Phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản (Dàn ý + 2 Mẫu) | Văn mẫu lớp 10 kết Nối Tri Thức

Phân tích chùm thơ Hai cư Nhật Bản tuyển chọn dàn ý chi tiết kèm theo 2 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 10 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá bài thơ ngày một tốt hơn.

Dàn ý phân tích chùm thơ Hai-
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và ý kiến khái quát về bài thơ.
2. Thân bài
* Nội dung:
- Tâm trạng của con người trong cảnh chiều thu:
+ Hình ảnh trung tâm: "con quạ" gợi ra sự tang tóc, buồn bã.
+ Không gian: cành cây khô.
+ Thời gian: chiều thu.
=> Bức tranh thiên nhiên ảm đạm, thiếu sức sống.
* Nghệ thuật:
+ Dung lượng ngắn.
+ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc.
+ Ngôn từ cô đọng, hàm súc.
3. Kết bài
- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Phân tích chùm thơ Haiku - Mẫu 1
Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này
ra đời phát triển rộng rãi trong thời Phục hưng văn học thế kXVII - XVIII
song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-bắt nguồn từ các thể
thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca... Sau đó một phần của bài thơ
trong các thể thơ này tách ra độc lập tồn tại một thời gian dài không tên gọi
chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm
cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.
Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên
bản tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết y
thể thay đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bởi quy định về cấu tứ ngắn gọn n
người làm thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm
trạng của mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết của tự
nhiên...
Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai- gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như:
Buson, Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô.... Lần đầu tiên thơ hai- được đưa vào
chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 nhà trường phổ thông nước ta với
một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc nằm phần đọc thêm nng
sách giáo khoa sách giáo viên đã một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu
bài khá ràng. Tuy nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng một
cách hiểu, một vài điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói
thêm, người viết không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú
trọng đến một số đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn
sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ
thuật được các soạn giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng,
chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-còn những đặc điểm nghệ
thuật nổi bậc sau.
hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu bộ ta thấy lộ lên
một số điểm chung, tiêu biểu nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối
lập giữa các cặp phạm trù: trụ - con người, hạn - hữu hạn, không gian - thời
gian, hữu hình - vô hình, - không, đen - trắng, tĩnh - động, tối - sáng, nhất thời -
vĩnh hằng... Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ
thể những vấn đề được i đến trong thơ, đây cũng chính một cách giải
khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp riêng.
Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính
nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba-
sô viết:
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương.
Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm
xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng
không gian, thời gian xa vời; đất khách quê hương, xưa nay. Trước cái
hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi
tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó
nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn "ngộ" ra một điều đâu cũng q
hương. Ê-đô là cố hương. Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành
cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn tả trải dài tình cảm
nỗi niềm của mình đối với quê hương đất nước. Bài thơ ngắn gọn còn một
triết sâu sắc trong quy luật tình cảm của con người với bất cứ nơi đâu khi bước
chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng
ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một
món nợ lớn trong đời.
Một lần ngang qua cánh rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng
khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc
gió mùa thu tái tê.
Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi
nhà thơ liên tưởng đến một điều tính chất bức thiết trong cuộc sống con người(
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải sự chuyển đổi giữa nghe nghĩ
một sự chuyển động giữa động tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng
của nhà thơ. Hai chi tiết tiếng vượn tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu
tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái
ảo khoảng âm thanh không ràng trong nhất thời, cái thực chính tiếng
lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có
nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị trong sáng nhưng ý nghĩa tư tưởng lại vượt
ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan.
Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hBi-oa, nhà thơ
viết.
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.
Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết sự tương phản đối lập giữa không
gian trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái nhỏ hạn hữu trong đời
sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện
bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian thời gian, thiên nhiên con
người... Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế
pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết tương giao giữa
sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu
trái tim người đọc.
Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự.
Trên cành khô
cánh quạ đậu
đêm thu.
Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã sự đối lập tạo nên một khung
cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi vào đêm thu đã cuốn hút
con người vào cõi mông lung n tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ nỗi buồn
còn sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu màn đêm bao la hiu quạnh,
con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la...
Thơ hai-chỉ những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ nhiều
khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được
đề cập trong thơ cũng không cao xa lạ lẫm chỉ bình thường như : thiên
nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn cả bùn đất cỏ cây...Khi
nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình
Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô.
Tiếng chim tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng
thế, Ba-một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như
một ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng điều khó nói, thế nhà thơ đã
thốt thành lời. đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm
hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của
nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được
bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó dòng sông
lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho quê hương.
Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ tính chất nhân
văn ớng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong
tưởng tình cảm của con người.
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.
ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ
giúp. Đó sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khngồi ướt nhem bên vệ rừng
khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng hình ảnh của người nông dân, những
trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua
những hình ảnh đơn mộc mạc, tấm lòng của con người với những sinh vật
nhỏ tội nghiệp đó cũng chính lòng yêu thương đối với những người nghèo
khổ.
Nhà thơ Chiyo viết
A! Hoa Asagao
dây gầu vương hoa bên giếng
đành xin nước nhà bên.
Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm
tiết sự ý thức nhạy cảm, tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của
những cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến
cái đẹp (Đành xin nước nhà bên) âu cũng điều dễ hiểu, bởi thiên nhiên đẹp, con
người nâng niu trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn một điều không lạ
trong thơ ca truyền thống Á Đông. Bài thơ còn một thông điệp gửi đến mọi
người, mong mọi người hãy nâng niu cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.
