
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61265515
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ~~~~~~*~~~~~~ BÀI TẬP NHÓM KINH TẾ ĐẦU TƯ 1 ĐỀ TÀI:
“ Phân tích các lợi ích của đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam. ” Thành viên: Trần Hương Thảo 11225973 Trần Thị Minh Nguyệt 11224862 Nguyễn Thùy Dương 11221603 Nguyễn Thảo Cẩm Linh 11223644 Dương Thị Hà Vy 11226975 Nguyễn Thành Huy 11212626 lOMoAR cPSD| 61265515 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.Khái niệm “Đầu tư” ............................................................................................. 1
1.2. Khái niệm “Phương thức đối tác công tư - PPP” ............................................. 1
1.3. Nguyên tắc quản lý đầu tư theo phương thức PPP .......................................... 2
1.4. Một số hình thức thực hiện PPP trên thế giới ................................................... 2
1.5. Quy trình thực hiện dự án .................................................................................. 3
1.6. Ưu điểm của Phương thức đối tác công tư PPP ............................................... 4
PHẦN II: LỢI ÍCH CỦA ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC PPP TẠI VIỆT NAM 5
2.1. Lý do Việt Nam nên sử dụng Phương thức PPP ............................................... 5
2.1.1. Lợi ích của Phương thức PPP khi sử dụng tại Việt Nam ................................. 5
2.1.2. Những bất cập, nút thắt của Phương thức PPP tại Việt Nam .......................... 6
2.2. Thực trạng chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP
ởViệt Nam .................................................................................................................... 7
2.2.1. Giai đoạn 1997-2004 ....................................................................................... 7
2.2.2. Giai đoạn 2005-2015 ....................................................................................... 8
2.2.3. Giai đoạn 2016-nay ......................................................................................... 9
2.3. Đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư phát triển ....... 12
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 15 lOMoAR cPSD| 61265515 LỜI MỞ ĐẦU
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các quốc gia phát triển như Hàn Quốc,
Canada, Pháp... và những quốc gia đang phát triển như Indonesia, Philippines... việc huy
động nguồn lực xã hội thông qua phương thức PPP đã được áp dụng từ lâu và đóng góp
đáng kể cho việc phát triển hạ tầng xã hội của mỗi quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư
trong phát triển kinh tế - xã hội với điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn chế. Các quốc
gia trên thế giới đã thực hiện việc thu hút khu vực tư nhân tham gia phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng dưới hình thức hợp tác công tư (PPP) và đạt
được nhiều thành tựu nhất định.
Trong những năm qua, đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã và đang dần trở nên
phổ biến hơn, được nhà nước ta chú trọng và đưa vào phát triển ở nhiều dự án, phương
thức hợp tác đối tác công tư (PPP) cũng được xem là giải pháp giảm áp lực cho ngân sách
quốc gia. Việc triển khai đầu tư theo phương thức PPP đã đạt được những kết quả nhất
định, góp phần hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam, được coi là một phương
án có triển vọng để xây dựng đất nước.
Vì vậy, chúng em lựa chọn đề tài: “Phân tích các lợi ích của đầu tư theo phương
thức đối tác công tư. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam.” Thông qua quá trình nghiên cứu
chúng em muốn tìm hiểu cụ thể hơn về những mặt lợi ích của hình thức đầu tư này và từ
đó nhìn vào thực tế cách PPP vận hành ở Việt Nam qua nhiều góc độ.
PHẦN 1: THẢO LUẬN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm “Đầu tư”
- “Đầu tư”: Đầu tư được định nghĩa là những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện
tại nhằm mang đến cho nền kinh tế xã hội những kết quả lớn hơn trong tương lai so
với nguồn lực đã sử dụng.
- Theo nghĩa rộng hơn, đầu tư còn có thể được hiểu là sự hy sinh các nguồn lực hiện
tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về những kết quả lớn hơn trong
tương lai so với nguồn lực đã sử dụng.
- Nói một cách đơn giản đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực tài chính, vật chất, lao
động, trí tuệ và cả thời gian để đạt được lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
1.2. Khái niệm “Phương thức đối tác công tư - PPP”
- Mô hình đầu tư PPP: Thuật ngữ “PPP” như cách gọi phổ biến hiện nay bắt nguồn từ
Hoa Kỳ trong thập niên 1950 khi một số chương trình phát triển thuộc lĩnh vực giáo
dục được khu vực công và khu vực tư đồng tài trợ. Tiếp đó, PPP được sử dụng rộng
rãi để nói đến liên doanh giữa chính quyền thành phố và nhà đầu tư tư nhân trong
việc cung cấp CSHT tại quốc gia này trong thập niên 1960. Kể từ thập niên 1980,
thuật ngữ “PPP” dần phổ biến ở nhiều nước và được hiểu là sự hợp tác giữa nhà lOMoAR cPSD| 61265515
nước và tư nhân để cùng phát triển, xây dựng CSHT hay cung cấp các dịch vụ công cộng.
