



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58933639
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ 1 Đề tài:
Phân tích các lợi ích của đầu tư theo phương thức đối tác
công tư ? Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn: PGS-TS Phạm Văn Hùng Thành viên nhóm: 1. Đỗ Anh Tú 2. Phạm Minh Trang 3. Phạm Mai Phương 4. Lê Thị Hương
5. Võ Thái Quỳnh Giao Lớp: Kinh tế đầu tư 63C lOMoAR cPSD| 58933639 LỜI MỞ ĐẦU
Trong tình hình nhu cầu vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam
nói chung và mỗi địa phương nói riêng là rất lớn, trong khi đó ngân sách nhà nước
thì có hạn, vốn của các nhà tài trợ ngày càng thu hẹp, mô hình đầu tư theo hình
thức hợp tác công tư (PPP) như một công cụ để huy động nguồn lực từ khu vực
tư nhân cả trong và ngoài nước cho đầu tư cơ sở hạ tầng trong tình hình hiện nay.
Tại Việt Nam nhu cầu đầu tư bình quân giai đoạn 2011-2015 khảng 12,6 tỷ
USD, giai đoạn 2016-2020 khoảng 25 tỷ USD, dự báo đến năm 2030 ước khoảng
30 tỷ USD. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng toàn diện là một trong những trọng
tâm của Việt Nam để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững và tăng cường tính
cạnh tranh của đất nước theo hướng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hạn chế là
thách thức khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong điều kiện đó, chủ trương của
Việt Nam là huy động tối đa nguồn lực cho đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua chính
sách xã hội hóa đầu tư với một trong những kênh chủ yếu là hình thức PPP. Việt
Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách về huy động và quản lý đầu tư theo
hình thức này. Trong giai đoạn vừa qua ở Việt Nam đã triển khai thực hiện PPP
trong phát triển cơ sở hạ tầng, bước đầu đã thu được một số kết quả nhất định, tuy
nhiên, còn nhiều bất cập và đang có dấu hiệu chững lại.
Chính vì tác động của PPP đối với nền kinh tế mang ý nghĩa quan trọng nên
nhóm 7 đã chọn thực hiện cho chủ đề: “Phân tích các lợi ích của đầu tư theo
phương thức hợp tác công tư (PPP)? Liên hê với thực tiễn Việ t Nam.” ̣
để có thể tìm hiểu sâu hơn đối với nội dung này và tổng hợp một vài những điểm
quan trọng được thể hiện trong những nội dung được trình bày sau đây. lOMoAR cPSD| 58933639 NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH CỦA PHƯƠNG
THỨC HỢP TÁC CÔNG TƯ (PPP)
1. Mô hình đầu tư theo phương thức hợp tác công tư (PPP) là gì?
PPP (Public - Private Partnership): Đầu tư theo hình thức đối tác công tư
(sau đây gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực
hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công.
Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ
và tư nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng
dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ
công cộng chất lượng cao, nó sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân.
Trong mô hình PPP, việc xác lập quan hệ đối tác thông thường là qua một
hợp đồng ràng buộc về mặt pháp lý hoặc một số cơ chế khác, trong đó đồng ý chia
sẻ các trách nhiệm liên quan đến việc thực hiện và quản lý của các dự án cơ sở hạ
tầng. Quan hệ đối tác được xây dựng trên chuyên môn của từng đối tác đáp ứng
nhu cầu được xác định rõ ràng thông qua việc phân bổ thích hợp về: tài nguyên,
nguồn lực; rủi ro; trách nhiệm; chế độ khen thưởng.
2. Hợp đồng dự án PPP là gì?
Khoản 16 điều 3 Luật Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020
có quy định: Hợp đồng dự án PPP là thỏa thuận bằng văn bản giữa cơ quan ký kết
hợp đồng với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP về việc Nhà nước nhượng
quyền cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP thực hiện dự án PPP theo quy định của Luật này.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà nước và tư nhân trong mô hình PPP lOMoAR cPSD| 58933639
3. Các hình thức thực hiện mô hình PPP
Ở Việt Nam, tồn tại 7 hình thức hợp đồng cho các dự án PPP: -
Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (gọi tắt là hợp
đồng BOT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà
đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà
đầu tư được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời
hạn, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. -
Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (gọi tắt là BTO)
là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển
giao cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời hạn nhất định. -
Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BT) là hợp
đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng; nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; nhà
đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được
thanh toán bằng quỹ đất để thực hiện dự án khác theo các điều kiện quy định tại
khoản 3 điều 14 và khoản 3 điều 43 nghị định số 15/2015/NĐ-CP. -
Hợp đồng Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh (gọi tắt là BOO) là hợp
đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư sở hữu và
được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định. -
Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Thuê dịch vụ (goi tắt là BTL)
là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển
giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ trên
cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời gian nhất định; cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều
kiện quy định tại khoản 2 điều 14 nghị định số 15/2015/NĐ-CP. -
Hợp đồng Xây dựng – Thuê dịch vụ - Chuyển giao (gọi tắt là hợp
đồng BT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu
tư được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong
một thời gian nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh
toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại khoản 2 điều 14 Nghị định số lOMoAR cPSD| 58933639
15/2015/NĐ-CP, hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư chuyển giao đó cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. -
Hợp đồng Kinh doanh – Quản lý (gọi tắt là hợp đồng O&M) là hợp
đồngđược ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để kinh doanh
một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn chất định.
Hình ảnh minh họa cho các loại hợp đồng dự án
4. Các lĩnh vực đầu tư theo NĐ 15/2015/NĐ-CP
Dự án xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình kết cấu
hạ tầng, cung cấp trang thiết bị hoặc dịch vụ công gồm:
a) Công trình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và các dịch vụ có liên quan;
b) Hệ thống chiếu sáng; hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát
nước; hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải; nhà ở xã hội; nhà ở tái định cư; nghĩa trang;
c) Nhà máy điện, đường dây tải điện;
d) Công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa,
thể thao và các dịch vụ liên quan; trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
đ) Công trình kết cấu hạ tầng thương mại, khoa học và công nghệ, khí lOMoAR cPSD| 58933639
tượng thủy văn, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ
thông tin tập trung; ứng dụng công nghệ thông tin;
e) Công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và dịch vụ phát
triển liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
g) Các lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
5. Lợi ích của mô hình PPP là gì?
Đối với Chính phủ:
+ Tối thiểu hóa chi phí bằng việc tích hợp, đồng bộ hóa tất cả các hoạt động
trong vòng đời của dự án ( thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo trì )
+ Chuyển giao rủi ro: Phân bổ một số rủi ro cho bên tư nhân có thể giúp
quản lý dự án tốt hơn, và có thể giảm chi phí chung cho dự án chính phủ
+ Đảm bảo giá cả các dịch vụ cơ bản hợp lí: vì khả năng tiếp cận nhiều
doanh nghiệp/ dịch vụ hơn mà có thể có nhiều lựa chọn về nguồn chi, việc tối
thiểu hóa chi phí sẽ làm cho các dịch vụ công của chính phủ sẽ tốn ít chi phí hơn,
chính vì thế, giá dịch vụ thu lại từ các sản phẩm dịch vụ này cũng sẽ hợp lý hơn về giá cả.