Trong thơ hai-ngoài một số bài những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể
như hoa đào - mùa xuân, tiếng ve - mùa hè... còn có nhiều bài không có. Những bài
này chỉ một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim
đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa
đông... Nhận xét về thơ hai-Nhật Bản, nhà thơ Tagore (Ấn Độ) cho rằng, trong
thơ hai-"nthơ chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên". Như vậy
những từ này có khi được coi đề tài, là điểm sáng, "là con mắt" để khám phá nội
dung nghệ thuật của bài thơ. Chỉ vài nét chấm pthời gian, người đọc thể
nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng.
Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm.
Tiếng ve ngâm mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta
dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ tiếng ve im lắng cất lên trước cảnh đá vật
nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u
tịch mênh mông, lúc đó con người thể ngộ ra một điều trong cuộc sống cho
riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ sức gợi, tính liên tưởng, phương pháp
suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng tiếng nói, nỗi lòng, tâm tình cảm con
người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôm nay và mai sau...
Giải mã tìm hiểu thơ hai-cư, một thể thơ nổi tiếng trong thơ ca Nhật Bản thế
giới một điều vốn rất khó. Trên đây chỉ những nét chấm phá tính chất chủ
quan của người viết đối với những bài thơ hai-trong sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 10. Đây cũng chỉ mới là bước tìm hiểu ban đầu, có lẽ còn nhiều điều chưa thỏa
đáng, mong rằng quý thầy cô, quý đồng nghiệp sẽ tiếng nói sâu hơn, góp phần
đưa thể thơ này đến với người đọc một cách thật gần gũi.
Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng tôi tin chắc rằng thơ hai-Nhật Bản mãi mãi sẽ
một viên ngọc quý ở xứ sở "mặt trời mọc" với công chúng yêu thơ.
Phân tích Chùm thơ Hai-cư Nhật Bản - Mẫu 2
Ta đã nghe đâu câu nói: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh
thần, do đó không đơn giản cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân
chính phải nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được
thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại”. Thật vậy, nghệ thuật thơ ca
sinh ra từ cái nôi đời sống nhưng lại phát triển trong tâm hồn của con người. Cùng
với sự phát triển ấy, thơ nuôi dưỡng giáo dục con người ta theo đúng cái nghĩa
nhân văn của nghệ thuật. Thơ mang vẻ đẹp tinh xảo của nghệ thuật ngôn từ, tuy
nhiên thơ không chỉ là vậy! Con chữ không thể là cái xác khô nằm “yên nghỉ” trên
trang giấy; thơ phải sống trong lòng độc giả, gieo vào đó hạt giống của những
điều tốt đẹp. Chứ thơ không thể “chết” trên trang giấy để lại nơi tâm hồn con
người ta sự đen tối, độc hại điêu tàn. Tất cả những điều ấy như thể đang nói về
thơ Haiku-giai điệu đã ngân vang hàng thế kỉ qua ở xứ sở hoa anh đào.
Thơ một thể loại văn học nảy sinh rất sớm từ đời sống con người, “thi”
“nhân” giữa vòng liên đới không thể nào tách rời khỏi nhau, giống như một
mối quan hệ cho người ta cố gắng giằng xé đến đâu thì thơ với đời sống vẫn
quấn quýt không rời. Trong cuộc “hôn phối” kéo dài cả thiên thu ấy thơ đã “chăm
sóc” con người ta bằng sự nhận thức đối với cuộc sống, khả năng gợi cảm sâu sắc,
vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua những liên
tưởng, tưởng tượng phong phú và bằng cả sự rung động của ngôn từ giàu tính nghệ
thuật. Đi vào trong kho tàng văn hoá Á Đông vĩ đại, giàu sang và trở thành một tài
sản vô giá của nền văn hóa Nhật Bản theo một cách rất riêng, thơ Haiku là kết tinh
nhiều giá trị văn hóa tinh thần của người Nhật nói riêng và người phương Đông nói
chung. Xuất hiện vào khoảng thế kỉ XVII thịnh hành vào thời kỳ Edo những
năm 1603-1867 thơ Haiku mang hơi thở của Thiền tông, in đậm dấu ấn của thế
giới u huyền, thoát tục, đồng thời chứa đựng trong mình bức tranh thiên nhiên rộng
lớn với những âm thanh màu sắc đặc trưng cho bốn mùa, được thể hiện dưới một
hình thức ngắn gọn, cô đọng.
Linh hồn của văn học Nhật Bản không phô trương, hoa mỹ về mặt hình thức bởi
mỗi bài thơ chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết. Tuy vậy, sức chứa về mặt tư tưởng, triết lí nhân
sinh của thơ Haiku lại cùng sâu rộng. Nhà thơ Tago từng nhận xét vthơ
Haiku: “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”. Chẳng cần phải nói
nhiều bởi tâm hồn con người ta phong phú, hãy để bạn đọc tự vẽ ra thế giới
họ mong muốn. Thơ thiên về gợi hơn miêu tả diễn giải. Sức sống sự hấp
dẫn của Thơ Hai -nằm khả năng kiệm lời vẫn khơi gợi nhiều cảm xúc suy
nghĩ. Tưởng chừng như đọng làm thơ Haiku thêm nặng nề, nhưng không! Thơ
Haiku lại nhẹ nhàng, bay bổng đến kì lạ. Sự nhẹ nhàng ấy đến từ tâm hồn yêu thiên
nhiên, muốn hoà hợp với đất trời được thể hiện qua “quý từ” chỉ a bài thơ
Haiku nào cũng có.
