lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
BÀI TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KỲ
GVHD: NGUYỄN THỊ VÂN NGA
MÔN HỌC: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Hà Nội - 2018
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
MỤC LỤC
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .....................1
1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại
quốc tế..............................................................................................................1
1.2. Nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế..............................................1
1.3. Các hình thức của chính sách thương mại quốc tế.......................................2
1.3.1. Chính sách mậu dịch tự do.........................................................................2
1.3.2. Chính sách bảo hộ mậu dịch......................................................................2
1.4. Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế.....................................3
1.4.1. Nguyên tắc tương hỗ..................................................................................3
1.4.2. Nguyên tắc ngang bằng dân tộc.................................................................3
1.4.3. Nguyên tắc tối huệ quốc.............................................................................4
PHẦN 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
QUA TỪNG GIAI ĐOẠN...........................................................................................5
2.1. Giai đoạn 1975-1986.......................................................................................5
2.1.1. Thời kỳ thống nhất đất nước đến đầu công cuộc đổi mới (1975-
1979)..........................................................................................................5
2.1.2. Trong thời kỳ tiền đổi mới (1979-1986)......................................................8
2.2. Giai đoạn 1986-2006......................................................................................11
2.2.1. Giai đoạn thăm dò hội nhập (1986-1991)................................................11
2.2.2. Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000).............................................11
2.2.3. Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-2006)...........................................13
2.3. Giai đoạn 2006- 2016....................................................................................13
2.3.1. Việt Nam gia nhập WTO/TPP..................................................................13
2.3.2. Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong khoảng thời
gian này...................................................................................................14
2.4. Giai đoạn 2016-2025.....................................................................................15
2.4.1. Tổng quan về chính sách thương mại quốc tế Việt Nam...........................15
2.4.2. Dự báo thực trạng chính sách thương mại của Việt Nam trong
những năm tới..........................................................................................17
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
PHẦN 3. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ.................................................................................................18
3.1. Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan
hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch....................................18
3.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại
quốc tế............................................................................................................18
3.2.1. Minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan........................18
3.2.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan.......................19
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và
rào cản thương mại đầy đủ và dễ truy cập...............................................20
3.3. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế
giữa các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp...............................................21
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007 một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của ớc ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay
vào xây dựng Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện các cam kết khi gia
nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh
bạch thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật các văn bản dưới luật để thực hiện
các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng n các biện pháp
cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong
quá trình hội nhập. Mặc chúng ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem
xét như việc liên kết doanh nghiệp Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương
mại quốc tế; phát huy vai trò của khu vực kinh tế vốn đầu nước ngoài trong việc
thực hiện chính sách; cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại
quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phải
được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành của
thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam. Vì vậy, việc xem xét và điều
chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc góp phần đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về
cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
1
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .
1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình
hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa
lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, tương đương với một tỷ lệ lớn
trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch s loài người, tầm
quan trọng kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong
vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công
nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân
lực bên ngoài. Việc tăng ờng thương mại quốc tế thường được xem như ý nghĩa
bản của "toàn cầu hoá".
Chính sách thương mại quốc tế các quan điểm, nguyên tắc, biện pháp thích hợp
của một nước dùng để điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của nước đó trong một
thời gian nhất định, nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội của nước đó.
1.2. Nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế
Môi trường kinh tế thế giới chịu sự chi phối và tác động của nhiều mối quan hệ
chính trị các mục tiêu phi kinh tế khác cho nên chính sách thương mại quốc tế của
mỗi quốc gia cũng phải đáp ứng cho nhiều mục tiêu khác nhau. Nhiệm vụ của chính
sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia có thể thay đổi theo mỗi thời kỳ nhưng đều
có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt đông thương mại quốc tế theo chiều hướng có
lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nhiệm vụ này thể hiện trên 2 mặt sau
đây:
Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mrộng thị
trường ra ớc ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế thương mại
quốc tế, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.
Hai là, bảo vệ thị trường nội địa , tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
đứng vững vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng yêu cầu tăng ờng
lợi ích quốc gia.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, chính sách thương mại quốc tế bao gồm nhiều bộ
phận khác nhau liên quan hu với nhau: chính sách mặt hàng, chính sách thị
trường và chính sách hỗ trợ.
1.3. Các hình thức của chính sách thương mại quốc tế
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
2
1.3.1. Chính sách mậu dịch tự do
hình thức chính sách thương mại trong đó Nhà ớc không can thiệp trực tiếp
vào quá trình điều tiết ngoại thương, mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa cho hàng
hóa được tự do lưu thông giữa trong ngoài nước tạo điều kiện cho thương mại quốc
tế phát triển trên cơ sở quy luật tự do cạnh tranh.
Đặc điểm:
Nhà nước không sử dụng các công cụ để điều tiết XK và NK
Quá trình XK và NK được tiến hành một cách tự do
Quy luật tự do cạnh tranh các quy luật kinh tế của thị trường điều tiết sự
hoạt động của sản xuất , hoạt động tài chính và thương mại trong nước.
Tự do tiếp cận thị trường
Cơ sở khách quan của chính sách:
Những lơi ích to lớn của TM đối với phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia
Do đòi hỏi khách quan của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Ưu nhược điểm:
Ưu điểm:
Thúc đẩy cạnh tranh trong nước
Tạo điều kiện để phân bổ hiệu quả các nguồn lực trog nước
Tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồnlực từ bên ngoài
Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu
Mang lại lợi ích cho người tiêu dùng Nhược
điểm:
Những ngành sản xuất trong nước chưa đủ sức cạnh tranh sẽ bị phá sản
Nền kinh tế trong nước dễ bị ảnh hưởng xấu bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới
1.3.2. Chính sách bảo hộ mậu dịch
Là hình thức chính sách thương mại trong đó nhà nước áp dụng nhiều biện pháp
cần thiết để bảo vệ thị tường nội địa, bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh
của hàng hóa NK từ nước ngoài Cơ sở khách quan của chính sách:
˗ Xuất phát từ sự khác biệt từ trình độ phát triển kinh tế khả năng cạnh tranh
của hàng hóa, dịch vụ giữa các nước.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
3
˗ Sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các ngành trong nền kinh tế quốc gia.
Công cụ sử dụng trong bảo hộ mậu dịch:
Thuế quan
Hạn ngạch nhập khẩu
Rào cản về thủ tục hành chính
Luật chống bán phá giác
Trợ cấp sản xuất trong nước
Trợ cấp xuất khẩu
Quy định về tỉ giá hối đoái Ưu
nhược điểm:
Ưu điểm:
Giảm bớt áp lực cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài, giúp nền sản xuất trong
nước phát triển ổn định
Thông qua việc đánh thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu, góp phần tăng thu
cho ngân sách nhà nước
Góp phần quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ của quốc gia Nhược
điểm:
Không tạo ra môi trường cạnh tranh nên sản xuất kém hiệu quả
1.4. Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế
1.4.1. Nguyên tắc tương hỗ
Theo nguyên tắc này, các bên dành cho nhau những ưu đãi đãi ngtương tự
nhau trong quan hệ ngoại thương. Mức độ ưu đãi đãi ngộ của các quốc gia khác nhau
phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế của mỗi quốc gia. Việc áp dụng nguyên tắc này thường
gây bất lợi cho bên yếu hơn và mang tính phân biệt đối xử với nước thứ ba
1.4.2. Nguyên tắc ngang bằng dân tộc
Nếu giữa 2 nước hiệp định thương mại dựa trên nguyên tắc ngang bằng dân
tộc, nguyên tắc này cho phép ng dân, công ty của các bên tham gia trong quan hệ
ngoại thương được hưởng mọi quyền lợi nghĩa vụ như nhau , nghĩa công dân
của 1 nước khi sinh sống ở nước đối tác và các công ty có trụ sở ở nước đối tác sẽ được
hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ như công dân và công tyớc đối tác và ngược
lại. Thực tế áp dụng nguyên tắc này cho thấy các ớc công nghiệp phát triển thường
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
4
bao giờ cũng chiếm vị trí thuận lợi hơn so với các nước kém phát triển. Vì vậy, nguyên
tắc này đôi khi trên thực tế chỉ mang tính hình thức.
1.4.3. Nguyên tắc tối huệ quốc
Theo nguyên tắc này, các bên tham gia buôn bán với nhau sẽ dành cho nhau những
điều kiện ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình đã, đang sẽ dành cho ớc
thứ ba. Nguyên tắc này thường dùng trong hai trường hợp sau:
˗ Tất cả những ưu đãi một bên đã, đang sẽ dành cho một nước thứ ba nào
khác cũng sẽ được dành cho bên tham gia kia hưởng một cách vô điều kiện.
˗ Hàng hóa, dịch vụ di chuyển từ một bên tham gia đưa vào lãnh thổ nước đối tác
sẽ không chịu mức thuế quan cao n chịu các thủ tục phức tạp n so với
hàng hóa và dịch vụ vào nước đối tác từ nước thứ ba
˗ Nguyên tắc này lần đầu được Mỹ áp dụng trong buôn bán với Pháp năm 1778,
sau đó mở rộng ra với Anh, Nhật Bản, Đức. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc
này rộng hay hẹp tùy thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa các nước tham gia.
Nguyên tắc MFN được phân thành hai loại:
MFN điều kiện nước được hưởng quy chế MFN phải chấp nhận tuân
theo các điều kiện kinh tế và chính trị do nước đối tác đưa ra
MFN vô điều kiện là nước được hưởng quy chế này không phải tuân theo bất
kỳ một điều kiện ràng buộc nào cả.
PHẦN 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ QUA
TỪNG GIAI ĐOẠN
2.1. Giai đoạn 1975-1986
2.1.1. Thời kỳ thống nhất đất nước đến đầu công cuộc đổi mới (1975- 1979)
2.1.1.1. Cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam
Thị trường miền Nam trước giải phóng mang tính chất thị trường bản chủ nghĩa
tương đối phát triển, quan hệ gắn với nhiều ớc bản thế giới khu vực.
sản mại bản là thế lực phản động nhất trong giai cấp sản miền Nam, lợi ích
gắn với chủ nghĩa đế quốc, hoạt động kinh doanh làm giàu, lũng đoạn thị trường
phục vụ cho guồng máy chiến tranh của Mỹ - Ngụy. Hệ thống độc quyền lũng đoạn thị
trường của sản mại bản được tổ chức tinh vi chặt chẽ trong các khâu trọng yếu: Từ
xuất, nhập khẩu, thu mua nguyên liệu, sản xuất, chế biến, vận chuyển đến nắm quyền
bán buôn, khống chế bán lẻ hoặc ít nhất cũng nắm độc quyền làm tổng đại tiêu thụ
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
5
hàng hoá, chi phối sản thương nghiệp lực lượng tiểu thương m mạng ới tiêu
thụ bán lẻ cho chúng. Giai cấp tư sản mại bản do nắm giữ một khối lượng lớn tài sản và
hàng hoá trong tay nên vẫn tiếp tục thao túng thị trường miền Nam sau ngày giải phóng,
gây ra những vụ đầu cơ, làm ăn phi pháp, làm mất ổn định đời sống kinh tế - hội.
Tình hình đó đòi hỏi phải nhanh chóng xoá bỏ giai cấp sản mại bản. Chủ trương đó
là hoàn toàn đúng đắn và đã được Nhà ớc ta thi hành ở các thành phố lớn miền Nam
vào những tháng cuối năm 1975 và năm 1976.
Thời gian đầu sau giải phóng, thị trường miền Nam lưu hành 3 loại tiền khác
nhau: tiền của chế độ Sài Gòn cũ, tiền của Chính phủ cách mạng lâm thời tiền của
Ngân hàng Nớc Việt Nam. Lúc đầu, Nhà ớc chủ trương tạm thời hạn chế việc
buôn bán giữa hai miền. Đến năm 1976, nhu cầu giao u hàng hoá giữa 2 miền Nam
Bắc ngày càng tăng lên, quan hệ đó đòi hỏi phải được mở rộng. Vì vậy, những hạn chế
buôn bán ban đầu đã được Nhà nước xoá bỏ dần trong thời gian sau đó.
Từ hoàn cảnh chiến tranh chuyển sang hoà bình, nhu cầu về tiêu dùng của các
tầng lớp dân cư trong xã hội cũng khác trước về cơ bản. Điều đó đòi hỏi hoạt động của
thương mại phải có sự thích ứng nhanh chóng với điều kiện mới của thị trường, mở rộng
kinh doanh với những phương thức tiến bộ, hàng hoá phong phú với chất ợng bảo
đảm.
Ngay sau giải phóng, hàng vạn cán bộ ngành Thương mại, bao gồm Nội thương,
Ngoại thương Vật đã được điều động cho miền Nam. Trong đó nhiều cán bộ
cốt cán đã được giao nhiệm vụ khẩn trương xây dựng khung các quan quản cấp
Sở, Ty để vào tiếp quản xây dựng mạng lưới thương mại các thành phố, các tỉnh
phía Nam. Tháng 5/1975, Tổng Nha Nội thương ra đời và ngày 26/5/1975 thành lập Sở
Thương nghiệp thành phố Sài Gòn mới giải phóng. Tiếp sau đó các SThương nghiệp
của các tỉnh, thành phố khác cũng được thành lập. Đến cuối m 1976, đã thành lập
được 2 tổng công ty 10 công ty thương nghiệp bán buôn toàn miền Nam, gần 60 công
ty thương nghiệp tỉnh với trên 500 cửa hàng. Giao lưu hàng hoá giữa 2 miền Nam – Bắc
dần được khai thông và không ngừng phát triển.