1.3. Nguyên tắc quản lý đầu tư theo phương thức PPP:
- Phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và quy
hoạch có liên quan theo quy định của pháp luật về quy hoạch.
- Bảo đảm quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước trong dự án PPP.
- Việc thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm toán nhà nước, giám sát dự án
PPP phải bảo đảm không làm cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh bình thường của
nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP.
- Bảo đảm đầu tư công khai, minh bạch, bình đẳng, bền vững và hiệu quả.
- Bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư, người sử dụng và cộng đồng.
1.4. Một số hình thức thực hiện PPP trên thế giới:
- Có nhiều hình thức hợp tác PPP, song hiện nay trên thế giới có 5 hình thức phổ biến:
xây dựng - chuyển giao (Build - Transfer: BT); xây dựng - cho thuê - chuyển giao
(Build - Lease - Transfer: BLT); xây dựng - vận hành - chuyển giao (Build Operate -
Transfer: BOT); xây dựng - chuyển giao - vận hành (Build - Transfer Operate: BTO)
và xây dựng - sở hữu - vận hành (Build - Own - Operate: BOO).
- Theo thống kê, đã có nhiều công trình nổi tiếng như: Xây dựng các kênh đào ở Pháp
vào thế kỷ XVIII, các cây cầu ở London hoặc cây cầu Brooklyn ở New York vào thế
kỷ XIX được xác định là đã áp dụng mô hình hợp tác PPP. Tuy nhiên, mô hình này
chỉ thực sự bắt đầu phổ biến trên thế giới từ đầu thập niên 1980. Mặc dù, không phải
quốc gia nào cũng thành công, song với hơn 100 quốc gia đang áp dụng khá hiệu
quả, cho thấy mô hình này là một giải pháp tích cực ở nhiều quốc gia, lôi cuốn khu
vực tư nhân tham gia cùng với nhà nước nhằm giảm áp lực chi ngân sách cho các
dịch vụ công của Chính phủ.
- Vương quốc Anh là một trong những quốc gia đầu tiên xây dựng và triển khai thành
công dự án PPP. Bắt đầu từ nhu cầu cải cách và hiện đại hóa dịch vụ công, đồng thời
cải thiện hiệu quả mua sắm các dịch vụ công cũng như tăng khả năng cạnh tranh
trong lĩnh vực này. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, quốc gia này đã có những
bước đi ban đầu cho việc hình thành cơ chế PPP cho các dự án cung cấp dịch vụ công
và từ thập niên 80 đã áp dụng rộng rãi. Theo Bộ Ngân khố Vương quốc Anh, hiện
PPP chiếm 11% trong tổng đầu tư công ở Anh. Trong đó, môi trường và giao thông
vận tải là 2 lĩnh vực áp dụng PPP nhiều nhất. Tính đến nay, tại Anh đã có 667 hợp
đồng PPP đã được ký kết với giá trị vốn 56,6 tỷ bảng Anh và 590 dự án đang thực
hiện. Với nguyên tắc chỉ lựa chọn những dự án PPP tạo ra giá trị vượt trội so với hình
thức đầu tư truyền thống, Chính phủ Anh đã giúp cho quốc gia này trở thành một lOMoAR cPSD| 61265515
trong những quốc gia áp dụng mô hình PPP sớm nhất và đạt được nhiều thành công
trong việc thực hiện PPP.
- Tại Hàn Quốc, mô hình PPP chính thức được triển khai từ năm 1994 cùng với việc
ban hành Luật thúc đẩy vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng. Khi Luật được áp dụng vào
thực tế, có hơn 100 dự án khác nhau trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở đã được triển khai
theo hình thức PPP. Tuy nhiên, với nhiều thiếu sót trong Luật năm 1994, năm 1999,
Hàn Quốc đã ban hành Luật về hợp tác công tư mới, thay thế luật cũ. Luật này đã cải
thiện các hình thức hợp đồng, cách thức xử lý các dự án đơn lẻ, đồng thời quy định
bắt buộc phải nghiên cứu tính khả thi khi triển khai dự án, cũng như hệ thống xử lý
rủi ro khác và thành lập một Trung tâm nghiên cứu triển khai PPP (PICKO). Đến
năm 2001, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành kế hoạch 10 năm triển khai PPP, cho
thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc tập trung phát triển vào các dự án theo hình
thức PPP. Bên cạnh đó, Hàn Quốc còn thực hiện việc khuyến khích các dự án PPP
bằng hình thức miễn, giảm thuế. Trong nhiều hợp đồng, Chính phủ có thể bảo lãnh
doanh thu lên tới 90%, qua đó kích thích tư nhân đầu tư do họ hầu như không phải
gánh chịu rủi ro doanh thu mà phần rủi ro này chuyển phần lớn sang Chính phủ.