Đến với đất nước Nhật Bản đến với xứ sở huyền của Thần đạo với số các
tập tục và nghi lễ; với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ nên còn
gọi “Xứ sở hoa anh đào”; với những “Thiếu nữ duyên dáng trong áo
Kimono”. Đây còn xứ sở dũng mãnh của “Truyền thống đạo” “Kiếm
đạo”, của những môn phái thuật nổi tiếng như: Sumo, aikido, karate, judo. Trên
sân khấu kịch những gương “Mặt nạ” người trầm lặng không nói bất
động. Chúng ta sẽ bị chìm đắm trong những trang tiểu thuyết dài hàng nghìn trang
nhưng lại ấn tượng với những vần thơ hai-cực ngắn gắn liền với tên tuổi của
Basho, Chiyô, Issa…với những nét thơ riêng nhưng chung quy lại đều là sự tinh tế
của tâm hồn người Nhật.
Thơ Haiku có rất nhiều đặc tính nhưng điều làm Bashô – nhà thơ có công lớn trong
việc hoàn thiện thơ Haiku để tâm hơn cả đó chính là cảm thức về sự tịch mịch, sâu
xa vô hạn của sự vật, nhìn thấy sự vật tự bộc lộ một cách kì diệu, cảm thức ấy được
gọi với cái tên Sabi-niềm đơn huy hoàng được Bashô thể hiện sâu thẳm nhất
trong bài thơ:
“Trên cành khô
Chim quạ đậu
Chiều thu”
Thoạt nghe ta thấy bài thơ như một bức tranh thuỷ mặc với gam màu trầm tối, lạnh
lẽo. “Cành cây khô” “chim quạ đậu” dường như đã mang hết thảy những đặc
điểm của một “chiều thu” u buồn. Thu về lá cây như trút hết khỏi cành chỉ để lại sự
gầy guộc, khẳng khiu cùng. như chừa lại chỗ đứng cho chim quạ với cái
màu đen tuyền con mắt sắc lẹm. Nếu như thơ Nguyễn Khuyến khiến chúng ta
liên tưởng đến một mùa thu với sự lạnh lẽo, trong trong trẻo như trong câu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”
(Thu điếu-Nguyễn Khuyến)
Thì đây Ba-cũng gợi ra cho ta những hình ảnh như vậy nhưng với một cảm
giác khác hoàn toàn. Một chiều thu sầu não, vắng lặng đến tịch khiến lòng ta
phải cảm thấy u hoài. Nhưng thật lạ, bày ra trước mắt cái vẻ liêu nhưng
tâm hồn ta lại chẳng hề thấy chán chường hay bi luỵ, oán đời. Khác với Xuân Diệu
trong “Đây mùa thu tới”:
“Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li”
Đây chính cảm thức Sabi, một cảm thức hùng vĩ chứ không phải nỗi đơn, bi
luỵ nhân. Đọc bài thơ ta mới hiểu thế nào chất Sa-bi đơn sơ, tao nhã, liêu
đến tiêu điều nhưng lại chẳng đem cho ta cái cảm giác đau khổ.
Nhắc đến Nhật Bản nhắc đến xứ sở hoa anh đào, mặt trời mọc, áo kimono, nhắc
đến một dân tộc thấm đẫm chất thiền, thơ Haiku như một biểu trưng. Ví như
Đường luật của Trung Hoa hay Lục bát của Việt Nam mỗi nền văn hoá đều
những tưởng, đặc trưng riêng. Nhưng chúng ta biết rằng văn hóa không cao
hay thấp chỉ sự khác biệt. Cũng vậy, hoa triêu nhan từ địa vị ăn nhờ đậu
trong mắt người Việt, thì sang văn hóa Nhật Bản đã vươn lên ngôi nữ hoàng kiêu
hãnh. Điều đó được chứng minh qua hàng loạt bài thơ Haiku. Hãy khoan nhắc đến
những kiệt tác của thi Basho, bài thơ đặc sắc nhất gắn liền với hoa triêu nhan
trong thơ Haiku có lẽ phải là bài thơ của nữ sĩ Chiyo:
“Ôi hoa triêu nhan
Dây gầu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên.”
Trong tinh thần của Thiền tông, không chỉ loài người hữu tình mà ngay cả loài cây
cỏ cũng khả năng giác ngộ, tức Phật tính. Bài thơ trên thể được xem
như một tuyên ngôn hùng hồn của lòng từ bi Phật giáo phảng phất triết của
Thiền Tông. Hoa triêu nhan vốn một loại dây leo, đã quấn vào dây gàu để nở.
Trước cái đẹp, trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn
thương nên bà chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện
hữu. Một người lỗ mãng sẽ dễ dàng bứt nhánh triêu nhan đthuận lợi cho công
việc múc nước của mình.
Bài thơ không giải thích nhưng tự thân sự kiện đã nói nhiều hơn ba câu thơ ngắn
ngủi. Đây chính tinh thần ý tại ngôn ngoại, lại cũng chính sự ngôn của
Thiền tính nhân văn của Phật giáo. Cần phải một nội tâm tĩnh lặng, một
tính cách dịu dàng hơn cả một tình thương lớn, một tấm lòng trắc ẩn lớn mới
cách hành xử như vậy. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình
thương mênh mông cảm động. Sức sống mãnh liệt của đóa triêu nhan cũng
chính là nguồn cảm hứng sáng tác cho nhà thơ Lưu Đức Trung với bài thơ Haiku:
“Bìm bìm
Leo trên bờ ao
Tay ai vớt bèo”
Tạm chia tay với đóa triêu nhan xinh đẹp của nữ Chiyo, đào sâu vào kho tàng
thơ Haiku phong phú và đồ sộ ta bắt gặp một con ốc miệt mài leo núi Phú trong
bài thơ của Issa-một trong bốn nhà thơ Haiku vĩ đại nhất của Nhật Bản:
“Chậm rì chậm rì
Kìa con ốc nhỏ
Trèo núi Fuji”
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinxki từng tâm đắc: “Nhà thơ, ngay cả các nhà
thơ đại nhất cũng phải đồng thời những nhà tưởng”. Như một minh chứng
ràng, chỉ với 1 bài thơ Haiku ngắn gọn kết hợp với việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ
của con vật nhà thơ Issa đã truyền tải thông điệp sâu sắc, triết lý, đầy nhân văn.