2.1.1.2. Nội thương và ngoại thương từng bước phát triển
Lực ợng thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng lực lượng hợp
tác tuy mới thời kỳ đầu xây dựng, nhưng đã từng bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường,
nhờ đó đã hạn chế được ở mức độ nhất định nạn đầu cơ, tích trữnh trạng hỗn loạn
giá cả thị trường.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
6
Cũng cần nhớ lại rằng, những năm đầu sau giải phóng, công tác phân phối lưu
thông gặp rất nhiều khó khăn. Thương nghiệp quốc doanh tuy phát triển nhanh, nhưng
còn yếu. Chưa có nhiều hàng hoá, kể cả hàng nông sản - thực phẩm hàng công nghiệp
tiêu dùng. Phương thức mua vào, bán ra còn lúng túng, gò bó. Các tổ chức thương nghiệp
hợp tác đang thời kỳ đầu xây dựng, chưa đủ sức hỗ trợ cho thương nghiệp quốc doanh
thu mua nắm nguồn hàng, phân phối bán lẻ và chi phối thị trường. Việc tổ chức quản lý
thương nghiệp nhân còn bị buông lỏng. Việc theo dõi nắm tình hình thị trường chưa
cụ thể và sát sao, do đó chưa kịp thời đối phó và ngăn chặn được các thủ đoạn phi pháp
của bọn gian thương.
Đầu năm 1978, Nhà ớc thực hiện việc đổi tiền lần thứ 2 để thống nhất tiền tệ
trong cả nước, tạo tiền đề thống nhất thị trường hai miền công tác lãnh đạo hoạt động
thương mại trong cả nước cùng điều kiện tập trung thống nhất từ Trung ương. Thương
nghiệp quốc doanh đã từng bước vươn lên dành lấy vị trí chủ đạo. Giao u hàng hoá
giữa hai miền không ngừng được tăng cường và bổ sung cho nhau, mỗi năm càng thêm
phát triển.
Hoạt động buôn bán đối ngoại trong bối cảnh đất ớc thống nhất cũng những
thuận lợi mới. Từ đó, chúng ta điều kiện khả năng khai thác tiềm năng của cả nước
về thiên nhiên cũng như lao động để đẩy mạnh xuất nhập khẩu.
Những năm 1976-1978, tình hình kinh tế đối ngoại nói chung ngoại thương
nói riêng diễn ra tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, từ cuối năm 1978 trở về sau, tình hình
diễn biến nhiều khó khăn phức tạp. Mỹ một số ớc khác đã thái độ thù địch
với nhân dân ta, thực hiện chính sách cấm vận, phân biệt đối xử. Họ ngừng viện trợ
đầu vào Việt Nam, ngừng các khoản tín dụng đã cam kết, thậm chí có nước hành
vi phá hoại nền kinh tế của nước ta. Trong lúc đó lại xảy ra cuộc chiến tranh ở biên giới
Tây - Nam phía Bắc, làm cho đất nước trong tình trạng vừa hoà bình, vừa
chiến tranh, gây khó khăn mất cân đối nhiều mặt cho nền kinh tế. Thị trường biến
động, giá cả hàng hoá tăng nhanh. Bên cạnh đó, quản kinh tế cũng như quản thương
mại vẫn giữ cung cách của thời kỳ chiến tranh, mang nặng tính chất quan liêu bao cấp,
tỏ ra kém hiệu quả.
Mặc gặp nhiều khó khăn to lớn từ phía khách quan cũng như chủ quan, song
điều đó cũng không hoàn toàn cản trở nền kinh tế của ta phát triển.
Năm 1977-1978, hai năm liền nông nghiệp cả 2 miền gặp thiên tai nặng nề, công
tác thu mua nắm nguồn hàng của thương mại không đạt yêu cầu. Công nghiệp thiếu
nguyên liệu, vật tư, nhiên liệu. Kế hoạch Nhà nước 5 m lần thứ 2 (1976- 1980) đạt
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
7
mức thấp, quỹ hàng hoá của Nhà nước không đáp ứng nhu cầu, nhiều mặt hàng thiết yếu
chỉ bảo đảm cung cấp được khoảng 50% tiêu chuẩn định lượng được phân phối bằng
tem phiếu. Trong điều kiện thiếu hàng như vậy, ngành Thương mại đã cố gắng tập trung
được một lượng hàng cần thiết để ưu tiên cung cấp cho khu vực trực tiếp sản xuất, phục
vụ lực lượng chiến đấu, một phần cho cán bộ công nhân viên.
miền Nam, số người làm nghề bán buôn dịch vụ tăng nhanh. thương nắm
quyền chi phối nhiều loại hàng hoá tiêu dùng. Nhìn chung, vào thời điểm đó, thương
nghiệp quốc doanh đã không làm chủ được thị trường hàng nông sản thực phẩm.
Đối với hàng tiêu dùng bán lẻ cung cấp, tơng nghiệp quốc doanh đã trở thành
kho hàng phân phối theo định lượng, ngân sách phải lỗ nặng nề. Giá hàng công nghiệp
cũng để bất động kéo dài, nhất là hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng nhập khẩu phục vụ
sản xuất. Mức giá trong ớc đối với hàng nhập khẩu không được giá vốn. chế
thu chênh lệch ngoại thương đã làm cho ngân sách Nhà ớc lxuất khẩu ngày
một tăng lên.
Hoạt động xuất nhập khẩu trì trệ, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề kéo
dài. Hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế kế hoạch tập trung, Nhà nước độc quyền
ngoại thương, thị trường chủ yếu các nước xã hội chủ nghĩa vớichế nghị định thư.
Cả nước chỉ khoảng 30 đơn vị, công ty nhà nước hoạt động xuất, nhập khẩu, với tổng
kim ngạch xuất, nhập khẩu rất thấp (bình quân xuất khẩu theo đầu người chỉ mức dưới
10 Rúp/USD, trong đó 70% kim ngạch xuất khẩu thuộc khu vực đồng Rúp). vậy luôn
gây sức ép phải hạn chế các nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật nguyên liệu, hàng tiêu
dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế hội, cải thiện đời sống nhân dân, ở thời kỳ
này, hầu hết các mặt hàng cung ứng cho thị trường trong ớc phải thông qua nhập khẩu.
Cân đối tiền hàng cung cầu một số mặt hàng thiết yếu bị mất cân đối nghiêm
trọng.
Trong hệ thống kế hoạch pháp lệnh, chế kết hối ngoại tệ được thực hiện theo
giá kết toán nội bộ với giá trị của đồng Việt Nam cao gấp nhiều lần so với giá trị thực;
sự cứng trong việc định giá vật , nguyên liệu, hàng hoá xuất, nhập khẩu; các tổng
công ty xuất nhập khẩu được phân công theo ngành hàng không gắn nhập khẩu với xuất
khẩu; ngân sách hàng năm phải chi ra một khoản tiền lớn để lỗ cho hoạt động xuất,
nhập khẩu.
Trên bình diện quốc tế, từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, thế giới
diễn ra những biến đổi to lớn. Trước âm u “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế
quốc, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
8
cầu hoá kinh tế, chạy đua về kinh tế, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
bản nhiều diễn biến phức tạp. Điều đó đã đặt hệ thống hội chủ nghĩa trước
những thách thức mới. Việc ợt qua thách thức đó lại diễn ra trong bối cảnh hầu hết
các nước hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Trong khi đó, các nước tư bản chủ nghĩa, tuy cũng phải đối phó với nhng nguy mới,
nhưng do sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt là đã sử dụng được những thành quả của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên đã vượt qua được khó khăn, kinh
tế có bước tăng trưởng đáng kể.
Với bối cảnh trong nước và quốc tế như trên, đòi hỏi tất yếu muốn tồn tại và
phát triển thì phải có một cuộc cải cách thật sự trên tất cả các lĩnh vực của đất nước.
Đó chính là đường lối Đổi mới mà Đảng ta khởi xướng tại Đại hội lần thứ VI tháng
12/1986.
2.1.2. Trong thời kỳ tiền đổi mới (1979-1986)
2.1.2.1. Hội nghị trung ương 6 khóa IV
thể coi Hội nghị trung ương 6 khoá IV (tháng 8/1979) với chủ trương quyết
tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới nước
ta. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong
quản kinh tế cải tạo hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chtrương, chính sách
kinh tế; phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển; ổn định nghĩa vụ lương thực
trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tdo; khuyến khích
mọi người tận dụng ao, hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi
hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế ơng thực, glương thực để
khuyến khích sản xuất; sửa lại hệ thống phân phối trong hệ thống hợp tác nông
nghiệp, bỏ phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính ch cực của người
lao động… Trọng tâm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng
tiêu dùng xuất khẩu, điều chỉnh một số chính sách không còn phù hợp; cải tiến các
chính sách lưu thông, phân phối (giá, lương, tiền, tài chính, ngân hàng); đổi mới công
tác kế hoạch hoá, kết hợp với thị trường; kết hợp 3 lợi ích: Nớc, tập thể, nhân
người lao động.
Những chủ trương đó nhanh chóng được nhân dân trong cả nước đón nhận
biến thành hành động thực tế trong thực tiễn cuộc sống. Đầu những năm 80 của thế kỷ
XX, có địa phương đã thực hiện thí điểm mô hình theo cơ chế: “mua cao, bán cao” thay
cho “mua cung, bán cấp”; giá vào lương; được phép thí điểm hình thức khoán, mở
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
9
rộng khoán sản phẩm đến nhóm người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra
đời.
Trên lĩnh vực công nghiệp, ớc đầu xác định quyền tự chủ của sở trong sản
xuất, kinh doanh, với chủ trương “ba phần kế hoạch” (phần Nhà nước giao có vật tư bảo
đảm, phần nghiệp tự làm, phần sản phẩm phụ) theo Quyết định 25/CP, ngày
21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình
thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn
vị sản xuất, kinh doanh được áp dụng.
Trên lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, vấn đề sử dụng các thành phần kinh tế đã
được đặt ra; thiệu quả kinh tế vận dụng linh hoạt các hình thc tổ chức sản xuất
thích hợp; chính sách đối với kinh tế thể từng bước được điều chỉnh cho đúng thực tế
hơn; nhấn mạnh chống tưởng nóng vội, chủ quan, mệnh lệnh, làm ồ ạt, gây thiệt hại
cho sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc Tây Nam
xảy ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới chưa đủ thời gian để những chủ trương
đổi mới phát huy tác dụng, trong khi đó, nhiều chỉ tiêu cơ bản do Đại hội IV đưa ra lại
quá cao so với thực tế, nên không thực hiện được. Nền kinh tế tiếp tục trạng thái trì
trệ, sa sút; đời sống nhân dân có nhiều khó khăn.
Trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, cũng vẫn có khuynh hướng muốn
quay lại với quan niệm cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12/1983) vẫn
xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của
tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, và chủ trương phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải
tạo hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về
lương thực các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá; bảo đảm cung cấp
đủ 9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn ơng; lập các cửa hàng cung cấp…
Điều này cho thấy, sự đổi mới tư duy là không đơn giản; quan niệm cũ về cải tạo xã hội
chủ nghĩa còn ăn sâu, bám rễ o nhiều người. Trên thực tế, khủng hoảng kinh tế -
hội ngày một nghiêm trọng, đời sống nhân dân, nhất người làm công ăn ơng ngày
càng khó khăn. 2.1.2.2. Hội nghị trung ương 8 khóa V
Hội nghị trung ương 8 khoá V (6/1985) đánh dấuớc đột phá thứ hai bằng chủ
trương dứt khoát xoá bỏ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện chế một giá;
xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh sang cơ chế hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
10
Tháng 9/1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền được thực hiện. Do vẫn còn
tư tưởng chủ quan duy ý chí, cuộc tổng điều chỉnh này đã làm cho “giá cả thị trường có
nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không tốt đến nhiều hoạt động kinh tế - hội”.
Lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Sự chênh lệch giữa giá ơng, giữa ơng danh
nghĩa và lương thực tế quá lớn. Chính vì vậy, đầu năm 1986, lại phảii một bước: thực
hiện chính sách 2 giá. Trên mặt trận phân phối, lưu thông, lạm phát vẫn ở mức 3 con số
trong nhiều năm, đỉnh cao là 774,7% năm 1986.u thông tiền tệ cuối năm 1984 bằng
8,4 lần cuối năm 1980.