+ Nâng cao tính công khai, minh bạch thông qua việc các bên phải đảm bảo đầu ra của mình
+ Tiết giảm đến mức tối đa các cấp quản lý từ đó góp phần giảm đáng kể
thời gian và chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án PPP.
+ Có cơ hội tiếp cận và nắm bắt các công nghệ tiên tiến ( cả phần cứng lẫn phần mềm) lOMoAR cPSD| 58933639
+ Cải thiện phúc lợi công cộng: Việc các dự án được hoàn thành nhanh/ kết
quả tốt, có thể phục vụ nhiều hơn cho người dân, cải thiện phục vụ và chi phí
công, đây là một trong những lợi ích tiêu biểu nhất cho việc cải thiện các phúc lợi công cộng.
Đối với khu vực tư nhân:
+ Đảm bảo quy trình quản lý điều tiết ổn định, minh bạch: Khi có thể hợp
tác với Chính phủ, việc quản lý điều tiết trong quá trình diễn ra đấu thầu và diễn
ra hoạt động thực hiện dự án sẽ có sự tham dự và kiểm soát của nhà nước, từ đó
khiến cho việc quản lý trở nên minh bạch hơn.
+ Đảm bảo phân bổ tài sản và tái cơ cấu tổ chức đem lại hoạt động hiệu
quả: Việc nhà đầu tư được hợp tác với chính phủ sẽ đảm bảo lượng vốn đầu tư ổn
định, tài sản khi được phân bổ vào các dự án này cũng sẽ được mang đi tái cơ cấu
cho những dự án khác cũng mang tính chất hợp tác cùng chính phủ, lợi nhuận nhà
đầu tư thu được sẽ có khả năng tái cơ cấu, tái tổ chức hoạt động doanh nghiệp, từ
đó đem lại lượng hiệu quả cao hơn đối với các nguồn vốn đầu tư này.
+ Cung cấp nguồn nhân lực đã được đào tạo: Nguồn nhân lực mới được
cung cấp cho doanh nghiệp từ chính phủ và từ doanh nghiệp đều là những người
đã được trải qua quá trình đào tạo chất lượng cao để đảm bảo quá trình diễn ra dự
án được thuận lợi và thu được kết quả tốt nhất.
+ Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư hơn: Các dự án đầu tư giữa tư nhân và chính
phủ đều là các khoản đầu tư lợi nhuận tốt và an toàn, chính vì thế thu hút được
nhiều nguồn đầu tư, việc hợp tác diễn ra thường xuyên hơn sẽ tạo ra nhiều hơn
các cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư.
Đối với người lao động:
+ Đảm bảo đối xử công bằng với người lao động hiện tại: Các công việc
được giám sát bởi 2 nguồn: cả Chính phủ và doanh nghiệp sẽ đảm bảo tốt hơn
trong việc quản lý giữa người lao động với nhau.
+ Cung cấp các cơ hội việc làm: Càng nhiều dự án được tiến hành sẽ cần
nhiều nhân lực, nhân công hơn từ cả doanh nghiệp và chính phủ, tạo cơ hội việc
làm cho rất nhiều người thất nghiệp.
+ Cải thiện năng suất hiệu quả và đời sống tinh thần: Xây dựng tốt quy trình
làm việc, quản lý hiệu quả tạo nên năng suất tốt, thu nhập được cải thiện, các dịch
vụ công và cả đãi ngộ dành cho các đối tượng lao động ngày càng nâng cao, sẽ
tạo nên đời sống tinh thần ổn định hơn. lOMoAR cPSD| 58933639
Đối với người tiêu dùng:
+ Đảm bảo giá cả hợp lý: Với việc tìm được các doanh nghiệp với giá dịch
vụ hợp lý, uy tín sẽ làm cho chi phí bỏ ra cho việc hợp tác thực hiện các dịch vụ
công thấp hơn, việc thu hồi các khoản chi phí cũng không còn là vấn đề quá lớn
làm cho giá cả đưa ra dành cho các dịch vụ được đảm bảo hợp lý cho người tiêu dùng.
+ Cải thiện chất lượng và độ tin cậy của dịch vụ: Được đảm bảo, kiểm soát
và thực hiện bởi cả Chính phủ và tư nhân sẽ giúp người tiêu dùng yên tâm hơn
trong việc thực hiện xây dựng và hoàn thành, chất lượng của dịch vụ, được đảm
bảo bởi Chính phủ cũng là một trong những lý do tăng độ tin cậy của người tiêu
dùng đối với các dịch vụ này.
+ Tăng trách nhiệm giải trình và phản hồi nhanh: Đối với bất kỳ vấn đề gì
phát sinh khi sử dụng dịch vụ, nhà tiêu dùng sẽ được phản hồi nhanh nhất để củng
cố niềm tin của người tiêu dùng đối với dịch vụ cũng như tránh xảy ra tình trạng
gây ra dư luận không tốt đối với doanh nghiệp thực hiện và cả đối với Chính phủ.
II. THỰC TRẠNG VỀ LỢI ÍCH CỦA HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC
CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
1. Tổng quan tình hình phát triển PPP tại Việt Nam
Trên nền tảng pháp lý, nhiều dự án đầu tư theo phương thức PPP để xây
dựng các công trình công ích đã được triển khai thực hiện trong nhiều năm qua.
