-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích chùm thơ Haiku Nhật Bản lớp 10 - Ngữ văn 10
Đây cũng chỉ mới là bước tìm hiểu ban đầu, có lẽ còn nhiều điều chưa thỏa đáng, mong rằng quý thầy cô, quý đồng nghiệp sẽ có tiếng nói sâu hơn, góp phần đưa thể thơ này đến với người đọc một cách thật gần gũi. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 10 214 tài liệu
Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Phân tích chùm thơ Haiku Nhật Bản lớp 10 - Ngữ văn 10
Đây cũng chỉ mới là bước tìm hiểu ban đầu, có lẽ còn nhiều điều chưa thỏa đáng, mong rằng quý thầy cô, quý đồng nghiệp sẽ có tiếng nói sâu hơn, góp phần đưa thể thơ này đến với người đọc một cách thật gần gũi. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 10 214 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:











Tài liệu khác của Ngữ Văn 10
Preview text:
Phân tích chùm thơ Haiku Nhật Bản lớp 10 (hay chọn lọc)
1. Phân tích bài thơ Trên cành khô
Haiku là một thể thơ truyền thống có vị trí quan trọng trong văn học Nhật Bản, đồng thời
được xem là một trong những hình thức cô đọng nhất của của thơ ca thế giới. Thơ
haiku thường biểu hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng những
hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng nhưng cũng đậm tính tượng trưng. Và bài thơ Trên
cành khô của tác giả Mát-chư-ô Ba-sô là một trong những bài thơ Haiku hay tiêu biểu
mang vẻ đẹp đơn sơ, tao nhã, cô liêu, trầm lắng, u buồn, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi. Trên cành khô cánh quạ đậu chiều thu.
Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời
và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII – XVIII và song hành
với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền
thống như trường ca, hòa ca, đoản ca… Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ
này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà
thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại
cho đến ngày nay. Bài thơ Hai-cư trong tiếng Nhật chỉ gồm 17 âm tiết chia thành 3
dòng thơ (dòng 1 và dòng 3 có năm âm tiết; dòng 2 có bảy âm tiết). Các bản dịch tiếng
Việt thường không đáp ứng được đầy đủ đòi hỏi của quy tắc trên nhưng vẫn đảm bảo
được sự ngắn gọn, hàm súc đặc trưng của thể thơ này. Một bài Hai-cư Nhật luôn tuân
thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là bốn mùa của thiên nhiên và tính tương quan giữa hai ý
tưởng. Trong thơ bắt buộc phải có kigo (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa màng một
cách gián tiếp. Trong bà không nói rõ xuân, hạ, thu, đông nhưng sẽ nhắc đến hoa anh
đào, lá úa vàng, tuyết phủ trắng… Ngoài ra bài thơ sẽ liên kết một hình ảnh bao la của
vũ trụ ăn khớp với một hình ảnh bé nhỏ của đời thường. Đây chính là điểm đặc biệt,
hấp dẫn của bài thơ hai-cư. Thơ hai-cư thường thấm đẫm tinh thần Thiền tông và văn
hóa phương Đông, đề cao sự vắng lặng, đơn sơ, u huyền và phản ánh sự vật trong mối
tương quan, giao hòa, thể hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng
những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng nhưng cũng đậm tính tượng trưng. Khởi nguồn
từ Nhật Bản, ngày nay, hai-cư đã trở thành thể thơ được sáng tác bằng nhiều ngôn
ngữ khác nhau trên thế giới. Thơ hai-cư hiện đại có những đặc điểm riêng về bút pháp
trong khi vẫn bảo lưu một số nguyên tắc quan trọng của tư duy và mĩ cảm cùa thơ hai-
cư truyền thống như bài thơ được cấu tứ quanh một phát hiện mang tính chất “bừng
ngộ” về mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, về sự tương thông đầy bí ẩn giữa thế
giới và con người; thơ thiên về khơi gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự
hấp dẫn của thơ hai-cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn gợi nhiều cảm xúc và suy tưởng.