1.5. Quy trình thực hiện dự án
- Lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quyết định chủ trương đầu tư và công bố dự án. lOMoAR cPSD| 61265515 -
Lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi.
- Tổ chức lựa chọn nhà đầu tư.
- Đàm phán, thành lập doanh nghiệp dự án (nếu có), ký kết hợp đồng dự án. - Triển
khai thực hiện dự án; quyết toán và chuyển giao công trình.
1.6. Ưu điểm của Phương thức đối tác công tư PPP:
- Tối thiểu hoá chi phí bằng việc tích hợp, đồng bộ hoá tất cả các hoạt động trong
vòng đời của dự án (thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo trì).
- Chuyển giao, phân bổ rủi ro cho các bên liên quan một cách hiện quả hơn. Góp phần
giảm chi phí chung cho toàn dự án.
- Tập trung vào chất lượng dịch vụ. Cho phép những bên liên quan có một kế hoạch dài hơi cho dự án.
- Tối ưu hoá: tư nhân được khuyến khích sử dụng nguồn lực cho đa mục tiêu. Từ đó
giảm thiểu chi phí chung cho toàn xã hội.
- Huy động được nhiều nguồn vốn trong xã hội hơn cho các dự án đầu tư, đặc biệt là
các dự án cơ sở hạ tầng.
- Nâng cao được tính công khai, minh bạch thông qua việc các bên phải đảm bảo đầu ra của mình.
- Khu vực tư nhân sẽ giúp cho các dự án được thực hiện một cách nhanh chóng và sáng tạo hơn.
- Khuyến khích khu vực tư nhân thực hiện dự án đúng tiến độ và trong giới hạn ngân sách.
- Đảm bảo sự đầy đủ về ngân sách cho dự án bằng việc hoạch định dòng tiền một cách đúng đắn.
- Góp phần phát triển năng lực của khu vực tư nhân thông qua việc hợp tác, cạnh
tranh cũng như giúp các doanh nghiệp địa phương trở thành các đối tác trong sản
xuất ở các lĩnh vực dân dụng, điện, quản lý đất đai, an ninh, vệ sinh…
- Giúp các doanh nghiệp nhà nước độc lập và chủ động trong kinh doanh hơn bằng
cách gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường. Những doanh nghiệp Nhà nước sẽ
buộc phải thay đổi cách thức hoạt động để có thể duy trì vị thế với các doanh nghiệp khác.
- Giúp tạo ra sự đa dạng hoá trong việc tìm kiếm nhà đầu tư xây dựng các cơ sở hạ
tầng. Ngoài ra, nó góp phần thúc đẩy chuỗi liên kết trong việc kinh doanh liên quan đến cơ sở hạ tầng.
- Bổ sung năng lực hạn chế của khu vực công để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về
kinh tế, cơ sở hạ tầng. lOMoAR cPSD| 61265515
Luật số: 64/2020/QH14 LUẬT ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ
Chương I. Những quy định chung
Chương II. Chuẩn bị dự án PPP
Chương III. Lựa chọn nhà đầu tư
Chương IV. Thành lập, hoạt động của doanh nghiệp dự án PPP, hợp đồng dự án PPP
Chương V. Triển khai, thực hiện hợp đồng dự án PPP
Chương VI. Nguồn vốn thực hiện dự án PPP Chương
VII. Ưu đãi và bảo đảm đầu tư
Chương VIII. Kiểm tra, thanh tra, kiểm toán nhà nước và giám sát hoạt động đầu tư theo phương thức PPP
Chương IX. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước
trong đầu tư theo phương thức PPP
Chương X. Giải quyết kiến nghị, tranh chấp và xử lý vi phạm Chương XI. Điều khoản thi hành
PHẦN II: LỢI ÍCH CỦA ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC PPP TẠI VIỆT NAM 2.1.
Lý do Việt Nam nên sử dụng Phương thức PPP
2.1.1. Lợi ích của Phương thức PPP khi sử dụng tại Việt Nam
- Ngoài những lợi ích to lớn từ Phương thức PPP như đã đề cập ở trước, Phương thức
PPP đã có những lợi ích cụ thể đối với Việt Nam nói riêng như là: a. Với nhà nước:
- Kích thích tăng trưởng nhu cầu phát triển trong nước, giúp tiếp cận các công nghệ
xây dựng và công nghệ quản lý mới trên thế giới.
- Việc phát triển hạ tầng giao thông hiện đại thông qua hình thức PPP cũng sẽ thúc
đẩy kinh tế liên vùng, phát triển ngành năng lượng phục vụ nhu cầu sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, đồng thời bảo vệ môi trường bền vững.