“Chậm rì, chậm rì” lời miêu tả chân thật, chính xác của nhà thơ dành cho chú ốc.
Nhưng trong cái “chậm” ấy ta thấy được sự kiên nhẫn. Bản thân chỉ một con ốc
nhỏ di chuyển cùng chậm chạp, tuy chậm nhưng lại không dừng lại cứ đi
mãi. Cùng với sự chậm chạp ấy sự xuất hiện nhỏ bé, bình dị của chú c nhỏ.
Trong thơ Haiku, việc sử dụng nghệ thuật tương phản cũng là một nét đặc trưng rất
độc đáo. Đó sự đối lập tương phản giữa cái hạn hữu hạn, giữa không có,
giữa cái lớn bé, xa gần, con người trụ… Trong bài thơ “Ao cũ”, Ba-
viết:
“Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xa”
Nhà thơ Issa cũng không nằm ngoài vòng đặc trưng ấy, trước cái nhỏ bình dị
của chú ốc nhỏ cả núi Phú tuyết trắng hùng vĩ. Sự đối lập giữa lớn-nhỏ đã
khiến cho chúng ta nhiều suy tưởng. Trên thực tế cuộc sống, mỗi người đều
chú ốc nhỏ bình dị nhưng đều ấp một giấc cháy bỏng của riêng cuộc đời
mình. Sức mạnh nội tại của chính bản thân chúng ta nguồn sức mạnh động lực
để thúc đẩy đưa chúng ta lên đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu mục tiêu của
chú ốc nhỏ là chinh phục được núi Phú Sĩ thì ắt hẳn trong mỗi chúng ta đều có một
đỉnh cao mà bản thân muốn chinh phục.
Bài thơ tuy ngắn gọn, hàm súc. Tứ thơ tối giản, chật chội về mặt từ ngữ nhưng ý vị
của thơ Haiku không bao giờ là chật. Các sự việc được phản ánh trong thơ haiku có
khi tưởng như rời rạc, không liên kết với nhau, nhưng thực ra giữa chúng mối
liên kết chặt chẽ từ bên trong. Từ “sự tinh giản của tâm hồn” (A.Tagor), thơ haiku
đã tạo nên sức mạnh nghệ thuật to lớn. Chính thế, nhà nghiên cứu phê bình
Roland Barther (Pháp) nhận xét: “Sự ngắn gọn của haiku không phải vấn đề
hình thức. Haiku không phải một tưởng phong phú rút vào một hình thức
ngắn sự tin vắn tắt tìm ra được hình thức vừa vặn cho mình”. Hơn hết chính
sự giản kiệm này sự tôn trọng độc giả của các nhà thơ Haiku. Trên đường thơ,
họ nhường lối cho người đọc, không lấn chiếm không làm nghẽn đường. Người
đọc đi cùng nhà thơ vẫn còn đi tiếp khi nhà thơ dừng lại. Tagor còn giải thích
thêm rằng:
“Lý do khiến nhà thơ rút lui nhanh chóng thế người đọc Nhật quyền năng
tinh thần về tưởng tượng rất lớn”.
Lời nhận xét của thi hào người Ấn có thể sẽ khiến những độc giả không phải người
Nhật thấy chạnh lòng, nhưng khả năng đọc thấu hiểu thơ Haiku không phải
đặc quyền của riêng người Nhật. Bất cứ ai cũng thể thấu hiểu yêu mến thơ
Haiku, nhưng muốn thế, người đọc không quyền thụ động. Nhà thơ không nói
hộ ta tất cả. Cuộc nói chuyện hết lời cạn ý nào chẳng chán. Trò chuyện với thơ
lại càng không thể để cho niềm chán ngán ấy nổi dậy.
Cũng nbao thể thơ khác, thơ Haiku đến với văn hoá của người Nhật như một
mối duyên trùng phùng vậy. Thơ bắt nguồn từ đời sống, đi qua những chặng
đường dài để đến với độc giả sau cùng lại trở về với đời sống với một vai trò
một “người mẹ” chứ không phải một “đứa con” như thuở trước. Thơ trở về “đất
mẹ” với trọng trách cao cả giáo dục và tái tạo lại con người hội. Cho nên
trong quá trình “mở đường” cho thơ quay trở lại độc giả cần “mở lòng” đón nhận
thơ bằng tất cả những mình có. Khoan đổ lỗi cho nhà thơ sáng tác tệ, khoan đổ
lỗi cho bài thơ không hay, hãy tự xem rằng bản thân đã nâng tâm hồn lên gần với
thi hay chưa? Đã góp công vào quá trình đồng sáng tạo nghệ thuật hay chưa?
Khi đã ý thức được điều ấy, hãy để thi ca, nghệ thuật trở về với cuộc đời.
Người Nhật thực sự đã mở ra một con đường trải đầy những cánh anh đào cho thơ
Haiku xuất hiện vào bốn thế ktrước quay trở lại với đời sống của người dân Nhật
Bản, hơn thế con đường ấy đưa thơ Haiku đi vào ngôi đền của những điều vô giá.