Theo Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 1994-2009, Việt Nam có 32 dự án đầu
tư theo hình thức PPP với tổng số vốn cam kết khoảng 6,7 tỷ USD; giai đoạn từ
1990-2014, Việt Nam có 95 dự án PPP hoàn thành thu xếp tài chính. Hầu hết các
dự án PPP tập trung vào ngành điện (75 dự án), khu vực cảng biển (7 dự án), lĩnh
vực viễn thông (4 dự án) và lĩnh vực nước (4 dự án).
Tính đến 11/2019, cả nước có 336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng, trong đó,
140 dự án áp dụng loại hợp đồng BOT, 188 dự án áp dụng loại hợp đồng BT và 8
dự án áp dụng các loại hợp đồng khác. Tổng vốn huy động vào đầu tư phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng quốc gia đạt khoảng 1,6 triệu tỉ đồng. Các dự án PPP
được triển khai khắp cả nước trong những năm qua góp phần tích cực hoàn thiện
số lượng, chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, hạ tầng đô
thị, xử lý nước thải, rác thải..., kịp thời giải quyết các nhu cầu bức xúc về dịch vụ
công của người dân và nhu cầu cấp bách về cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế -
xã hội đất nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kích cầu sản xuất trong nước,
tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 58933639
PPP đã góp phần tích cực vào việc hoàn thiện số lượng, chất lượng, kịp thời
giải quyết các nhu cầu bức xúc về dịch vụ công của người dân và nhu cầu cấp
bách về cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,
việc triển khai các dự án PPP còn một số tồn tại, bất cập như việc lựa chọn nhà
đầu tư vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đa số các dự án PPP áp
dụng hình thức chỉ định thầu để lựa chọn nhà đầu tư, tiềm ẩn nhiều rủi ro dẫn đến
tình trạng lãng phí, thất thoát vốn do chọn lựa nhà đầu tư không có đủ năng lực
thực hiện dự án. Quy trình đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư kéo dài.
Hạn chế trong khâu lựa chọn dự án, chuẩn bị dự án, nhiều danh mục dự án
kêu gọi đầu tư được phê duyệt nhưng đến nay kết quả thu hút đầu tư còn hạn chế.
Việc lựa chọn dự án còn nóng vội dẫn đến công tác chuẩn bị dự án, thẩm định dự
án còn chưa khảo sát kỹ, chưa lấy ý kiến rộng rãi đến người dân. Trong quá trình
thực hiện dự án, thiếu cơ chế người sử dụng dịch vụ phản hồi việc cung cấp dịch
vụ đối với các cơ quan quản lý nhà nước.
Vấn đề minh bạch thông tin, công tác công bố dự án, danh mục dự án chưa
được thực hiện nghiêm túc, công khai. Trong giai đoạn trước khi Nghị định số
63/2018/NĐ-CP ngày 4/5/2018 được Chính phủ ban hành, người dân chưa được
tiếp cận các nội dung về thông tin hợp đồng (giá, phí hàng hóa, dịch vụ), tình hình
thực hiện hợp đồng của nhà đầu tư trúng thầu. Bên cạnh đó, việc áp dụng loại hợp
đồng chưa phù hợp. Điển hình như trong lĩnh vực giao thông, một số tuyến đường
chỉ nâng cấp, cải tạo nhưng người dân vẫn phải trả phí hoặc người dân không có
sự lựa chọn đối với các tuyến đường độc đạo.
Người dân không đồng tình đối với việc các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng
được kiểm soát bởi các nhà đầu tư tập trung vào lợi nhuận thay vì phục vụ lợi ích
cộng đồng, doanh thu từ các trạm thu phí được sử dụng vào mục đích không rõ
ràng, mức tăng phí không hợp lý. Từ đó, dẫn đến bất cập về mức phí, vị trí đặt
trạm thu phí, thời gian thu phí được dư luận phản ánh trong thời gian qua.
Các công cụ tài chính để chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án đầu tư và đảm
bảo rủi ro cho nhà đầu tư không đủ nguồn lực để bố trí, công tác chuẩn bị dự án
chưa được thực hiện bài bản một phần do chưa có nguồn lực bố trí để lập báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi và khả thi. Đồng thời, dự án PPP kém hấp dẫn nhà đầu tư
do thiếu cơ chế bố trí vốn đầu tư công tham gia đầu tư trong dự án PPP cũng như
thiếu công cụ chia sẻ rủi ro cho dự án (bảo lãnh doanh thu, lưu lượng, chuyển đổi
ngoại tệ, thay đổi quy hoạch...).
Vai trò, trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn chưa rõ ràng;
còn thiếu, cơ chế chính sách chia sẻ rủi ro, giải quyết tranh chấp giữa các bên tham lOMoAR cPSD| 58933639
gia thực hiện dự án; Thiếu cơ chế giám sát, đặc biệt là các cơ chế giám sát doanh
thu của nhà đầu tư, chế tài xử lý vi phạm của nhà đầu tư cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đánh giá thành công, lợi ích từ các chính sách PPP trong đầu tư phát
triển CSHT Việt Nam 2.1. Thành công
Trong giai đoạn vừa qua, PPP đã thu hút được các thành phần kinh tế từ khu
vực tư nhân tham gia đầu tư CSHT, góp phần giảm bớt gánh nặng ngân sách đầu
tư của nhà nước trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư hạn hẹp. Thông qua PPP, diện
mạo về CSHT có sự chuyển biến rõ rệt trong thời gian ngắn, góp phần thu hút đầu
tư trong và ngoài nước, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường,
đảm bảo quốc phòng - an ninh và năng lực cạnh tranh quốc gia. So với hình thức
đầu tư truyền thống, hình thức PPP thu được hiệu quả sử dụng vốn ngân sách cao
hơn, đồng thời mở ra một kênh đầu tư khá hấp dẫn, nhiều doanh nghiệp có cơ hội
tham gia thực hiện các dự án lớn, tiêu thụ một lượng lớn các nguyên nhiên liệu
sản xuất trong nước, tạo ra hàng vạn việc làm cho người lao động và mang lại cho
người dân được hưởng dịch vụ với chất lượng tốt hơn với một chi phí hợp lý.
Thành công PPP trong CSHT gắn liền với hoạt động xây dựng và triển khai hệ
thống chính sách, pháp luật về PPP của Việt Nam, tạo được hành lang pháp lý
vững chắc cho các hoạt động đầu tư dự án CSHT theo hình thức PPP.
