Phân tích chủ trương, quan điểm của Đảng về Đối ngoại giai đoạn 1975 đến nay | Bài tập nhóm môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Phân tích chủ trương, quan điểm của Đảng về Đối ngoại giai đoạn 1975 đến nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
30 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích chủ trương, quan điểm của Đảng về Đối ngoại giai đoạn 1975 đến nay | Bài tập nhóm môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Phân tích chủ trương, quan điểm của Đảng về Đối ngoại giai đoạn 1975 đến nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

27 14 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP NHÓM
Môn học: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Chủ đề:
Phân tích chủ trương, quan điểm của Đảng về Đối ngoại giai
đoạn 1975 đến nay
Phí Thị Lan Phương
Lớp học phần:
LLDL1102(123)_19
Nhóm sinh viên:
Họ và tên
MSV
Bùi Việt Quang
11214985
Đỗ Bùi Minh Tuấn
11216060
Nguyễn Kiều Trang
11218705
Trần Thị Huyền Trang
11218709
Đặng Đình Hiếu
11218656
Vũ Phương Nam
11218676
Trịnh Cảnh Dinh
11218646
Trần Thị Hương
11212552
Đỗ Thị Lan Phương
11218688
Cao Quỳnh Vi
11216226
HÀ NỘI, 10/2023
1
lOMoARcPSD| 45470709
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 4
I. Khái niệm ............................................................................................................ 4
1. Khái niệm đối ngoại .................................................................................... 4
2. Khái niệm “‘Đường lối đối ngoại” .............................................................. 5
2.1. Khái niệm đường lối đối ngoại ................................................................ 5
2.2. Mục tiêu chung ........................................................................................ 5
3.2. Nguyên tắc đối ngoại ............................................................................... 5
II. Giai đoạn 1975 - 1986 (Đại hội 4, 5) ................................................................. 5
1. Tình hình đất nước giai đoạn trước đổi mới 1975 – 1986 .............................. 5
1.1. Thuận lợi .................................................................................................. 5
1.2. Khó khăn ................................................................................................. 6
2. Đường lối đối ngoại của Đảng trước đổi mới ................................................ 6
2.1. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) ................................................. 6
2.2. Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) ...................................................... 7
3. Kết quả, ý nghĩa của đường lối đối ngoại trước đổi mới................................ 8
3.1. Kết quả đạt được ...................................................................................... 8
3.2. Ý nghĩa .................................................................................................... 9
4. Những hạn chế trong đường lối đối ngoại trước đổi mới ............................... 9
III. Giai đoạn 1986 – nay ...................................................................................... 10
3.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ....................................................... 10
3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ...................................................... 12
3.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ..................................................... 15
3.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX ....................................................... 17
3.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ......................................................... 19
lOMoARcPSD| 45470709
3
3.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI ....................................................... 21
3.7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII ...................................................... 23
3.8. Đại hội đại biểu lần thứ XIII ..................................................................... 25
IV. So sánh đường lối đối ngoại của Đảng trước và sau đổi mới ......................... 26
LỜI KẾT ............................................................................................................... 30
lOMoARcPSD| 45470709
4
LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước đã được ra đời từ rất sớm trên thế giới. Từ những Nhà nước chiếm hữu
nô lệ đầu tiên, mọi quyền lực chính trị nằm trong tay giai cấp chủ nô của xã hội, trải qua
nhiều thời thay đổi phát triển, đến nay, các Nhà nước đã được tổ chức dựa trên
quyền làm chủ của nhân dân, có
sự phân chia quyền lực Nhà nước cùng với hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, thừa
nhận và bảo vệ các quyền tự do của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của
hội. Những nhà nước như vậy được gọi chung là Nhà nước Pháp quyền và các quốc gia,
dân tộc sẽ tập trung vào công cuộc củng cố và xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Quá
trình này cần có sự tham gia của rất nhiều yếu tố và được thực hiện theo cách riêng phù
hợp với nền tảng cũng như điều kiện lịch sử, hay kinh tế, chính trị của từng quốc gia.
Đặt trong bối cảnh từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
dưới sự lãnh đạo của Đảng của chủ tịch Hồ Chí Minh, đối ngoại các chính sách
đối ngoại luôn giữ vai trò tiên phong trong việc giữ vững độc lập nước nhà bảo vệ
thành công chính quyền cách mạng non trẻ, chống lại các thế thực thù địch. Những chiến
lược, quyết sách táo bạo, khôn khéo của Đảng đã giúp cách mạng Việt Nam vượt qua
nhiều tình huống hiểm nghèo. Cho đến khi thống nhất, đối ngoại đưa đất nước ta khôi
phục lại sau chiến tranh, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và bị bao vây
cô lập, rồi tạo dựng vận hội mới, mở ra cơ hội phát triển trong thế giới toàn cầu hoá. Có
thể thấy đối ngoại đóng vai trò là bộ phận không thể thiếu của mỗi quốc gia.
Vậy thì đối ngoại gì, tại sao đối ngoại lại quan trọng, Đảng Nhà nước đã
những chính sách đường lối đối ngoại thế nào. Bài tập của nhóm sẽ đi sâu phân tích chủ
trương, quan điểm của Đảng về đối ngoại giai đoạn từ 1975 đến nay.
I. Khái niệm
1. Khái niệm đối ngoại
Đối ngoại: đối với nước ngoài, bên ngoài. Từ này dùng để nói về đường lối,
chính sách, sự giao thiệp của nhà nước, của một tổ chức đối với các nước/tổ chức khác.
Nói ngắn gọn thì hoạt động đối ngoại tổng thcác hoạt động và quan hệ của một nước
vối bên ngoài.
lOMoARcPSD| 45470709
5
2. Khái niệm “‘Đường lối đối ngoại
2.1. Khái niệm đường lối đối ngoại
- Đường lối đối ngoại một bộ phận của đường lối lãnh đạo chung của Đảng ta;
quan điểm chính trị, tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các mối quan hệ với các quốc
gia khác; mỗi giai đoạn mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể góp phần phục vụ
đường lối đối nội.
2.2. Mục tiêu chung
Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác phát
triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài đphát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị
thế, uy tín của đất nước góp phần o sự nghiệp a bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới”
3.2. Nguyên tắc đối ngoại
+ Bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
+ Bốn nguyên tắc cụ thể trong hoạt động đối ngoại là: tôn trọng độc lập, chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng
lực hoặc đe doạ dùng lực; giải quyết các bất đồng tranh chấp thông qua thương
lượng hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
II. Giai đoạn 1975 - 1986 (Đại hội 4, 5)
1. Tình hình đất nước giai đoạn trước đổi mới 1975 – 1986
1.1. Thuận lợi
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình, thống nhất, cả
nước xây dựng chủ nghĩa hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi
vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng.
Đây là những thuận lợi rất cơ bản của cách mạng nước ta.
lOMoARcPSD| 45470709
6
1.2. Khó khăn
Trong khi nước ta đang phải tập trung khắc phục hậu quả nặng nề của ba mươi
năm chiến tranh, lại phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam biên giới phía
Bắc. Các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn thâm độc chống phá cách mạng Việt
Nam. Ngoài ra, do ởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa hội
trong một thời gian ngắn, đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế – xã hội.