Bài thơ Trên cành khô / cánh quạ đậu / chiều thu được sáng tác vào năm 1679 khi Ba-
sô ba mươi lăm tuổi. Bài thơ tạo nên sức ám ảnh lạ kì và có tác động mạnh mẽ đến
người đọc. Trong bài thơ này, yếu tố mùa được thể hiện rất rõ ở từng câu chữ chứ
không đợi đến quý ngữ cuối bài. Đây là bài thơ về mùa thu và thời điểm chính xác có lẽ
là cuối thu, khi chim quạ đã xuất hiện, khi lá cây đã rụng hết chỉ còn lại cành khô. Tác
giả sử dụng quý ngữ chiều thu kết hợp với hình ảnh cành khô gợi sự trơ trụi, không lá
vàng và cũng không có chồi non. Đến với không gian của chiều thu buồn vắng ấy là
độc giả đã cùng với thi nhân đắm chìm vào miền tịch tĩnh giữa bao la đất trời. Khoảnh
khắc được thể hiện trong bài thơ của Ba-sô có thể khơi gợi nhiều cảm xúc ở người đọc.
Tác giả đã sử dụng bút pháp chấm phá gợi hơn là tả, vẽ ra một bức tranh thủy mạc
đơn sơ mà có chiều sâu. Bức tranh thu được gợi ra trước hết từ những tín hiệu không
gian, thời gian và màu sắc. Hình ảnh trong bài thơ có lẽ phần nào thể hiện tâm cảm thi
nhân mặc dù nó như chỉ được chớp lấy trong một ánh nhìn, một không gian, thời gian
nhất định. Bài thơ mang nỗi buồn của buổi chiều tà, của lúc tàn thu, sự ngưng đọng,
lặng im của cảnh vật… Giống như mọi bài thơ Hai-cư khác, cái tôi thi nhân không bao
giờ xuất hiện trong thi phẩm nhưng từ những gì nhà thơ gửi gắm sẽ khởi sự cho trí
tưởng tượng vô biên của độc giả. Cành khô màu nâu xám, chim quạ chắc chắn là màu
đen (hoặc xám) và màu vàng (chiều thu). Đây là những gam màu chủ đạo của hội họa
thủy mặc, một loại hình nghệ thuật mà chất liệt chính là màu nước đen và giấy trắng.
Hình ảnh trung tâm trong bài thơ là con quạ. Hình ảnh “con quạ” trước hết hiện lên với
màu đen xám, nhỏ bé và ngoài ý nghĩa tả thực ấy còn có ý nghĩa tượng trưng, là biểu
tượng của sự cô đơn, cô độc giữa đất trời rộng lớn. Thân hình đen muội nhỏ xíu của
con quạ trong bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm trên cành cây trơ trụi khiến
người đọc như bước vào cảnh giới u huyền và cô tịch, một thế giới hư không. Hình ảnh
con quạ xuất hiện cùng với hình ảnh cành cây khô càng khiến bức tranh cảnh vật chiều
thu toát ra sự cô tịch, tàn úa. Đọc bài thơ, ta thấy nền trời của buổi chiều thu hoang
vắng hình ảnh một cánh chim ủ rũ đậu trên cành cây khô héo và chắc chắn những hình
ảnh đó không thể được tạo dựng bằng những đường nét mềm mại mà phải bằng sự
gân guốc, cứng cáp và đối xứng cũng là phong cách của tranh thủy mặc.
Hình ảnh cánh quạ đậu trên cành khô trong bài thơ gợi lên một không gian chiều thu
vắng lặng, đơn sơ, nhẹ nhàng. Nhưng còn một yếu tố không kém phần quan trọng
khiến thi phẩm “con quạ” của Ba-sô trở nên bất hủ là sự tương phản, đối lập một cách
hài hòa trong sử dụng hình ảnh. Đó là sự tương phản, đối lập giữa hình ảnh trên cành
khô quạ đậu và chiều thu. Một bên nhỏ hẹp, hiện hữu, một bên rộng lớn, mơ hồ. Cành
khô quạ đậu là cái có thể nắm bắt còn chiều thu là một khái niệm chung chung. Sự đối
lập ấy đã tạo thành một chỉnh thể, một bức tranh hoàn chỉnh: trên cái nền hoang vắng
mơ hồ của buổi chiều thu, nổi bật lên hình hài màu đen của một chú quạ đậu trên cành
khô. Yếu tố cổ tích (Sí-bi) trong bài thơ này thể hiện đậm nét hơn bất cứ thi phẩm nào khác của Ba-sô.
