



Preview text:
Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương chọn lọc hay nhất
Trong xã hội phong kiến trước đây với những lễ giáo, cũng như luật
lệ khắt khe, người phụ nữ luôn phải chịu nhiều những cái nhìn và định kiến
hà khắc. Họ bị ràng buộc bởi quan niệm “Tam tòng tứ đức”, bởi “Công dung
ngôn hạnh” và không được trao cho quyền làm chủ hạnh phúc của mình. Bởi
lẽ đó mà hình tượng người phụ nữ là nguồn cảm hứng vô tận cho văn
chương thời kỳ này. Điển hình trong số đó, được coi là nữ sĩ đại diện cho nữ
quyền, Hồ Xuân Hương là nhà thơ tiêu biểu với khối lượng văn thơ chủ đề
người phụ nữ đáng khâm phục về cả chất và lượng. Tác phẩm của bà không
những chỉ ra những mặt trái của xã hội phong kiến đang chà đạp người phụ
nữ, mà còn là lời khóc than cho chính thân phận đàn bà của mình. Tập Tự
tình của Hồ Xuân Hương gồm ba bài thơ tiêu biểu xuất sắc trong làng thơ ca
thời kỳ phong kiến, là sự phản ánh độc đáo những tâm tư, tình cảm của một
"hồng nhan bạc mệnh". Trong đó, “Tự tình II” được coi là bài thơ day dứt nhất
khắc họa hình ảnh người phụ nữ với tình duyên không trọn vẹn.
Tự tình II được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, thuộc thể loại
thơ trữ tình trung đại Việt Nam. Cái tôi trữ tình trong thơ chính là cái tôi Hồ
Xuân Hương - chủ thể trữ tình phiếm chỉ. Chất trữ tình được Hồ Xuân Hương
thể hiện rất rõ qua thiên nhiên và hình tượng người phụ nữ phong kiến. Đây
cũng chính là tiếng lòng đớn đây đến tê tái của họ. Thơ của Hồ Xuân Hương
là sự kết hợp độc đáo của dòng chảy văn học dân gian và bác học, với sự hài
hòa yếu tố Nôm và yếu tố Đường của thể thơ Đường luật.
Mở đầu bài thơ, người phụ nữ xuất hiện trong hoàn cảnh không gian và thời
gian là màn đêm tĩnh mịch, con người trở nên cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng với
bao nhiêu cay đắng ân hận cho thân phận tủi nhục của mình.
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
Tác giả dùng từ “văng vẳng” để miêu tả một âm thanh vừa trong trẻo vừa mơ
hồ, không xác định được phương hướng mà lại có thể cảm nhận rõ ràng. Bối
cảnh thời gian của bài thơ là vào “đêm khuya” - thời điểm mà con người dễ
rơi vào những trạng thái cảm xúc mơ màng khó tả nhất. Giữa “đêm khuya”
này là một người phụ nữ vẫn thao thức, nghĩ về cuộc đời mình giữa tiếng
trống văng vẳng đêm thanh vắng. Thủ pháp nghệ thuật lây động tả tính, nghe
tiếng trống mà lột tả được sự thanh cao, tính lặng của đêm khuya trong một
lời thơ. Quả là một tiếng thơ của một nghệ sĩ thực thụ.
Việc người phụ nữ được miêu tả bằng cụm từ “hồng nhan” ý nói đến đức
hạnh, tấm lòng son sắt bên trong nhưng lại chịu số phận bất hạnh, dở dang.
Từ “trơ” ở đầu câu càng làm nổi bật nỗi đau ấy. Về nhân cách, Hồ Xuân
Hương có cá tính mạnh mẽ, táo bạo nên đó là sự bất chấp, sức ỳ của một
con người chịu bao nhiêu đau thương, tủi hờn mà vẫn dửng dưng với “nước
non”. Từ cái đứng trước "hồng nhan" lại càng gợi lên nỗi tủi nhục của người
phụ nữ khi bị xã hội coi khinh. Người phụ nữ xinh đẹp cả về thể xác lẫn tâm
hồn nhưng lại phải sống một cuộc đời bất hạnh, hẩm hiu về số phận.