2. Đường lối đối ngoại của Đảng trước đổi mới
2.1. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976)
a. Bối cảnh
Ðại hội lần thứ IV của Ðảng họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Thủ đô Hà Nội với
sự tham dự của 1.008 đảng viên thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước. Dự
đại hội có 29 đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội lần thứ IV của Đảng đại hội toàn thắng của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
đưa cả nước tiến lên CNXH.
Đại hội đã vạch ra đường lối, chủ trương xuyên suốt giai đoạn này thực hiện
chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo XHCN, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước
khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa
XHCN, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH.
Về công tác xây dựng Ðảng, Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm tích lũy được
trong mấy chục năm qua; xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác Đảng
trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới.
Ðại hội quyết định lấy lại tên ban đầu của Ðảng Ðảng Cộng sản Việt Nam; bầu
BCH Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết. BCH Trung ương
đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức ba ủy viên dự khuyết. Đồng chí
Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.
b. Nhiệm vụ
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại “Ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
lOMoARcPSD| 45470709
7
Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố tăng cường tình
đoàn kết chiến đấu quan hệ hợp tác với tất cả các nước hội chủ nghĩa; bảo vệ
phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát
triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập mở rộng quan
hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên sở tôn trọng độc lập chủ quyền,
bình đẳng và cùng có lợi.
Từ giữa m 1978, Đảng đã điều chỉnh một schủ trương, chính ch đối ngoại
như:
- Chú trọng củng cố, tăng ờng hợp tác về mọi mặt với Liên hòn đá
tảngtrong chính sách đối ngoại của Việt Nam;
- Nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bốicảnh
vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp;
- Chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung
lậpvà ổn định;
- Đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
2.2. Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982)
a. Bối cảnh
- Trên thế giới:
+ Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”.
+ Chủ nghĩa đế quốc các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên
tạc việc quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với
Việt Nam, chia rẽ 3 nước Đông Dương.
· Trong nước:
+ Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng.
+ “Việt Nam trong tình thế vừa hòa bình, vừa phải đương đầu với một kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt.”. Đồng thời, phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch
có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
b. Nhiệm vụ
lOMoARcPSD| 45470709
8
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) xác định công tác đối ngoại phải trở thành
một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các
thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.
Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết hợp tác toàn
diện với Liên nguyên tắc, là chiến lược luôn luôn hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam.
Xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam o Campuchia ý nghĩa sống n đối
với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương
đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành
khu vực hoà bình và ổn định.
Chủ chương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên sở các nguyên
tắc cùng tồn tại hoà nh; chủ trương thiết lập mở rộng quan hệ bình thường về mặt
nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt
chế độ chính trị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
3. Kết quả, ý nghĩa của đường lối đối ngoại trước đổi mới
3.1. Kết quả đạt được
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước
hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô.
- Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV).
- Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện vớiLiên
Xô.
- Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với23
nước.
- Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệquốc
tế (IMF).
- Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB).
- Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích
cựccác hoạt động trong phong trào Không liên kết...
- Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.
lOMoARcPSD| 45470709
9
3.2. Ý nghĩa
Sự tăng ờng hợp tác toàn diện với các nước hội chủ nghĩa mở rông quan
hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống hội chủ nghĩa đã tranh thủ được
nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh.
Việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc,
tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ được
sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò
của nước ta trên trường quốc tế.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo
thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông
Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
4. Những hạn chế trong đường lối đối ngoại trước đổi mới
Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của Việt
Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây cấm vận về kinh tế, lập
về chính trị... Từ cuối thập kỉ 70 thế kỉ XX, lấy cớ “Sự kiện Campuchia” (sự kiện Việt
Nam đưa quân vào Campuchia, giúp nhân n Campuchia đập tan chế độ diệt chủng
Khmer Đỏ), các ớc ASEAN một số ớc khác tuyên bố Việt Nam xâm lược
Campuchia, thực hiện bao vây cấm vận Việt Nam suốt nhiều m ... Cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam cũng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh biên giới với Trung
Quốc.
Trong giai đoạn này, Việt Nam quá chú trọng, đề cao Liên nhất quán nhấn
mạnh quan hệ thủy chung với Liên Xô là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của
mình. Điều này đã đẩy Việt Nam rơi trạng thái lập, đối đầu với Trung Quốc. Chính
sách “nhất biên đảo” (nghiêng hẳn về một phía) này của Đảng ta xuất phát từ việc chưa
nắm bắt chuẩn xác về sự thay đổi trong tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung và tư duy
giáo điều, xơ cứng, đánh giá quá cao sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta còn chừng, cảnh giác trong quan hệ với Mỹ, Nhật do cách nhìn nhận,
đánh giá còn chủ quan nên Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ
lOMoARcPSD| 45470709
10
và cơ hội tháo gỡ nút thắt trong quan hệ đối ngoại của mình, tiếp tục đẩy quan hệ Việt -
Mỹ rơi vào tình trạng đối đầu căng thẳng.
Nước ta vẫn còn chậm chễ trong nhận thức về các vấn đề của khu vực, nhất
những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Nhật Bản các nước trong
ASEAN cũng như xu thế đối ngoại chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn chạy đua kinh
tế trên thế giới. thế, chưa thực sự nỗ lực thúc đẩy, phát triển quan hệ hợp tác song
phương, đa phương. Bên cạnh đó, do bị chế định bởi duy ý thức hệ không khí
Chiến tranh lạnh nên Việt Nam vẫn còn cái nhìn cứng nhắc về các nước tư bản Tây Âu,
chưa đánh giá đúng về chiều hướng đối ngoại của các nước này nên nước ta chưa thiết
lập được quan hệ đối ngoại với họ.
Có thể thấy, tư tưởng giáo điều, không nhạy bén trước sự vận động của thế giới và
khu vực đã khiến quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong những năm 1976 1986 gặp
nhiều khó khăn, chưa phát huy được thế mạnh của đất nước sau thống nhất, độc lập.
“Bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩa hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan” là nguyên nhân căn bản dẫn tới những hạn chế trong đường lối
đối ngoại được Đảng nêu ra trong Đại hội VI.
III. Giai đoạn 1986 – nay.
3.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
a. Bối cảnh:
15-18/12/1986, tịa Hà Nội, cuộc cách mạng KH - KT đang phát triển mạnh, xu thế
đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu hướng đối đầu Liên Xô và các nước XHCN
tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng CNXH Việt Nam bị đế quốc và thế lực thù địch bao
vây, cấm vận, khủng hoảng. Đối ngoại góp phần quan trọng vào việc đấu tranh của nhân
dân thế giới hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ CNXH, tăng cường tình hữu nghị
hợp tác toàn diện với Liên các ớc CNXH, bình thường hoá quan hệ ngoại
giao với Trung Quốc vì lợi ích nhân dân 2 nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đầu giữ hoà bình
Đông ơng, Đông Nam Á trên thế giới, tăng ờng quan hệ đặc biệt giữa 3 nước
Đông Dương
lOMoARcPSD| 45470709
11
b. Nội dung:
Đại hội xác định: “Xu thế mở rộng phân ng, hợp tác giữa các ớc, kể cả các
nước chế độ kinh tế - hội khác nhau, ng những điều kiện rất quan trọng với
công cuộc xây dựng XHCN nước ta”. Từ 1990, Đảng Nhà nước những chủ
trương đổi mới về quan hệ ngoại giao: “Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương
châm thêm bạn, bớt thù, giữ vững hoà bình, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Với Trung Quốc, Hoa Kì: bình thường hoá quan hệ.