Cho đến ngày nay, thơ Haiku Nhật Bản vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế
giới bởi nội dung phong phú nghệ thuật đặc sắc của . Đồng thời thể thơ này
vẫn được nhiều người bắt chước sáng tác, nhưng không ai thể vượt qua được
thơ haiku Nhật Bản với những thi hào nổi tiếng. Thơ haiku sản phẩm tinh thần
riêng của người Nhật niềm tự hào của đất nước Phù Tang, của xứ sở hoa anh
đào.
| 1/11

Preview text:


Dàn ý phân tích chùm thơ Hai-cư 1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và ý kiến khái quát về bài thơ. 2. Thân bài * Nội dung:
- Tâm trạng của con người trong cảnh chiều thu:
+ Hình ảnh trung tâm: "con quạ" gợi ra sự tang tóc, buồn bã.
+ Không gian: cành cây khô. + Thời gian: chiều thu.
=> Bức tranh thiên nhiên ảm đạm, thiếu sức sống. * Nghệ thuật: + Dung lượng ngắn.
+ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc.
+ Ngôn từ cô đọng, hàm súc. 3. Kết bài
- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Phân tích chùm thơ Haiku - Mẫu 1
Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này
ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII - XVIII
và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể
thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca... Sau đó một phần của bài thơ
trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi
chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm
cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.
Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên
bản tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết này có
thể thay đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bởi quy định về cấu tứ ngắn gọn nên
người làm thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm
trạng của mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết lí của tự nhiên...
Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai-cư gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như:
Buson, Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô.... Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào
chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với
một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng
sách giáo khoa và sách giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu
bài khá rõ ràng. Tuy nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một
cách hiểu, một vài điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói
thêm, người viết không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú
trọng đến một số đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn
sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ
thuật được các soạn giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng,
chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc sau.
Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên
một số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối
lập giữa các cặp phạm trù: vũ trụ - con người, vô hạn - hữu hạn, không gian - thời
gian, hữu hình - vô hình, có - không, đen - trắng, tĩnh - động, tối - sáng, nhất thời -
vĩnh hằng... Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ
thể những vấn đề được nói đến trong thơ, và đây cũng chính là một cách giải mã
khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp riêng.
Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính
nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba- sô viết:
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương.
Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm
xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng
không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay. Trước cái vô
hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi
tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó
nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và "ngộ" ra một điều đâu cũng là quê
hương. Ê-đô là cố hương. Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành
cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn tả trải dài tình cảm
nỗi niềm của mình đối với quê hương và đất nước. Bài thơ ngắn gọn còn là một
triết lí sâu sắc trong quy luật tình cảm của con người với bất cứ nơi đâu khi bước
chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng
ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời.
Một lần ngang qua cánh rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng
khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc
gió mùa thu tái tê.
Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi
nhà thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết trong cuộc sống con người(
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển đổi giữa nghe và nghĩ mà là
một sự chuyển động giữa động và tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng
của nhà thơ. Hai chi tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu
tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái
ảo là khoảng âm thanh không rõ ràng trong nhất thời, cái thực là chính là tiếng
lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có
nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị trong sáng nhưng ý nghĩa tư tưởng lại vượt
ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan.
Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết.
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.
Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương phản đối lập giữa không
gian vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái gì nhỏ bé hạn hữu trong đời
sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện
ở bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian và thời gian, thiên nhiên và con
người... Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế
có pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết lí tương giao giữa
sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc.
Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự. Trên cành khô cánh quạ đậu đêm thu.
Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối lập tạo nên một khung
cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá vào đêm thu đã cuốn hút
con người vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà
còn là sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và màn đêm bao la hiu quạnh,
con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la...
Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ có nhiều
khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được
đề cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà chỉ bình thường như : thiên
nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn có cả bùn đất cỏ cây...Khi
nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình Chim đỗ quyên hót ở kinh đô mà nhớ kinh đô.
Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng
thế, Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như
một kí ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều khó nói, thế mà nhà thơ đã
thốt thành lời. Ở đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm
hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của
nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được
bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó là dòng sông
lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho quê hương.
Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ có tính chất nhân
văn hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong tư
tưởng tình cảm của con người.
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.
Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ
giúp. Đó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi ướt nhem bên vệ rừng
khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của người nông dân, những
trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua
những hình ảnh đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người với những sinh vật bé
nhỏ tội nghiệp và đó cũng chính là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ. Nhà thơ Chiyo viết A! Hoa Asagao
dây gầu vương hoa bên giếng
đành xin nước nhà bên.
Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ vô cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm
tiết là sự ý thức nhạy cảm, là tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của
những cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến
cái đẹp (Đành xin nước nhà bên) âu cũng là điều dễ hiểu, bởi thiên nhiên đẹp, con
người nâng niu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn là một điều không lạ
trong thơ ca truyền thống Á Đông. Bài thơ còn là một thông điệp gửi đến mọi
người, mong mọi người hãy nâng niu cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.
Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể
như hoa đào - mùa xuân, tiếng ve - mùa hè... còn có nhiều bài không có. Những bài
này chỉ có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim
đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa
đông... Nhận xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ Tagore (Ấn Độ) cho rằng, trong
thơ hai-cư "nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên". Như vậy
những từ này có khi được coi là đề tài, là điểm sáng, "là con mắt" để khám phá nội
dung và nghệ thuật của bài thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, người đọc có thể
nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng. Vắng lặng u trầm thấm sâu vào đá tiếng ve ngâm.
Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta
dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im lắng cất lên trước cảnh đá vật
nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u
tịch mênh mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều gì trong cuộc sống cho
riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính liên tưởng, là phương pháp
suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi lòng, là tâm tư tình cảm con
người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôm nay và mai sau...
Giải mã và tìm hiểu thơ hai-cư, một thể thơ nổi tiếng trong thơ ca Nhật Bản và thế
giới là một điều vốn rất khó. Trên đây chỉ là những nét chấm phá có tính chất chủ
quan của người viết đối với những bài thơ hai-cư trong sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 10. Đây cũng chỉ mới là bước tìm hiểu ban đầu, có lẽ còn nhiều điều chưa thỏa
đáng, mong rằng quý thầy cô, quý đồng nghiệp sẽ có tiếng nói sâu hơn, góp phần
đưa thể thơ này đến với người đọc một cách thật gần gũi.
Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng tôi tin chắc rằng thơ hai-cư Nhật Bản mãi mãi sẽ là
một viên ngọc quý ở xứ sở "mặt trời mọc" với công chúng yêu thơ.
Phân tích Chùm thơ Hai-cư Nhật Bản - Mẫu 2
Ta đã nghe đâu câu nói: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh
thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân
chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là
thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại”. Thật vậy, nghệ thuật thơ ca
sinh ra từ cái nôi đời sống nhưng lại phát triển trong tâm hồn của con người. Cùng
với sự phát triển ấy, thơ nuôi dưỡng và giáo dục con người ta theo đúng cái nghĩa
nhân văn của nghệ thuật. Thơ mang vẻ đẹp tinh xảo của nghệ thuật ngôn từ, tuy
nhiên thơ không chỉ là vậy! Con chữ không thể là cái xác khô nằm “yên nghỉ” trên
trang giấy; mà thơ phải sống trong lòng độc giả, gieo vào đó hạt giống của những
điều tốt đẹp. Chứ thơ không thể “chết” trên trang giấy và để lại nơi tâm hồn con
người ta sự đen tối, độc hại và điêu tàn. Tất cả những điều ấy như thể đang nói về
thơ Haiku-giai điệu đã ngân vang hàng thế kỉ qua ở xứ sở hoa anh đào.
Thơ là một thể loại văn học nảy sinh rất sớm từ đời sống con người, “thi” và
“nhân” ở giữa vòng liên đới không thể nào tách rời khỏi nhau, nó giống như một
mối quan hệ cho dù người ta có cố gắng giằng xé đến đâu thì thơ với đời sống vẫn
quấn quýt không rời. Trong cuộc “hôn phối” kéo dài cả thiên thu ấy thơ đã “chăm
sóc” con người ta bằng sự nhận thức đối với cuộc sống, khả năng gợi cảm sâu sắc,
vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua những liên
tưởng, tưởng tượng phong phú và bằng cả sự rung động của ngôn từ giàu tính nghệ
thuật. Đi vào trong kho tàng văn hoá Á Đông vĩ đại, giàu sang và trở thành một tài
sản vô giá của nền văn hóa Nhật Bản theo một cách rất riêng, thơ Haiku là kết tinh
nhiều giá trị văn hóa tinh thần của người Nhật nói riêng và người phương Đông nói
chung. Xuất hiện vào khoảng thế kỉ XVII và thịnh hành vào thời kỳ Edo những
năm 1603-1867 thơ Haiku mang hơi thở của Thiền tông, in đậm dấu ấn của thế
giới u huyền, thoát tục, đồng thời chứa đựng trong mình bức tranh thiên nhiên rộng
lớn với những âm thanh màu sắc đặc trưng cho bốn mùa, được thể hiện dưới một
hình thức ngắn gọn, cô đọng.
Linh hồn của văn học Nhật Bản không phô trương, hoa mỹ về mặt hình thức bởi
mỗi bài thơ chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết. Tuy vậy, sức chứa về mặt tư tưởng, triết lí nhân
sinh của thơ Haiku lại vô cùng sâu và rộng. Nhà thơ Tago từng nhận xét về thơ
Haiku: “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”. Chẳng cần phải nói
nhiều bởi tâm hồn con người ta là phong phú, hãy để bạn đọc tự vẽ ra thế giới mà
họ mong muốn. Thơ thiên về gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp
dẫn của Thơ Hai -cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn khơi gợi nhiều cảm xúc suy
nghĩ. Tưởng chừng như cô đọng làm thơ Haiku thêm nặng nề, nhưng không! Thơ
Haiku lại nhẹ nhàng, bay bổng đến kì lạ. Sự nhẹ nhàng ấy đến từ tâm hồn yêu thiên
nhiên, muốn hoà hợp với đất trời được thể hiện qua “quý từ” chỉ mùa mà bài thơ Haiku nào cũng có.
Đến với đất nước Nhật Bản là đến với xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các
tập tục và nghi lễ; với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ nên còn
gọi là “Xứ sở hoa anh đào”; với những “Thiếu nữ duyên dáng trong tà áo
Kimono”. Đây còn là xứ sở dũng mãnh của “Truyền thống võ sĩ đạo” và “Kiếm
đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: Sumo, aikido, karate, judo. Trên
sân khấu kịch Nô là những gương “Mặt nạ” người trầm lặng không nói và bất
động. Chúng ta sẽ bị chìm đắm trong những trang tiểu thuyết dài hàng nghìn trang
nhưng lại ấn tượng với những vần thơ hai-cư cực ngắn gắn liền với tên tuổi của
Basho, Chiyô, Issa…với những nét thơ riêng nhưng chung quy lại đều là sự tinh tế
của tâm hồn người Nhật.