Mặc dù bài thơ này không tuân thủ theo quy luật thông thường 5/7/5 của Hai-cư thường
vẫn luôn được coi là thi phẩm mẫu mực bởi cấu tứ, ý tưởng và sự bứt phá trong cái hài
hòa mà nó mang lại cho cảm giác của người đọc. Bài thơ, các nhà nghiên cứu thường
nhận xét, đúng là một bức tranh thủy mặc
Ba-sô có nhiều đóng góp cho thơ Hai-cư truyền thống của Nhật Bản, mỗi bài thơ Hai-
cư của ông đều thấm nhuần cảm xúc sa-bi tức là nỗi cô đơn huyền diệu của thiên
nhiên, niềm cô đơn vô ngã và tịch mịch, vắng vẻ của muôn đời, đều đậm chất thơ, chất
thi vị, lãng mạn. Tình yêu cuộc sống là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con
người là giá trị nhân sinh cốt lõi trong thơ của Ba-sô, khiến thơ ông được bạn đọc trên
khắp thế giới đón nhận nồng nhiệt.
2. Phân tích chùm thơ Hai-cư lớp 10
Ta đã nghe đâu câu nói: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh
thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính
phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc
phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại”. Thật vậy, nghệ thuật thơ ca sinh ra từ cái
nôi đời sống nhưng lại phát triển trong tâm hồn của con người. Cùng với sự phát triển
ấy, thơ nuôi dưỡng và giáo dục con người ta theo đúng cái nghĩa nhân văn của nghệ
thuật. Thơ mang vẻ đẹp tinh xảo của nghệ thuật ngôn từ, tuy nhiên thơ không chỉ là
vậy! Con chữ không thể là cái xác khô nằm “yên nghỉ” trên trang giấy; mà thơ phải sống
trong lòng độc giả, gieo vào đó hạt giống của những điều tốt đẹp. Chứ thơ không thể
“chết” trên trang giấy và để lại nơi tâm hồn con người ta sự đen tối, độc hại và điêu tàn.
Tất cả những điều ấy như thể đang nói về thơ Haiku-giai điệu đã ngân vang hàng thế kỉ
qua ở xứ sở hoa anh đào.
Thơ là một thể loại văn học nảy sinh rất sớm từ đời sống con người, “thi” và “nhân” ở
giữa vòng liên đới không thể nào tách rời khỏi nhau, nó giống như một mối quan hệ cho
dù người ta có cố gắng giằng xé đến đâu thì thơ với đời sống vẫn quấn quýt không rời.
Trong cuộc “hôn phối” kéo dài cả thiên thu ấy thơ đã “chăm sóc” con người ta bằng sự
nhận thức đối với cuộc sống, khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm
xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua những liên tưởng, tưởng tượng phong phú và
bằng cả sự rung động của ngôn từ giàu tính nghệ thuật. Đi vào trong kho tàng văn hoá
Á Đông vĩ đại, giàu sang và trở thành một tài sản vô giá của nền văn hóa Nhật Bản
theo một cách rất riêng, thơ Haiku là kết tinh nhiều giá trị văn hóa tinh thần của người
Nhật nói riêng và người phương Đông nói chung. Xuất hiện vào khoảng thế kỉ XVII và
thịnh hành vào thời kỳ Edo những năm 1603-1867 thơ Haiku mang hơi thở của Thiền
tông, in đậm dấu ấn của thế giới u huyền, thoát tục, đồng thời chứa đựng trong mình
bức tranh thiên nhiên rộng lớn với những âm thanh màu sắc đặc trưng cho bốn mùa,
được thể hiện dưới một hình thức ngắn gọn, cô đọng.
Linh hồn của văn học Nhật Bản không phô trương, hoa mỹ về mặt hình thức bởi mỗi
bài thơ chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết. Tuy vậy, sức chứa về mặt tư tưởng, triết lí nhân sinh của
thơ Haiku lại vô cùng sâu và rộng. Nhà thơ Tago từng nhận xét về thơ Haiku: “Nhà thơ
chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”. Chẳng cần phải nói nhiều bởi tâm hồn
con người ta là phong phú, hãy để bạn đọc tự vẽ ra thế giới mà họ mong muốn. Thơ
thiên về gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp dẫn của Thơ Hai -cư nằm
ở khả năng kiệm lời mà vẫn khơi gợi nhiều cảm xúc suy nghĩ. Tưởng chừng như cô
đọng làm thơ Haiku thêm nặng nề, nhưng không! Thơ Haiku lại nhẹ nhàng, bay bổng
đến kì lạ. Sự nhẹ nhàng ấy đến từ tâm hồn yêu thiên nhiên, muốn hoà hợp với đất trời
được thể hiện qua “quý từ” chỉ mùa mà bài thơ Haiku nào cũng có.