- Lào, Campuchia: đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả (5/1988,
Việt Nam rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở Campuchia về
nước)
- Khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương: từng ớc xây dựng quan hhữu
nghị, hợp tác
- Châu Âu: thiết lập quan hệ ngoại giao
c. Tình hình thực tế
Trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội VI, tình hình thế giới biến chuyển
nhanh chóng. ng cuộc cải tổ Liên Xô, c nước XHCN Đông Âu ngày cảng rơi
vào khủng hoảng sụp đổ hoàn toàn (12/1991). Sự sụp đổ đó gây tác động bất lợi nhiều
mặt đối với thế giới và Việt Nam. Viện trợ kinh tế giữa Liên các nước Đông Âu
với nước ta bị thu hẹp nhanh. Trên diễn đàn quốc tế, Mỹ và các thế lực thù địch lấy cớ
quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia, tiếp tục bao vây, cấm vận, tuyên
truyền chống Việt Nam. Họ dung dưỡng các tổ chức phản động người
Việt từớc ngoài trở về Việt Nam gây bạo loạn, lật đổ. Trên 1 số vùng biên giới phía
Bắc diễn biến phức tạp, căng thẳng. Cao điểm nhất, 3/1988, Trung Quốc cho quân đội
chiếm đảo Gạc Ma và các bãi cạn Châu Viên, Chữ Thập, Tư Nghĩa... ở quần đảo Trường
Sa Việt Nam. Trên thực tế cuộc chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc ở biên giới
phía Bắc đã kéo dài 10 năm, 1979-1989.
d. Những kinh nghiệm rút ra:
lOMoARcPSD| 45470709
12
Từ sự khủng hoảng đó, cần đổi mới nhận thức về mô hình và con đường xây dựng
CNXH, phải tích cực đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo sức chiến đấu của mình,
cần cảnh giác kiên quyết chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của CNĐQ
và thế lực thù địch
3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
a. Bối cảnh:
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII hay Đại hội
đại biểu lần VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 Nội. Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam VII diễn ra trong bối cảnh đất nước đang thực hiện công cuộc
Đổi mới được đề ra từ Đại hội VI đạt được những thắng lợi bước đầu, được nhân dân
và quốc tế ủng hộ.
Tình hình quốc tế lúc bấy giờ nhiều chuyển biến phức tạp, nhất sự sụp đổ của
khối Đông Âu cuộc khủng hoảng trầm trọng của Liên Xô, sự chống phá nhiều phía
vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản, những âm mưu và
thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực.
b. Đường lối của Đại hội VII :
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta xác định trọng tâm
của công tác đối ngoại tiếp tục tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Với những nội dung được quyết nghị, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII được đánh giá “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân
chủ - kỷ cương - đoàn kết”.
c. Thành tựu :
Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt
Nam đã phá được thế bao vây, lập, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn.
Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Ủy
viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và cũng là lần đầu tiên Việt Nam gia
nhập ASEAN, một tổ chức khu vực mà trong đó các thành viên đều không cùng ý thức
hệ và chế độ chính trị, xã hội với Việt Nam.
d. Bài học
lOMoARcPSD| 45470709
13
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qđộ lên chủ nghĩa hội đã tổng
kết cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1991 nêu lên những bài học kinh
nghiệm.
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc chnghĩa hội. Đó i học xuyên
suốt quá trình cách mạng nước ta.
Hai là, sự nghiệp cách mạng của nhân dân, do nhân dân nhân dân. Chính
nhân dân người làm nên thắng lợi lịch sử. Sức mạnh của Đảng ở sự gắn mật thiết
với nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm sự thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta là một quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ
quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản sau:
Một là, xây dựng Nhà nước hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân
dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện nhiệm vụ trung tâm nhằm
từng bước xây dựng sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
lOMoARcPSD| 45470709
14
Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá
nhân loại.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu sự nghiệp dân giàu ớc mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc hai nhiệm vchiến lược
của cách mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tưởng tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác xây dựng Đảng rất quan trọng nên việc đổi mới ,chỉnh đốn Đảng phải
được chỉ đạo một cách kiên quyết,bước đi vững chắc làm từ Trung ương đến cơ sở,
bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường hệ
thống chính trị, cải cách bộ máy Nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua phong trào
cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới
trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đồng chí Đỗ Mười đọc Diễn văn bế mạc Đại hội.
Diễn văn nêu: “Kết quả nổi bật của Đại hội chúng ta là sự nhất trí trên tất cả các vấn đ
lớn thuộc về quan điểm, đường lối ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước.
Đại hội là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng và của nhân dân trong việc vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh những giá trị của loài người vào giai
đoạn hiện nay của sự nghiệp cách mạng nước ta. Kết quả đó khẳng định Đảng ta kiên
trì tích cực đẩy mạnh công cuộc đổi mới do chính bản thân Đảng khởi xướng theo
những nguyên tắc đã được xác định... Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có
đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược”.
Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, quá trình đổi mới tư duy về đối ngoại đa phương của
Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rất rõ tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VII(năm
1992). Hội nghị đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt là khai thông mối quan hệ với các cơ chế
đa phương trên thế giới như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân
lOMoARcPSD| 45470709
15
hàng Phát triển châu Á (ADB)(3); mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực,
trước hết khu vực châu Á - Thái Bình ơng trước tiên là ASEAN. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã đánh dấu bước tiến mới trong tư duy về ngoại giao
đa phương của Đảng, đó là mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều nước, nhiều tổ chức khu
vực và thế giới, không phân biệt chế độ chính trị cũng như trình độ phát triển.
Từ những thành công trong thực tiễn triển khai chủ trương “Việt Nam muốn bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” tại Đại hội VII, cụ thể việc khai thông
quan hệ với các thiết chế kinh tế - tài chính thế giới; các tổ chức quốc tế, khu vực; đặc
biệt là một số nước lớn vai trò quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế như Trung
Quốc, Mỹ, Nhật Bản...
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt những thắng
lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện.
Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân n đối với chế độ tiền đồ của đất nước,
với Đảng Nhà nước được khẳng định. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã
hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam đạt được
thành tựu to lớn: bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (7/1995), gia nhập ASEAN
(7/1995)... góp phần ng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
3.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
a. Bối cảnh lịch sử
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tổ chức tại Nội từ 26/8 đến
1/7/1996, trên quốc tế, nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột
vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra nhiều nơi. Cách mạng khoa học
công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất,
đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh
tế và đời sống xã hội; chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào.
