









Preview text:
1. Phân tích ảnh hưởng của cạnh tranh đến nền kinh tế và liên
hệ thực tiễn Việt Nam.
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế với nhau nhằm
có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và từ đó thu
được lợi ích tối đa. Đây là một trong các quy luật của nền kinh tế
thị trường, điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua
kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa.
a.Các tác động tích cực
-Cạnh tranh giúp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất:
Trong nền kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chủ
thể sản xuất kinh doanh không ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, từ đó kéo theo sự đổi mới về
trình độ tay nghề, tri thức của người lao động. Kết quả là, cạnh tranh
thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn.
Ví dụ: khoa học và công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai trò
quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất Việt Nam. Những tựu
khoa học và công nghệ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư
liệu sản xuất, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Để
đạt được bước tiến đó, không thể không kể đến xu thế toàn cầu hóa,
sự hội nhập quốc tế, và quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị
trường. Việt Nam đã xây dựng được nhiều nhà máy, xí nghiệp có dây
chuyền, máy móc hiện đại; trong lĩnh vực nông nghiệp, sử dụng máy
móc để tăng năng suất lao động, thay thế dần sức lao động của con
người… Cải tiến kĩ thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất,
tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa, làm
cho giá trị hàng hóa của doanh nghiệp sản xuất thấp hơn giá trị xã
hội của hàng hóa đó. Không chỉ vậy, sự tăng lên không ngừng của đội
ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã bước đầu đáp ứng được nhu
cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc ứng dụng
những thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền sản
xuất theo hướng hiện đại. Người nông dân Việt giờ đây đã sử dụng
máy cày thay trâu, dùng máy tuốt lúa liên hợp để thay cho cả một quá
trình lao động vất vả, dùng nhà kính với những phương pháp và hạt
giống mới để tăng năng suất cây trồng, kết quả là quý IV năm 2020,
ngành nông nghiệp tăng 2,55% đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào
tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế trong tình hình
dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp.
-Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hành vi của các chủ thể kinh tế đều
hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Hơn nữa, mọi hoạt động của
các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều nhằm
mục đích thu lợi nhuận tối đa, muốn vậy ngoài việc hợp tác, họ cũng
cạnh tranh với nhau để có được những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và kinh doanh để thu được lợi nhuận cao nhất. Thông qua đó, nền
kinh tế thị trường không ngừng được hoàn thiện hơn.
Ví dụ: sau hơn 30 năm chuyển mình sang nền kinh tế thị trường định
hướng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước nhảy
vọt, là một trong những nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh nhất thế
giới, có những mặt hàng có thể cạnh tranh và xuất khẩu sang nước
ngoài: hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc; thủy
sản xuất khẩu sang Mỹ, EU, Nhật Bản; đặc biệt là cà phê Việt Nam
đã được đông đảo bạn bè quốc tế mến mộ và tin dùng. Cán cân
thương mại trong gia đoạn 2011 – 2015 đã khởi sắc khi nhập siêu
giảm dần, năm 2012 đánh dấu năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu kể từ năm 1992
-Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các nguồn lực:
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc tiếp cận các nguồn lực phải dựa
trên nguyên tắc cạnh tranh để phân bổ vào chủ thể có thể sử dụng hiệu
quả hơn cả. Theo đó, các chủ thể sản xuất kinh doanh phải thực hiện
cạnh tranh để có được cơ hội sử dụng các nguồn lực phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Ví dụ: ở Việt Nam,việc phân bổ nguồn lực không chỉ do cơ chế thị
trường điều tiết mà còn do định hướng của Nhà nước và những chính
sách nhằm ổn định, khắc phục những hạn chế của thị trường. Nhờ vào
cạnh tranh, những khuyết tật của nền kinh tế thị trường đã được bộc
lộ rõ, giúp cho Nhà nước có những định hướng đúng đắn cho nền
kinh tế nước nhà. Nghị quyết đại hội Đảng XII đã khẳng định: “Thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả
các nguồn lực phát triển… Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế…”
-Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội:
Trong nền kinh tế thị trường, mục đích của các chủ thể kinh tế là lợi
nhuận tối đa. Chỉ có những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mà người
tiêu dùng lựa chọn thì mới bán được và do đó người sản xuất mới có
lợi nhuận. Vì vậy, những người sản xuất phải tìm mọi cách tạo ra khối
lượng sản phẩm đa dạng, dồi dào, phong phú, chất lượng tốt, giá thành
hạ, làm cho nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội được đáp ứng.