- Tạo việc làm và phát triển kinh tế: Các dự án PPP thường tạo cơ hội việc làm và
đóng góp vào sự phát triển kinh tế của khu vực. Điều này giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp
và tạo thu ngân sách cho chính phủ.
- Phát triển hạ tầng quốc gia: PPP có khả năng thúc đẩy phát triển hạ tầng quốc gia,
đặc biệt trong các lĩnh vực quan trọng như giao thông, năng lượng, và giáo dục, giúp
cải thiện cuộc sống và sự phát triển bền vững của cộng đồng.
- Tăng hiệu quả tài chính công: Chính phủ có thể sử dụng nguồn lực tư nhân để đầu
tư vào các dự án mà họ không thể tài trợ hoặc quản lý một cách hiệu quả bằng tài
chính công, giúp tối ưu hóa quản lý ngân sách và tài chính công. lOMoAR cPSD| 61265515 -
- Chia sẻ rủi ro và tạo sự ổn định: PPP giúp chia sẻ rủi ro giữa chính phủ và tư nhân.
Điều này giúp giảm áp lực tài chính đối với chính phủ và tạo sự ổn định cho dự án.
Tư nhân thường phải chịu rủi ro tài chính và hoạt động, và họ sẽ cố gắng để đảm
bảo rằng dự án thành công để bảo vệ đầu tư của họ.
Tối ưu hóa tài nguyên tài chính và vật lý: PPP cho phép tận dụng tối đa tài nguyên
tài chính và vật lý. Chính phủ có thể sử dụng tài chính của tư nhân để thực hiện các
dự án mà họ không thể tự mình tài trợ hoặc triển khai. Hơn nữa, sự đóng góp của tư
nhân có thể cải thiện quản lý và sử dụng tối ưu hóa cơ sở hạ tầng hiện có.
b. Với doanh nghiệp:
- Tiết kiệm thời gian và tài chính: PPP có thể giảm thời gian cần thiết để triển khai
các dự án cơ sở hạ tầng và giảm nguy cơ trì trệ do thiếu tài trợ hoặc quản lý không
hiệu quả, giúp đảm bảo rằng các dự án được triển khai một cách nhanh chóng và hiệu quả.
- Khuyến khích sáng tạo và đổi mới: PPP khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo trong
việc thiết kế, xây dựng và quản lý dự án cơ sở hạ tầng, giúp cải thiện hiệu suất và
sự tiến bộ trong lĩnh vực này.
- Theo ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch VCCI: “Hiện nhu cầu đầu tư cho các
các dự án phát triển hạ tầng ở Việt Nam là rất lớn, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn đầu
tư công là bất khả thi. Trong khi đó, nguồn lực từ xã hội còn nhiều dư địa. Do đó,
PPP là một giải pháp tuyệt vời cho phát triển cơ sở hạ tầng, năng lượng, giao thông,
giáo dục, y tế,… giúp nâng cao hiệu quả đầu tư nếu được quản trị một cách minh bạch.”
c. Đối với tư nhân:
- Thúc đẩy sự tham gia của tư nhân: PPP tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân tham gia
vào các dự án cơ sở hạ tầng. Họ có cơ hội kiếm lợi nhuận và thúc đẩy đầu tư, đồng
thời đưa vào quy trình kinh nghiệm và kỹ năng quản lý của họ để đảm bảo dự án thành công.
- Nâng cao chất lượng dự án và dịch vụ: Sự tham gia của tư nhân thường dẫn đến
nâng cao chất lượng của cơ sở hạ tầng và dịch vụ. Họ có động cơ để cung cấp dịch
vụ tốt hơn và duy trì hạ tầng trong tình trạng tốt.
- Tạo động lực cho hiệu quả: Bằng việc thiết lập các hợp đồng và thỏa thuận rõ ràng,
PPP tạo động lực cho tư nhân để quản lý và vận hành dự án một cách hiệu quả để
đảm bảo họ đạt được lợi nhuận và duy trì dự án trong thời gian dài.
2.1.2. Những bất cập, nút thắt của Phương thức PPP tại Việt Nam:
- Nhà đầu tư phải bỏ vốn chủ sở hữu và vốn vay để thực hiện trước.
- Sự bất cập trong bình đẳng giữa các bên thực thi dự án. lOMoAR cPSD| 61265515
- Sự thiếu đồng bộ, đầy đủ trong quy định các hợp đồng dự án và những bất cập trong
cơ chế giải quyết tranh chấp.
- Nhiều thủ tục trong quá trình triển khai các dự án PPP cũng chịu sự điều chỉnh của
các luật khác nhau dẫn đến khó khăn thực hiện trong thực tế.
- Hầu hết các dự án tại Việt Nam đều tập trung trong lĩnh vực giao thông, chưa được
triển khai nhiều trong các lĩnh vực khác.