Trong nước, sau 10 năm đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi bước
đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, hội, quốc phòng an ninh, quan hệ đối ngoại phát
lOMoARcPSD| 45470709
16
triển, phá được thế bị bao vây, cô lập. Tuy vậy, nước ta vẫn còn là nước nghèo, kém phát
triển, xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
b. Những đường lối đối ngoại
Một trong sáu bài học chủ yếu qua 10 năm đổi mới được nêu ra đại hội là: Mở
rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại.
Đại hội VIII xác định hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra
sức tăng cường quan hvới các nước láng giềng các nước trong tổ chức ASEAN;
không ngừng củng cquan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với
các nước phát triển các trung m kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước
đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực đóng góp cho hoạt
động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền đ
cho công nghiệp hoá đã bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất ớc. Những nhiệm vụ này phải được thực hiện theo c
định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.
Trong đó, về lĩnh vực đối ngoại, Đại hội khẳng định lại chủ trương mở rộng quan
hệ quốc tế: Tiếp tục thực hiện chính ch đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu hòa bình, độc lập phát triển” đặc biệt chú trọng “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế khu vực”. Ngoài ra, mở rộng quan hệ đối ngoại nhân
dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi
của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
c. Thành tựu, đánh giá
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới là: một
là chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền các đảng khác; hai lần đầu
tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực
hiện đầu tư ra nước ngoài.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, từ năm 1996 đến năm 2000, tuy vẫn
còn nhiều yếu kém, khuyết điểm, trong quá trình thực hiện còn xuất hiện tồn đọng
lOMoARcPSD| 45470709
17
những sai sót hay vấn đề chưa thể giải quyết trong nay mai, thế nhưng Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta cũng đã đạt được:
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Việt Nam đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp
tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, bạn truyền thống
và với nhiều nước khác, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế. Đảng ta tiếp tục củng cố tình
đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc
tiến bộ trên thế giới. Ngoại giao nhân dân được đẩy mạnh cả về quy địa bàn
góp phần tích cực vào thắng lợi của Đảng và Nhà nước trên mặt trận đối ngoại.
3.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
a. Bối cảnh lịch sử
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tổ chức tại Nội từ 19/4 đến
22/4/2001, trên thế giới, cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông
tin và công nghệ sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy so phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh
cấu kinh tế biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống hội. Tri thức sở hữu
trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ.
Khả năng duy trì hoà bình ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập
trung phát triển, đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình
huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.
b. Đường lối đối ngoại
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
đã trình bày 10 vấn đề, trong đó, mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đồng thời, phát triển quan điểm
mở rộng quan hệ đối ngoại của hai kỳ đại hội trước, Đại hội IX nêu rõ: “Việt Nam sẵn
sàng bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu hòa
bình, độc lập phát triển”, khác biệt so với Việt Nam muốn bạnhai kỳ đại hội
trước. Đây được xem là bước phát triển về chất của quan hệ đối ngoại Việt
Nam.
lOMoARcPSD| 45470709
18
Qua 10 năm 1991 - 2001 công tác nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được
những kết quả quan trọng, tuy vậy, việc tuyên truyền giáo dục tưởng Hồ Chí Minh
vẫn còn một số hạn chế yếu kém. Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết chỉ thị về
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sống gần 90 nước vùng lãnh thổ, ngoài
ra, còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động, học tập, đoàn tụ gia
đình, hình thành các cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Đa số họ luôn nuôi dưỡng tinh
thần yêu ớc, tự tôn dân tộc giữ gìn truyền thống văn hóa đất nước. Tuy nhiên,
người Việt một số nước còn nhiều khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, một số
nơi còn bị kỳ thị. Một số người chưa dịp vthăm đất nước, chưa thấy những thành
tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến, mặc cảm, thậm chí chống phá đất nước.
Trong bối cảnh đó Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành nghị quyết số 36-NQ/TW
ngày 26/3/2004, chủ trương coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách
rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng để góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách
nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định
cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài.
Sau đại hội IX tình hình thế giới diễn biến rất mau lẹ, phức tạp, sự nghiệp hội nhập
quốc tế bảo vệ tổ quốc của nước ta đang đặt ra những vấn đề mới rất cấp thiết. Hội
nghị Trung Ương 8 khóa IX (7/2003), sau khi chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu
kém của Đảng ta trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, dự báo tình hình quốc tế, khu
vực, đất nước. Sau đó đã những chiến lược xác định, về đối ngoại: xây dựng sức
mạnh tổng hợp trong đó lĩnh vực đối ngoại, ra sức phát huy nội lực đồng thời tranh
thủ tối đa khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài, chủ động phòng ngừa triệt tiêu
những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Những nhiệm vụ cơ bản về bảo vệ tổ quốc, về đối ngoại đó là đẩy mạnh hoạt động
đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng,
chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn.
c. Thành tựu, đánh giá
lOMoARcPSD| 45470709
19
Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục nhiều biến đổi, nhân dân ta cả hội lớn thách
thức lớn. Về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), tuy vẫn còn
nhiều yếu kém, khuyết điểm, tình hình thế giới vẫn đang trong quá trình dần ổn định,
nước ta vẫn không ngừng cố gắng vươn ra thế giới và thực hiện hội nhập, do đó Báo cáo
Chính trị khẳng định đạt được 5 nhóm thành tựu quan trọng, trong đó về đối ngoại, quan
hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín vị thế của nước ta được tiếp tục nâng cao trên
trường quốc tế.
3.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
a. Bối cảnh:
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu hòa bình, độc lập và phát triển. Sau gần 20 năm tiến hành đổi mới, tình hình
đất nước ta đã những đổi thay to lớn. Kiên trì đường lối đổi mới của Đại hội VI, được
bổ sung và phát triển qua các đại hội và hội nghị Trung ương, dưới sự lãnh đạo của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tình hình trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi to lớn, ảnh hưởng sâu
sắc đến công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Toàn cầu hóa kinh tế một xu thế khách
quan, tạo ra hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây
khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Nền kinh tế đất
nước vẫn trong tình trạng kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong
khu vực trên thế giới vẫn còn tồn tại, tốc độ phát triển kinh tế chưa tương xứng với
tiềm năng của đất nước. Trình độ khoa học - công nghệ quốc gia còn lạc hậu trên nhiều
phương diện. Tình trạng suy thoái về chính trị, tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã được triệu
tập. Sau một ngày họp trù bị, từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, Đại hội họp chính thức,
với sự tham dự của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.
