiếp sợ kẻ
thù. Tinh thần của người lính Tây Tiến thật là mãnh liệt. Mãnh liệt cả trong
+7*, mãnh liệt cả trong +*.
}
+ E#0W7R6-
F6?,7:>C/*
}
Hình ảnh +E#0* thể hiện ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến trong
nhiệm vụ bảo vệ biên cương, nghĩa vụ quốc tế của mình. Trên kia ta đã từng
gặp hình ảnh +7*ấy: +,4./6&"$*. Nhưng tình cảm,
tâm tưởng người lính lại hướng về Hà Nội, quê hương thân yêu của hầu hết binh
đoàn Tây Tiến:
}
+F6?,7:>C/*
}
Hà Nội đẹp nhất là Hồ Tây và thiếu nữ. Những chàng trai Hà Nội chưa trắng nợ
anh hùng ra đi chinh chiến làm sao không mang theo trong hành trang của mình
hình bóng của một +:>C/* nào đó, hoặc hình bóng của người thân
yêu? Một chút lãng mạn như vậy đủ nuôi dưỡng tinh thần của người lính Tây
Tiến trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, hi sinh. Tứ thơ mộng mơ này cũng
nằm trong cấu trúc chung của bài thơ +* là ngược – xuôi: con người, ý
chí, hành động thì ngược về hướng tây, nhưng tình cảm thì lưu luyến xuôi về
với quê hương thân yêu:
}
+,<A8& 7/Q<G
&bG$5d3A
&b-:><A#6877
#:;<-53838<*
}
Liền với tứ thơ mộng mơ ấy là hình ảnh hi sinh cao quý của những người lính
Tây Tiến. Từ tinh thần lãng mạn chuyển sang không khí bi tráng:
}
+gD#>6<$.I"`
&#<A8V8A"
h33./8G
!B56C187*
}
228
Lần nữa ta lại thấy Quang Dũng không tránh né những chết chóc bi thương.
Người lính Tây Tiến chiến đấu ở một miền núi rừng biên cương chống kẻ thù
xâm lược làm sao tránh khỏi sự tổn thất về sinh mạng:
}
+gD#>6<$.I"`*
}
Câu thơ chỉ có từ +#D#>* là thuần Việt, còn lại là từ Hán Việt cổ kính, gợi
không khí thiêng liêng, đượm chút ngậm ngùi. Đến câu thơ tiếp theo, tác giả
hoá giải được tình cảm ngậm ngùi đó:”Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
}
+FA"* đẹp biết bao! Còn gì quý bằng tuổi trẻ, vậy mà người lính Tây Tiến
+V*, cho nên họ chấp nhận tất cả. Tự vệ thành Hà Nội đã nêu cao lời
thề +W3fR9RQ* trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô.
Những người con của Thủ đô ở biên cương cũng có tinh thần +O)QX* đó. Có
lẽ gọi những chàng trai +V8A"* này là +O)QX* cách mạng, như
những người lính trong +F$* của Chính Hữu, trong +,-* của Hồng
Nguyên. Sự hi sinh của họ thật là cảm động:
}
+h33./8G*
}
Người lính Tây Tiến thời đó hết sức thiếu thốn. Theo Trần Lê Văn thì đồng bào
thấy các chiến sĩ Tây Tiến rét đã cho chiếc áo khoác thay cho +>33*. Khi
chết, đồng đội dùng chiếu bó lại để chôn vì không có quan tài. Câu thơ đó có
một từ rất xứng với sự hi sinh của người lính là từ +8G*. +\./8G* là về
với non sông đất nước, về với sự trường tồn, vĩnh hằng. Âm nhạc của thiên
nhiên, non nước tấu lên đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng:
}
+ !B56C187*
}
Cái chết của những người lính Tây Tiến nơi biên cương chẳng những làm xúc
động sâu xa những chiến sĩ đồng đội mà còn động cả lòng trời đất. + !
B56* đau đớn, tiếc thương. Khúc nhạc bi tráng hợp với sự hi sinh cao quý
của những +O)QX* Tây Tiến.
}
Quang Dũng đi kháng chiến, đến đoàn quân Tây Tiến với tư cách là một trí thức
có tâm hồn nghệ sĩ. Khi đặt bút làm thơ thì đã có ông Lí ông Đỗ ngự trong lòng.
Âm nhạc đầy cám dỗ của nhà thơ Việt Nam hiện đại như Tản Đà (nhà thơ cùng
quê hương với ông), Thế Lữ, Xuân Diệu cũng đã dội vang trong lòng ông. Các
nhà thơ cổ kim đã bồi đắp trong hồn thơ kháng chiến mới mẻ của ông. Bằng
nghệ thuật điêu luyện, Quang Dũng đã khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến,
hình hài thì kì dị, độc đáo, chân dung tinh thần thì cao quý. Xúc cảm của nhà
thơ được nuôi dưỡng bằng âm nhạc vừa cổ kính vừa hiện đại.
229
Những trái tim +O)QX* Tây Tiến nằm lại rải rác ở biên cương chắc sẽ cảm
thấy êm ái khi nghe thơ Quang Dũng. Bằng hội hoạ và âm nhạc, tượng đài của
lòng dũng cảm đã được dựng lên trong thơ +* – vĩnh hằng.
KORV
Quang Dũng được xem là nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, ông chủ yếu viết về
đề tài người lính, bởi bản thân ông xuất thân từ một người chiến sĩ, chính vì vậy đây là
cảm hứng chủ đạo để ông sáng tác lên bài thơ Tây Tiến để khắc họa lại hình ảnh của
những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của mình.