Tháng 8/1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội
VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh
tế. Trong đó xác định: trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng
đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, kiên quyết xoá bỏ chế tập
trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện
cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận
về chủ nghĩa xã hội.
thể nói, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) Đại hội mang tính
lịch sử, tạo ra bước ngoặt cực kỳ quan trọng cho đất nước. Tại Đại hội này, Đảng ta đã
đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới duy, đối mới tổ chức - cán bộ,
đổi mới phương pháp lãnh đạo phong cách công tác. Đại hội đã đề ra ba Chương trình
kinh tế lớn là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là mũi
nhọn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới; đồng thời chủ trương kiên quyết xoá bỏ
chế quản tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng chế quản mới, áp dụng những
biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ tình trạng ngăn sông,
cấm chợ, chia cắt thị trường; lập lại trật tự kỷ cương; giữ ổn định chính trị, xã hội, từng
bước cải thiện đời sống nhân dân.
2.2. Giai đoạn 1986-2006
Trước năm 1986 quan điểm hội nhập của Đảng đã được thể hiện trong Nghị quyết
Đại hội Đảng IV và V, nhưng chủ yếu hội nhập vào cộng đồng các nước hội chủ
nghĩa với tổ chức Hội đồng tương trợ kinh tế Châu Âu. Tuy nhiên, khối cộng đồng kinh
tế các ớc hội chủ nghĩa dựa trên phân công lao động giữa các nước trong khối
việc trao đổi hàng hóa không dựa trên nguyên tắc thị trường, không chịu sức ép của s
cạnh tranh gay gắt của các quy luật thị trường. Do trình độ công nghquy sản
xuất của Việt Nam chưa cao nên mức độ quy hội nhập của Việt Nam vào khối các
nước hội chủ nghĩa chưa sâu chưa toàn diện. Việc hội nhập vào cộng đồng quốc
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
11
tế còn hạn chế vì đây là thời gian chiến tranh lạnh giữa hai khối: tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa nên Việt Nam khó hội nhập vào khối cộng đồng quốc tế. Vì vậy, thực tiễn
của đất nước đòi hỏi phải hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.
2.2.1. Giai đoạn thăm dò hội nhập (1986-1991)
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa không ràng nhưng
xu hướng thay thế nhập khẩu cởi bỏ dần các hạn chế xuất khẩu, thực hiện hoàn
thiện các chính sách tài chính, thuế như mở cửa sàn giao dịch ngoại hối vào năm 1991,
ban hành thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, thuế lợi nhuận vào
năm 1990.
Chính sách xuất nhập khẩu các quy định về thương mại được thông thoáng
hơn theo đó các doanh nghiệp nhân được trực tiếp tham gia vào thương mại quốc tế
vào năm 1991 thành lập các khu chế xuất. Tuy nhiên, một số hàng hóa vẫn bị giới
hạn xuất khẩu ở một sô ít công ty và các tổng công ty xuất khẩu vẫn phải đăng ký nhóm
hàng hóa xuất khẩu với cơ quan quản lý nhà nước.
2.2.2. Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000)
Tính đến năm 2000, các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế Việt
Nam vẫn chủ yếu các doanh nghiệp nhà nước. Chính sách tơng mại quốc tế của
Viêt Nam xu hướng thay thế nhập khẩu. Đặc điểm nổi bật trong việc hoàn thiện chính
sách thương mại quốc tế của Việt Nam ở giai đoạn này là không có một lịch trình giảm
thuế cụ thể.
Việt Nam đã tìm mọi cách để mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tăng cường
trao đổi thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, ký kết nhiều hiệp định song phương, đa
phương liên quan đến hội nhập quốc tế, cụ thể là:
˗ Tháng 10/1993, Việt Nam đã thiết lập quan hệ bình thường với IMF, WB, ADB.
Các nhà tài trợ quốc tế thông qua Câu lạc bộ Paris Câu lạc bộ London đã cam
kết cho Việt Nam vay ưu đãi và thảo luận việc xóa các khoản nợ cho Việt Nam.
˗ Tháng 10/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập ASEAN tháng 7/1995 Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN, chấp nhận các nguyên tắc,
quy định của tổ chức kinh tế khu vực này.
˗ Tháng 12/1994, Việt Nam đã gừi đơn xin gia nhập WTO và tháng 01/1995 WTO
chính thức nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam để tiến hành đàm phán cụ thể.
˗ Tháng 06/1996, Việt Nam tham gia thành lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM).
ASEM một diễn đàn đối thoại không chính thức hoạt động theo nguyên tắc
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
12
đồng thuận, cùng nỗ lực tạo dựng một mối quan hệ đối tác mới toàn diện giứa
Á- Âu vì sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn của hai khu vực.
˗ Tháng 11/1998, Việt Nam đã chính thức được kết nạp trở thành thành viên
APEC. APEC diễn đàn kinh tế đầu tiên trong khu vực Châu Á Thái Bình
Dương bao gồm 21 nền kinh tế thành viên, trải ra trên bốn lục địa, đại diện cho
hơn 1/3 dân số trên thế giới (khoảng 2,5 tỷ người), trên 50% GDP khoảng
47% thương mại thế giới. APEC được thành lập nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong các nền kinh tế thành viên, tăng cường tinh thần cộng đồng
và các mối liên hệ trong khu vực vì sự thịnh vượng của nhân dân toàn khu vực.
˗ Ngày 13/07/2000 đại diện Chính phủ Hoa Kỳ Việt Nam đã hiệp định thương
mại song phương (BTA) tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ kinh tế -
thương mại giữa hai nước.
Trong giai đoạn này, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hóa bảo hộ mậu
dịch của Việt Nam trong chính sách thương mại quốc tế không có nhiều thay đổi so với
giai đoạn thăm hội nhập. Việt Nam vẫn theo đuổi một chiến lược công nghiệp hóa
không ràng. Việt Nam vừa muốn thực hiệp công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu vừa
muốn hướng vào xuất khẩu. Xuớng hướng vào xuất khẩu được ưu tiên hơn thể hiện
ở việc thông thoáng hơn thủ tục xuất khẩu và thủ tục nhập khẩu như bãi bỏ hầu hết các
giấy phép nhập khẩu chuyến o năm 1995, dỡ bỏ quyền kiểm soát buôn bán gạo vào
năm 1997, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp FDI. Kể
từ năm 1998, các doanh nghiệp FDI được xuất khẩu những hàng hóa không trong
giấy phép đầu tư. Năm 1993, Chính phủ cho phép nợ thuế đầu vào xuất khẩu. Các lệnh
cấm nhập khẩu tạm thời hàng tiêu dùng hay cấm nhập khẩu đường vào năm 1997 trong
chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam không hoàn toàn nhằm bảo hộ thị trường
nội địa.
2.2.3. Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-2006)
Trong giai đoạn này, Việt Nam có xu hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, ờng như mục
tiêu phương pháp công nghiệp hóa chưa được thống nhất giữa các cấp, các ngành dẫn
đến tình trạng đi theo chứ chưa chủ động hội nhập. Các danh mục hàng hòa và thuế xuất
nhập khẩu chủ yếu ban nh theo các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết với EU (Châu
Âu), ASEAN (hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), Hoa Kỳ, Canada. Một mặt, Việt
Nam đẩy mạnh xuất khẩu như cho phép xuất khẩu không hạn chế theo ngành nghề ghi
trong giấy phép kinh doanh vào năm 2001, ban hành danh mục biểu thuế ưu đãi hàng
năm, đàm phán ASEAN và ASEAN mở rộng cũng như ban hành quy trình xét miễn,
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
13
giảm hoàn thuế xuất khẩu nhập khẩu vào năm 2005, đẩy mạnh đàm phán. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết việc bảo hộ thị trường nội địa
cho một số ngành hàng như ô tô, sắt thép, điện tử,…
2.3. Giai đoạn 2006 - 2016
2.3.1. Việt Nam gia nhập WTO/TPP
Ngày 11-01-2007 một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của ớc ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng Chiến lược
hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến
hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch thông thoáng hơn, ban
hành nhiều luật các văn bản ới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa
thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm
tận dụng tốt các cơ hội vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập. Mặc dù chúng
ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét như việc liên kết doanh
nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; phát huy vai
trò của khu vực kinh tế vốn đầu nước ngoài trong việc thực hiện chính sách;
cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2015, hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình ơng TPP; Việt
Nam kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC).
Tham gia TPP, dù có những thách thức nhất định, song cũng là cơ hội để Việt Nam
đẩy mạnh hơn công cuộc cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi hình tăng trưởng cũng
như tận dụng tối đa những lợi ích mà TPP đem lại:
˗ Thứ nhất, mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt thị trường xuất khẩu nông
sản
˗ Thứ hai, hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới hội mở rộng đầu
˗ Thứ ba, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
˗ Thứ tư, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
14
2.3.2. Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong khoảng thời gian này ˗
Ưu điểm:
Tốc đtăng trưởng ngoại thương khá cao qua các năm cao hơn tốc độ tăng
trưởng của nền sản xuất xã hội, tăng quy mô kim ngạch xuất/nhập khẩu.
Thị trường ngày càng mở rộng chuyển tđơn thị trường sang đa thtrường.
Nền ngoại thương Việt Nam đã từng bước xây dựng được những mặt hàng có
quy lớn được thị trường thế giới chấp nhận n: dầu khí, gạo, thủy sản,
dệt may, giày dép… khai thác được lợi thế so sánh trong phân công lao động
và hợp tác quốc tế.
Nền ngoại thương Việt Nam đã chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế hạch toán kinh doanh, phát huy quyền tự chủ cho doanh nghiệp,
thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế hội cho hoạt động ngoại
thương.
Hạn chế:
Mặc cấu xuất khẩu đã sự thay đổi theo hướng tích cực trong thời gian
qua, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị
trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn
cao.
Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. Nhng mặt
hàng tốc độ tăng trưởng nhanh chiếm tỷ trọng lớn đều những mặt
hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng
khai thác (nhóm nông, thủy sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều
vào công nghệ nguyên liệu cũng như thị trường ớc ngoài do đó giá trị
gia tăng thấp (giày da và dệt may)…
Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp)
còn khá khiêm tốn, trong khi hàng chế khoáng sản vẫn còn chiếm tỷ
trọng lớn.
Sự chuyển dịch cấu xuất khẩu của ta nhìn chung chưa thật bền vng, còn
chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Đây một trong những hạn chế lớn nhất trong
cơ cấu xuất khẩu hiện nay. Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế
biến, xét về dài hạn, tăng trưởng xuất khẩu sẽ rất khó khăn. Với những
hạn chế nêu trên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung cấu xuất khẩu
nói riêng của chúng ta còn chưa vững chắc. cấu kinh tế như vậy sẽ chứa
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
15
đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá trình tăng trưởng. Việc tập trung quá lớn
vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng
thị trường mới, dẫn tới nguy tự chúng ta đánh mất thị trường, khó có thể
phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao.
Nguyên nhân:
˗ Công cụ và chính sách nhà nước còn thiếu sót ca thực sự cụ thể, điều này làm
cản trở không nhỏ cho cả nhà nước và các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.
˗ Quy nguồn vốn trong ớc còn nhỏ, trình độ công nghệ khoa học kỹ thuật
còn thấp, phương tiện máy móc sản xuất còn thô sơ.
˗ Trình độ nghiệp vụ ngoại thương nhiều cán bộ còn non yếu,chưa đáp ng kịp thời
yêu cầu của sự phát triển xã hội ngày một đổi mới tiên tiến và hiện đại hơn.
˗ Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại vẫn còn xảy ra và đang là vấn đề "quốc
nạn".
2.4. Giai đoạn 2016-2025
2.4.1. Tổng quan về chính sách thương mại quốc tế Việt Nam
Trong giai đoạn 2016 - 2025, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới, tham gia ngày càng nhiều o các quá trình hợp tác kinh tế khu vực thế giới.
Điều đó, một mặt sẽ tạo thêm xung lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong
thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam với các nền kinh tế trên thế giới. Mặt
khác, cũng đòi hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh quá trình i cấu trúc, đổi mới hình tăng
trưởng, cải thiện việc phân phối tài nguyên quốc gia, tăng năng suất các yếu tố tổng hợp
(TFP) và cải thiện năng lực cạnh tranh, tính linh hoạt của nên kinh tế...
Theo WTO, năm 2016 - 2018 năm hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đạt
được nhiều thành công, cả về quy mô và tốc độ. Đặc biệt là năm 2017, xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam xếp thứ 27 và nhập khẩu xếp thứ 25, chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 1,2%
trong tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa toàn thế giới.
Về thương mại trongớc: Thương mai trong ớc chuyển biến mạnh mẽ theo
chế thị trường. Hoạt động thương mại trong ớc, khách sạn, nhà hàng, du lịch
dịch vụ kể từ khi đổi mới đến nay đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Sản xuất phát
triển, đời sống của dân được cải thiện đã làm cho sức mua của các tầng lớp dân
tăng lên.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
16
Về thương mại quốc tế: Những bước điều chỉnh về chính sách thương mại đã đưa
nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay,
Việt Nam đã quan hệ thương mại với 224/255 quốc gia vung lãnh thổ trên thế giới.
Báo cáo Môi trường kinh doanh 2018 do Ngân hàng Thế giới công bố dự báo
Việt Nam đứng thứ 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017 (82/190 nền kinh
tế). Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động tham gia các tổ chức kinh tế - tài chính và các
hiệp định thương mại.
Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 10 FTA song phương và đa phương với các
đối tác trong khu vực trên thế giới, bao gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA) 5 FTA ASEAN +1 (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand;
4 FTA song phương giữa Việt Nam với Nhật Bản (VJEPA), với n Quốc (KVFTA),
với Chile (VCFTA) với Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEUFTA). Việt Nam cũng đã
bản kết thúc đàm phán FTA với EU, cùng ASEAN FTA với Hong Kong vào tháng
11/2017.
Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực, Hiệp
định Đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình ơng. Đến nay, có khoảng 60 nền
kinh tế đã đang đàm phán FTA với Việt Nam, bao gồm các đối tác thương mại chủ
chốt nắm giữ khoảng 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam.
Việc thực thi các FTA nói trên đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế, mở rộng
thị trường xuất khẩu, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, mạng lưới sản
xuất toàn cầu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ tri thức, kinh
nghiệm quản lý, tạo thêm nhiều việc làm…
Về mặt nhận thức, Việt Nam chưa thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại
quốc tế một cách hệ thống. Bộ Thương mại xem xét ới góc độ chính sách xuất nhập
khẩu. Bộ Tài chính xem xét dưới góc độ chính sách cạnh tranh. Từ đó, chính sách thương
mại quốc tế của Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, những
công việc mới phát sinh thường mất thời gian để quyết định ai sẽ thực hiện và thực hiên
như thế nào.
2.4.2. Dự báo thực trạng chính sách thương mại của Việt Nam trong những năm tới.
2.4.2.1. Ưu điểm
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
17
Theo báo cáo của Bộ phận phân tích thông tin (EIU) thuộc tạp chí Economist
(Anh) cho biết Việt Nam sẽ duy trì ổn định kinh tế trong giai đoạn 2016 - 2025 bất chấp
những biến động trong nước và quốc tế.
Về tổng thể trong cả giai đoạn này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự
báo mức 6,2-6,3%, duy trì được vị thế một trong những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh nhất trong khu vực. Về lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2025 cũng
sẽ luôn ở trong tầm kiểm soát.
Khu vực nông, lâm, thủy sản sẽ tiếp tục phục hồi, tuy nhiên cũng cần đẩy mạnh
hơn các giải pháp để giải quyết vấn đề tiêu thụ. Tăng trưởng toàn nền kinh tế có thể đạt
mức khá, khi cả ba động lực chính của tăng trưởng nông nghiệp, công nghiệp xây
dựng dịch vụ cùng được cải thiện. Nửa cuối năm 2017, vốn FDI được dự báo sẽ đạt
kết quả tích cực.
2.4.2.2. Nhược điểm
Dù đã phát triển tương đối nhanh trong thời gian vừa qua nhưng nhìn chung nền
kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế chậm phát triển.
Quy xuất nhập khẩu còn qnhỏ bé so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á.
Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump rút Mỹ ra khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP) khiến cho các mối giữa Mỹ và các quốc gia ở khu vực Châu Á giảm
đi đáng kể trong bối cảnh sự ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực ngày càng lớn.
Nó cũng đã sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới một số công ty tại Việt Nam.
Nếu lời đe dọa rút khỏi WTO của Mỹ thành hiện thực thì sẽ để lại tác động tiêu
cực và nghiêm trọng, gây ra sự bất ổn ngày càng lớn đối với thương mại Thế giới.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
18
PHẦN 3. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
3.1. Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do
hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Việc tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do
hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch về chính sách thương mại quốc tế là công việc liên
quan đến sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự thực thi của các cơ quan liên quan, đặc
biệt là các bộ ngành (trực tiếp là Bộ Công Thương).
Mục tiêu phù hợp nhất của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam là thúc
đẩy xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường
thế giới (và trong nước). Định hướng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam cần
chỉ ra những ưu tiên chính trong số nhiều ưu tiên của Chiến ợc phát triển kinh tế
hội. Định ớng chính sách cũng cần bao gồm các vấn đề như cách thức hỗ trợ các
ngành thay thế nhập khẩu những cam kết đảm bảo việc duy trì ổn định các chính sách
hỗ trợ. Tất cả những biện pháp này cần đặt trong một hệ thống được theo dõi, đánh giá
và điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi.
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá thương mại
(song phương, khu vực và đa phương) và bảo hộ có chọn lọc một số mặt hàng.
3.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế
3.2.1. Minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan
Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi cho
hàng hoá Việt Nam. Việc vận dụng linh hoạt biểu thuế hành động phù hợp với các
nguyên tắc quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần thực hiện
bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thay đổi
biên thuế trong điều kiện khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán phá giá là không vi phạm
với WTO. Hệ thống thuế của Việt nam đang được thay đổi theo hướng hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là một công cụ của chính sách thương mại quốc
tế, Việt Nam không những cần đảm bảo sự nghiêm túc trong thực hiện các cam kết
còn phải biết vận dụng linh hoạt công cụ này.
Bộ Tài chính, các bộ ngành các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch hoá
thông tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tăng
tính dự đoán trong việc điều chỉnh thuế. Đây là nội dung được ưu tiên trong số các giải
pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Trước hết việc cập nhật
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
19
những thông tin về những điều chỉnh thuế cần được tiếp tục đưa lên các trang web của
Quốc hội, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Tổng cục Hải quan các hiệp hội. Tiếp theo,
việc áp dụng điều chỉnh các loại thuế gián tiếp như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi
nhuận cần được soát để đảm bảo phục vụ mục tiêu phát triển ngành. Bên cạnh đó,
công tác tuyên truyền cho việc điều chỉnh thuế cần được quan tâm. Các hiệp hội cần
đóng vai trò cầu nối giữa các bộ ngành doanh nghiệp để đảm bảo nguyên tắc lấy
doanh nghiệp trung tâm trong quá trình hoàn thiện. Để đảm bảo thực hiện giải pháp
này, các hiệp hội phải chủ động đề xuất các diễn đàn hình thức trao đổi với Bộ Tài
chính, Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan. Các bộ ngành cần tích cực tham gia,
đảm bảo phân công trách nhiệm cho các bộ phận liên quan và tiến hành theo dõi đánh
giá công tác phối hợp này.
3.2.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan
Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia thành viên được quyền sử dụng hạn ngạch
thuế quan. Bộ Công thương cần xem xét sử dụng nhiều n công cụ này. Sự khác biệt
giữa mức thuế trong hạn ngạch và ngoài hạn ngạch thường rất lớn (thường gấp đôi).
Tuy nhiên, việc quyết định sử dụng hạn ngạch thuế quan cho mặt hàng nào không thể
chỉ phụ thuộc vào một tính toán về lợi thế so sánh hiện hữu đơn giản. Do đó, khi quyết
định lựa chọn mặt hàng thực hiện áp dụng hạn ngạch thuế quan, Bộ Công thương cũng
cần dựa trên phương pháp chuyên gia thực hiện lấy ý kiến từ doanh nghiệp trong
ngành.
Một thực tế Việt Nam ngày càng hạn chế sử dụng giấy phép nhập khẩu
lệnh cấm nhập khẩu. Lý do được đưa ra là các quy định này không phù hợp với các quy
định của WTO các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, kinh nghiệm
thế giới cho thấy không quốc gia nào bỏ hoàn toàn hai công cụ này. Malaysia thậm chí
còn tăng cường việc cấp giấy phép nhập khẩu khi đã trở thành thành viên của WTO.
Việt Nam không “tăng ờng” nng cũng không nên loại bỏ hoàn toàn việc cấp giấy
phép nhập khẩu, đặc biệt là khi Việt Nam cần tiếp tục bảo hộ một số ngành trong ớc
(ví dụ như thép xây dựng, hoa quả, thực phẩm, đồ chơi trẻ em..).
Các thành viên WTO vận dụng việc sử dụng giấy phép lệnh cấm với nhiều do như
bảo về ngành công nghiệp, bảo vệ sức khoẻ, môi trường, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng,
bảo vệ các di sảnvà truyền thống văn hoá. Để sdụng hiệu quả việc cấp giấy phép
nhập khẩu, Bộ Công thương cần phối hợp với các bộ chuyên ngành, cộng đồng doanh
nghiệp.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
20
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, chính
sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt Nam trong thời
gian vừa qua cho phù hợp với các quy định liên quan đến trợ cấp xut khẩu và thương
mại liên quan đến đầu tư (TRIMS) và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm phán gia
nhập WTO. Chính sách về hỗ trợ lãi suất, thưởng xuất khẩu thuộc loại trợ cấp bị cấm
trong khuôn khổ WTO nên trong ơng lai không thể tiếp tục áp dụng. Việc hỗ trợ các
hoạt động thương mại (xúc tiến thương mại) được coi là các loại trợ cấp đèn vàng. Tuy
nhiên, khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam thể được ng chế độ ưu đãi
(tiếp tục duy trì khuyến khích xuất khẩu) vì là ớc đang phát triển có GNP đầu người
thấp.
Những quy định về mua sắm của chính phủ cần được xem như là một công cụ cụ
của chính sách thương mại quốc tế. Trong khuôn khổ WTO, các quy định về mua sắm
của chính phủ sẽ bị coi hàng o phi thuế quan nếu tạo ra sự phân biệt đối xử giữa
hàng hoá trong ớc hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với các nước đang thực
hiện công nghiệp hoá, các quy định về mua sắm của Chính phủ có thể là công cụ tốt đ
Chính phủ hỗ trợ khu vực sản xuất trong nước. Việc sdụng các quy định về mua sắm
của Chính phủ như là một công cụ của chính sách thương mại quốc tế cần thể hiện thực
hiện tốt các quy định của Luật đấu thầu, trong đó đặc biệt chú ý đến việc thực hiện minh
bạch hoá các quy định này.
Bộ công thương nên mở rộng đối ợng chủ trì chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm quốc gia bao gồm cả doanh nghiệp nhân, doanh nghiệp vốn đầu ớc
ngoài.
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng
và rào cản thương mại đầy đủ và dễ truy cập
Cụ thể, Bộ Công thương cần xây dựng một hệ thống thông tin về các biện pháp
phi thuế, về phá giá và chống bán phá giá; xây dựng cơ chế cảnh báo về khả năng tranh
chấp hay bị kiện phá giá và chống bán phá giá, dự kiến những mặt hàng có khả năng bị
các quốc gia bạn hàng áp dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt kiện pgiá; xây dựng
cách thức tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra giải quyết tranh chấp trong khuôn
khổ WTO cũng n thủ tục ở các quốc gia bạn hàng. Việt Nam cũng cần tích cực tham
gia vào các diễn đàn của các nước đang phát triển để xây dựng một cơ chế chống bán
phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO. Các hiệp hội ngành hàng cần phối hợp với
các bộ ngành hoàn thiện sở dữ liệu thông tin về các thị trường, ngành hàng và các rào
cản thương mại ở các thị trường được lựa chọn.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
21
3.3. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế giữa các bộ
ngành và cộng đồng doanh nghiệp
Khi trở thành thành viên của WTO, sự tham gia của các doanh nghiệp các hiệp
hội doanh nghiệp vào qtrình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cần được thay
đổi. Các doanh nghiệp tham gia rất hiệu quả vào quá trình hoàn thiện chính sách thương
mại quốc tế ở Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ. Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy đã có sự
tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình hoạch định và hoàn thiện chính sách.
Tuy nhiên, kết quả thu được không có tính chất hệ thống và không có trọng tâm. Trong
quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam rất cần sự tham gia của
doanh nghiệp, đặc biệt khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Những doanh nghiệp
này cần được mời thường xuyên tới các cuộc họp lấy ý kiến từ các kết quả nghiên cứu
và gợi ý chính sách cho Bộ Công thương và các bộ ngành, cho Uỷ ban quốc gia về hợp
tác kinh tế quốc tế.
lOMoARcPSD|36242 669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
22
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, sau 3 năm gia nhập WTO, mặc dù còn nhiều khó khăn trước
mắt, nhưng nền kinh tế Việt nam đã vượt qua được những thách thức, rút ra được những
bài học bổ ích để từng bước phát triển bền vững. Gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt
Nam nhiều hội tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, vật , nguyên
liệu hội xuất khẩu sản phẩm do thị trường được mở rộng không bị phân biệt
đối xử. Môi trường kinh doanh được cải thiện một cách rõ rệt, minh bạch hơn nhờ thực
thi các cam kết về minh bạch hóa chính sách, không phân biệt đối xử, giảm bớt rào cản
trong tiếp cận thị trường và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, nhận thức của
người dân các doanh nghiệp về việc tham gia WTO đã sự chuyển biến tích cực.
Việt Nam trở thành nơi hấp dẫn các nhà đầu nước ngoài vào một số ngành như điện
tử, tin học, dệt may, luyện cán thép, ngân hàng, tài chính bảo hiểm, bất động sản ...