Vài năm trở lại đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng (CSHT). Bên cạnh huy đông nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, ̣ Viêt
Nam đã tích cực huy độ ng vốn từ các thành phần ngoài nhà nước, các ̣ doanh
nghiệp thực hiên các dự án CSHT theo hình thức PPP. Tính đến cuối năm ̣ 2016, lOMoAR cPSD| 58933639
tại Viêt Nam đã có 19 dự án điện với công suất thiết kế khoảng 20.000 ̣ MW, 58
dự án trong lĩnh vực giao thông với tổng chiều dài là 1.700km đường bộ… đã
triển khai thực hiên theo hình thức PPP.̣
Mặc dù Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP và
Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu
thầu về lựa chọn nhà đầu tư được xem là yếu tố then chốt để đẩy mạnh việc thu
hút đầu tư tư nhân, cơ bản đáp ứng nguyên tắc thị trường, nhưng việc triển khai
các dự án PPP vẫn rất hạn chế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng dự án PPP
mới đã lựa chọn được nhà đầu tư và đi vào vận hành hơn 1 năm qua là vô cùng ít
ỏi. Các dự án PPP thuộc các bộ, ngành phần lớn thực hiện theo loại hợp đồng
BOT, tại địa phương thì phổ biến với hình thức hợp đồng BT. Còn các dự án theo
hình thức hợp đồng mới BTL, BLT (Nhà nước thanh toán cho nhà đầu tư dựa trên
chất lượng dịch vụ) hoặc O&M vẫn chưa được quan tâm triển khai. Những dự án
mới được thực hiện theo Nghị định 15 chủ yếu đang trong giai đoạn chuẩn bị dự
án - lập đề xuất dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc lựa chọn nhà đầu tư.
- Tại Việt Nam, việc áp dụng PPP cũng đang có những thành công đáng kể.
Chất lượng lựa chọn nhà đầu tư là một trong những yếu tố mang tính quyết định
đến hiệu quả của dự án. Trước năm 2014, việc lựa chọn nhà đầu tư theo quy định
tại Nghị định 108/NĐ-CP nên các quy định về trình tự thủ tục, tiêu chí đánh giá
lựa chọn nhà đầu tư chưa chặt chẽ, rõ ràng và bài bản, hầu hết các DA ĐT theo
hình thức BOT, BTO, BT thực hiện chỉ định nhà đầu tư. Theo thống kê, hiện tại
có 336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng (trong đó, 140 dự án áp dụng loại hợp đồng
BOT, 188 dự án áp dụng loại hợp đồng BT và 08 dự án áp dụng các loại hợp đồng
khác). Các dự án này đã huy động được khoảng 1.609.295 tỷ đồng vào đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng quốc gia. Đặc biệt, nhiều mô hình chuyển đổi cơ cấu và quản
lý đầu tư từ “đầu tư công - quản lý công” sang “Lãnh đạo công - quản trị tư”, “Đầu
tư công - quản lý tư”, “Đầu tư tư - sử dụng công” đang được áp dụng thành công
tại một số địa phương.
Chẳng hạn, mô hình “Đầu tư công - quản lý tư” hay còn gọi là hình thức
Thuê - Phát triển - Vận hành đang được triển khai hiệu quả tại thành phố Móng
Cái, tỉnh Quảng Ninh trong việc quản lý, chăm sóc, duy trì cây xanh và khai thác
dịch vụ trong Công viên Hữu Nghị, Quản lý khu du lịch Trà Cổ... Hay như mô
hình “đầu tư tư - sử dụng công”, là mô hình chính quyền cho nhà đầu tư thuê đất
để xây dựng hạ tầng, thường là trụ sở liên cơ quan, rồi chính quyền thuê lại công
trình theo giá thoả thuận đôi bên cùng có lợi. lOMoAR cPSD| 58933639
Với hình thức này, Nhà nước không phải bỏ ra một lúc số vốn lớn, không
phải thành lập bộ máy để quản lý, bảo dưỡng, sửa chữa... công trình, song vẫn có
công trình hiện đại, hiệu quả cho các mục tiêu công cộng. Qua đó, giảm gánh nặng
cho ngân sách, giảm thất thoát trong quá trình đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng,
tập trung vốn nhà nước cho các mục tiêu khác quan trọng hơn. Tiêu biểu cho việc
áp dụng mô hình này là việc xây dựng các dự án trụ sở liên cơ do các công ty tư
nhân làm chủ đầu tư, sau đó cho chính quyền địa phương thuê sử dụng làm nơi
làm việc của các sở, ban, ngành. 2.2. Lợi ích
Một số ví dụ về lợi ích mà PPP mang lại trong quá trình phát triển cơ sở
hạ tầng Việt Nam.
Hợp tác công - tư: Mô hình hiệu quả của Quảng Ninh
Thực tế cho thấy, trước khi áp dụng theo mô hình PPP, Cụm thông tin cổ
động biên giới Sa Vĩ (TP Móng Cái) là công trình tiêu tốn nhiều chi phí trong
quản lý, sử dụng nhưng hiệu quả khai thác thì không được như kỳ vọng. Thế
nhưng, mọi chuyện đã có sự thay đổi rõ rệt kể từ khi TP Móng Cái cấp phép cho
Công ty TNHH Trí Lực quản lý, khai thác du lịch theo mô hình “Đầu tư công - Quản lý tư”.
Tiếp nhận công trình, đơn vị này đã đầu tư bổ sung các hạng mục phụ trợ
phục vụ công tác quản lý, bảo vệ, vận hành công trình. Qua công tác quản lý của
doanh nghiệp đã thu hút du khách sử dụng các dịch vụ tại đây nhiều hơn, doanh
thu cao hơn. Không những thế, với việc trao quyền quản lý Cụm thông tin cổ động
biên giới Sa Vĩ cho doanh nghiệp, ước tính mỗi năm, ngân sách thành phố tiết
kiệm khoảng 1 tỷ đồng từ công tác quản lý công trình này.
Một công trình khác cũng được Quảng Ninh thí điểm triển khai theo mô
hình PPP dưới dạng “Đầu tư công - Quản lý tư” là chợ Trung tâm huyện Tiên Yên.
Đây là công trình tỉnh phân cấp cho UBND huyện Tiên Yên thực hiện từ tháng
4.2014. Để thực hiện, UBND huyện đã giao cho tư nhân quản lý dịch vụ trông giữ
phương tiện, vệ sinh và bảo vệ tại chợ. Sau 1 năm trao quyền quản lý cho tư nhân,
tổng thu từ 3 dịch vụ này tại chợ Trung tâm huyện tăng hơn 4 lần.