Nối tiếp không gian, thời gian gợi buồn man mác là con người cũng cùng
chung tâm trạng. Quả đúng như câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du: "Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ", nét buồn của người và cảnh luôn hòa quyện
trong thơ ca. Hình ảnh của người phụ nữ lẻ loi được hiện ra qua hai câu thơ ngắn gọn:
"Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bống xế khuyết chưa tròn"
Mượn rượu giải sầu dưới ánh trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thi ca,
là một hình ảnh đẹp đầy thi vị. Hồ Xuân Hương biết thân phận người phụ nữ
sống trong chế độ phong kiến thối nát, phải chịu nhiều bất công nên
muốn mượn chén rượu, chút hương nồng để quên đi nỗi sầu. Nhưng tiếc
rằng những người mượn rượu giải sầu lại không thể dùng hương rượu nồng
để xua đi bầu tâm sự. Càng uống, bà càng tỉnh, càng nhận ra thực tại đau
khổ, cô luôn ở trong cái vòng luẩn quẩn của nghịch cảnh cuộc đời. Tuy vậy,
bà chúa thơ Nôm không phải là người phụ nữ cam chịu, chấp nhận số phận
mà vẫn mang trong mình cá tính phản kháng mãnh liệt. Bà đã từng lên tiếng
với thái độ coi thường, khinh miệt những kẻ nam nhi vô dụng của xã hội cũ rằng:
"Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu"
Một con người tự tin dám khẳng định bản thân mình thì không bao giờ chịu
chấp nhận nghịch cảnh mà thay vào đó là một ý thức phản kháng, luôn mong
mỏi một hạnh phúc đời thường. Tiếng lòng của người phụ nữ lại càng như
được lột tả rõ ràng hơn. Vầng trăng khuyết dường như càng khiến sự cô đơn,
tịch liêu trong bài thơ tăng lên bội phần. Hình ảnh đó giống như người phụ nữ
tài sắc vẹn toàn mà chỉ có thể nhìn tuổi xuân cứ lặng lẽ đi qua mà hạnh phúc thì không trọn vẹn:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
Dưới con mắt của tâm hồn mạnh mẽ, những vật vô tri vô giác như rong rêu,
đá tảng cũng tràn đầy sức sống, “xiên ngang”, “đâm toạc” cả những vật to lớn
như “mặt đất”, “chân mây”. Hình ảnh rêu được đưa vào bài thơ thể hiện ý tứ
sâu xa của nữ thi sĩ. Điều bà muốn thể hiện ở đây là sự so sánh ẩn dụ giữa
người phụ nữ và loài rêu, nhỏ bé, mong manh nhưng có sức sống mãnh liệt,
có thể vươn mình trong mọi điều kiện khắc nghiệt. Cụm từ “xiên ngang mặt
đất” cũng khiến người đọc liên tưởng đến sự phản kháng mạnh mẽ của chủ
thể trước những điều lớn lao hơn. "Đâm toạc chân mây" cũng như nhấn thêm
vào sự tầm thường chút nào của những thân phận bề ngoài nhỏ bé, như
người phụ nữ. Đáng tiếc, dù có mạnh mẽ đối chọi, phản kháng thì người phụ
nữ vẫn không thể thoát ra khỏi sợi dây số mệnh ràng buộc bản thân. Dù cố
phản kháng, nhưng than nỗi chẳng thể nào thoát khỏi kiếp làm vợ lẽ.
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến không phải ai cũng có nhận thức
và có thái độ cứng rắn như Hồ Xuân Hương. Phản kháng càng mạnh mẽ,
khát vọng hạnh phúc càng lớn. Người phụ nữ cần và xứng đáng có một mái
ấm gia đình, được người đàn ông của đời minh yêu thương chăm sóc, đầu
ấp tay gối chứ không phải một mình giường đơn gối chiếc trong bóng tối cô
đơn buồn tủi. Nhưng càng hi vọng lại càng thất vọng, thương thân phận mình khi:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!"
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm cuộc đời éo le, bạc bẽo, thế cục xoay vần
của tạo hóa mà mình thì vẫn cô độc. "Xuân" vừa là mùa xuân mà cũng chính
là tuổi xuân. Hồ Xuân Hương ngao ngán khi ngày này qua ngày khác, năm
này qua năm khác “xuân đi xuân lại lại” tuần hoàn mà thân nữ nhi vẫn cô đơn
lẻ bóng, tình thì chẳng bao giờ trọn vẹn. Mùa xuân quay vòng với tạo hóa
nhưng tuổi xuân của con người đã đi qua thì không bao giờ trở lại. Hai từ “lại
lại” lặp lại như khiến cảm xúc của người ta thêm ngao ngán, khiến cho
khoảng đối lập giữa con người và tự nhiên càng lớn và nghịch cảnh lại càng
éo le hơn. Đã là một “mảnh tình” rất nhỏ bé tội nghiệp rồi mà giờ đây còn là
“san sẻ” đến nỗi cuối cùng chỉ là “tí con con”. Từ đây, ta cũng sẽ thấy được ý
thức, cá tính mạnh của Hồ Xuân Hương càng khiến tình cảnh trở nên éo le,
xót xa và tội nghiệp hơn.
Mặc dù nữ thi sĩ là người tài hoa, sắc đẹp, đức độ nhưng phải chăng “trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen” mà bà cũng không thể vượt qua nghịch
cảnh của số phận. Ngậm ngùi cho thân phận người phụ nữ trong xã hội
phong kiến xưa đã khiến Nguyễn Du, nhà thơ nhân văn của nhân loại đã từng phải thốt lên:
"Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Bằng khả năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc điêu luyện cũng như những thủ
pháp nghệ thuật độc đáo, bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương đã khắc họa
hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến còn chịu nhiều bất hạnh,
cay đắng nhưng không bao giờ thôi khao khát hạnh phúc gia đình, hôn nhân
viên mãn, đến khả năng làm chủ vận mệnh của chính mình. Bài thơ là một
điểm sáng của văn học Việt Nam thời kỳ phong kiến, tô thắm thêm vẻ đẹp và
những phẩm chất, đức tính của người phụ nữ Việt Nam luôn cần được gìn giữ và phát huy.
Trên đây là bài văn mẫu phân tích tác phẩm Tự tình II của Hồ Xuân Hương.
Mong rằng bài văn sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ ý nghĩa bài thơ và học tập tốt chương trình Ngữ văn.
Document Outline
- Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương chọn