b. Đường lối chính trị của Đảng về đối ngoại:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chính
lOMoARcPSD| 45470709
20
sách đối ngoại phục vụ hai mục tiêu "phát triển" "an ninh", trong đó mục tiêu phát
triển được đặt lên hàng đầu chỉ đẩy mạnh phát triển kinh tế - hội mới điều
kiện vật chất để giữ vững an ninh, nâng cao vị thế quốc tế.Để phát triển thuận lợi thì
hoạt động đối ngoại phải góp phần mở rộng tối đa quan hệ quốc tế, tạo dựng mối quan
hệ đan xen với các nước và các trung tâm trên thế giới, tạo dựng môi trường êm thấm ở
bên ngoài. Điểm mới của chính sách đối ngoại Đại hội X đặt cao nhiệm vụ "chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", "hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể
chế kinh tế toàn cầu, khu vực song phương" nước ta đang đứng trên ngưỡng cửa
của sự hội nhập hoàn toàn đầy đủ vào nền kinh tế thế giới với việc nỗ lực hoàn tất
thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Bên cạnh đó, vận dụng bài học
về sức mạnh tổng hợp, Đại hội lần thứ X đã nhấn mạnh yêu cầu phối hợp chặt chẽ đối
ngoại với quốc phòng và an ninh. Sự phối hợp này cần được thể hiện không chỉ về nhận
thức, quan điểm trên tầm mô, không chthông qua việc bảo đảm môi trường quốc
phòng, an ninh ổn định để phát triển mà còn cần được thể hiện trong từng hoạt động cụ
thể, địa bàn cụ thể, dự án cụ thể.
c. Đánh giá
Đại hội đã đạt được một số thành tựu:
Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không
thường trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ 2008 — 2009.
Năm 2010 Việt Nam đã đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN; tích
cực tham gia và có những đóng góp cho nhiều hoạt động đa phương khu vực và trên thế
giới, như tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu về an ninh hạt nhân và giải trừ vũ khí
hạt nhân, phòng chống tội phạm, biến đổi khí hậu....
Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng:
Về mở rộng thị trường: Đến năm 2010, Việt Nam quan hệ thương mại, đầu
với khoảng 230 nước và vùng lãnh thổ, đưa tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu so với GDP lên
trên 170%. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đã gắn kết chặt chẽ vào nền kinh tế thế
giới. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 789 triệu USD, đến nắm
| 1/30

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP NHÓM
Môn học: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Chủ đề: Phân tích chủ trương, quan điểm của Đảng về Đối ngoại giai đoạn 1975 đến nay
GVHD: Phí Thị Lan Phương
Lớp học phần: LLDL1102(123)_19 Nhóm sinh viên: Họ và tên MSV Bùi Việt Quang 11214985 Đỗ Bùi Minh Tuấn 11216060 Nguyễn Kiều Trang 11218705 Trần Thị Huyền Trang 11218709 Đặng Đình Hiếu 11218656 Vũ Phương Nam 11218676 Trịnh Cảnh Dinh 11218646 Trần Thị Hương 11212552 Đỗ Thị Lan Phương 11218688 Cao Quỳnh Vi 11216226 HÀ NỘI, 10/2023 1 lOMoAR cPSD| 45470709 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 4
I. Khái niệm ............................................................................................................ 4
1. Khái niệm đối ngoại .................................................................................... 4
2. Khái niệm “‘Đường lối đối ngoại” .............................................................. 5
2.1. Khái niệm đường lối đối ngoại ................................................................ 5
2.2. Mục tiêu chung ........................................................................................ 5
3.2. Nguyên tắc đối ngoại ............................................................................... 5
II. Giai đoạn 1975 - 1986 (Đại hội 4, 5) ................................................................. 5
1. Tình hình đất nước giai đoạn trước đổi mới 1975 – 1986 .............................. 5
1.1. Thuận lợi .................................................................................................. 5
1.2. Khó khăn ................................................................................................. 6
2. Đường lối đối ngoại của Đảng trước đổi mới ................................................ 6
2.1. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) ................................................. 6
2.2. Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) ...................................................... 7
3. Kết quả, ý nghĩa của đường lối đối ngoại trước đổi mới................................ 8
3.1. Kết quả đạt được ...................................................................................... 8
3.2. Ý nghĩa .................................................................................................... 9
4. Những hạn chế trong đường lối đối ngoại trước đổi mới ............................... 9
III. Giai đoạn 1986 – nay ...................................................................................... 10
3.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ....................................................... 10
3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ...................................................... 12
3.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ..................................................... 15
3.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX ....................................................... 17
3.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ......................................................... 19 2 lOMoAR cPSD| 45470709
3.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI ....................................................... 21
3.7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII ...................................................... 23
3.8. Đại hội đại biểu lần thứ XIII ..................................................................... 25
IV. So sánh đường lối đối ngoại của Đảng trước và sau đổi mới ......................... 26
LỜI KẾT ............................................................................................................... 30 3 lOMoAR cPSD| 45470709 LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước đã được ra đời từ rất sớm trên thế giới. Từ những Nhà nước chiếm hữu
nô lệ đầu tiên, mọi quyền lực chính trị nằm trong tay giai cấp chủ nô của xã hội, trải qua
nhiều thời kì thay đổi và phát triển, đến nay, các Nhà nước đã được tổ chức dựa trên
quyền làm chủ của nhân dân, có
sự phân chia quyền lực Nhà nước cùng với hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, thừa
nhận và bảo vệ các quyền và tự do của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã
hội. Những nhà nước như vậy được gọi chung là Nhà nước Pháp quyền và các quốc gia,
dân tộc sẽ tập trung vào công cuộc củng cố và xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Quá
trình này cần có sự tham gia của rất nhiều yếu tố và được thực hiện theo cách riêng phù
hợp với nền tảng cũng như điều kiện lịch sử, hay kinh tế, chính trị của từng quốc gia.
Đặt trong bối cảnh từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và của chủ tịch Hồ Chí Minh, đối ngoại và các chính sách
đối ngoại luôn giữ vai trò tiên phong trong việc giữ vững độc lập nước nhà và bảo vệ
thành công chính quyền cách mạng non trẻ, chống lại các thế thực thù địch. Những chiến
lược, quyết sách táo bạo, khôn khéo của Đảng đã giúp cách mạng Việt Nam vượt qua
nhiều tình huống hiểm nghèo. Cho đến khi thống nhất, đối ngoại đưa đất nước ta khôi
phục lại sau chiến tranh, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và bị bao vây
cô lập, rồi tạo dựng vận hội mới, mở ra cơ hội phát triển trong thế giới toàn cầu hoá. Có
thể thấy đối ngoại đóng vai trò là bộ phận không thể thiếu của mỗi quốc gia.
Vậy thì đối ngoại là gì, tại sao đối ngoại lại quan trọng, Đảng và Nhà nước đã có
những chính sách đường lối đối ngoại thế nào. Bài tập của nhóm sẽ đi sâu phân tích chủ
trương, quan điểm của Đảng về đối ngoại giai đoạn từ 1975 đến nay. I. Khái niệm
1. Khái niệm đối ngoại
Đối ngoại: là đối với nước ngoài, bên ngoài. Từ này dùng để nói về đường lối,
chính sách, sự giao thiệp của nhà nước, của một tổ chức đối với các nước/tổ chức khác.