- Một số dự án chuyển tiếp trong lĩnh vực giao thông, năng lượng phát sinh vướng
mắc, có nguy cơ rơi vào bế tắc nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý triệt để, ảnh
hưởng tiêu cực tới môi trường đầu tư nói chung và việc triển khai các dự án PPP mới.
- Để đạt mục tiêu giải ngân cấp bách vốn đầu tư công nhằm phục hồi kinh tế, một số
dự án đang chuẩn bị đầu tư theo phương thức PPP đã được xem xét chuyển sang
đầu tư công hoàn toàn, dẫn đến giảm số lượng dự án PPP được triển khai.
- Một số địa phương không đồng ý bố trí cho việc chia sẻ sụt giảm doanh thu của dự
án PPP, điều này gây khó khăn lớn cho nhà đầu tư khi đàm phán với ngân hàng.
- Nguồn vốn vay hiện nay rất khó tiếp cận; bất cập trong quy định giải ngân nguồn
vốn đầu tư công hỗ trợ xây dựng hạng mục công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng khiến
nhiều nhà đầu tư tư nhân không “mặn mà” với các dự án đầu tư theo hình thức PPP.
-> Do đó, để tháo gỡ vướng mắc, nâng cao hiệu quả thực hiện các dự án PPP, Việt
Nam thực sự cần những biện pháp phù hợp và nhanh chóng để nhanh chóng giải
quyết việc hài hoà lợi ích, chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp vi mục tiêu
lợi ích cao nhất của người dân và xã hội.
-> Dù có những bất cập nhưng Phương thức PPP vẫn là một trong những công cụ
hưu hiệu, công cụ cải cách quan trọng đối với lĩnh vực quản lý công. Bởi vậy hình
thức hợp tác đầu tư này đã được khẳng định ở nhiều nước trên thế giới, Việt Nam
cũng đang dần hoàn thiện để áp dụng tối đa lợi ích từ phương thức này.
2.2. Thực trạng chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP ở Việt Nam:
2.2.1. Giai đoạn 1997-2004:
- Tại Việt Nam, đầu tư theo hình thức PPP được bắt đầu thực hiện từ năm 1997 với
chỉ duy nhất một hình thức hợp đồng BOT (Nghị định số 77/CP ngày 18/6/1997).
Đến năm 1998, các loại hợp đồng PPP đã được mở rộng gồm 03 loại BOT, BTO,
BT (Nghị định số 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998). Trong giai đoạn này, các văn
bản quy phạm pháp luật đều chưa có hướng dẫn về lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP.
- Giai đoạn từ 1997 đến 2004 chưa thật sự có nhiều dự án được triển khai theo hình
thức PPP hay cụ thể là BOT vì hành lang pháp lý còn sơ khai, kèm theo đó là
khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Tuy nhiên, việc đặt những nền móng sơ lOMoAR cPSD| 61265515 -
khai cho đầu tư theo hình thức đối tác công tư cũng đã giúp đầu tư khu vực công
đạt được những bước phát triển mạnh mẽ và kèm theo đó là những thay đổi tích
cực về kinh tế xã hội.
Những động thái đầu tiên về hình thức đầu tư này có 1 phần giúp thay đổi về định
hướng đầu tư phát triển toàn XH:nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi chiếm 20%;
công nghiệp chiếm 43%; hạ tầng giao thông bưu điện chiếm 18%; hạ tầng xã hội,
giáo dục, y tế, văn hoá, môi trường, khoa học công nghệ chiếm 14%; và đầu tư
khác 5%.Phần vốn nhà nước có thể chi phối trực tiếp được bao gồm: ngân sách
nhà nước, tín dụng nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiếm trên 52%;
trong đó cơ cấu nguồn vốn từ ngân sách được định hướng như sau: nông, lâm, ngư
nghiệp, thủy lợi chiếm 22%; giao thông, bưu điện chiếm 35%; hạ tầng xã hội
chiếm 35%; các ngành khác gần 10%.
- So sánh về hiệu quả vốn đầu tư (theo chỉ số ICOR):
So sánh ICOR của Việt Nam và của một số nước ASEAN
- Trong thời kì năm 1997-2004, chỉ số ICOR ở mức cao hơn so với thời kì
19931996, tăng khoảng 50%. Điều này cho thấy vốn được sử dụng tại Việt Nam
trong thời kì 1997-2004 sẽ cho ra ít lợi nhuận hơn so với giai đoạn 1003-1996.
Tuy nhiên điều này có thể lí giải bởi bắt đầu từ năm 1997, Việt Nam bắt đầu đưa ra
những chính sách nhằm đầu tư phát triển, hướng đến những mục tiêu “phi lợi
nhuận", cụ thể như Nghị định số 77/CP.