Thơ Haiku có rất nhiều đặc tính nhưng điều làm Bashô – nhà thơ có công lớn trong
việc hoàn thiện thơ Haiku để tâm hơn cả đó chính là cảm thức về sự tịch mịch, sâu
xa vô hạn của sự vật, nhìn thấy sự vật tự bộc lộ một cách kì diệu, cảm thức ấy được
gọi với cái tên Sabi-niềm cô đơn huy hoàng được Bashô thể hiện sâu thẳm nhất trong bài thơ: “Trên cành khô Chim quạ đậu Chiều thu”
Thoạt nghe ta thấy bài thơ như một bức tranh thuỷ mặc với gam màu trầm tối, lạnh
lẽo. “Cành cây khô” và “chim quạ đậu” dường như đã mang hết thảy những đặc
điểm của một “chiều thu” u buồn. Thu về lá cây như trút hết khỏi cành chỉ để lại sự
gầy guộc, khẳng khiu vô cùng. Nó như chừa lại chỗ đứng cho chim quạ với cái
màu đen tuyền và con mắt sắc lẹm. Nếu như thơ Nguyễn Khuyến khiến chúng ta
liên tưởng đến một mùa thu với sự lạnh lẽo, trong trong trẻo như trong câu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”
(Thu điếu-Nguyễn Khuyến)
Thì ở đây Ba-sô cũng gợi ra cho ta những hình ảnh như vậy nhưng với một cảm
giác khác hoàn toàn. Một chiều thu sầu não, vắng lặng đến cô tịch khiến lòng ta
phải cảm thấy u hoài. Nhưng thật kì lạ, bày ra trước mắt là cái vẻ cô liêu nhưng
tâm hồn ta lại chẳng hề thấy chán chường hay bi luỵ, oán đời. Khác với Xuân Diệu
trong “Đây mùa thu tới”:
“Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li”
Đây chính là cảm thức Sabi, một cảm thức hùng vĩ chứ không phải nỗi cô đơn, bi
luỵ cá nhân. Đọc bài thơ ta mới hiểu thế nào là chất Sa-bi đơn sơ, tao nhã, cô liêu
đến tiêu điều nhưng lại chẳng đem cho ta cái cảm giác đau khổ.
Nhắc đến Nhật Bản là nhắc đến xứ sở hoa anh đào, mặt trời mọc, áo kimono, nhắc
đến một dân tộc thấm đẫm chất thiền, mà thơ Haiku như là một biểu trưng. Ví như
Đường luật của Trung Hoa hay Lục bát của Việt Nam mỗi nền văn hoá đều có
những tư tưởng, đặc trưng riêng. Nhưng chúng ta biết rằng văn hóa không có cao
hay thấp mà chỉ có sự khác biệt. Cũng vậy, hoa triêu nhan từ địa vị ăn nhờ ở đậu
trong mắt người Việt, thì sang văn hóa Nhật Bản đã vươn lên ngôi nữ hoàng kiêu
hãnh. Điều đó được chứng minh qua hàng loạt bài thơ Haiku. Hãy khoan nhắc đến
những kiệt tác của thi sĩ Basho, bài thơ đặc sắc nhất gắn liền với hoa triêu nhan
trong thơ Haiku có lẽ phải là bài thơ của nữ sĩ Chiyo: “Ôi hoa triêu nhan
Dây gầu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên.”
Trong tinh thần của Thiền tông, không chỉ loài người hữu tình mà ngay cả loài cây
cỏ cũng có khả năng giác ngộ, tức là có Phật tính. Bài thơ trên có thể được xem
như một tuyên ngôn hùng hồn của lòng từ bi Phật giáo và phảng phất triết lý của
Thiền Tông. Hoa triêu nhan vốn là một loại dây leo, đã quấn vào dây gàu để nở.
Trước cái đẹp, trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn
thương nên bà chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện
hữu. Một người lỗ mãng sẽ dễ dàng bứt nhánh triêu nhan để thuận lợi cho công
việc múc nước của mình.
Bài thơ không giải thích nhưng tự thân sự kiện đã nói nhiều hơn ba câu thơ ngắn
ngủi. Đây chính là tinh thần ý tại ngôn ngoại, lại cũng chính là sự vô ngôn của
Thiền và là tính nhân văn của Phật giáo. Cần phải có một nội tâm tĩnh lặng, một
tính cách dịu dàng và hơn cả là một tình thương lớn, một tấm lòng trắc ẩn lớn mới
có cách hành xử như vậy. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình
thương mênh mông và cảm động. Sức sống mãnh liệt của đóa triêu nhan cũng
chính là nguồn cảm hứng sáng tác cho nhà thơ Lưu Đức Trung với bài thơ Haiku: “Bìm bìm Leo trên bờ ao Tay ai vớt bèo”
Tạm chia tay với đóa triêu nhan xinh đẹp của nữ sĩ Chiyo, đào sâu vào kho tàng
thơ Haiku phong phú và đồ sộ ta bắt gặp một con ốc miệt mài leo núi Phú Sĩ trong
bài thơ của Issa-một trong bốn nhà thơ Haiku vĩ đại nhất của Nhật Bản:
“Chậm rì chậm rì Kìa con ốc nhỏ Trèo núi Fuji”
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinxki từng tâm đắc: “Nhà thơ, ngay cả các nhà
thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng”. Như một minh chứng
rõ ràng, chỉ với 1 bài thơ Haiku ngắn gọn kết hợp với việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ
của con vật nhà thơ Issa đã truyền tải thông điệp sâu sắc, triết lý, đầy nhân văn.
“Chậm rì, chậm rì” lời miêu tả chân thật, chính xác của nhà thơ dành cho chú ốc.