Bên cạnh những kết quả tích cực đó, trong ba m đầu tiên gia nhập WTO, các khó
khăn, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam cũng đã hiện ra dần rõ nét. Tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới đến kinh tế Việt Nam đã cho chúng
ta thấy mức độ dễ bị tổn thương của nền kinh tế ớc ta. Đây dịp để chúng ta nhìn
nhận lại một cách nghiêm túc những hạn chế của chúng ta trong một loạt các vấn đề liên
quan đến chính sách kinh tế hoạt động quản nhà nước, để qua đó phấn đấu thực
hiện tốt hơn trong năm 2010, từ công tác phân tích, dự báo tình hình biến động của thị
trường hàng hoá, dịch vụ, giá cả; tới công tác điều nh quản hoạt động xuất nhập
khẩu; từ chính sách thắt chặt tiền tệ để đối phó với lạm phát, nhưng không gây khó khăn
cho các doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn; công tác xây dựng chiến lược quy
hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế; tổ chức
thực hiện nghiêm túc, đồng thời khai thác có hiệu quả những cam kết quốc tế về thương
mại đầu ; thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh
hội… Để nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới tạo nền
tảng để kinh tế Việt Nam phát triển bền vững trong tương lai thì chính sách phát triển
thương mại của Việt Nam cũng cần phải có nhiều sự thay đổi tích cực hơn nữa.

Preview text:

lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG BÀI TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
GVHD: NGUYỄN THỊ VÂN NGA
MÔN HỌC: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Hà Nội - 2018 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga MỤC LỤC PHẦN 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .....................1
1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại
quốc tế..............................................................................................................1
1.2. Nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế..............................................1
1.3. Các hình thức của chính sách thương mại quốc tế.......................................2
1.3.1. Chính sách mậu dịch tự do.........................................................................2
1.3.2. Chính sách bảo hộ mậu dịch......................................................................2
1.4. Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế.....................................3
1.4.1. Nguyên tắc tương hỗ..................................................................................3
1.4.2. Nguyên tắc ngang bằng dân tộc.................................................................3
1.4.3. Nguyên tắc tối huệ quốc.............................................................................4
PHẦN 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
QUA TỪNG GIAI ĐOẠN...........................................................................................5
2.1. Giai đoạn 1975-1986.......................................................................................5
2.1.1. Thời kỳ thống nhất đất nước đến đầu công cuộc đổi mới (1975-
1979)..........................................................................................................5
2.1.2. Trong thời kỳ tiền đổi mới (1979-1986)......................................................8
2.2. Giai đoạn 1986-2006......................................................................................11
2.2.1. Giai đoạn thăm dò hội nhập (1986-1991)................................................11
2.2.2. Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000).............................................11
2.2.3. Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-2006)...........................................13
2.3. Giai đoạn 2006- 2016....................................................................................13
2.3.1. Việt Nam gia nhập WTO/TPP..................................................................13
2.3.2. Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong khoảng thời
gian này...................................................................................................14
2.4. Giai đoạn 2016-2025.....................................................................................15
2.4.1. Tổng quan về chính sách thương mại quốc tế Việt Nam...........................15
2.4.2. Dự báo thực trạng chính sách thương mại của Việt Nam trong
những năm tới..........................................................................................17 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga PHẦN 3.
GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ.................................................................................................18
3.1. Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan
hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch....................................18
3.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại
quốc tế............................................................................................................18
3.2.1. Minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan........................18
3.2.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan.......................19
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và
rào cản thương mại đầy đủ và dễ truy cập...............................................20
3.3. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế
giữa các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp...............................................21 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007 là một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của nước ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay
vào xây dựng Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện các cam kết khi gia
nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh
bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện
các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp
cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong
quá trình hội nhập. Mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem
xét như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương
mại quốc tế; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc
thực hiện chính sách; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại
quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phải
được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành của
thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam. Vì vậy, việc xem xét và điều
chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc góp phần đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về
cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020. lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .
1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và
hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa
lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn
trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người, tầm
quan trọng kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong
vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công
nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân
lực bên ngoài. Việc tăng cường thương mại quốc tế thường được xem như ý nghĩa cơ
bản của "toàn cầu hoá".
Chính sách thương mại quốc tế là các quan điểm, nguyên tắc, biện pháp thích hợp
của một nước dùng để điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của nước đó trong một
thời gian nhất định, nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội của nước đó.
1.2. Nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế
Môi trường kinh tế thế giới chịu sự chi phối và tác động của nhiều mối quan hệ
chính trị và các mục tiêu phi kinh tế khác cho nên chính sách thương mại quốc tế của
mỗi quốc gia cũng phải đáp ứng cho nhiều mục tiêu khác nhau. Nhiệm vụ của chính
sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia có thể thay đổi theo mỗi thời kỳ nhưng đều
có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt đông thương mại quốc tế theo chiều hướng có
lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nhiệm vụ này thể hiện trên 2 mặt sau đây:
Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị
trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và thương mại
quốc tế, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.
Hai là, bảo vệ thị trường nội địa , tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, chính sách thương mại quốc tế bao gồm nhiều bộ
phận khác nhau và có liên quan hữu cơ với nhau: chính sách mặt hàng, chính sách thị
trường và chính sách hỗ trợ. 1.3.
Các hình thức của chính sách thương mại quốc tế 1 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
1.3.1. Chính sách mậu dịch tự do
Là hình thức chính sách thương mại trong đó Nhà nước không can thiệp trực tiếp
vào quá trình điều tiết ngoại thương, mà mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa cho hàng
hóa được tự do lưu thông giữa trong và ngoài nước tạo điều kiện cho thương mại quốc
tế phát triển trên cơ sở quy luật tự do cạnh tranh. Đặc điểm:
Nhà nước không sử dụng các công cụ để điều tiết XK và NK
Quá trình XK và NK được tiến hành một cách tự do
Quy luật tự do cạnh tranh và các quy luật kinh tế của thị trường điều tiết sự
hoạt động của sản xuất , hoạt động tài chính và thương mại trong nước.
Tự do tiếp cận thị trường
Cơ sở khách quan của chính sách:
Những lơi ích to lớn của TM đối với phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia
Do đòi hỏi khách quan của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế Ưu nhược điểm: Ưu điểm:
Thúc đẩy cạnh tranh trong nước
Tạo điều kiện để phân bổ hiệu quả các nguồn lực trog nước
Tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồnlực từ bên ngoài
Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu
Mang lại lợi ích cho người tiêu dùng Nhược điểm:
Những ngành sản xuất trong nước chưa đủ sức cạnh tranh sẽ bị phá sản
Nền kinh tế trong nước dễ bị ảnh hưởng xấu bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1.3.2. Chính sách bảo hộ mậu dịch
Là hình thức chính sách thương mại trong đó nhà nước áp dụng nhiều biện pháp
cần thiết để bảo vệ thị tường nội địa, bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh
của hàng hóa NK từ nước ngoài Cơ sở khách quan của chính sách:
˗ Xuất phát từ sự khác biệt từ trình độ phát triển kinh tế và khả năng cạnh tranh
của hàng hóa, dịch vụ giữa các nước. 2 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
˗ Sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các ngành trong nền kinh tế quốc gia.
Công cụ sử dụng trong bảo hộ mậu dịch: Thuế quan Hạn ngạch nhập khẩu
Rào cản về thủ tục hành chính
Luật chống bán phá giác
Trợ cấp sản xuất trong nước Trợ cấp xuất khẩu
Quy định về tỉ giá hối đoái Ưu nhược điểm: Ưu điểm:
Giảm bớt áp lực cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài, giúp nền sản xuất trong
nước phát triển ổn định
Thông qua việc đánh thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước
Góp phần quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ của quốc gia Nhược điểm:
Không tạo ra môi trường cạnh tranh nên sản xuất kém hiệu quả
1.4. Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế
1.4.1. Nguyên tắc tương hỗ
Theo nguyên tắc này, các bên dành cho nhau những ưu đãi và đãi ngộ tương tự
nhau trong quan hệ ngoại thương. Mức độ ưu đãi và đãi ngộ của các quốc gia khác nhau
phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế của mỗi quốc gia. Việc áp dụng nguyên tắc này thường
gây bất lợi cho bên yếu hơn và mang tính phân biệt đối xử với nước thứ ba
1.4.2. Nguyên tắc ngang bằng dân tộc
Nếu giữa 2 nước ký hiệp định thương mại dựa trên nguyên tắc ngang bằng dân
tộc, nguyên tắc này cho phép công dân, công ty của các bên tham gia trong quan hệ
ngoại thương được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ như nhau , có nghĩa là công dân
của 1 nước khi sinh sống ở nước đối tác và các công ty có trụ sở ở nước đối tác sẽ được
hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ như công dân và công ty nước đối tác và ngược
lại. Thực tế áp dụng nguyên tắc này cho thấy các nước công nghiệp phát triển thường 3 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
bao giờ cũng chiếm vị trí thuận lợi hơn so với các nước kém phát triển. Vì vậy, nguyên
tắc này đôi khi trên thực tế chỉ mang tính hình thức.
1.4.3. Nguyên tắc tối huệ quốc
Theo nguyên tắc này, các bên tham gia buôn bán với nhau sẽ dành cho nhau những
điều kiện ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình đã, đang và sẽ dành cho nước
thứ ba. Nguyên tắc này thường dùng trong hai trường hợp sau:
˗ Tất cả những ưu đãi mà một bên đã, đang và sẽ dành cho một nước thứ ba nào
khác cũng sẽ được dành cho bên tham gia kia hưởng một cách vô điều kiện.
˗ Hàng hóa, dịch vụ di chuyển từ một bên tham gia đưa vào lãnh thổ nước đối tác
sẽ không chịu mức thuế quan cao hơn và chịu các thủ tục phức tạp hơn so với
hàng hóa và dịch vụ vào nước đối tác từ nước thứ ba
˗ Nguyên tắc này lần đầu được Mỹ áp dụng trong buôn bán với Pháp năm 1778,
sau đó mở rộng ra với Anh, Nhật Bản, Đức. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc
này rộng hay hẹp tùy thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa các nước tham gia.
Nguyên tắc MFN được phân thành hai loại:
MFN có điều kiện là nước được hưởng quy chế MFN phải chấp nhận tuân
theo các điều kiện kinh tế và chính trị do nước đối tác đưa ra
MFN vô điều kiện là nước được hưởng quy chế này không phải tuân theo bất
kỳ một điều kiện ràng buộc nào cả. PHẦN 2.
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ QUA TỪNG GIAI ĐOẠN
2.1. Giai đoạn 1975-1986
2.1.1. Thời kỳ thống nhất đất nước đến đầu công cuộc đổi mới (1975- 1979) 2.1.1.1.
Cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam
Thị trường miền Nam trước giải phóng mang tính chất thị trường tư bản chủ nghĩa
và tương đối phát triển, có quan hệ gắn bó với nhiều nước tư bản thế giới và khu vực.
Tư sản mại bản là thế lực phản động nhất trong giai cấp tư sản ở miền Nam, có lợi ích
gắn bó với chủ nghĩa đế quốc, hoạt động kinh doanh làm giàu, lũng đoạn thị trường và
phục vụ cho guồng máy chiến tranh của Mỹ - Ngụy. Hệ thống độc quyền lũng đoạn thị
trường của tư sản mại bản được tổ chức tinh vi và chặt chẽ trong các khâu trọng yếu: Từ
xuất, nhập khẩu, thu mua nguyên liệu, sản xuất, chế biến, vận chuyển đến nắm quyền
bán buôn, khống chế bán lẻ hoặc ít nhất cũng nắm độc quyền làm tổng đại lý tiêu thụ 4 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
hàng hoá, chi phối tư sản thương nghiệp và lực lượng tiểu thương làm mạng lưới tiêu
thụ bán lẻ cho chúng. Giai cấp tư sản mại bản do nắm giữ một khối lượng lớn tài sản và
hàng hoá trong tay nên vẫn tiếp tục thao túng thị trường miền Nam sau ngày giải phóng,
gây ra những vụ đầu cơ, làm ăn phi pháp, làm mất ổn định đời sống kinh tế - xã hội.
Tình hình đó đòi hỏi phải nhanh chóng xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản. Chủ trương đó
là hoàn toàn đúng đắn và đã được Nhà nước ta thi hành ở các thành phố lớn miền Nam
vào những tháng cuối năm 1975 và năm 1976.
Thời gian đầu sau giải phóng, thị trường miền Nam lưu hành 3 loại tiền khác
nhau: tiền của chế độ Sài Gòn cũ, tiền của Chính phủ cách mạng lâm thời và tiền của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Lúc đầu, Nhà nước chủ trương tạm thời hạn chế việc
buôn bán giữa hai miền. Đến năm 1976, nhu cầu giao lưu hàng hoá giữa 2 miền Nam
Bắc ngày càng tăng lên, quan hệ đó đòi hỏi phải được mở rộng. Vì vậy, những hạn chế
buôn bán ban đầu đã được Nhà nước xoá bỏ dần trong thời gian sau đó.
Từ hoàn cảnh chiến tranh chuyển sang hoà bình, nhu cầu về tiêu dùng của các
tầng lớp dân cư trong xã hội cũng khác trước về cơ bản. Điều đó đòi hỏi hoạt động của
thương mại phải có sự thích ứng nhanh chóng với điều kiện mới của thị trường, mở rộng
kinh doanh với những phương thức tiến bộ, hàng hoá phong phú với chất lượng bảo đảm.