2.2.2. Giai đoạn 2005-2015:
- Trong giai đoạn 2005-2015, PPP đã được triển khai rộng rãi tại Việt Nam và mang
lại nhiều lợi ích, cụ thể như sau: lOMoAR cPSD| 61265515
+ Thúc đẩy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: PPP đã góp phần huy động vốn tư nhân
để đầu tư phát triển các dự án cơ sở hạ tầng, như đường bộ, đường sắt, điện, nước,...
Các dự án PPP đã giúp cải thiện cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực: PPP đã giúp nhà nước tận dụng được năng
lực, kinh nghiệm của tư nhân trong việc triển khai các dự án. Điều này đã giúp nâng
cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, tiết kiệm chi phí cho nhà nước. + Thúc đẩy chuyển
giao công nghệ và kỹ năng quản lý: PPP đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong
nước tiếp thu công nghệ, kỹ năng quản lý của doanh nghiệp nước ngoài. Điều này
đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
+ Tạo việc làm và thu nhập cho người dân: Các dự án PPP đã tạo ra nhiều việc làm
và thu nhập cho người dân, góp phần giảm nghèo, cải thiện đời sống của người dân.
- Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về lợi ích của PPP giai đoạn 2005-2015:
+ Dự án đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng: Dự án được thực hiện theo hình thức
BOT, với tổng vốn đầu tư khoảng 12.000 tỷ đồng. Dự án đã giúp rút ngắn thời gian
di chuyển từ Hà Nội đến Hải Phòng từ 4 giờ xuống còn 1,5 giờ, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
+ Dự án Nhà máy điện mặt trời Long Thành: Dự án được thực hiện theo hình thức
BOO, với tổng vốn đầu tư khoảng 2,2 tỷ USD. Dự án đã giúp tăng cường nguồn
cung điện sạch cho hệ thống điện quốc gia.
+ Dự án Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Cà Mau: Dự án được thực hiện theo hình thức
PPP, với tổng vốn đầu tư khoảng 1.000 tỷ đồng. Dự án đã giúp nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế tại khu vực.
2.2.3. Giai đoạn 2016-nay:
- Từ năm 2016 đến năm 2019 (thời điểm trước khi ban hành Luật Đầu tư theo
phương thức đối tác công tư 2020 - Luật PPP), KTNN đã thực hiện kiểm toán 84
dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT giao thông và 50 dự án đầu tư theo
hình thức hợp đồng BT. Đối với kiểm toán 84 dự án đầu tư theo hình thức hợp
đồng BOT giao thông, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 4.684,4 tỷ đồng, bằng
3,4% tổng giá trị được kiểm toán, trong đó nhiều dự án có tỷ lệ xử lý tài chính lớn
từ 11% đến 13% giá trị được kiểm toán. Đồng thời, KTNN đã kiến nghị giảm thời
gian thu phí hoàn vốn so với phương án ban đầu của 81 dự án là 300 năm, trong
đó có dự án giảm thời gian nhiều nhất là 13 năm 1 tháng 12 ngày. Đối với kiểm
toán 50 dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BT, KTNN đã kiến nghị xử lý tài
chính 9.102 tỷ đồng, bằng 13,78% tổng giá trị được kiểm toán, trong đó có những
dự án tỷ lệ kiến nghị xử lý tài chính lớn từ 27% đến 29% giá trị được kiểm toán.
- Ngày 4/5/2018, Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP ban
hành (thay thế Nghị định số 15/2015/NĐ-CP). Theo đó, phương thức đầu tư PPP
đã được mở rộng, sự tham gia của Nhà nước vào dự án PPP cũng được tăng cường
(tham gia bằng đất đai, hạ tầng, quyền kinh doanh), góp phần làm giảm gánh nặng lOMoAR cPSD| 61265515 -
chi ngân sách cho đầu tư công; đồng thời, làm giảm rủi ro thất thoát vốn (không
góp vốn hoặc thanh toán cho các dự án có chỉ định thầu).Bên cạnh đó, về vốn chủ lOMoAR cPSD| 61265515
sở hữu và vốn huy động của NĐT, Nghị định số 63/2018/NĐ-CP đã nâng tỷ lệ vốn
chủ sở hữu của NĐT lên tối thiểu 20% so với mức 15% tại Nghị định số
15/2015/NĐ-CP đối với dự án có tổng vốn đầu tư đến 1.500 tỷ đồng. Với dự án có
tổng đầu tư trên 1.500 tỷ đồng thì mức vốn chủ sở hữu theo quy định mới cũng
được sửa theo hướng nâng cao hơn. Cụ thể, vốn chủ sở hữu tối thiểu là 20% với
phần vốn đến 1.500 tỷ đồng và tối thiểu là 10% với phần vốn trên 1.500 tỷ đồng.