Đến với đất nước Nhật Bản là đến với xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập
tục và nghi lễ; với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ nên còn gọi là
“Xứ sở hoa anh đào”; với những “Thiếu nữ duyên dáng trong tà áo Kimono”. Đây còn là
xứ sở dũng mãnh của “Truyền thống võ sĩ đạo” và “Kiếm đạo”, của những môn phái võ
thuật nổi tiếng như: Sumo, aikido, karate, judo. Trên sân khấu kịch Nô là những gương
“Mặt nạ” người trầm lặng không nói và bất động. Chúng ta sẽ bị chìm đắm trong những
trang tiểu thuyết dài hàng nghìn trang nhưng lại ấn tượng với những vần thơ hai-cư
cực ngắn gắn liền với tên tuổi của Basho, Chiyô, Issa…với những nét thơ riêng nhưng
chung quy lại đều là sự tinh tế của tâm hồn người Nhật.
Thơ Haiku có rất nhiều đặc tính nhưng điều làm Bashô – nhà thơ có công lớn trong việc
hoàn thiện thơ Haiku để tâm hơn cả đó chính là cảm thức về sự tịch mịch, sâu xa vô
hạn của sự vật, nhìn thấy sự vật tự bộc lộ một cách kì diệu, cảm thức ấy được gọi với
cái tên Sabi-niềm cô đơn huy hoàng được Bashô thể hiện sâu thẳm nhất trong bài thơ: “Trên cành khô Chim quạ đậu Chiều thu”
Thoạt nghe ta thấy bài thơ như một bức tranh thuỷ mặc với gam màu trầm tối, lạnh lẽo.
“Cành cây khô” và “chim quạ đậu” dường như đã mang hết thảy những đặc điểm của
một “chiều thu” u buồn. Thu về lá cây như trút hết khỏi cành chỉ để lại sự gầy guộc,
khẳng khiu vô cùng. Nó như chừa lại chỗ đứng cho chim quạ với cái màu đen tuyền và
con mắt sắc lẹm. Nếu như thơ Nguyễn Khuyến khiến chúng ta liên tưởng đến một mùa
thu với sự lạnh lẽo, trong trong trẻo như trong câu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”
(Thu điếu-Nguyễn Khuyến)
Thì ở đây Ba-sô cũng gợi ra cho ta những hình ảnh như vậy nhưng với một cảm giác
khác hoàn toàn. Một chiều thu sầu não, vắng lặng đến cô tịch khiến lòng ta phải cảm
thấy u hoài. Nhưng thật kì lạ, bày ra trước mắt là cái vẻ cô liêu nhưng tâm hồn ta lại
chẳng hề thấy chán chường hay bi luỵ, oán đời. Khác với Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới”:
“Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li”
Đây chính là cảm thức Sabi, một cảm thức hùng vĩ chứ không phải nỗi cô đơn, bi luỵ cá
nhân. Đọc bài thơ ta mới hiểu thế nào là chất Sa-bi đơn sơ, tao nhã, cô liêu đến tiêu
điều nhưng lại chẳng đem cho ta cái cảm giác đau khổ.
Nhắc đến Nhật Bản là nhắc đến xứ sở hoa anh đào, mặt trời mọc, áo kimono, nhắc đến
một dân tộc thấm đẫm chất thiền, mà thơ Haiku như là một biểu trưng. Ví như Đường
luật của Trung Hoa hay Lục bát của Việt Nam mỗi nền văn hoá đều có những tư tưởng,
đặc trưng riêng. Nhưng chúng ta biết rằng văn hóa không có cao hay thấp mà chỉ có sự
khác biệt. Cũng vậy, hoa triêu nhan từ địa vị ăn nhờ ở đậu trong mắt người Việt, thì
sang văn hóa Nhật Bản đã vươn lên ngôi nữ hoàng kiêu hãnh. Điều đó được chứng
minh qua hàng loạt bài thơ Haiku. Hãy khoan nhắc đến những kiệt tác của thi sĩ Basho,
bài thơ đặc sắc nhất gắn liền với hoa triêu nhan trong thơ Haiku có lẽ phải là bài thơ của nữ sĩ Chiyo: “Ôi hoa triêu nhan
Dây gầu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên.”