Đặc biệt, quản lý theo mô hình mới, không những doanh thu từ các dịch vụ đều
tăng mà công tác quản lý, vận hành, bảo đảm vệ sinh - môi trường, an ninh - trật
tự đều chuyên nghiệp, hiệu quả hơn.
Đánh giá tổng quan từ các dự án thí điểm ban đầu của tỉnh cho thấy: PPP
đã giảm thiểu đáng kể gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong đầu tư kết cấu hạ lOMoAR cPSD| 58933639
tầng cũng như dịch vụ công trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp hiện nay. Nhưng
ưu việt sâu xa còn nằm ở chỗ, PPP có khả năng khắc phục những nhược điểm cố
hữu của đầu tư nhà nước: thiếu tính cạnh tranh, hiệu quả thấp.
Việc tư nhân được tham gia vào quá trình triển khai đã giúp tiến độ dự án
được bảo đảm tốt hơn; cơ chế phân chia trách nhiệm quản lý rủi ro hợp lý, nâng
cao hiệu quả dự án. Không những vậy, PPP còn phát huy được thế mạnh của nhà
đầu tư tư nhân trong chuyển giao công nghệ, phát minh và kỹ năng quản trị; về
phía Nhà nước cũng giảm được biên chế nhân sự cho các dịch vụ công, tăng thu
ngân sách từ nguồn thuế các doanh nghiệp đầu tư PPP.
Từ hiệu quả của các dự án ban đầu, tỉnh đã tiếp tục triển khai mô hình đối
tác công - tư với hàng loạt các công trình mang tính động lực, ở nhiều lĩnh vực.
Trong đó, khởi sắc nhất của Quảng Ninh phải kể đến nhóm các công trình về hạ
tầng giao thông. Tỉnh đã hoàn thành nâng cấp một loạt các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ
huyết mạch trên địa bàn tỉnh, các tuyến ra cửa khẩu và đang triển khai các tuyến
đi vào các khu công nghiệp.
Những lợi ích của đầu tư đối tác công - tư trong giáo dục
Mối quan hệ hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ
xã hội như giáo dục được các học giả đánh giá là một mối quan hệ đối tác quan
trọng, giải quyết được những khó khăn, đem lại lợi ích cho cả hai bên cũng như
lợi ích của cộng đồng. Hợp tác PPP được mong đợi sẽ bổ sung nguồn lực cho khu
vực công; quản lí rủi ro VJE Tạp chí Giáo dục, Số 483 (Kì 1 tháng 8/2020), tr 13-
17 ISSN: 2354-0753 16 hiệu quả; nâng cao hiệu quả đầu tư công, chất lượng dịch
vụ công trong bối cảnh sự hạn chế của cả Nhà nước và tư nhân về nguồn vốn đầu
tư lớn, quản lí dịch vụ công… Hợp tác PPP có thể là một lựa chọn tốt nhằm bảo
đảm việc cung ứng các dịch vụ này một cách nhanh chóng, hiệu quả. Xuất phát từ
những hạn chế của khu vực Nhà nước và tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ
giáo dục, nên chỉ khi kết hợp các nỗ lực với nhau mới có thể bảo đảm hiệu quả
của dịch vụ này và việc áp dụng PPP ở các quốc gia trên thế giới đã mang lại kết
quả tích cực. “Mối quan hệ hợp đồng kinh tế giữa Nhà nước và tư nhân nhằm khắc
phục những tồn tại mà Nhà nước chưa giải quyết được, trong khi khu vực tư nhân
được kì vọng có thể mang lại những cải tiến, đồng thời giải quyết vấn đề thiếu hụt
ngân sách của phía Nhà nước. Một bên đạt được mục tiêu an sinh xã hội cho người
dân, và một bên đạt được lợi nhuận thương mại giống như bất kì khoản đầu tư
thông thường nào trên thị trường” (Nguyễn Văn Giang, 2012b, tr 9). Các lợi ích
khác của đầu tư PPP cũng được nhắc đến là: thúc đẩy cạnh tranh trong thị trường
giáo dục; hợp đồng PPP có tính linh hoạt cao hơn các hình thức đầu tư công truyền lOMoAR cPSD| 58933639
thống; Nhà nước có thể lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ tư nhân thông qua đấu thầu
công khai; giúp tăng mức độ chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và tư nhân; “Hợp tác
công tư trong giáo dục được kì vọng có thể giảm thiểu những tác động tiêu cực
mà tư nhân hóa gây ra và củng cố những tác động mong muốn về vai trò của khu
vực Nhà nước” (Tilak, 2016, tr 25). Thực tế tại Việt Nam, theo Báo cáo số 25/BC-
CP của Chính phủ, tính đến thời điểm 30/1/2019, có 336 dự án PPP đã kí kết hợp
đồng; thông qua đó, huy động được khoảng 1.609.295 tỉ đồng vào đầu tư phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng quốc gia. Những dự án PPP trong thời qua đã góp
phần tích cực hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, hạ tầng
đô thị, xử lí nước thải, rác thải..., kịp thời giải quyết các nhu cầu bức xúc về dịch
vụ công của người dân và nhu cầu cấp bách về cơ sở hạ tầng để phát triển KT-XH
đất nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kích cầu đối với sản xuất trong nước.
Các yếu tố này đã góp phần tạo ra động lực thúc đẩy phát triển KT-XH, tăng năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân.
III. PHÁT HUY CÁC LỢI ÍCH CỦA PHƯƠNG THỨC HỢP TÁC
CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
1. Đối với khu vực Nhà nước
Đầu tư theo hình thức PPP là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm huy động tối đa nguồn lực cho phát triển CSHT ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Trong giai đoạn vừa qua, chính sách đầu tư PPP đã góp phần làm giảm
áp lực nhu cầu vốn đầu tư công nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư CSHT, tăng cường
cơ sở vật chất cho nền kinh tế. Trong thời gian tới, đầu tư CSHT tại Việt Nam theo
hình thức PPP tiếp tục là nhu cầu cấp bách, vấn đề hoàn thiện cơ chế chính sách
đầu tư PPP là đòi hỏi không thể thiếu đối với hoạt động quản lý.