Như vậy, quy định mới hướng đến việc lựa chọn NĐT có năng lực tài chính vững
vàng hơn so với trước, tránh được tình trạng NĐT dựa phần lớn vào vốn vay ngân
hàng để thực hiện dự án, dẫn đến những hệ lụy như mất khả năng thanh toán, làm
đội vốn dự án, tăng thời gian khai thác dự án….
- Căn cứ tại Điều 7 Thông tư 19/2019/TT-BGTVT quy định lợi thế của việc đầu tư
dự án theo hình thức PPP như sau:
+ Phân tích các lợi thế của việc đầu tư dự án theo hình thức PPP (bao gồm cả việc
nghiên cứu chuyển đổi hình thức đầu tư đối với các dự án đang được đầu tư bằng
nguồn vốn đầu tư công), trong đó phân tích rõ lợi thế về khả năng thu hút nguồn
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của khu vực tư nhân; kết quả khảo sát thực
tiễn về khả năng triển khai dự án của khu vực tư nhân; phương án phân chia rủi ro
giữa các bên có liên quan.
+ Trình bày đầy đủ những hạn chế của việc đầu tư dự án theo hình thức PPP so với
các hình thức khác, bao gồm: năng lực quản lý thực hiện dự án của các bên liên
quan; tính phức tạp trong việc xây dựng và thực hiện các điều khoản hợp đồng dự án.
+ Đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất, báo cáo NCKT phải phân tích rõ lợi thế về
nguồn vốn, khả năng cân đối vốn của nhà đầu tư; khả năng cân đối phần nhà nước
tham gia; về năng lực, kinh nghiệm quản lý của nhà đầu tư; khả năng thu hồi vốn,
hiệu quả đầu tư và khả năng tiếp nhận và xử lý các rủi ro.
+ Trong quá trình lập báo cáo nghiên cứu khả thi phải tổng hợp ý kiến tham vấn
về việc đầu tư thực hiện dự án của một hoặc các cơ quan, tổ chức sau đây: Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đoàn đại biểu quốc hội tỉnh, thành phố nơi thực
hiện dự án; hiệp hội nghề nghiệp liên quan đến lĩnh vực đầu tư.
+ Theo đó, khi đầu tư dự án theo hình thức PPP thì chủ đầu tư sẽ có được một số
lợi thế về khả năng thu hút nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của khu
vực tư nhân; kết quả khảo sát thực tiễn về khả năng triển khai dự án của khu vực
tư nhân; phương án phân chia rủi ro giữa các bên có liên quan.
- Theo thống kê, tính đến năm 2019, đã có 336 dự án PPP ký kết hợp đồng (trong đó,
140 dự án áp dụng loại hợp đồng BOT, 188 dự án áp dụng loại hợp đồng BT và 08
dự án áp dụng các loại hợp đồng khác). Các dự án này đã huy động được khoảng
1.609.295 tỷ đồng vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quốc gia. Đặc biệt, nhiều
mô hình chuyển đổi cơ cấu và quản lý đầu tư từ “đầu tư công - quản lý công” sang
“Lãnh đạo công - quản trị tư”, “Đầu tư công - quản lý tư”, “Đầu tư tư - lOMoAR cPSD| 61265515
sử dụng công” đang được áp dụng thành công tại một số địa phương. Mô hình “Đầu
tư công - quản lý tư” hay còn gọi là hình thức Thuê - Phát triển - Vận hành đang
được triển khai hiệu quả tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh trong việc quản
lý, chăm sóc, duy trì cây xanh và khai thác dịch vụ trong Công viên Hữu Nghị, Quản
lý khu du lịch Trà Cổ... Hay như mô hình “đầu tư tư - sử dụng công”, là mô hình
chính quyền cho nhà đầu tư thuê đất để xây dựng hạ tầng, thường là trụ sở liên cơ
quan, rồi chính quyền thuê lại công trình theo giá thoả thuận đôi bên cùng có lợi.
- Với hình thức này, Nhà nước không phải bỏ ra một lúc số vốn lớn, không phải thành
lập bộ máy để quản lý, bảo dưỡng, sửa chữa... công trình, song vẫn có công trình
hiện đại, hiệu quả cho các mục tiêu công cộng. Qua đó, giảm gánh nặng cho ngân
sách, giảm thất thoát trong quá trình đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng, tập trung
vốn nhà nước cho các mục tiêu khác quan trọng hơn. Tiêu biểu cho việc áp dụng mô
hình này là việc xây dựng các dự án trụ sở liên cơ do các công ty tư nhân làm chủ
đầu tư, sau đó cho chính quyền địa phương thuê sử dụng làm nơi làm việc của các sở, ban, ngành.
- Năm 2020, đánh dấu bước đột phá trong thể chế hóa chủ trương của Đảng về hợp
tác công tư, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư,
hình thành khung pháp lý thống nhất để thực hiện các dự án đầu tư theo phương
thức đối tác công tư tạo điều kiện khơi thông nguồn lực của xã hội đóng góp xây dựng đất nước.