Nhưng trong cái “chậm” ấy ta thấy được sự kiên nhẫn. Bản thân chỉ là một con ốc
nhỏ di chuyển vô cùng chậm chạp, tuy chậm nhưng lại không dừng lại mà cứ đi
mãi. Cùng với sự chậm chạp ấy là sự xuất hiện nhỏ bé, bình dị của chú ốc nhỏ.
Trong thơ Haiku, việc sử dụng nghệ thuật tương phản cũng là một nét đặc trưng rất
độc đáo. Đó là sự đối lập tương phản giữa cái vô hạn – hữu hạn, giữa không – có,
giữa cái lớn – bé, xa – gần, con người – vũ trụ… Trong bài thơ “Ao cũ”, Ba-sô viết: “Ao cũ Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xa”
Nhà thơ Issa cũng không nằm ngoài vòng đặc trưng ấy, trước cái nhỏ bé bình dị
của chú ốc nhỏ là cả núi Phú Sĩ tuyết trắng hùng vĩ. Sự đối lập giữa lớn-nhỏ đã
khiến cho chúng ta có nhiều suy tưởng. Trên thực tế cuộc sống, mỗi người đều là
chú ốc nhỏ bé bình dị nhưng đều ấp ủ một giấc mơ cháy bỏng của riêng cuộc đời
mình. Sức mạnh nội tại của chính bản thân chúng ta là nguồn sức mạnh động lực
để thúc đẩy đưa chúng ta lên đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu mục tiêu của
chú ốc nhỏ là chinh phục được núi Phú Sĩ thì ắt hẳn trong mỗi chúng ta đều có một
đỉnh cao mà bản thân muốn chinh phục.
Bài thơ tuy ngắn gọn, hàm súc. Tứ thơ tối giản, chật chội về mặt từ ngữ nhưng ý vị
của thơ Haiku không bao giờ là chật. Các sự việc được phản ánh trong thơ haiku có
khi tưởng như rời rạc, không liên kết với nhau, nhưng thực ra giữa chúng có mối
liên kết chặt chẽ từ bên trong. Từ “sự tinh giản của tâm hồn” (A.Tagor), thơ haiku
đã tạo nên sức mạnh nghệ thuật to lớn. Chính vì thế, nhà nghiên cứu phê bình
Roland Barther (Pháp) nhận xét: “Sự ngắn gọn của haiku không phải là vấn đề
hình thức. Haiku không phải là một tư tưởng phong phú rút vào một hình thức
ngắn mà là sự tin vắn tắt tìm ra được hình thức vừa vặn cho mình”. Hơn hết chính
sự giản kiệm này là sự tôn trọng độc giả của các nhà thơ Haiku. Trên đường thơ,
họ nhường lối cho người đọc, không lấn chiếm không làm nghẽn đường. Người
đọc đi cùng nhà thơ và vẫn còn đi tiếp khi nhà thơ dừng lại. Tagor còn giải thích thêm rằng:
“Lý do khiến nhà thơ rút lui nhanh chóng thế vì người đọc Nhật có quyền năng
tinh thần về tưởng tượng rất lớn”.
Lời nhận xét của thi hào người Ấn có thể sẽ khiến những độc giả không phải người
Nhật thấy chạnh lòng, nhưng khả năng đọc và thấu hiểu thơ Haiku không phải là
đặc quyền của riêng người Nhật. Bất cứ ai cũng có thể thấu hiểu và yêu mến thơ
Haiku, nhưng muốn thế, người đọc không có quyền thụ động. Nhà thơ không nói
hộ ta tất cả. Cuộc nói chuyện hết lời cạn ý nào mà chẳng chán. Trò chuyện với thơ
lại càng không thể để cho niềm chán ngán ấy nổi dậy.
Cũng như bao thể thơ khác, thơ Haiku đến với văn hoá của người Nhật như một
mối cơ duyên trùng phùng vậy. Thơ bắt nguồn từ đời sống, đi qua những chặng
đường dài để đến với độc giả và sau cùng lại trở về với đời sống với một vai trò là
một “người mẹ” chứ không phải là một “đứa con” như thuở trước. Thơ trở về “đất
mẹ” với trọng trách cao cả là giáo dục và tái tạo lại con người và xã hội. Cho nên
trong quá trình “mở đường” cho thơ quay trở lại độc giả cần “mở lòng” đón nhận
thơ bằng tất cả những gì mình có. Khoan đổ lỗi cho nhà thơ sáng tác tệ, khoan đổ
lỗi cho bài thơ không hay, hãy tự xem rằng bản thân đã nâng tâm hồn lên gần với
thi sĩ hay chưa? Đã góp công vào quá trình đồng sáng tạo nghệ thuật hay chưa?
Khi đã ý thức được điều ấy, hãy để thi ca, nghệ thuật trở về với cuộc đời.
Người Nhật thực sự đã mở ra một con đường trải đầy những cánh anh đào cho thơ
Haiku xuất hiện vào bốn thế kỉ trước quay trở lại với đời sống của người dân Nhật
Bản, hơn thế con đường ấy đưa thơ Haiku đi vào ngôi đền của những điều vô giá.
Cho đến ngày nay, thơ Haiku Nhật Bản vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế
giới bởi nội dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc của nó. Đồng thời thể thơ này
vẫn được nhiều người bắt chước sáng tác, nhưng không ai có thể vượt qua được
thơ haiku Nhật Bản với những thi hào nổi tiếng. Thơ haiku là sản phẩm tinh thần
riêng của người Nhật là niềm tự hào của đất nước Phù Tang, của xứ sở hoa anh đào.