Nói ngắn gọn thì hoạt động đối ngoại là tổng thể các hoạt động và quan hệ của một nước vối bên ngoài. 4 lOMoAR cPSD| 45470709
2. Khái niệm “‘Đường lối đối ngoại”
2.1. Khái niệm đường lối đối ngoại
- Đường lối đối ngoại là một bộ phận của đường lối lãnh đạo chung của Đảng ta;
là quan điểm chính trị, tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các mối quan hệ với các quốc
gia khác; ở mỗi giai đoạn có mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể và góp phần phục vụ đường lối đối nội. 2.2. Mục tiêu chung
Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị
thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới”
3.2. Nguyên tắc đối ngoại
+ Bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
+ Bốn nguyên tắc cụ thể trong hoạt động đối ngoại là: tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ
lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương
lượng hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
II. Giai đoạn 1975 - 1986 (Đại hội 4, 5)
1. Tình hình đất nước giai đoạn trước đổi mới 1975 – 1986 1.1. Thuận lợi
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình, thống nhất, cả
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi
vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng.
Đây là những thuận lợi rất cơ bản của cách mạng nước ta. 5 lOMoAR cPSD| 45470709 1.2. Khó khăn
Trong khi nước ta đang phải tập trung khắc phục hậu quả nặng nề của ba mươi
năm chiến tranh, lại phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía
Bắc. Các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn thâm độc chống phá cách mạng Việt
Nam. Ngoài ra, do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội
trong một thời gian ngắn, đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế – xã hội.
2. Đường lối đối ngoại của Đảng trước đổi mới
2.1. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) a. Bối cảnh
Ðại hội lần thứ IV của Ðảng họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Thủ đô Hà Nội với
sự tham dự của 1.008 đảng viên thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước. Dự
đại hội có 29 đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
đưa cả nước tiến lên CNXH.
Đại hội đã vạch ra đường lối, chủ trương xuyên suốt giai đoạn này là thực hiện
chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo XHCN, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước
khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa
XHCN, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH.
Về công tác xây dựng Ðảng, Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm tích lũy được
trong mấy chục năm qua; xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác Đảng
trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới.
Ðại hội quyết định lấy lại tên ban đầu của Ðảng là Ðảng Cộng sản Việt Nam; bầu
BCH Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết. BCH Trung ương
đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức và ba ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê
Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng. b. Nhiệm vụ
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12 - 1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. 6 lOMoAR cPSD| 45470709
Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình
đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và
phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát
triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan
hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền,
bình đẳng và cùng có lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như:
- Chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô là hòn đá
tảngtrong chính sách đối ngoại của Việt Nam;
- Nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bốicảnh
vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp;
- Chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung lậpvà ổn định;
- Đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
2.2. Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) a. Bối cảnh - Trên thế giới:
+ Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”.
+ Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên
tạc việc quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với
Việt Nam, chia rẽ 3 nước Đông Dương. · Trong nước:
+ Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng.
+ “Việt Nam ở trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt.”. Đồng thời, phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch
có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn. b. Nhiệm vụ 7 lOMoAR cPSD| 45470709
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) xác định công tác đối ngoại phải trở thành
một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các
thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.
Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn
diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam.
Xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối
với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương
đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành
khu vực hoà bình và ổn định.
Chủ chương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên
tắc cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt
nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt
chế độ chính trị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
3. Kết quả, ý nghĩa của đường lối đối ngoại trước đổi mới
3.1. Kết quả đạt được
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã
hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô.
- Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV).
- Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện vớiLiên Xô.
- Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với23 nước.
- Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệquốc tế (IMF).
- Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB).
- Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích
cựccác hoạt động trong phong trào Không liên kết...
- Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam. 8 lOMoAR cPSD| 45470709 3.2. Ý nghĩa
Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rông quan
hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tranh thủ được
nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh.
Việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc,
tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ được
sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò
của nước ta trên trường quốc tế.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo
thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông
Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
4. Những hạn chế trong đường lối đối ngoại trước đổi mới
Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của Việt
Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập
về chính trị... Từ cuối thập kỉ 70 thế kỉ XX, lấy cớ “Sự kiện Campuchia” (sự kiện Việt
Nam đưa quân vào Campuchia, giúp nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng
Khmer Đỏ), các nước ASEAN và một số nước khác tuyên bố Việt Nam xâm lược
Campuchia, thực hiện bao vây cấm vận Việt Nam suốt nhiều năm ... Cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh biên giới với Trung Quốc.
Trong giai đoạn này, Việt Nam quá chú trọng, đề cao Liên Xô và nhất quán nhấn
mạnh quan hệ thủy chung với Liên Xô là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của
mình. Điều này đã đẩy Việt Nam rơi trạng thái cô lập, đối đầu với Trung Quốc. Chính
sách “nhất biên đảo” (nghiêng hẳn về một phía) này của Đảng ta xuất phát từ việc chưa
nắm bắt chuẩn xác về sự thay đổi trong tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung và tư duy
giáo điều, xơ cứng, đánh giá quá cao sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta còn dè chừng, cảnh giác trong quan hệ với Mỹ, Nhật do cách nhìn nhận,
đánh giá còn chủ quan nên Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ 9 lOMoAR cPSD| 45470709
và cơ hội tháo gỡ nút thắt trong quan hệ đối ngoại của mình, tiếp tục đẩy quan hệ Việt -
Mỹ rơi vào tình trạng đối đầu căng thẳng.
Nước ta vẫn còn chậm chễ trong nhận thức về các vấn đề của khu vực, nhất là
những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong
ASEAN cũng như xu thế đối ngoại chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua kinh
tế trên thế giới. Vì thế, chưa thực sự nỗ lực thúc đẩy, phát triển quan hệ hợp tác song
phương, đa phương. Bên cạnh đó, do bị chế định bởi tư duy ý thức hệ và không khí
Chiến tranh lạnh nên Việt Nam vẫn còn cái nhìn cứng nhắc về các nước tư bản Tây Âu,
chưa đánh giá đúng về chiều hướng đối ngoại của các nước này nên nước ta chưa thiết
lập được quan hệ đối ngoại với họ.
Có thể thấy, tư tưởng giáo điều, không nhạy bén trước sự vận động của thế giới và
khu vực đã khiến quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong những năm 1976 – 1986 gặp
nhiều khó khăn, chưa phát huy được thế mạnh của đất nước sau thống nhất, độc lập.
“Bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩa và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan” là nguyên nhân căn bản dẫn tới những hạn chế trong đường lối
đối ngoại được Đảng nêu ra trong Đại hội VI.