Trong tinh thần của Thiền tông, không chỉ loài người hữu tình mà ngay cả loài cây cỏ
cũng có khả năng giác ngộ, tức là có Phật tính. Bài thơ trên có thể được xem như một
tuyên ngôn hùng hồn của lòng từ bi Phật giáo và phảng phất triết lý của Thiền Tông.
Hoa triêu nhan vốn là một loại dây leo, đã quấn vào dây gàu để nở. Trước cái đẹp,
trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn thương nên bà chọn giải
pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện hữu. Một người lỗ mãng sẽ
dễ dàng bứt nhánh triêu nhan để thuận lợi cho công việc múc nước của mình.
Bài thơ không giải thích nhưng tự thân sự kiện đã nói nhiều hơn ba câu thơ ngắn ngủi.
Đây chính là tinh thần ý tại ngôn ngoại, lại cũng chính là sự vô ngôn của Thiền và là
tính nhân văn của Phật giáo. Cần phải có một nội tâm tĩnh lặng, một tính cách dịu dàng
và hơn cả là một tình thương lớn, một tấm lòng trắc ẩn lớn mới có cách hành xử như
vậy. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình thương mênh mông và cảm
động. Sức sống mãnh liệt của đóa triêu nhan cũng chính là nguồn cảm hứng sáng tác
cho nhà thơ Lưu Đức Trung với bài thơ Haiku: “Bìm bìm Leo trên bờ ao Tay ai vớt bèo”
Tạm chia tay với đóa triêu nhan xinh đẹp của nữ sĩ Chiyo, đào sâu vào kho tàng thơ
Haiku phong phú và đồ sộ ta bắt gặp một con ốc miệt mài leo núi Phú Sĩ trong bài thơ
của Issa-một trong bốn nhà thơ Haiku vĩ đại nhất của Nhật Bản: “Chậm rì chậm rì Kìa con ốc nhỏ Trèo núi Fuji”
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinxki từng tâm đắc: “Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ
đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng”. Như một minh chứng rõ ràng, chỉ
với 1 bài thơ Haiku ngắn gọn kết hợp với việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ của con vật nhà
thơ Issa đã truyền tải thông điệp sâu sắc, triết lý, đầy nhân văn.
“Chậm rì, chậm rì” lời miêu tả chân thật, chính xác của nhà thơ dành cho chú ốc.
Nhưng trong cái “chậm” ấy ta thấy được sự kiên nhẫn. Bản thân chỉ là một con ốc nhỏ
di chuyển vô cùng chậm chạp, tuy chậm nhưng lại không dừng lại mà cứ đi mãi. Cùng
với sự chậm chạp ấy là sự xuất hiện nhỏ bé, bình dị của chú ốc nhỏ. Trong thơ Haiku,
việc sử dụng nghệ thuật tương phản cũng là một nét đặc trưng rất độc đáo. Đó là sự
đối lập tương phản giữa cái vô hạn – hữu hạn, giữa không – có, giữa cái lớn – bé, xa –
gần, con người – vũ trụ… Trong bài thơ “Ao cũ”, Ba-sô viết: “Ao cũ Con ếch nhảy vào Vang tiếng nước xa”
Nhà thơ Issa cũng không nằm ngoài vòng đặc trưng ấy, trước cái nhỏ bé bình dị của
chú ốc nhỏ là cả núi Phú Sĩ tuyết trắng hùng vĩ. Sự đối lập giữa lớn-nhỏ đã khiến cho
chúng ta có nhiều suy tưởng. Trên thực tế cuộc sống, mỗi người đều là chú ốc nhỏ bé
bình dị nhưng đều ấp ủ một giấc mơ cháy bỏng của riêng cuộc đời mình. Sức mạnh nội
tại của chính bản thân chúng ta là nguồn sức mạnh động lực để thúc đẩy đưa chúng ta
lên đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu mục tiêu của chú ốc nhỏ là chinh phục được
núi Phú Sĩ thì ắt hẳn trong mỗi chúng ta đều có một đỉnh cao mà bản thân muốn chinh phục.