Ngay sau giải phóng, hàng vạn cán bộ ngành Thương mại, bao gồm Nội thương,
Ngoại thương và Vật tư đã được điều động cho miền Nam. Trong đó có nhiều cán bộ
cốt cán đã được giao nhiệm vụ khẩn trương xây dựng khung các cơ quan quản lý cấp
Sở, Ty để vào tiếp quản và xây dựng mạng lưới thương mại ở các thành phố, các tỉnh
phía Nam. Tháng 5/1975, Tổng Nha Nội thương ra đời và ngày 26/5/1975 thành lập Sở
Thương nghiệp thành phố Sài Gòn mới giải phóng. Tiếp sau đó là các Sở Thương nghiệp
của các tỉnh, thành phố khác cũng được thành lập. Đến cuối năm 1976, đã thành lập
được 2 tổng công ty và 10 công ty thương nghiệp bán buôn toàn miền Nam, gần 60 công
ty thương nghiệp tỉnh với trên 500 cửa hàng. Giao lưu hàng hoá giữa 2 miền Nam – Bắc
dần được khai thông và không ngừng phát triển. 2.1.1.2.
Nội thương và ngoại thương từng bước phát triển
Lực lượng thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng và lực lượng hợp
tác xã tuy mới thời kỳ đầu xây dựng, nhưng đã từng bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường,
nhờ đó đã hạn chế được ở mức độ nhất định nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn giá cả thị trường. 5 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
Cũng cần nhớ lại rằng, những năm đầu sau giải phóng, công tác phân phối lưu
thông gặp rất nhiều khó khăn. Thương nghiệp quốc doanh tuy phát triển nhanh, nhưng
còn yếu. Chưa có nhiều hàng hoá, kể cả hàng nông sản - thực phẩm và hàng công nghiệp
tiêu dùng. Phương thức mua vào, bán ra còn lúng túng, gò bó. Các tổ chức thương nghiệp
hợp tác xã đang thời kỳ đầu xây dựng, chưa đủ sức hỗ trợ cho thương nghiệp quốc doanh
thu mua nắm nguồn hàng, phân phối bán lẻ và chi phối thị trường. Việc tổ chức quản lý
thương nghiệp tư nhân còn bị buông lỏng. Việc theo dõi nắm tình hình thị trường chưa
cụ thể và sát sao, do đó chưa kịp thời đối phó và ngăn chặn được các thủ đoạn phi pháp của bọn gian thương.
Đầu năm 1978, Nhà nước thực hiện việc đổi tiền lần thứ 2 để thống nhất tiền tệ
trong cả nước, tạo tiền đề thống nhất thị trường hai miền và công tác lãnh đạo hoạt động
thương mại trong cả nước cùng có điều kiện tập trung thống nhất từ Trung ương. Thương
nghiệp quốc doanh đã từng bước vươn lên dành lấy vị trí chủ đạo. Giao lưu hàng hoá
giữa hai miền không ngừng được tăng cường và bổ sung cho nhau, mỗi năm càng thêm phát triển.
Hoạt động buôn bán đối ngoại trong bối cảnh đất nước thống nhất cũng có những
thuận lợi mới. Từ đó, chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác tiềm năng của cả nước
về thiên nhiên cũng như lao động để đẩy mạnh xuất nhập khẩu.
Những năm 1976-1978, tình hình kinh tế đối ngoại nói chung và ngoại thương
nói riêng diễn ra tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, từ cuối năm 1978 trở về sau, tình hình
diễn biến có nhiều khó khăn phức tạp. Mỹ và một số nước khác đã có thái độ thù địch
với nhân dân ta, thực hiện chính sách cấm vận, phân biệt đối xử. Họ ngừng viện trợ và
đầu tư vào Việt Nam, ngừng các khoản tín dụng đã cam kết, thậm chí có nước có hành
vi phá hoại nền kinh tế của nước ta. Trong lúc đó lại xảy ra cuộc chiến tranh ở biên giới
Tây - Nam và phía Bắc, làm cho đất nước ở trong tình trạng vừa có hoà bình, vừa có
chiến tranh, gây khó khăn và mất cân đối nhiều mặt cho nền kinh tế. Thị trường biến
động, giá cả hàng hoá tăng nhanh. Bên cạnh đó, quản lý kinh tế cũng như quản lý thương
mại vẫn giữ cung cách của thời kỳ chiến tranh, mang nặng tính chất quan liêu bao cấp, tỏ ra kém hiệu quả.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn to lớn từ phía khách quan cũng như chủ quan, song
điều đó cũng không hoàn toàn cản trở nền kinh tế của ta phát triển.
Năm 1977-1978, hai năm liền nông nghiệp cả 2 miền gặp thiên tai nặng nề, công
tác thu mua nắm nguồn hàng của thương mại không đạt yêu cầu. Công nghiệp thiếu
nguyên liệu, vật tư, nhiên liệu. Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 2 (1976- 1980) đạt 6 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
mức thấp, quỹ hàng hoá của Nhà nước không đáp ứng nhu cầu, nhiều mặt hàng thiết yếu
chỉ bảo đảm cung cấp được khoảng 50% tiêu chuẩn định lượng được phân phối bằng
tem phiếu. Trong điều kiện thiếu hàng như vậy, ngành Thương mại đã cố gắng tập trung
được một lượng hàng cần thiết để ưu tiên cung cấp cho khu vực trực tiếp sản xuất, phục
vụ lực lượng chiến đấu, một phần cho cán bộ công nhân viên.
Ở miền Nam, số người làm nghề bán buôn và dịch vụ tăng nhanh. Tư thương nắm
quyền chi phối nhiều loại hàng hoá tiêu dùng. Nhìn chung, vào thời điểm đó, thương
nghiệp quốc doanh đã không làm chủ được thị trường hàng nông sản – thực phẩm.
Đối với hàng tiêu dùng bán lẻ cung cấp, thương nghiệp quốc doanh đã trở thành
kho hàng phân phối theo định lượng, ngân sách phải bù lỗ nặng nề. Giá hàng công nghiệp
cũng để bất động kéo dài, nhất là hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng nhập khẩu phục vụ
sản xuất. Mức giá trong nước đối với hàng nhập khẩu không bù được giá vốn. Cơ chế
thu bù chênh lệch ngoại thương đã làm cho ngân sách Nhà nước bù lỗ xuất khẩu ngày một tăng lên.
Hoạt động xuất nhập khẩu trì trệ, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề kéo
dài. Hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế kế hoạch tập trung, Nhà nước độc quyền
ngoại thương, thị trường chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa với cơ chế nghị định thư.
Cả nước chỉ có khoảng 30 đơn vị, công ty nhà nước hoạt động xuất, nhập khẩu, với tổng
kim ngạch xuất, nhập khẩu rất thấp (bình quân xuất khẩu theo đầu người chỉ ở mức dưới
10 Rúp/USD, trong đó 70% kim ngạch xuất khẩu thuộc khu vực đồng Rúp). Vì vậy luôn
gây sức ép phải hạn chế các nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư nguyên liệu, hàng tiêu
dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mà ở thời kỳ
này, hầu hết các mặt hàng cung ứng cho thị trường trong nước phải thông qua nhập khẩu.
Cân đối tiền – hàng và cung – cầu một số mặt hàng thiết yếu bị mất cân đối nghiêm trọng.
Trong hệ thống kế hoạch pháp lệnh, cơ chế kết hối ngoại tệ được thực hiện theo
giá kết toán nội bộ với giá trị của đồng Việt Nam cao gấp nhiều lần so với giá trị thực;
sự xơ cứng trong việc định giá vật tư, nguyên liệu, hàng hoá xuất, nhập khẩu; các tổng
công ty xuất nhập khẩu được phân công theo ngành hàng không gắn nhập khẩu với xuất
khẩu; ngân sách hàng năm phải chi ra một khoản tiền lớn để bù lỗ cho hoạt động xuất, nhập khẩu.
Trên bình diện quốc tế, từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, thế giới
diễn ra những biến đổi to lớn. Trước âm mưu “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế
quốc, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, xu thế toàn 7 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
cầu hoá kinh tế, chạy đua về kinh tế, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản có nhiều diễn biến phức tạp. Điều đó đã đặt hệ thống xã hội chủ nghĩa trước
những thách thức mới. Việc vượt qua thách thức đó lại diễn ra trong bối cảnh hầu hết
các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Trong khi đó, các nước tư bản chủ nghĩa, tuy cũng phải đối phó với những nguy cơ mới,
nhưng do có sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt là đã sử dụng được những thành quả của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên đã vượt qua được khó khăn, kinh
tế có bước tăng trưởng đáng kể.
Với bối cảnh trong nước và quốc tế như trên, đòi hỏi tất yếu muốn tồn tại và
phát triển thì phải có một cuộc cải cách thật sự trên tất cả các lĩnh vực của đất nước.
Đó chính là đường lối Đổi mới mà Đảng ta khởi xướng tại Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986.
2.1.2. Trong thời kỳ tiền đổi mới (1979-1986) 2.1.2.1.
Hội nghị trung ương 6 khóa IV
Có thể coi Hội nghị trung ương 6 khoá IV (tháng 8/1979) với chủ trương và quyết
tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước
ta. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong
quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách
kinh tế; phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển; ổn định nghĩa vụ lương thực
trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do; khuyến khích
mọi người tận dụng ao, hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi
hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để
khuyến khích sản xuất; sửa lại hệ thống phân phối trong hệ thống hợp tác xã nông
nghiệp, bỏ phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người
lao động… Trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng
tiêu dùng và xuất khẩu, điều chỉnh một số chính sách không còn phù hợp; cải tiến các
chính sách lưu thông, phân phối (giá, lương, tiền, tài chính, ngân hàng); đổi mới công
tác kế hoạch hoá, kết hợp với thị trường; kết hợp 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể, cá nhân người lao động.
Những chủ trương đó nhanh chóng được nhân dân trong cả nước đón nhận và
biến thành hành động thực tế trong thực tiễn cuộc sống. Đầu những năm 80 của thế kỷ
XX, có địa phương đã thực hiện thí điểm mô hình theo cơ chế: “mua cao, bán cao” thay
cho “mua cung, bán cấp”; bù giá vào lương; được phép thí điểm hình thức khoán, mở 8 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời.
Trên lĩnh vực công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của cơ sở trong sản
xuất, kinh doanh, với chủ trương “ba phần kế hoạch” (phần Nhà nước giao có vật tư bảo
đảm, phần Xí nghiệp tự làm, phần sản phẩm phụ) theo Quyết định 25/CP, ngày
21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình
thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn
vị sản xuất, kinh doanh được áp dụng.
Trên lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, vấn đề sử dụng các thành phần kinh tế đã
được đặt ra; từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất
thích hợp; chính sách đối với kinh tế cá thể từng bước được điều chỉnh cho đúng thực tế
hơn; nhấn mạnh chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, mệnh lệnh, làm ồ ạt, gây thiệt hại
cho sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam
xảy ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa đủ thời gian để những chủ trương
đổi mới phát huy tác dụng, trong khi đó, nhiều chỉ tiêu cơ bản do Đại hội IV đưa ra lại
quá cao so với thực tế, nên không thực hiện được. Nền kinh tế tiếp tục ở trạng thái trì
trệ, sa sút; đời sống nhân dân có nhiều khó khăn.
Trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, cũng vẫn có khuynh hướng muốn
quay lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12/1983) vẫn
xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của
tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, và chủ trương phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về
lương thực và các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá; bảo đảm cung cấp
đủ 9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn lương; lập các cửa hàng cung cấp…
Điều này cho thấy, sự đổi mới tư duy là không đơn giản; quan niệm cũ về cải tạo xã hội
chủ nghĩa còn ăn sâu, bám rễ vào nhiều người. Trên thực tế, khủng hoảng kinh tế - xã
hội ngày một nghiêm trọng, đời sống nhân dân, nhất là người làm công ăn lương ngày
càng khó khăn. 2.1.2.2. Hội nghị trung ương 8 khóa V
Hội nghị trung ương 8 khoá V (6/1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ
trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá;
xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh sang cơ chế hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa. 9 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
Tháng 9/1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền được thực hiện. Do vẫn còn
tư tưởng chủ quan duy ý chí, cuộc tổng điều chỉnh này đã làm cho “giá cả thị trường có
nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không tốt đến nhiều hoạt động kinh tế - xã hội”.
Lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Sự chênh lệch giữa giá và lương, giữa lương danh
nghĩa và lương thực tế quá lớn. Chính vì vậy, đầu năm 1986, lại phải lùi một bước: thực
hiện chính sách 2 giá. Trên mặt trận phân phối, lưu thông, lạm phát vẫn ở mức 3 con số
trong nhiều năm, đỉnh cao là 774,7% năm 1986. Lưu thông tiền tệ cuối năm 1984 bằng 8,4 lần cuối năm 1980.