III. Giai đoạn 1986 – nay.
3.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. a. Bối cảnh:
15-18/12/1986, tịa Hà Nội, cuộc cách mạng KH - KT đang phát triển mạnh, xu thế
đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu hướng đối đầu Liên Xô và các nước XHCN
tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng CNXH Việt Nam bị đế quốc và thế lực thù địch bao
vây, cấm vận, khủng hoảng. Đối ngoại góp phần quan trọng vào việc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH, tăng cường tình hữu nghị
và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước CNXH, bình thường hoá quan hệ ngoại
giao với Trung Quốc vì lợi ích nhân dân 2 nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đầu giữ hoà bình ở
Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa 3 nước Đông Dương 10 lOMoAR cPSD| 45470709 b. Nội dung:
Đại hội xác định: “Xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các
nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng với
công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta”. Từ 1990, Đảng và Nhà nước có những chủ
trương đổi mới về quan hệ ngoại giao: “Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương
châm thêm bạn, bớt thù, giữ vững hoà bình, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Với Trung Quốc, Hoa Kì: bình thường hoá quan hệ.
- Lào, Campuchia: đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả (5/1988,
Việt Nam rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở Campuchia về nước)
- Khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương: từng bước xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác
- Châu Âu: thiết lập quan hệ ngoại giao c. Tình hình thực tế
Trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội VI, tình hình thế giới biến chuyển
nhanh chóng. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước XHCN ở Đông Âu ngày cảng rơi
vào khủng hoảng và sụp đổ hoàn toàn (12/1991). Sự sụp đổ đó gây tác động bất lợi nhiều
mặt đối với thế giới và Việt Nam. Viện trợ kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông Âu
với nước ta bị thu hẹp nhanh. Trên diễn đàn quốc tế, Mỹ và các thế lực thù địch lấy cớ
quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia, tiếp tục bao vây, cấm vận, tuyên
truyền chống Việt Nam. Họ dung dưỡng các tổ chức phản động người
Việt từ nước ngoài trở về Việt Nam gây bạo loạn, lật đổ. Trên 1 số vùng biên giới phía
Bắc diễn biến phức tạp, căng thẳng. Cao điểm nhất, 3/1988, Trung Quốc cho quân đội
chiếm đảo Gạc Ma và các bãi cạn Châu Viên, Chữ Thập, Tư Nghĩa... ở quần đảo Trường
Sa Việt Nam. Trên thực tế cuộc chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc ở biên giới
phía Bắc đã kéo dài 10 năm, 1979-1989.
d. Những kinh nghiệm rút ra: 11 lOMoAR cPSD| 45470709
Từ sự khủng hoảng đó, cần đổi mới nhận thức về mô hình và con đường xây dựng
CNXH, phải tích cực đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu của mình,
cần cảnh giác và kiên quyết chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của CNĐQ và thế lực thù địch
3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. a. Bối cảnh:
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII hay Đại hội
đại biểu lần VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 ở Hà Nội. Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam VII diễn ra trong bối cảnh đất nước đang thực hiện công cuộc
Đổi mới được đề ra từ Đại hội VI và đạt được những thắng lợi bước đầu, được nhân dân và quốc tế ủng hộ.
Tình hình quốc tế lúc bấy giờ có nhiều chuyển biến phức tạp, nhất là sự sụp đổ của
khối Đông Âu và cuộc khủng hoảng trầm trọng của Liên Xô, sự chống phá nhiều phía
vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản, những âm mưu và
thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực.
b. Đường lối của Đại hội VII :
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta xác định trọng tâm
của công tác đối ngoại là tiếp tục tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những nội dung được quyết nghị, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân
chủ - kỷ cương - đoàn kết”. c. Thành tựu :
Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt
Nam đã phá được thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn.
Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Ủy
viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và cũng là lần đầu tiên Việt Nam gia
nhập ASEAN, một tổ chức khu vực mà trong đó các thành viên đều không cùng ý thức
hệ và chế độ chính trị, xã hội với Việt Nam. d. Bài học 12 lOMoAR cPSD| 45470709
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tổng
kết cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1991 và nêu lên những bài học kinh nghiệm.
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên
suốt quá trình cách mạng nước ta.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm sự thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản sau:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. 13 lOMoAR cPSD| 45470709
Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác xây dựng Đảng rất quan trọng nên việc đổi mới ,chỉnh đốn Đảng phải
được chỉ đạo một cách kiên quyết, có bước đi vững chắc làm từ Trung ương đến cơ sở,
bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường hệ
thống chính trị, cải cách bộ máy Nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua phong trào
cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới
trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đồng chí Đỗ Mười đọc Diễn văn bế mạc Đại hội.
Diễn văn nêu: “Kết quả nổi bật của Đại hội chúng ta là sự nhất trí trên tất cả các vấn đề
lớn thuộc về quan điểm, đường lối có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước.
Đại hội là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng và của nhân dân trong việc vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những giá trị của loài người vào giai
đoạn hiện nay của sự nghiệp cách mạng nước ta. Kết quả đó khẳng định Đảng ta kiên
trì và tích cực đẩy mạnh công cuộc đổi mới do chính bản thân Đảng khởi xướng theo
những nguyên tắc đã được xác định... Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có
đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược”.
Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, quá trình đổi mới tư duy về đối ngoại đa phương của
Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rất rõ tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VII(năm
1992). Hội nghị đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt là khai thông mối quan hệ với các cơ chế
đa phương trên thế giới như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân 14 lOMoAR cPSD| 45470709
hàng Phát triển châu Á (ADB)(3); mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực,
trước hết là khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà trước tiên là ASEAN. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã đánh dấu bước tiến mới trong tư duy về ngoại giao
đa phương của Đảng, đó là mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều nước, nhiều tổ chức khu
vực và thế giới, không phân biệt chế độ chính trị cũng như trình độ phát triển.
Từ những thành công trong thực tiễn triển khai chủ trương “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” tại Đại hội VII, cụ thể là việc khai thông
quan hệ với các thiết chế kinh tế - tài chính thế giới; các tổ chức quốc tế, khu vực; đặc
biệt là một số nước lớn có vai trò quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản...
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt những thắng
lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện.
Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ của đất nước,
với Đảng và Nhà nước được khẳng định. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã
hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam đạt được
thành tựu to lớn: bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (7/1995), gia nhập ASEAN
(7/1995)... góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
3.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII a. Bối cảnh lịch sử
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tổ chức tại Hà Nội từ 26/8 đến
1/7/1996, trên quốc tế, nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột
vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học và
công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất,
đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh
tế và đời sống xã hội; chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào.
Trong nước, sau 10 năm đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi bước
đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, quan hệ đối ngoại phát 15 lOMoAR cPSD| 45470709
triển, phá được thế bị bao vây, cô lập. Tuy vậy, nước ta vẫn còn là nước nghèo, kém phát
triển, xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
b. Những đường lối đối ngoại
Một trong sáu bài học chủ yếu qua 10 năm đổi mới được nêu ra ở đại hội là: Mở
rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại.
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra
sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN;
không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với
các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước
đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt
động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền đề
cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những nhiệm vụ này phải được thực hiện theo các
định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.