Bài thơ tuy ngắn gọn, hàm súc. Tứ thơ tối giản, chật chội về mặt từ ngữ nhưng ý vị của
thơ Haiku không bao giờ là chật. Các sự việc được phản ánh trong thơ haiku có khi
tưởng như rời rạc, không liên kết với nhau, nhưng thực ra giữa chúng có mối liên kết
chặt chẽ từ bên trong. Từ “sự tinh giản của tâm hồn” (A.Tagor), thơ haiku đã tạo nên
sức mạnh nghệ thuật to lớn. Chính vì thế, nhà nghiên cứu phê bình Roland Barther
(Pháp) nhận xét: “Sự ngắn gọn của haiku không phải là vấn đề hình thức. Haiku không
phải là một tư tưởng phong phú rút vào một hình thức ngắn mà là sự tin vắn tắt tìm ra
được hình thức vừa vặn cho mình”. Hơn hết chính sự giản kiệm này là sự tôn trọng độc
giả của các nhà thơ Haiku. Trên đường thơ, họ nhường lối cho người đọc, không lấn
chiếm không làm nghẽn đường. Người đọc đi cùng nhà thơ và vẫn còn đi tiếp khi nhà
thơ dừng lại. Tagor còn giải thích thêm rằng:
“Lý do khiến nhà thơ rút lui nhanh chóng thế vì người đọc Nhật có quyền năng tinh thần
về tưởng tượng rất lớn”.
Lời nhận xét của thi hào người Ấn có thể sẽ khiến những độc giả không phải người
Nhật thấy chạnh lòng, nhưng khả năng đọc và thấu hiểu thơ Haiku không phải là đặc
quyền của riêng người Nhật. Bất cứ ai cũng có thể thấu hiểu và yêu mến thơ Haiku,
nhưng muốn thế, người đọc không có quyền thụ động. Nhà thơ không nói hộ ta tất cả.
Cuộc nói chuyện hết lời cạn ý nào mà chẳng chán. Trò chuyện với thơ lại càng không
thể để cho niềm chán ngán ấy nổi dậy.
Cũng như bao thể thơ khác, thơ Haiku đến với văn hoá của người Nhật như một mối
cơ duyên trùng phùng vậy. Thơ bắt nguồn từ đời sống, đi qua những chặng đường dài
để đến với độc giả và sau cùng lại trở về với đời sống với một vai trò là một “người mẹ”
chứ không phải là một “đứa con” như thuở trước. Thơ trở về “đất mẹ” với trọng trách
cao cả là giáo dục và tái tạo lại con người và xã hội. Cho nên trong quá trình “mở
đường” cho thơ quay trở lại độc giả cần “mở lòng” đón nhận thơ bằng tất cả những gì
mình có. Khoan đổ lỗi cho nhà thơ sáng tác tệ, khoan đổ lỗi cho bài thơ không hay, hãy
tự xem rằng bản thân đã nâng tâm hồn lên gần với thi sĩ hay chưa? Đã góp công vào
quá trình đồng sáng tạo nghệ thuật hay chưa? Khi đã ý thức được điều ấy, hãy để thi
ca, nghệ thuật trở về với cuộc đời.
Người Nhật thực sự đã mở ra một con đường trải đầy những cánh anh đào cho thơ
Haiku xuất hiện vào bốn thế kỉ trước quay trở lại với đời sống của người dân Nhật Bản,
hơn thế con đường ấy đưa thơ Haiku đi vào ngôi đền của những điều vô giá.
Cho đến ngày nay, thơ Haiku Nhật Bản vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế giới
bởi nội dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc của nó. Đồng thời thể thơ này vẫn được
nhiều người bắt chước sáng tác, nhưng không ai có thể vượt qua được thơ haiku Nhật
Bản với những thi hào nổi tiếng. Thơ haiku là sản phẩm tinh thần riêng của người Nhật
là niềm tự hào của đất nước Phù Tang, của xứ sở hoa anh đào.
3. Phân tích thơ Hai-cư của tác giả Ba-sô
Ba - sô là một danh sĩ lỗi lạc thời kỳ Edo của Nhật Bản. Những tác phẩm của ông để lại
nhiều giá trị, phổ biến không những trong nước mà còn nổi tiếng khắp thế giới. Thơ ông
là sự dung hợp và hài hoà giữa thiên nhiên và tấm lòng của người thi sĩ, nhẹ nhàng,
bình dị mà trong sáng, gần gũi. Những bài thơ Hai cư tiêu biểu cho hồn thơ ấy của ông.
" Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại Ê-đô là cố hương."