Tháng 8/1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội
VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh
tế. Trong đó xác định: trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng
đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện
cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) là Đại hội mang tính
lịch sử, tạo ra bước ngoặt cực kỳ quan trọng cho đất nước. Tại Đại hội này, Đảng ta đã
đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới tư duy, đối mới tổ chức - cán bộ,
đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đã đề ra ba Chương trình
kinh tế lớn là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là mũi
nhọn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới; đồng thời chủ trương kiên quyết xoá bỏ
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những
biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ tình trạng ngăn sông,
cấm chợ, chia cắt thị trường; lập lại trật tự kỷ cương; giữ ổn định chính trị, xã hội, từng
bước cải thiện đời sống nhân dân.
2.2. Giai đoạn 1986-2006
Trước năm 1986 quan điểm hội nhập của Đảng đã được thể hiện trong Nghị quyết
Đại hội Đảng IV và V, nhưng chủ yếu là hội nhập vào cộng đồng các nước xã hội chủ
nghĩa với tổ chức Hội đồng tương trợ kinh tế Châu Âu. Tuy nhiên, khối cộng đồng kinh
tế các nước xã hội chủ nghĩa dựa trên phân công lao động giữa các nước trong khối và
việc trao đổi hàng hóa không dựa trên nguyên tắc thị trường, không chịu sức ép của sự
cạnh tranh gay gắt của các quy luật thị trường. Do trình độ công nghệ và quy mô sản
xuất của Việt Nam chưa cao nên mức độ và quy mô hội nhập của Việt Nam vào khối các
nước xã hội chủ nghĩa chưa sâu và chưa toàn diện. Việc hội nhập vào cộng đồng quốc 10 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
tế còn hạn chế vì đây là thời gian chiến tranh lạnh giữa hai khối: tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa nên Việt Nam khó hội nhập vào khối cộng đồng quốc tế. Vì vậy, thực tiễn
của đất nước đòi hỏi phải hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.
2.2.1. Giai đoạn thăm dò hội nhập (1986-1991)
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa không rõ ràng nhưng
có xu hướng thay thế nhập khẩu và cởi bỏ dần các hạn chế xuất khẩu, thực hiện hoàn
thiện các chính sách tài chính, thuế như mở cửa sàn giao dịch ngoại hối vào năm 1991,
ban hành thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, thuế lợi nhuận vào năm 1990.
Chính sách xuất nhập khẩu và các quy định về thương mại được thông thoáng
hơn theo đó các doanh nghiệp tư nhân được trực tiếp tham gia vào thương mại quốc tế
vào năm 1991 và thành lập các khu chế xuất. Tuy nhiên, một số hàng hóa vẫn bị giới
hạn xuất khẩu ở một sô ít công ty và các tổng công ty xuất khẩu vẫn phải đăng ký nhóm
hàng hóa xuất khẩu với cơ quan quản lý nhà nước.
2.2.2. Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000)
Tính đến năm 2000, các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế ở Việt
Nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Chính sách thương mại quốc tế của
Viêt Nam có xu hướng thay thế nhập khẩu. Đặc điểm nổi bật trong việc hoàn thiện chính
sách thương mại quốc tế của Việt Nam ở giai đoạn này là không có một lịch trình giảm thuế cụ thể.
Việt Nam đã tìm mọi cách để mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tăng cường
trao đổi thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, ký kết nhiều hiệp định song phương, đa
phương liên quan đến hội nhập quốc tế, cụ thể là:
˗ Tháng 10/1993, Việt Nam đã thiết lập quan hệ bình thường với IMF, WB, ADB.
Các nhà tài trợ quốc tế thông qua Câu lạc bộ Paris và Câu lạc bộ London đã cam
kết cho Việt Nam vay ưu đãi và thảo luận việc xóa các khoản nợ cho Việt Nam.
˗ Tháng 10/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập ASEAN và tháng 7/1995 Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN, chấp nhận các nguyên tắc,
quy định của tổ chức kinh tế khu vực này.
˗ Tháng 12/1994, Việt Nam đã gừi đơn xin gia nhập WTO và tháng 01/1995 WTO
chính thức nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam để tiến hành đàm phán cụ thể.
˗ Tháng 06/1996, Việt Nam tham gia thành lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM).
ASEM là một diễn đàn đối thoại không chính thức hoạt động theo nguyên tắc 11 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
đồng thuận, cùng nỗ lực tạo dựng một mối quan hệ đối tác mới toàn diện giứa
Á- Âu vì sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn của hai khu vực.
˗ Tháng 11/1998, Việt Nam đã chính thức được kết nạp và trở thành thành viên
APEC. APEC là diễn đàn kinh tế đầu tiên trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương bao gồm 21 nền kinh tế thành viên, trải ra trên bốn lục địa, đại diện cho
hơn 1/3 dân số trên thế giới (khoảng 2,5 tỷ người), trên 50% GDP và khoảng
47% thương mại thế giới. APEC được thành lập nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong các nền kinh tế thành viên, tăng cường tinh thần cộng đồng
và các mối liên hệ trong khu vực vì sự thịnh vượng của nhân dân toàn khu vực.
˗ Ngày 13/07/2000 đại diện Chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký hiệp định thương
mại song phương (BTA) tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ kinh tế -
thương mại giữa hai nước.
Trong giai đoạn này, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hóa và bảo hộ mậu
dịch của Việt Nam trong chính sách thương mại quốc tế không có nhiều thay đổi so với
giai đoạn thăm dò hội nhập. Việt Nam vẫn theo đuổi một chiến lược công nghiệp hóa
không rõ ràng. Việt Nam vừa muốn thực hiệp công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu vừa
muốn hướng vào xuất khẩu. Xu hướng hướng vào xuất khẩu được ưu tiên hơn thể hiện
ở việc thông thoáng hơn thủ tục xuất khẩu và thủ tục nhập khẩu như bãi bỏ hầu hết các
giấy phép nhập khẩu chuyến vào năm 1995, dỡ bỏ quyền kiểm soát buôn bán gạo vào
năm 1997, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp FDI. Kể
từ năm 1998, các doanh nghiệp FDI được xuất khẩu những hàng hóa không có trong
giấy phép đầu tư. Năm 1993, Chính phủ cho phép nợ thuế đầu vào xuất khẩu. Các lệnh
cấm nhập khẩu tạm thời hàng tiêu dùng hay cấm nhập khẩu đường vào năm 1997 trong
chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam không hoàn toàn nhằm bảo hộ thị trường nội địa.
2.2.3. Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-2006)
Trong giai đoạn này, Việt Nam có xu hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, dường như mục
tiêu và phương pháp công nghiệp hóa chưa được thống nhất giữa các cấp, các ngành dẫn
đến tình trạng đi theo chứ chưa chủ động hội nhập. Các danh mục hàng hòa và thuế xuất
nhập khẩu chủ yếu ban hành theo các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết với EU (Châu
Âu), ASEAN (hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), Hoa Kỳ, Canada. Một mặt, Việt
Nam đẩy mạnh xuất khẩu như cho phép xuất khẩu không hạn chế theo ngành nghề ghi
trong giấy phép kinh doanh vào năm 2001, ban hành danh mục biểu thuế ưu đãi hàng
năm, đàm phán ASEAN và ASEAN mở rộng cũng như ban hành quy trình xét miễn, 12 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
giảm và hoàn thuế xuất khẩu và nhập khẩu vào năm 2005, đẩy mạnh đàm phán. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết việc bảo hộ thị trường nội địa
cho một số ngành hàng như ô tô, sắt thép, điện tử,… 2.3.
Giai đoạn 2006 - 2016
2.3.1. Việt Nam gia nhập WTO/TPP
Ngày 11-01-2007 là một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của nước ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng Chiến lược
hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến
hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch và thông thoáng hơn, ban
hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa
thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm
tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập. Mặc dù chúng
ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét như việc liên kết doanh
nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; phát huy vai
trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện chính sách; và
cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2015, hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP; Việt
Nam ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Tham gia TPP, dù có những thách thức nhất định, song cũng là cơ hội để Việt Nam
đẩy mạnh hơn công cuộc cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng cũng
như tận dụng tối đa những lợi ích mà TPP đem lại:
˗ Thứ nhất, mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là thị trường xuất khẩu nông sản
˗ Thứ hai, hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới và cơ hội mở rộng đầu tư
˗ Thứ ba, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
˗ Thứ tư, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ 13 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
2.3.2. Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong khoảng thời gian này ˗ Ưu điểm:
Tốc độ tăng trưởng ngoại thương khá cao qua các năm và cao hơn tốc độ tăng
trưởng của nền sản xuất xã hội, tăng quy mô kim ngạch xuất/nhập khẩu.
Thị trường ngày càng mở rộng và chuyển từ đơn thị trường sang đa thị trường.
Nền ngoại thương Việt Nam đã từng bước xây dựng được những mặt hàng có
quy mô lớn được thị trường thế giới chấp nhận như: dầu khí, gạo, thủy sản,
dệt may, giày dép… khai thác được lợi thế so sánh trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Nền ngoại thương Việt Nam đã chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế hạch toán kinh doanh, phát huy quyền tự chủ cho doanh nghiệp,
thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội cho hoạt động ngoại thương. Hạn chế:
Mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực trong thời gian
qua, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị
trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn cao.
Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. Những mặt
hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều là những mặt
hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng
khai thác (nhóm nông, thủy sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều
vào công nghệ và nguyên liệu cũng như thị trường nước ngoài do đó giá trị
gia tăng thấp (giày da và dệt may)…
Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp)
còn khá khiêm tốn, trong khi hàng sơ chế và khoáng sản vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn.
Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của ta nhìn chung chưa thật bền vững, còn
chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Đây là một trong những hạn chế lớn nhất trong
cơ cấu xuất khẩu hiện nay. Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế
biến, xét về dài hạn, tăng trưởng xuất khẩu sẽ rất khó khăn. → Với những
hạn chế nêu trên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu xuất khẩu
nói riêng của chúng ta còn chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế như vậy sẽ chứa 14 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá trình tăng trưởng. Việc tập trung quá lớn
vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng
thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự chúng ta đánh mất thị trường, khó có thể
phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Nguyên nhân:
˗ Công cụ và chính sách nhà nước còn thiếu sót chưa thực sự cụ thể, điều này làm
cản trở không nhỏ cho cả nhà nước và các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.
˗ Quy mô nguồn vốn trong nước còn nhỏ, trình độ công nghệ khoa học kỹ thuật
còn thấp, phương tiện máy móc sản xuất còn thô sơ.
˗ Trình độ nghiệp vụ ngoại thương nhiều cán bộ còn non yếu,chưa đáp ứng kịp thời
yêu cầu của sự phát triển xã hội ngày một đổi mới tiên tiến và hiện đại hơn.
˗ Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại vẫn còn xảy ra và đang là vấn đề "quốc nạn".
2.4. Giai đoạn 2016-2025
2.4.1. Tổng quan về chính sách thương mại quốc tế Việt Nam
Trong giai đoạn 2016 - 2025, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới, tham gia ngày càng nhiều vào các quá trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới.
Điều đó, một mặt sẽ tạo thêm xung lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong
thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam với các nền kinh tế trên thế giới. Mặt
khác, cũng đòi hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng
trưởng, cải thiện việc phân phối tài nguyên quốc gia, tăng năng suất các yếu tố tổng hợp
(TFP) và cải thiện năng lực cạnh tranh, tính linh hoạt của nên kinh tế...
Theo WTO, năm 2016 - 2018 là năm hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đạt
được nhiều thành công, cả về quy mô và tốc độ. Đặc biệt là năm 2017, xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam xếp thứ 27 và nhập khẩu xếp thứ 25, chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 1,2%
trong tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa toàn thế giới.
Về thương mại trong nước: Thương mai trong nước chuyển biến mạnh mẽ theo
cơ chế thị trường. Hoạt động thương mại trong nước, khách sạn, nhà hàng, du lịch và
dịch vụ kể từ khi đổi mới đến nay đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Sản xuất phát
triển, đời sống của dân cư được cải thiện đã làm cho sức mua của các tầng lớp dân cư tăng lên. 15 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
Về thương mại quốc tế: Những bước điều chỉnh về chính sách thương mại đã đưa
nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay,
Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 224/255 quốc gia và vung lãnh thổ trên thế giới.
Báo cáo Môi trường kinh doanh 2018 do Ngân hàng Thế giới công bố dự báo
Việt Nam đứng thứ 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017 (82/190 nền kinh
tế). Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động tham gia các tổ chức kinh tế - tài chính và các
hiệp định thương mại.
Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 10 FTA song phương và đa phương với các
đối tác trong khu vực và trên thế giới, bao gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA) và 5 FTA ASEAN +1 (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand;
4 FTA song phương giữa Việt Nam với Nhật Bản (VJEPA), với Hàn Quốc (KVFTA),
với Chile (VCFTA) với Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEUFTA). Việt Nam cũng đã cơ
bản kết thúc đàm phán FTA với EU, cùng ASEAN ký FTA với Hong Kong vào tháng 11/2017.
Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực, Hiệp
định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Đến nay, có khoảng 60 nền
kinh tế đã và đang đàm phán FTA với Việt Nam, bao gồm các đối tác thương mại chủ
chốt nắm giữ khoảng 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam.