- Từ năm 2021 (thời điểm Luật PPP có hiệu lực) đến nay, có 3 dự án BOT giao thông
được chuyển tiếp từ giai đoạn trước và đã ký; 08 dự án mới song đang giai đoạn
chuẩn bị đầu tư, chưa ký kết hợp đồng PPP (trong đó có 07 dự án lĩnh vực giao
thông, 01 dự án BTL (Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ) lĩnh vực nước sạch.
- Dù vậy, dự án PPP có dấu hiệu suy giảm.
2.3. Đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư phát triển
Để hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư phát triển, cần tập trung vào các nội dung sau:
- Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, công bằng: Đây là yếu
tố quan trọng nhất để thu hút đầu tư. Cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đơn
giản hóa các quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tiếp cận các nguồn
lực, thực hiện dự án.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư: Hệ thống pháp luật về đầu tư cần được
hoàn thiện, đảm bảo thống nhất, đồng bộ, khả thi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội. Cần sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để tạo thuận lợi cho nhà
đầu tư, đồng thời tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư.
- Thúc đẩy hợp tác đầu tư quốc tế: Cần mở rộng hợp tác đầu tư với các nước và khu
vực, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, cần khuyến khích doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế. lOMoAR cPSD| 61265515
Dưới đây là một số đề xuất cụ thể:
- Đối với môi trường đầu tư, kinh doanh:
+ Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa các quy định, rút ngắn thời
gian giải quyết thủ tục đầu tư.
+ Tăng cường công khai, minh bạch thông tin về đầu tư, kinh doanh.
+ Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ.
- Đối với hệ thống pháp luật về đầu tư:
+ Hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hướng thống nhất, đồng bộ, khả thi, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, đồng
thời tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư.
- Đối với hợp tác đầu tư quốc tế:
+ Mở rộng hợp tác đầu tư với các nước và khu vực, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
+ Khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư phát triển là một nhiệm vụ quan
trọng, góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. lOMoAR cPSD| 61265515 KẾT LUẬN
Các chính sách PPP cho đến hiện tại, đã giúp Việt Nam có được thành công trong thúc đẩy
cũng như nâng cao hiệu quả và chất lượng đầu tư, từ đó giúp thúc đẩy kinh tế - xã hội.
Những thành công có được là do những chính sách làm tốt việc thu hút, huy động các
nguồn lực từ cả khu vực tư nhân và nhà nước. Tuy nhiên, chính sách ưu đãi và đảm bảo
đầu tư cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP chưa tương xứng với vai trò, tính chất bức thiết
phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu của người dân. Đồng thời, hoạt động nghiên
cứu xu hướng đầu tư và đối tác đầu tư chưa sâu sắc, hoạt động hỗ trợ nhà đầu tư chưa được
phân công rõ ràng nên chưa thu hút được mạnh mẽ các nhà đầu tư tư nhân.
Bài học đúc rút cho cá nhân:
- Cần hoàn thiện khung pháp lý về PPP, đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình triển khai dự án PPP.
- Nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý, giám sát dự án PPP. lOMoAR cPSD| 61265515
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1.
Cổng thông tin điện tử bộ xây dựng, 2021 2.
Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 số 64/2020/QH14 3.
Luật PPP: Hướng đến chia sẻ hài hòa cả lợi ích và rủi ro, TTXVN/Vietnam+,2020 4.
Dự án PPP là gì? Lợi ích và thách thức của dự án PPP, icontract.com.vn,15/12/2022 5.
Phân tích SWOT phương thức đầu tư PPP và vấn đề đặt ra hiện nay,
Tạp chí tàichính, 27/05/2019 6.
Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018 về đầu tư theo hình thức đối táccông tư 7.
Cần tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong thực hiện các dự án PPP, Báo
điện tửNhân Dân, 06/04/2023. 8.
Minh Minh (2023). Từ 2021 đến nay chưa ký được hợp đồng PPP
nào. Chuyên trang của báo đầu tư 9.
Nguyễn Thị Việt Nga (2019). SWOT - Phương thức đầu tư PPP và
vấn đề đặt ra hiện nay. Tạp chí Tài chính, số 5, tr 10-14. 10.
N. Lộc – N. Hồng (2023). Thu hút hợp tác công - tư: Từ chính sách
đến thực tiễn. Báo Kiểm Toán 11.
Cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính 12.
THÔNG TƯ 19/2019/TT-BGTVT HƯỚNG DẪN CHI TIẾT VỀ LĨNH VỰC
ĐẦU TƯ VÀ NỘI DUNG BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHẢ THI DỰ ÁN ĐẦU
TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ THUỘC LĨNH VỰC GIAO THÔNG VẬN TẢI