Sau hơn mười năm ròng xa cách quê nhà, sống ở vùng đất Edo bận rộn với cuộc sống
thường ngày, ông trở về quê hương trong niềm vui của người con bao năm xa quê
nhưng vẫn đong đầy tình cảm với vùng đất thương mến - nơi đã cùng ông gắn bó suốt
một khoảng thời gian. Với Ba sô giờ đây, Edo như quê hương thứ hai của mình vậy,
vẫn khôn nguôi nỗi nhớ da diết về cõi "cố hương". Phải chăng, nhà thơ đang muốn
nhắn nhủ mỗi người nên trân trọng những gì gần gũi gắn bó quanh ta, những nơi ta đi
và ta đến đều để lại những dấu ấn và kỉ niệm khó phai nên được trân trọng như một
điều đẹp đẽ nhất. Bài thơ tuy ngắn gọn mà đong đầy những cảm xúc chân thành, bình
dị, xinh xắn mà quá đỗi đáng quý, đáng yêu.
Qua bài thơ thứ hai, tình cảm lớn lao dành cho quê hương đất nước càng được tác giả
thể hiện rõ với những dòng cảm xúc thấm đẫm:
"Chim đỗ quyên hót ở Kinh đô mà nhớ Kinh đô."
Sau bao năm bôn ba, phiêu bạt nơi xứ người, đứng trên mảnh đất kinh đô nơi quê nhà,
tác giả nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà dâng lên nỗi nhớ. Tiếng đỗ quyên hót giữa
không gian rộng lớn kinh đô gợi nên vẻ vắng lặng, u tịch, không gian tĩnh lặng đượm
buồn khiến lòng người thổn thức. Đứng trên đất kinh đô mà hồn lại nhớ kinh đô, thời
điểm hiện tại nhớ về quá khứ nhớ về những tháng ngày kinh đô tươi đẹp, nhân dân
được phồn vinh, ấm no, thịnh vượng. Kinh đô giờ đây hoang tàn chẳng còn vẻ huy
hoàng xưa cũ. Niềm tiếc nuối quá khứ cho thấy được tình yêu quê hương thiết tha của
nhà thơ trước thực tại nhiều đau thương.
Tiếp đến, tình mẫu tử được cất lên thật nghẹn ngào quá tiếng thơ:
"Lệ trào nóng hổi tan trên tay tóc mẹ làn sương thu."
Tình cảm mẹ con luôn thiêng liêng và cao quý nhất. Trở về khi mẹ đã mất chỉ còn lại
nắm tóc bạc trên bàn tay mà lòng đớn đau, uất nghẹn, niềm tiếc hận khôn nguôi. Dòng
lệ nóng hổi buông trên làn tóc mẹ là tiếng lòng thổn thức tâm can nơi đáy hồn con. Làn
sương thu mỏng manh cũng mang màu buồn của nỗi tuyệt vọng khôn nguôi khi đứa con mất đi mẹ mãi mãi.
"Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc? gió mùa thu tái tê."
Qua bài thơ thứ 5, ta thấy được ở nhà thơ một tấm lòng nhân ái. Tiếng vượn hú trong
rừng xa não nề, thê lương khiến người thi sĩ liên tưởng đến niềm đau của những đứa
trẻ thơ. Chúng bị bỏ rơi giữa cuộc đời, thiếu đi tình thương của người thân, thiếu đi trái
tim nhân ái của nhân loại, chúng trở nên cô độc giữa cuộc đời chính mình. Gió thu về
khiến nỗi đau ấy càng tê tái, càng buồn, càng xót xa hơn. Ta như cảm nhận được hình
ảnh đầy thương cảm của những đứa trẻ mồ côi trong tiếng khóc đau thương giữa dòng
đời nghiệt ngã. Những kiếp người bất hạnh ấy, sao không thể không thương tâm, động lòng cho được?
"Mưa đông giăng đầy trời chú khỉ con thầm ước có một chiếc áo tơi."
Những vần thơ chứa chan niềm yêu thiên nhiên, vạn vật. Xót xa trước cảnh chú khỉ con
run lạnh giữa cái lạnh, cái ướt của cơn mưa mùa đông, nhà thơ đã viết nên vần thơ bày
tỏ cảm xúc ấy. Đó phải chăng còn là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người lao động
nghèo khổ trong xã hội xưa kia. Họ làm lụng vất vả, sống cũng chẳng hề dư dả, cái
nghèo cái đói vẫn cứ đeo bám lấy họ. Lời thơ chính là tiếng nói thương cảm và gửi gắm
niềm ước mơ nhỏ nhoi về cuộc sống hạnh phúc, vươn tới những điều tốt đẹp trong
cuộc sống của con người.