Thứ nhất, lựa chọn Quan hệ đối tác công – tư PPP phải phù hợp với
đặc điểm của từng dự án
Cần nhắc lại là quan hệ đối tác PPP không là “chìa khóa vạn năng” đem lại
sự bền vững cho dự án. Dự án cần phải tính đến khả năng bù đắp chi phí của người
sử dụng và được đặt vào trong bối cảnh chung về giao thông, quy hoạch đô thị.
Khó khăn lớn nhất là vấn đề ghi nhận cơ chế chia sẻ rủi ro của Chính phủ đối với
nhà đầu tư. Sự tham gia của tư nhân trong PPP có nghĩa là Nhà nước chuyển giao
một phần rủi ro sang nhà đầu tư tư nhân, trong khi mục tiêu của nhà đầu tư là tìm
kiếm lợi nhuận. Những rủi ro kinh doanh hay công nghiệp phát sinh cần phải được
xem xét kỹ càng và phải chuẩn bị các phương thức cung cấp thay thế trong trường
hợp thiếu hụt nguồn vốn. Nếu dự án không thể tự cấp vốn, đối tác công phải có
chuẩn bị sẵn khả năng cân đối tài chính cho dự án. Vì vậy, việc phân bổ rủi ro và lOMoAR cPSD| 58933639
lợi ích kinh tế giữa các nhà đầu tư dự án PPP cần tính toán cẩn thận, đảm bảo thu
hút được nhà đầu tư tham gia dự án.
Việc lựa chọn một mô hình cụ thể và phân bổ rủi ro đi kèm được cần được
xác định dựa trên sự đánh giá, phân tích về lợi ích công cộng và lợi nhuận tài
chính. Nguyên tắc minh bạch tài chính phải được bảo đảm. Trong đó, ảnh hưởng
của tài chính công có thể phát sinh về việc chia sẻ trách nhiệm với khu vực tư
nhân đối với kết cấu hạ tầng phải được dự báo.
Thứ hai, phải xác định cụ thể mục tiêu chiến lược của dự án và năng
lực quản lý ở tất cả các cấp
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi khởi xướng một dự án kết cấu
hạ tầng phải bảo đảm xem xét đầy đủ ý kiến đóng góp của các bên liên quan khác,
kể cả người sử dụng cuối cùng của dự án. Cơ quan chịu trách nhiệm về các dự án
kết cấu hạ tầng do tư nhân vận hành phải đủ năng lực quản lý các quá trình thương
mại có liên quan và hợp tác bình đẳng với các đối tác khu vực tư nhân. Mục đích
tham gia của khu vực tư nhân vào kết cấu hạ tầng cần được hiểu rõ, mục tiêu phải
được chia sẻ ở tất cả các cấp chính quyền và trong tất cả các bộ phận liên quan
của cơ quan hành chính công.
Đối tác công cũng cần phải có khả năng kỹ thuật để theo dõi hợp đồng. Đối
tác tư nhân nói chung thường có nguồn nhân lực có năng lực về tài chính, thương mại và kỹ thuật.
Cơ quan nhà nước muốn giữ vai trò và quyền kiểm soát của mình, một cách
thường xuyên hay chỉ là tư vấn, không phải lúc nào cũng có được một êkíp hiệu
quả để thực hiện điều đó.
Chính vì vậy, trong mọi trường hợp, việc thương lượng giữa hai đối tác
phải được thực hiện một cách nghiêm túc và có đủ thời gian cần thiết để tìm được
sự cân bằng đảm bảo cho quan hệ đối tác và xác định được những điều khoản của
hợp đồng. Mọi việc không được giải quyết ở giai đoạn này có thể sẽ dẫn đến
những tình huống xấu do sự vận hành không tốt của quan hệ đối tác.
Thứ ba, quá trình nghiên cứu xây dựng Luật PPP, cần tập trung các
vướng mắc, mâu thuẫn trong các luật khác có liên quan vào trong Luật PPP
Khung pháp lý hiện nay mới dừng ở Nghị định là chưa đủ để nhà đầu tư
yên tâm cũng như không thể giải quyết những vướng mắc trong triển khai do còn
bị hạn chế bởi các luật hiện hành. Vì thế cần tăng hiệu quả hợp tác công tư. Cụ
thể, cơ quan Nhà nước cần thay đổi tư duy quản lý kinh tế, tăng cường các thể chế
xúc tiến, phát triển thị trường hợp tác công tư PPP, thành lập quỹ phát triển PPP lOMoAR cPSD| 58933639
Quốc gia. Cùng với đó, mối quan hệ công tư giữa Nhà nước và khu vực tư nhân
cần phải có sự thay đổi để phù hợp thông lệ quốc tế.
Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát, củng cố
thống nhất nhận thức và hoàn thiện đồng bộ cơ sở pháp lý quản lý nhà nước về
BOT; Bổ sung quy định chăt chẽ về tiêu chí và phương thức lựa chọn nhà đầu ̣ tư,
tránh tình trạng lựa chọn nhà đầu tư chỉ dựa trên cơ sở vốn chủ sở hữu theo báo
cáo tài chính, nhưng không có năng lực thực sự; Quy định về cơ cấu nguồn vốn
đầu tư, hình thức góp vốn; việc lâp, phê duyệ
t và quản lý chi phí đầu tư
xây ̣ dựng, định mức đơn giá và viêc công bố chỉ số giá thị trường; Quy định rõ ̣
nguyên tắc, trách nhiêm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việ c
đàm ̣ phán ký kết hợp đồng dự án, trong viêc giám sát thực hiệ n hợp đồng,
quản lý ̣ chất lượng công trình và tổng giá trị đầu tư, giá thu phí và thời gian thu
phí với các cơ chế đấu thầu, kiểm tra, giám sát, thanh quyết toán như công trình
sử dụng vốn ngân sách.
Chính phủ và các cơ quan nhà nước cũng nên ban hành danh mục, công bố
các thông tin về loại hình, tiêu chí, quy mô tiêu chuẩn của các dự án “đối tác công
tư” trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa và môi trường.