Việc thực thi các FTA nói trên đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế, mở rộng
thị trường xuất khẩu, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, mạng lưới sản
xuất toàn cầu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ tri thức, kinh
nghiệm quản lý, tạo thêm nhiều việc làm…
Về mặt nhận thức, Việt Nam chưa thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại
quốc tế một cách hệ thống. Bộ Thương mại xem xét dưới góc độ chính sách xuất nhập
khẩu. Bộ Tài chính xem xét dưới góc độ chính sách cạnh tranh. Từ đó, chính sách thương
mại quốc tế của Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, những
công việc mới phát sinh thường mất thời gian để quyết định ai sẽ thực hiện và thực hiên như thế nào.
2.4.2. Dự báo thực trạng chính sách thương mại của Việt Nam trong những năm tới. 2.4.2.1. Ưu điểm 16 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
Theo báo cáo của Bộ phận phân tích thông tin (EIU) thuộc tạp chí Economist
(Anh) cho biết Việt Nam sẽ duy trì ổn định kinh tế trong giai đoạn 2016 - 2025 bất chấp
những biến động trong nước và quốc tế.
Về tổng thể trong cả giai đoạn này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự
báo ở mức 6,2-6,3%, duy trì được vị thế là một trong những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh nhất trong khu vực. Về lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2025 cũng
sẽ luôn ở trong tầm kiểm soát.
Khu vực nông, lâm, thủy sản sẽ tiếp tục phục hồi, tuy nhiên cũng cần đẩy mạnh
hơn các giải pháp để giải quyết vấn đề tiêu thụ. Tăng trưởng toàn nền kinh tế có thể đạt
mức khá, khi cả ba động lực chính của tăng trưởng là nông nghiệp, công nghiệp xây
dựng và dịch vụ cùng được cải thiện. Nửa cuối năm 2017, vốn FDI được dự báo sẽ đạt kết quả tích cực. 2.4.2.2. Nhược điểm
Dù đã phát triển tương đối nhanh trong thời gian vừa qua nhưng nhìn chung nền
kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế chậm phát triển.
Quy mô xuất nhập khẩu còn quá nhỏ bé so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump rút Mỹ ra khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP) khiến cho các mối giữa Mỹ và các quốc gia ở khu vực Châu Á giảm
đi đáng kể trong bối cảnh sự ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực ngày càng lớn.
Nó cũng đã sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới một số công ty tại Việt Nam.
Nếu lời đe dọa rút khỏi WTO của Mỹ thành hiện thực thì sẽ để lại tác động tiêu
cực và nghiêm trọng, gây ra sự bất ổn ngày càng lớn đối với thương mại Thế giới. 17 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
PHẦN 3. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.

3.1. Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do
hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Việc tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do
hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch về chính sách thương mại quốc tế là công việc liên
quan đến sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự thực thi của các cơ quan liên quan, đặc
biệt là các bộ ngành (trực tiếp là Bộ Công Thương).
Mục tiêu phù hợp nhất của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam là thúc
đẩy xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường
thế giới (và trong nước). Định hướng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam cần
chỉ ra những ưu tiên chính trong số nhiều ưu tiên của Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội. Định hướng chính sách cũng cần bao gồm các vấn đề như cách thức hỗ trợ các
ngành thay thế nhập khẩu và những cam kết đảm bảo việc duy trì ổn định các chính sách
hỗ trợ. Tất cả những biện pháp này cần đặt trong một hệ thống được theo dõi, đánh giá
và điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi.
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá thương mại
(song phương, khu vực và đa phương) và bảo hộ có chọn lọc một số mặt hàng.
3.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế
3.2.1. Minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan
Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi cho
hàng hoá Việt Nam. Việc vận dụng linh hoạt biểu thuế là hành động phù hợp với các
nguyên tắc và quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần thực hiện
bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thay đổi
biên thuế trong điều kiện khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán phá giá là không vi phạm
với WTO. Hệ thống thuế của Việt nam đang được thay đổi theo hướng hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là một công cụ của chính sách thương mại quốc
tế, Việt Nam không những cần đảm bảo sự nghiêm túc trong thực hiện các cam kết mà
còn phải biết vận dụng linh hoạt công cụ này.
Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch hoá
thông tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tăng
tính dự đoán trong việc điều chỉnh thuế. Đây là nội dung được ưu tiên trong số các giải
pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Trước hết việc cập nhật 18 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
những thông tin về những điều chỉnh thuế cần được tiếp tục đưa lên các trang web của
Quốc hội, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Tổng cục Hải quan và các hiệp hội. Tiếp theo,
việc áp dụng và điều chỉnh các loại thuế gián tiếp như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi
nhuận cần được rà soát để đảm bảo phục vụ mục tiêu phát triển ngành. Bên cạnh đó,
công tác tuyên truyền cho việc điều chỉnh thuế cần được quan tâm. Các hiệp hội cần
đóng vai trò là cầu nối giữa các bộ ngành và doanh nghiệp để đảm bảo nguyên tắc lấy
doanh nghiệp là trung tâm trong quá trình hoàn thiện. Để đảm bảo thực hiện giải pháp
này, các hiệp hội phải chủ động đề xuất các diễn đàn và hình thức trao đổi với Bộ Tài
chính, Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan. Các bộ ngành cần tích cực tham gia,
đảm bảo có phân công trách nhiệm cho các bộ phận liên quan và tiến hành theo dõi đánh
giá công tác phối hợp này.
3.2.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan
Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia thành viên được quyền sử dụng hạn ngạch
thuế quan. Bộ Công thương cần xem xét sử dụng nhiều hơn công cụ này. Sự khác biệt
giữa mức thuế trong hạn ngạch và ngoài hạn ngạch thường rất lớn (thường là gấp đôi).
Tuy nhiên, việc quyết định sử dụng hạn ngạch thuế quan cho mặt hàng nào không thể
chỉ phụ thuộc vào một tính toán về lợi thế so sánh hiện hữu đơn giản. Do đó, khi quyết
định lựa chọn mặt hàng thực hiện áp dụng hạn ngạch thuế quan, Bộ Công thương cũng
cần dựa trên phương pháp chuyên gia và thực hiện lấy ý kiến từ doanh nghiệp trong ngành.
Một thực tế ở Việt Nam là ngày càng hạn chế sử dụng giấy phép nhập khẩu và
lệnh cấm nhập khẩu. Lý do được đưa ra là các quy định này không phù hợp với các quy
định của WTO và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, kinh nghiệm
thế giới cho thấy không quốc gia nào bỏ hoàn toàn hai công cụ này. Malaysia thậm chí
còn tăng cường việc cấp giấy phép nhập khẩu khi đã trở thành thành viên của WTO.
Việt Nam không “tăng cường” nhưng cũng không nên loại bỏ hoàn toàn việc cấp giấy
phép nhập khẩu, đặc biệt là khi Việt Nam cần tiếp tục bảo hộ một số ngành trong nước
(ví dụ như thép xây dựng, hoa quả, thực phẩm, đồ chơi trẻ em..).
Các thành viên WTO vận dụng việc sử dụng giấy phép và lệnh cấm với nhiều lý do như
bảo về ngành công nghiệp, bảo vệ sức khoẻ, môi trường, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng,
bảo vệ các di sảnvà truyền thống văn hoá. Để sử dụng có hiệu quả việc cấp giấy phép
nhập khẩu, Bộ Công thương cần phối hợp với các bộ chuyên ngành, và cộng đồng doanh nghiệp. 19 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, chính
sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt Nam trong thời
gian vừa qua cho phù hợp với các quy định liên quan đến trợ cấp xuất khẩu và thương
mại liên quan đến đầu tư (TRIMS) và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm phán gia
nhập WTO. Chính sách về hỗ trợ lãi suất, thưởng xuất khẩu thuộc loại trợ cấp bị cấm
trong khuôn khổ WTO nên trong tương lai không thể tiếp tục áp dụng. Việc hỗ trợ các
hoạt động thương mại (xúc tiến thương mại) được coi là các loại trợ cấp đèn vàng. Tuy
nhiên, khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam có thể được hưởng chế độ ưu đãi
(tiếp tục duy trì khuyến khích xuất khẩu) vì là nước đang phát triển có GNP đầu người thấp.
Những quy định về mua sắm của chính phủ cần được xem như là một công cụ cụ
của chính sách thương mại quốc tế. Trong khuôn khổ WTO, các quy định về mua sắm
của chính phủ sẽ bị coi là hàng rào phi thuế quan nếu tạo ra sự phân biệt đối xử giữa
hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với các nước đang thực
hiện công nghiệp hoá, các quy định về mua sắm của Chính phủ có thể là công cụ tốt để
Chính phủ hỗ trợ khu vực sản xuất trong nước. Việc sử dụng các quy định về mua sắm
của Chính phủ như là một công cụ của chính sách thương mại quốc tế cần thể hiện thực
hiện tốt các quy định của Luật đấu thầu, trong đó đặc biệt chú ý đến việc thực hiện minh
bạch hoá các quy định này.
Bộ công thương nên mở rộng đối tượng chủ trì chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm quốc gia bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng
và rào cản thương mại đầy đủ và dễ truy cập
Cụ thể, Bộ Công thương cần xây dựng một hệ thống thông tin về các biện pháp
phi thuế, về phá giá và chống bán phá giá; xây dựng cơ chế cảnh báo về khả năng tranh
chấp hay bị kiện phá giá và chống bán phá giá, dự kiến những mặt hàng có khả năng bị
các quốc gia bạn hàng áp dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt là kiện phá giá; xây dựng
cách thức tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra và giải quyết tranh chấp trong khuôn
khổ WTO cũng như thủ tục ở các quốc gia bạn hàng. Việt Nam cũng cần tích cực tham
gia vào các diễn đàn của các nước đang phát triển để xây dựng một cơ chế chống bán
phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO. Các hiệp hội ngành hàng cần phối hợp với
các bộ ngành hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin về các thị trường, ngành hàng và các rào
cản thương mại ở các thị trường được lựa chọn. 20 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga
3.3. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế giữa các bộ
ngành và cộng đồng doanh nghiệp
Khi trở thành thành viên của WTO, sự tham gia của các doanh nghiệp và các hiệp
hội doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cần được thay
đổi. Các doanh nghiệp tham gia rất hiệu quả vào quá trình hoàn thiện chính sách thương
mại quốc tế ở Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ. Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy đã có sự
tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình hoạch định và hoàn thiện chính sách.
Tuy nhiên, kết quả thu được không có tính chất hệ thống và không có trọng tâm. Trong
quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam rất cần sự tham gia của
doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Những doanh nghiệp
này cần được mời thường xuyên tới các cuộc họp lấy ý kiến từ các kết quả nghiên cứu
và gợi ý chính sách cho Bộ Công thương và các bộ ngành, cho Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. 21 lOMoARc PSD|36242669
GVHD:Nguyễn Thị Vân Nga KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, sau 3 năm gia nhập WTO, mặc dù còn nhiều khó khăn trước
mắt, nhưng nền kinh tế Việt nam đã vượt qua được những thách thức, rút ra được những
bài học bổ ích để từng bước phát triển bền vững. Gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt
Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, vật tư, nguyên
liệu và cơ hội xuất khẩu sản phẩm do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt
đối xử. Môi trường kinh doanh được cải thiện một cách rõ rệt, minh bạch hơn nhờ thực
thi các cam kết về minh bạch hóa chính sách, không phân biệt đối xử, giảm bớt rào cản
trong tiếp cận thị trường và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, nhận thức của
người dân và các doanh nghiệp về việc tham gia WTO đã có sự chuyển biến tích cực.
Việt Nam trở thành nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào một số ngành như điện
tử, tin học, dệt may, luyện và cán thép, ngân hàng, tài chính bảo hiểm, bất động sản ...
Bên cạnh những kết quả tích cực đó, trong ba năm đầu tiên gia nhập WTO, các khó
khăn, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam cũng đã hiện ra dần rõ nét. Tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới đến kinh tế Việt Nam đã cho chúng
ta thấy mức độ dễ bị tổn thương của nền kinh tế nước ta. Đây là dịp để chúng ta nhìn
nhận lại một cách nghiêm túc những hạn chế của chúng ta trong một loạt các vấn đề liên
quan đến chính sách kinh tế và hoạt động quản lý nhà nước, để qua đó phấn đấu thực
hiện tốt hơn trong năm 2010, từ công tác phân tích, dự báo tình hình biến động của thị
trường hàng hoá, dịch vụ, giá cả; tới công tác điều hành quản lý hoạt động xuất nhập
khẩu; từ chính sách thắt chặt tiền tệ để đối phó với lạm phát, nhưng không gây khó khăn
cho các doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn; công tác xây dựng chiến lược và quy
hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế; tổ chức
thực hiện nghiêm túc, đồng thời khai thác có hiệu quả những cam kết quốc tế về thương
mại và đầu tư; thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã
hội… Để nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới tạo nền
tảng để kinh tế Việt Nam phát triển bền vững trong tương lai thì chính sách phát triển
thương mại của Việt Nam cũng cần phải có nhiều sự thay đổi tích cực hơn nữa. 22