Quang Dũng đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên những vần thơ hay, để lại
nhiều cảm xúc cho người đọc, bởi giai điệu nhẹ nhàng, kết hợp với những yếu tố hiện
thực và lãng mạn, xen lẫn để tạo nên những hình ảnh sinh động, và ý nghĩa của bài thơ
được thể hiện một cách tối đa, và đạt được ưu thế cao nhất. Trong bài thơ ngoài những
cảm hứng hiện thực về một cuộc chiến tranh tàn khốc, của binh lính Tây Tiến, tác giả
còn thể hiện những phút giây hào hùng, oanh liệt của một thời lịch sử, qua từ ngữ nhẹ
nhàng, đầy chất trữ tình. Bài thơ có sự kết hợp giữa hình tượng thơ và hoàn cảnh chiến
đấu vô cùng căng go, nó cũng thể hiện được một tinh thần chiến đấu vô cùng ác liệt
của dân tộc.
Trong bài thơ tác giả đã thể hiện một tinh thần của người lính Tây Tiến qua nhịp điệu,
hình ảnh, tinh thần, và sự cố gắng của tác giả, khi từng câu chữ được trau chuốt tới
mức độ hoàn mỹ nhất. Tác giả đã thể hiện được tinh thần anh dũng qua cuộc chiến
đấu, ngoài ra giá trị của nó còn được thể hiện qua tinh thần ngoài mặt trận và đời sống
tinh thần của người chiến sĩ, ngoài những phút giây gian khổ bên chiến trường, cùng
sống và quật cường trước bệnh tật của cơn rét rừng, tác giả còn thể hiện một tình cảm
đặc biệt của các người lính trước tình yêu quê hương, nhớ nhung những người thân ở
gia đình:
83Ceb
"5>:@3'
E#0W7R6-
F6?,7:>C/L
230
Chính những hiện thực của cuộc chiến tranh để tác giả, có thêm chút động lực để phấn
đấu trước hoàn cảnh sống, và sáng tác lên một bài thơ có sự kết hợp giữa chủ nghĩa
hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. Trong hoàn cảnh chiến đấu như vậy, những người
lính cách mạng luôn luôn phấn đấu để tạo nên cho mình những phút giây thoải mái
nhất, họ vui mừng và đoàn kết với nhau, qua những điệu kèn, múa, của vùng Tây Bắc:
!"#$
,-./#01-.
C3Q<5G)83RS
Ở đây tác giả đang vẽ ra bức tranh thiên nhiên của Tây tiến, với vẻ đẹp của núi rừng,
có các địa danh được đề cập ở đây, đó là Sài Khao, Mai Châu... tất cả vẻ đẹp đó đều
được hiện lên một cách rõ nét và oai vệ nhất, nó thể hiện một tinh thần sáng tạo, khi
tác giả luôn mang trong mình một nỗi nhớ xa xôi về vùng đất Tây Tiến, nơi mà những
người chiến sĩ đã từng gắn bó, và chiến đấu bên nhau, đó là những phút giây mà tác
giả không bao giờ có thể quên được.
Cảm xúc mạnh mẽ đang chứa tran trong tâm hồn của những người chiến sĩ, nó lan
rộng, và thể hiện được một tinh thần chiến đấu quật cường, ngoài bức tranh thiên
nhiên, nó cũng mang đậm giá trị hiện thực, khi đang phản ánh một cuộc chiến tranh
vô cùng gian khổ, những người lính luôn phải phấn đấu, cố gắng để đạt được những
điều tốt nhất cho dân tộc của mình, địa danh này đã gắn với biết bao chiến công của
những người chiến sĩ, họ đã phải hy sinh xương máu của mình cho độc lập tự do của
dân tộc.
Khi đất nước được hòa bình, tác giả vẫn không bao giờ có thể quên được những phút
giây chiến đấu căng go và ác liệt đó, nó thể hiện một tinh thần mạnh mẽ, đã ăn sâu vào
trong tiềm thức của những người chiến sĩ, nó đang tác động một cách phi thường, và
mang nhiều cảm xúc đến cho bạn đọc. Ngoài ra những kỉ niệm đẹp về mối tình quân
dân, gắn bó với người lính, qua từng chặng đường, kỉ niệm trong đêm liên hoan văn
nghệ, với biết bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, nó vẫn đang in sâu trong tâm trí của những
người lính:
PJ("6>3a3A
Pc68O(G)
231
Hình ảnh đó đã thể hiện một màu sắc trữ tình và đầy thơ mộng của những người lính
cách mạng, các cô gái đến với lễ hội, đang e ấp từng làn điệu nhẹ nhàng, đây là hình
ảnh đặc trưng cho vùng đất Tây Bắc, con người luôn giữ lấy truyền thống của dân tộc.
Những người lính cách mạng, mặc dù đang phải chiến đấu gian nan, nhưng họ cũng
không quên đi những giai điệu làm ấm lên tình người đó, cảm xúc đó đang bao trùm
lên tâm hồn yêu cái đẹp của những người lính.
Tiếp theo tác giả cũng sử dụng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên, trong đó nó có sự
kết hợp tài tình với bóng dáng của con người, cảnh đưa tiễn trên sông, nó làm cho
cảnh vật ở đây buồn bã hơn, tác giả như đang thổi hồn mình vào từng dòng tâm trạng
của cảnh vật, nó làm cho vật và người đồng có suy nghĩ và cảm xúc như nhau. Với vẻ
đẹp đó, chúng ta có thể nhìn thấy nó đầy thơ mộng, hoang sơ và có chút kì vĩ...
Bài thơ đã mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc, bởi trong chính tâm hồn của tác giả
đang mang đậm cảm xúc về vùng đất Tây Tiến.
232
Bấm Tải xuống để xem toàn bộ.