Ví dụ: cạnh tranh khiến các nhãn hàng Việt Nam tích cực thay đổi
phương thức marketing, thậm chí là chất lượng, mẫu mã sản phẩm
để phù hợp thị hiếu, nhu cầu khách hàng mà vẫn giữ được giá trị
riêng của mình. Thật vậy, trong đại dịch Covid-19, ta thấy rõ: các
trang thương mại điện tử đang dần chiếm ưu thế, hầu như các
thương hiệu đều có kênh riêng và có những chính sách giảm giá
hay ưu đãi dành cho khách hàng. Đồ ăn, đồ gia dụng, mỹ phẩm,…
chỉ với vài thao tác là khách hàng có thể được giao tận nhà. Không
chỉ thế, càng ngày việc tham khảo trải nghiệm của khách hàng
càng được chú trọng, thái độ phục vụ của nhân viên cũng trở thành
một tiêu chí cạnh tranh của các doanh nghiệp.
b.Những tác động tiêu cực của cạnh tranh
Khi thực hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh, cạnh tranh có thể dẫn tới
các tác động tiêu cực như:
-Một là, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến môi trường kinh doanh:
Khi chủ thể thực hiện mọi cách để cạnh tranh sẽ rất dễ sử dụng các
biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí là không lành mạnh,
các thủ đoạn xấu để tăng lợi nhuận: buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng
cấm, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ …Đây là những hành vi xấu,
làm môi trường kinh doanh sẽ ngày càng đi xuống về mặtchất lượng
và làm giá trị đạo đức bị xói mòn.
Ví dụ: -Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, tính đến hết
năm 2018 đã có khoảng 400 hồ sơ khiếu nại về các vụ việc cạnh tranh
không lành mạnh và con số này đang có chiều hướng gia tăng. Những
hành vi ấy vô cùng ảnh hưởng đến niềm tin của khách hàng, cũng như
an ninh thương mại, lãng phí nguồn lực xã rồi gây ra tổn hại phúc lợi xã hội.
Năm 2020, lực lượng quản lý thị trường đã phát hiện, xử lý trên
66.000 vi phạm buôn lậu, hàng giả, hàng cấm, hàng không rõ nguồn
gốc xuất xứ và con số này sẽ còn tăng thêm và diễn biến phức tạp vào năm 2021
-Hai là, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội:
Chiếm giữ nguồn lực để giành ưu thế cạnh tranh mà không phát huy
được vai trò của nguồnlực trong sản xuất kinh doanh cũng là một hình
thức của cạnh tranh không lành mạnh. Khi đó, nguồn lực không được
phân bổ hợp lí: nơi cần thì không đủ, nơi có thì không thể phát huy tối
ưu vai trò của nguồn lực mình có. Không chỉ thế, những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh còn ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, gây ô
nhiễm môi trường, tàn phá môi trường ngày một nghiêm trọng. Về lâu
về dài, đây sẽ không chỉ là vấn đề lãng phí nguồn lực xã hội mà là hủy
hoại môi trường sống, nền kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
Ví dụ: Formosa Hà Tĩnh Đã bị phạt bồi thường thiệt hại 500 triệu
USD và được gọi là công ty gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua khi làm ô nhiễm môi trường
biển khiến cá chết hàng loạt tại bốn tỉnh khu vực miền Trung từ Hà
Tĩnh đến Thừa Thiên – Huế. Đây chỉ là một trong rất nhiều công ty đã
và đang phá hoại môi trường để kiếm chác lợi nhuận, nếu tình trạng
này cứ mãi tiếp diễn, liệu môi trường sống của Việt Nam sẽ đi về đâu?
-Ba là, cạnh tranh không lành mạnh sẽ làm tổn hại phúc lợi của xã hội:
Khi cạnh tranh không lành mạnh ngày một mạnh mẽ, phân hóa giàu
nghèo, lãng phí nguồn lựcxã hội và các vấn đề xã hội khác sẽ ngày
một nhiều, nghiêm trọng. Việc gây tổn hại đến phúc lợi xã hội là không tránh khỏi.
Ví dụ: trong giai đoạn 2016- 2019, thu nhập bình quân đầu người
của nhóm có thu nhập thấp nhất là 791.000 đồng, tăng bình quân
5,7% trong khi nhóm cao nhất là 7.800.000 đồng tăng 6,8%, điều
này cho thấy sự phân hóa giàu nghèo ngày một tăng, phúc lợi xã
hội sẽ phải chi trả nhiều hơn cho người nghèo, người thất nghiệp
hay cả những hoạt động nhằm bảo vệ môi trường
2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá, và
giải pháp để phát triển sản xuất hàng hoá ở Việt Nam.
*Các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị hàng hóa:
a. Năng suất lao động
- là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số
lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
- Ảnh hưởng : Năng suất lao động tăng lên - Khối lượng sản xuất
hàng hóa tăng lên = Thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra
một đơn vị hàng hóa giảm xuống
| Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị
hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm: trình độ
của người lao động; mức độ phát triển của khoa học và trình độ
áp dụng khoa học vào quy trình công nghệ; sự kết hợp xã hội
của quá trình sản xuất; các điều kiện tự nhiên
- Ví dụ : Ngày xưa áo quần may bằng tay, bây giờ áo quần may
bằng máy cho thấy ta có thể phân biệt thời đại qua năng suất lao động
* Khi xem xét về mối quan hệ giữa tăng năng suất với lượng giá
trị của một đơn vị hàng hóa, cần chú ý thêm về mối quan hệ giữa
tăng cường độ lao động với lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.
+ Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt
động lao động trong sản xuất.
+ Ảnh hưởng: Khi cường độ lao động tăng lên => lượng lao
động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên =>
lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương ứng, còn lượng
giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về bản chất,
tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
+ Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe,
thể chất, tâm lý, trình độ tay nghề thành thạo của người lao
động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động…
b. Tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động
- Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao
động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào
tạo một cách hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng,
nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải
trải qua một quá trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu
cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
- Ảnh hưởng : Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như
nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.
- Lao động đơn giản hay phức tạp không phụ thuộc vào trình độ
tuyệt đối của người lao động (biết mấy ngoại ngữ, làm được
công việc gì), mà phụ thuộc vào trình độ tương đối của người đó
so với những người khác.
● giải pháp để phát triển sản xuất hàng hoá ở Việt Nam.
-Nâng cao năng suất lao động
●Đầu tư vào khoa học công nghệ:
○Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tự
động hóa quy trình sản xuất.
○Nghiên cứu và phát triển các công nghệ mới, vật liệu mới,
phương pháp sản xuất tiên tiến.
●Đổi mới trang thiết bị:
○Thay thế các máy móc thiết bị cũ, lạc hậu bằng các máy
móc thiết bị hiện đại, có năng suất cao.
○Đầu tư vào các dây chuyền sản xuất tự động, bán tự động.
●Nâng cao trình độ tay nghề người lao động:
○Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động.
○Khuyến khích người lao động tự học tập, nâng cao trình độ.
●Cải thiện tổ chức quản lý:
○Xây dựng các quy trình sản xuất khoa học, hợp lý.
○Áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, như quản lý
chất lượng toàn diện (TQM), quản lý tinh gọn (Lean Manufacturing).
○Tạo môi trường làm việc tốt, khuyến khích sự sáng tạo của người lao động.
-Điều chỉnh cường độ lao động hợp lý:
●Đảm bảo sức khỏe cho người lao động:
○ Không nên tăng cường độ lao động quá mức, gây ảnh
hưởng đến sức khỏe của người lao động.
○ Đảm bảo thời gian làm việc, nghỉ ngơi hợp lý cho người lao động.
●Tăng cường động lực làm việc:
○ Xây dựng các chế độ lương thưởng, phúc lợi hợp lý,
khuyến khích người lao động làm việc năng suất cao.
○ Tạo môi trường làm việc thân thiện, đoàn kết.
- Sử dụng lao động phù hợp với tính chất công việc:
●Lao động giản đơn:
○ Sử dụng lao động phổ thông cho các công việc đơn giản,
không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao.
○ Tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn để nâng cao tay nghề cho người lao động.
●Lao động phức tạp:
○ Sử dụng lao động có trình độ chuyên môn cao cho các
công việc phức tạp, đòi hỏi kỹ năng chuyên sâu.
○ Khuyến khích người lao động học tập, nâng cao trình độ để
đáp ứng yêu cầu công việc.
3. Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động và giải pháp
để phát triển hàng hoá sức lao động ở Việt Nam hiện nay.
1. Về nguồn cung lao động
Nâng cao chất lượng và trình độ người lao động là một giải pháp quan
trọng nhằm phát triển nguồn cung cho thị trường hàng hóa sức lao
động. Trước hết, cần tập trung phát triển mạnh hệ thống trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề theo hướng đồng bộ về cơ cấu, ưu tiên các
ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao như năng lượng, vi điện
tử, tự động hóa, công nghệ sinh học... Đồng thời, có các chính sách
thu hút nhân tài, đãi ngộ giáo viên, cơ chế ưu đãi để khuyến khích các
thành phần kinh tế, tổ chức cá nhân tham gia vào công tác đào tạo,
chuyển đổi nghề cho người lao động. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao về
mọi trình độ tay nghề về mọi mặt cho người lao động, tạo cho họ tính
tự giác, sáng tạo trong lao động.
Đồng thời tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng đó với nhiều hình thức khác nhau.
2. Về nguồn cầu lao động
Đầu tiên cần giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Đây được
xem là vấn đề cấp thiết, nóng bỏng đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta.
Thứ hai, nhanh chóng sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo
hướng cổ phần hóa, tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết
bị công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút lao động.
Thứ ba, thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
sản xuất hàng hóa, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đẩy
mạnh dịch vụ. Đặc biệt, chú trọng phát triển mạnh quan hệ kinh tế với
nước ngoài bằng nhiều hình thức để tạo nguồn xuất khẩu lao động tại
chỗ, tăng đầu tư khai thác, mở rộng xuất khẩu lao động sang các khu
vực, thị trường truyền thống và một số thị trường mới; khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn tạo việc làm, ưu tiên vốn vay cho các
doanh nghiệp thu hút, sử dụng nhiều lao động.