Thứ tư, tăng cường công tác công khai minh bạch thông tin
Việc công khai, minh bạch thông tin ở tất cả các bước cũng cần được đẩy
mạnh, như: chuẩn bị dự án, lựa chọn nhà đầu tư, ký kết hợp đồng được công khai,
minh bạch trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia… cần được thực hiện. Đồng thời
tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán dự án PPP; có chế tài xử phạt, quy định
rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thay vì
chỉ định nhà đầu tư theo cơ chế “xin - cho”, các dự án PPP cần tổ chức đấu thầu
rộng rãi, công khai, bình đẳng…
Thực tế cho thấy, nếu không có sự thay đổi quan trọng cả về nhận thức, cả
về cơ sở pháp lý và giám sát để đảm bảo sự minh bạch, xác đáng, hài hòa lợi ích
doanh nghiệp, người dân và nhà nước; không nhận diện và kiên quyết xử lý các
mầm bệnh của chủ nghĩa thân hữu, lợi ích nhóm và tham nhũng trong hoạt động
quản lý PPP… thì các hoạt động đầu tư và quản lý PPP tương lai sẽ khó mà có
hiệu quả và phát triển lành mạnh, bền vững như tiềm năng và kỳ vọng.
Thứ năm, xây dựng mô hình quản lý PPP từ TW tới địa phương theo
từng lĩnh vực theo hướng chuyên nghiệp
Hầu hết các nước đều thành lập các cơ quan đầu mối về PPP nhằm hỗ trợ
thị trường PPP phát triển cạnh tranh lành mạnh với hạt nhân là các chuyên gia kỹ lOMoAR cPSD| 58933639
thuật, công nghệ và các nhà kinh tế. Ví dụ như Hàn Quốc có PICKO, Hà Lan có
PPP Knowledge Central, Ấn Độ có Ủy ban cơ sở hạ tầng COI, Ban thẩm định hợp
tác Nhà nước tư nhân PPPAC, Philippines có PPP Central, Australia có National
PPP Forum... Chức năng của cơ quan chuyên trách PPP ở mỗi quốc gia tuy khác
nhau, nhưng nhìn chung cơ quan chuyên trách PPP thực hiện một số chức năng
cơ bản như hướng dẫn các thủ tục PPP, tư vấn dự án, phê duyệt dự án PPP, tham
gia thực hiện dự án, hỗ trợ tài chính và giám sát các dự án PPP. Việt Nam nên cân
nhắc tiến tới thành lập một cơ quan chuyên trách làm đầu mối quản lý nhà nước
về PPP trên phạm vi cả nước với các chức năng cơ bản như nghiên cứu chính sách
liên quan đến chương trình PPP, tiêu chuẩn hóa và cung cấp các tài liệu hướng
dẫn cho các dự án thực hiện theo hình thức PPP, xúc tiến các dự án đầu tư theo
hình thức đầu tư PPP, đào tạo nhân lực tham gia và quản lý các dự án PPP. Hiện
nay, Việt Nam mới chỉ có cơ quan chuyên trách các dự án PPP của một số bộ hoặc một số địa phương.
Để phát huy những lợi thế mà phương thức đầu tư PPP mang lại, theo các
chuyên gia, qua thời gian vận hành, thực tế cho thấy, nhiều quy định đã bộc lộ
những hạn chế khiến doanh nghiệp thấy không phù hợp. Do đó, cần điều chỉnh,
hoàn thiện khuôn khổ cơ sở pháp lý, rà soát lại khó khăn để kịp thời tháo gỡ các
vướng mắc, tồn đọng cho doanh nghiệp. Để bảo vệ cho các bên trong quá trình
thực hiện dự án PPP, việc tạo phương án kiểm soát hiệu quả, chia sẻ rủi ro, xây
dựng cơ chế giải quyết tranh chấp nhằm hạn chế tối đa các tranh chấp không đáng
có cũng cần được chú trọng. Đồng thời, cơ quan Nhà nước cần thay đổi tư duy
quản lý kinh tế, tăng cường thêm các thể chế xúc tiến, phát triển thị trường hợp
tác công tư PPP, chẳng hạn bù đắp thiếu hụt tài chính hay xây dựng dòng ngân
sách riêng dành cho các dự án PPP. Hơn nữa, mối quan hệ công tư giữa Nhà nước
và khu vực tư nhân cần phải có sự thay đổi để thích ứng với thời cuộc. Chính phủ,
các bộ, ngành liên quan xây dựng các quy định rõ ràng hơn các quy định về lập,
công bố danh mục dự án thu hút đầu tư thí điểm theo các hình thức PPP phù hợp và hiệu quả.
2. Đối với khu vực Tư nhân
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 71/QĐ-TT thực hiện thí
điểm đối tác công – tư PPP. Triển khai chương trình này, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ lập danh mục dự án ưu tiên đầu tư PPP hằng năm và tiến hành đấu
thầu cạnh tranh để lựa chọn nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước đủ năng lực,
kinh nghiệm để tham gia dự án. Điều này cho thấy có một sự quan tâm nhất định
đối với hình thức này. lOMoAR cPSD| 58933639
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, khu vực tư nhân vẫn còn một số quan ngại
nhất định trong việc tham gia vào hình thức đối tác này. Từ những quan ngại đó,
chúng ta có thể nhận định một số quan điểm cơ bản để có thể tăng cường hơn nữa
Quan hệ đối tác công – tư trong việc xác định mục tiêu chiến lược, ra quyết định
lựa chọn đối tác, dự án và triển khai xây dựng thể chế cũng như tạo môi trường
thu hút các thành phần tư nhân tham gia có trách nhiệm nhằm hợp tác và phát triển bền vững.
Thứ nhất, cần tạo ra các cơ chế thúc đẩy hoạt động kinh doanh có trách nhiệm
Quan hệ đối tác PPP giúp đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân vào
các dự án có mục đích công cộng, dung hòa giữa động cơ cá nhân và lợi ích tập
thể để thúc đẩy phát triển cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, một trong những hạn chế
của quan hệ đối tác dạng này là khu vực tư nhân thường có động cơ để đề cao lợi
nhuận cá nhân và coi nhẹ trách nhiệm xã hội trong các dự án. Vì vậy, khi khu vực
tư nhân tham gia đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng GTVT, cần phải tuân thủ các
nguyên tắc đã thống nhất và các chuẩn mực hoạt động kinh doanh có trách nhiệm
với môi trường và xã hội. Khu vực tư nhân tham gia các dự án kết cấu hạ tầng cần
có những cơ chế để khuyến khích khi có thiện chí và cam kết để thực hiện hợp
đồng và các điều khoản đã ký.