Trong đó, về lĩnh vực đối ngoại, Đại hội khẳng định lại chủ trương mở rộng quan
hệ quốc tế: “Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” và đặc biệt chú trọng “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Ngoài ra, mở rộng quan hệ đối ngoại nhân
dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi
của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển. c. Thành tựu, đánh giá
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới là: một
là chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác; hai là lần đầu
tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực
hiện đầu tư ra nước ngoài.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, từ năm 1996 đến năm 2000, tuy vẫn
còn nhiều yếu kém, khuyết điểm, trong quá trình thực hiện còn xuất hiện và tồn đọng 16 lOMoAR cPSD| 45470709
những sai sót hay vấn đề chưa thể giải quyết trong nay mai, thế nhưng Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta cũng đã đạt được:
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Việt Nam đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp
tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống
và với nhiều nước khác, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế. Đảng ta tiếp tục củng cố tình
đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc
và tiến bộ trên thế giới. Ngoại giao nhân dân được đẩy mạnh cả về quy mô và địa bàn
góp phần tích cực vào thắng lợi của Đảng và Nhà nước trên mặt trận đối ngoại.
3.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX a. Bối cảnh lịch sử
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tổ chức tại Hà Nội từ 19/4 đến
22/4/2001, trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông
tin và công nghệ sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy so phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh
cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu
trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ.
Khả năng duy trì hoà bình ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập
trung phát triển, đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình
huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.
b. Đường lối đối ngoại
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
đã trình bày 10 vấn đề, trong đó, có mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đồng thời, phát triển quan điểm
mở rộng quan hệ đối ngoại của hai kỳ đại hội trước, Đại hội IX nêu rõ: “Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”, khác biệt so với “Việt Nam muốn là bạn” ở hai kỳ đại hội
trước. Đây được xem là bước phát triển về chất của quan hệ đối ngoại Việt Nam. 17 lOMoAR cPSD| 45470709
Qua 10 năm 1991 - 2001 công tác nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được
những kết quả quan trọng, tuy vậy, việc tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn còn một số hạn chế yếu kém. Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết và chỉ thị về
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, ngoài
ra, còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động, học tập, đoàn tụ gia
đình, hình thành các cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Đa số họ luôn nuôi dưỡng tinh
thần yêu nước, tự tôn dân tộc và giữ gìn truyền thống văn hóa đất nước. Tuy nhiên,
người Việt ở một số nước còn nhiều khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, ở một số
nơi còn bị kỳ thị. Một số người chưa có dịp về thăm đất nước, chưa thấy những thành
tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến, mặc cảm, thậm chí chống phá đất nước.
Trong bối cảnh đó Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành nghị quyết số 36-NQ/TW
ngày 26/3/2004, chủ trương coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách
rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng để góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách
nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định
cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Sau đại hội IX tình hình thế giới diễn biến rất mau lẹ, phức tạp, sự nghiệp hội nhập
quốc tế và bảo vệ tổ quốc của nước ta đang đặt ra những vấn đề mới rất cấp thiết. Hội
nghị Trung Ương 8 khóa IX (7/2003), sau khi chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu
kém của Đảng ta trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, dự báo tình hình quốc tế, khu
vực, đất nước. Sau đó đã có những chiến lược xác định, về đối ngoại: xây dựng sức
mạnh tổng hợp trong đó có lĩnh vực đối ngoại, ra sức phát huy nội lực đồng thời tranh
thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài, chủ động phòng ngừa và triệt tiêu
những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Những nhiệm vụ cơ bản về bảo vệ tổ quốc, về đối ngoại đó là đẩy mạnh hoạt động
đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng,
chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn. c. Thành tựu, đánh giá 18 lOMoAR cPSD| 45470709
Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, nhân dân ta có cả cơ hội lớn và thách
thức lớn. Về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), tuy vẫn còn
nhiều yếu kém, khuyết điểm, tình hình thế giới vẫn đang trong quá trình dần ổn định,
nước ta vẫn không ngừng cố gắng vươn ra thế giới và thực hiện hội nhập, do đó Báo cáo
Chính trị khẳng định đạt được 5 nhóm thành tựu quan trọng, trong đó về đối ngoại, quan
hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị thế của nước ta được tiếp tục nâng cao trên trường quốc tế.
3.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X a. Bối cảnh:
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Sau gần 20 năm tiến hành đổi mới, tình hình
đất nước ta đã có những đổi thay to lớn. Kiên trì đường lối đổi mới của Đại hội VI, được
bổ sung và phát triển qua các đại hội và hội nghị Trung ương, dưới sự lãnh đạo của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tình hình trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi to lớn, ảnh hưởng sâu
sắc đến công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách
quan, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây
khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Nền kinh tế đất
nước vẫn trong tình trạng kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong
khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại, tốc độ phát triển kinh tế chưa tương xứng với
tiềm năng của đất nước. Trình độ khoa học - công nghệ quốc gia còn lạc hậu trên nhiều
phương diện. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã được triệu
tập. Sau một ngày họp trù bị, từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, Đại hội họp chính thức,
với sự tham dự của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.
b. Đường lối chính trị của Đảng về đối ngoại:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chính 19 lOMoAR cPSD| 45470709
sách đối ngoại phục vụ hai mục tiêu "phát triển" và "an ninh", trong đó mục tiêu phát
triển được đặt lên hàng đầu vì chỉ có đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội mới có điều
kiện vật chất để giữ vững an ninh, nâng cao vị thế quốc tế.Để phát triển thuận lợi thì
hoạt động đối ngoại phải góp phần mở rộng tối đa quan hệ quốc tế, tạo dựng mối quan
hệ đan xen với các nước và các trung tâm trên thế giới, tạo dựng môi trường êm thấm ở
bên ngoài. Điểm mới của chính sách đối ngoại ở Đại hội X là đặt cao nhiệm vụ "chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", "hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể
chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương" vì nước ta đang đứng trên ngưỡng cửa
của sự hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới với việc nỗ lực hoàn tất
thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Bên cạnh đó, vận dụng bài học
về sức mạnh tổng hợp, Đại hội lần thứ X đã nhấn mạnh yêu cầu phối hợp chặt chẽ đối
ngoại với quốc phòng và an ninh. Sự phối hợp này cần được thể hiện không chỉ về nhận
thức, quan điểm trên tầm vĩ mô, không chỉ thông qua việc bảo đảm môi trường quốc
phòng, an ninh ổn định để phát triển mà còn cần được thể hiện trong từng hoạt động cụ
thể, địa bàn cụ thể, dự án cụ thể. c. Đánh giá
Đại hội đã đạt được một số thành tựu:
Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không
thường trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ 2008 — 2009.
Năm 2010 Việt Nam đã đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN; tích
cực tham gia và có những đóng góp cho nhiều hoạt động đa phương khu vực và trên thế
giới, như tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu về an ninh hạt nhân và giải trừ vũ khí
hạt nhân, phòng chống tội phạm, biến đổi khí hậu....
Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:
Về mở rộng thị trường: Đến năm 2010, Việt Nam có quan hệ thương mại, đầu tư
với khoảng 230 nước và vùng lãnh thổ, đưa tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu so với GDP lên
trên 170%. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đã gắn kết chặt chẽ vào nền kinh tế thế
giới. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 789 triệu USD, đến nắm 20