Chính vì vậy, việc soạn thảo nội dung hợp đồng mời thầu để chọn nhà đầu
tư tư nhân là khâu cơ bản và khó khăn. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng để hạn chế xảy
ra tình trạng nội dung mời thầu đóng và không cho phép các đối tác tư nhân tiềm
năng thể hiện hết năng lực và kinh nghiệm của mình nhưng cho phép đơn vị trúng
thầu có các tiêu chí kỹ thuật và tài chính rõ ràng. Hoặc là nội dung hợp đồng mời
thầu cho phép nhiều phương án kỹ thuật, thương mại dẫn đến việc lựa chọn nhà
đầu tư khó khăn hơn và phải có quá trình thương thảo với đối tác được chọn.
Khu vực tư nhân tham gia, nhà thầu phụ và các đại diện không được tiến
hành các hành vi không minh bạch để có được hợp đồng, giành quyền kiểm soát
đối với tài sản hoặc sự ủng hộ, cũng như không được tham gia thực hiện hành vi
như vậy trong quá trình vận hành kết cấu hạ tầng của họ. Ngoài ra, khu vực tư
nhân tham gia phải đóng góp vào chiến lược trao đổi và tư vấn với công chúng,
bao gồm cả người tiêu dùng, cộng đồng bị ảnh hưởng và các bên liên quan, nhằm
đạt được sự chấp thuận và hiểu biết lẫn nhau về mục tiêu của các bên liên quan,
có như vậy mới đạt được sự thống nhất cao độ để thực hiện dự án được thành công. lOMoAR cPSD| 58933639
Thứ hai, cần có khuôn khổ tổ chức pháp lý thuận lợi
An toàn pháp lý rõ ràng là một điều kiện tiên quyết để triển khai tốt mọi
quan hệ đối tác và PPP cũng không phải là ngoại lệ. Một quan hệ PPP được điều
chỉnh bởi một hợp đồng nêu một cách chi tiết những quan hệ mà hai đối tác mong
muốn thực hiện. Hợp đồng cũng ấn định toàn bộ những điều kiện của quan hệ đối
tác, quyền và nghĩa vụ mỗi bên. Trong trường hợp xung đột giữa hai đối tác, những
cơ chế trọng tài hay pháp lý phải có thể can thiệp một cách hiệu quả dựa trên
khung pháp lý đã được Chính phủ ban hành là hết sức cần thiết để thu hút sự tham
gia của khu vực tư nhân. Một khi đối tác tư nhân không có được sự chắc chắn
rằng họ có thể được bảo vệ quyền lợi khi có xung đột, sẽ không có một PPP nào
được triển khai. Môi trường thể chế rõ ràng cũng sẽ tạo ra những thủ tục phù hợp
để bảo đảm tính minh bạch trong quá trình hợp tác, từ đó giúp kiểm soát và quy
định chặt chẽ trách nhiệm, hiệu quả đối với cả hai khu vực công và tư nhân. Hơn
nữa, những thế mạnh của khu vực tư nhân cũng sẽ được phát huy tối đa vào đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng nếu được thực hiện trong một môi trường cạnh tranh
và tháo gỡ các rào cản không cần thiết.
Thứ ba, cần có sự ủng hộ chính sách mạnh mẽ từ Nhà nước
Một điều đáng quan tâm nữa là Nhà nước cần xây dựng những chính sách
tiếp cận các thị trường vốn nhằm cung cấp tài chính cho các hoạt động quan trọng
mà khu vực tư nhân tham gia. Những hạn chế đối với việc tiếp cận thị trường địa
phương và những trở ngại đối với sự di chuyển vốn quốc tế cần phải được loại bỏ.
Ngoài ra, việc xây dựng cơ chế cung cấp thông tin liên quan đến dự án giữa các
cơ quan có thẩm quyền và các đối tác tư nhân, bao gồm cả tình trạng trước khi kết
cấu hạ tầng tồn tại, các tiêu chuẩn hoạt động và các hình phạt trong trường hợp
không tuân thủ… cũng hết sức quan trọng. Các nguyên tắc giám sát, theo dõi cũng
cần phải được tôn trọng trong mọi trường hợp. lOMoAR cPSD| 58933639 KẾT LUẬN
Đầu tư theo hình thức PPP là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm huy động tối đa nguồn lực cho phát triển CSHT ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Trong giai đoạn vừ qua, chính sách đầu tư PPP đã góp phần làm giảm
áp lực nhu cầu vốn đầu tư công nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư CSHT, tăng cường
cơ sở vật chất cho nền kinh tế. Trong thời gian tới, đầu tư CSHT tại Việt Nam theo
hình thức PPP tiếp tục là nhu cầu cấp bách, vấn đề hoàn thiện cơ chế chính sách
đầu tư PPP là đòi hỏi không thể thiếu đối với hoạt động quản lý.
Theo đó, Chính phủ, các Bộ, ngành, chính quyền đô thị cần tập trung nghiên
cứu xây dựng chiến lược phát triển cho dự án phát triển đô thị theo hình thức
PPP.Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, các địa phương xây dựng chiến lược phù
hợp với điều kiện cụ thể của từng lĩnh vực và từng địa phương và nguồn lực huy
động. Chính phủ nghiên cứu hoàn thiện khung chính sách để ban hành và trình
Quốc hội ban hành hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về PPP đảm bảo tránh
các quy định chồng chéo giữa các văn bản pháp luật, khắc phục những tồn tại, hạn
chế trong các chính sách ban hành. Song song với xây dựng và ban hành chính
sách, Nhà nước cần kiểm tra đánh giá chỉ đạo thực hiện đảm bảo tính hiệu lực của
cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn. Dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức
PPP đang được Quốc hội thảo luận kĩ và cần sớm được thông qua. Các văn bản
pháp quy, tài liệu hướng dẫn cụ thể cho từng ngành cần được xây dựng và ban
hành để vận hành trong thực tế. Những nỗ lực của toàn xã hội nhằm thực hiện
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển KT-XH năm 2020 của Chính phủ nhằm:
“Đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội,
thúc đẩy thu hút mạnh mẽ đầu tư tư nhân, hoàn thiện pháp luật về đối tác công tư” (Chính phủ, 2019a).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Nguyễn Minh Phong, (2020). Dự án hợp tác công tư tại Việt Nam – một số
bất cập và giải pháp. Trang Ngoại giao Kinh tế Trực tuyến.
https://ngkt.mofa.gov.vn/du-an-hop-tac-cong-tu-tai-viet-nam-mot-so-bat-cap- vagiai-phap/