"Từ bốn phương trời xa cánh hoa đào lả tả gợn sóng hồ Bi-oa."
Khung cảnh mùa xuân nơi hồ Bi-oa thật ấn tượng và xinh đẹp. Giữa khoảng không bốn
bề cánh hoa đào hồng phai rơi lả tả. Mỗi đợt gió nhẹ thổi qua, cành đào rơi theo chiều
gió, chạm vào dòng nước, sóng gợn lăn tăn, khung cảnh thật nhẹ nhàng, bình yên. Vạn
vật dường như có sự tương giao, hoà hợp tạo nên bức tranh sinh động, thanh thoát lạ thường.
"Vắng lặng u trầm thấm sâu vào đá tiếng ve ngâm."
Vẻ tĩnh mịch vắng lặng của không gian được gợi lên qua vẻ u trầm của đá, có tiếng ve
ngân - thứ âm thanh thân thuộc của mùa hè nhưng tiếng ve ấy không đủ để giúp bức
tranh trở nên sống động hơn. Tiếng ve thấm sâu vào đá, âm thanh giao hoà với vạn vật
tạo nên ý vị sâu sắc. Qua cái nhìn tinh tế cùng cách cảm nhận độc đáo, bài thơ tựa như
nốt nhạc độc đáo của mùa hè dành riêng cho đời sống. Giữa tâm hồn nhà thơ có sự
giao cảm với thiên nhiên để cảm nhận, chiêm nghiệm và tâm tình, đó chính là trong
cảnh có hồn, trong tâm có cảnh.
Những bài thơ Hai cư tùy ngắn với số lượng âm tiết ít nhưng luôn mang lại cho người
đọc những cảm xúc và ấn tượng vô cùng lớn. Đặc biệt là đối với thi sĩ Ba sô người cầm
bút tài năng đã viết nên những tuyệt phẩm vô cùng giá trị, để lại cho thế hệ mai sau
những vần thơ ý vị, giàu có về tư tưởng. Đọc thơ Hai cư, ta như được đắm mình vào
trong thế giới thiên nhiên, trong trường liên tưởng với những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng
lớn. Cùng với tác giả, người đọc trở thành những người đồng sáng tạo lý thú và hữu ích.
4. Phân tích chùm thơ Haiku lớp 10
Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời
và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII - XVIII và song hành
với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền
thống như trường ca, hòa ca, đoản ca... Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ
này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà
thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.
Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên bản
tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết này có thể thay
đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bởi quy định về cấu tứ ngắn gọn nên người làm
thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm trạng của
mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết lí của tự nhiên...
Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai-cư gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như: Buson,
Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô.... Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào chương trình
sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với một số bài thơ tiêu
biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng sách giáo khoa và sách
giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài khá rõ ràng. Tuy nhiên,
người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một cách hiểu, một vài điều muốn
trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói thêm, người viết không có tham
vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú trọng đến một số đặc điểm nghệ
thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều
góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được các soạn giả trình bày trong
sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng, chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ;
thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc sau.
Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên một
số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập giữa
các cặp phạm trù: vũ trụ - con người, vô hạn - hữu hạn, không gian - thời gian, hữu
hình - vô hình, có - không, đen - trắng, tĩnh - động, tối - sáng, nhất thời - vĩnh hằng...
Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ thể những vấn đề
được nói đến trong thơ, và đây cũng chính là một cách giải mã khám phá bài thơ theo
một hướng thi pháp riêng.
Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính nỗi
lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba-sô viết:
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại Ê-đô là cố hương.
Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm xa
quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng không
gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay. Trước cái vô hạn của
không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi tuổi mỗi
ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm
thấy yêu cuộc sống này hơn và "ngộ" ra một điều đâu cũng là quê hương. Ê-đô là cố
hương. Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé
trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn tả trải dài tình cảm nỗi niềm của mình đối
với quê hương và đất nước. Bài thơ ngắn gọn còn là một triết lí sâu sắc trong quy luật
tình cảm của con người với bất cứ nơi đâu khi bước chân mình đã qua, dù ngắn hay
dài thì chuỗi thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại
cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời.
Một lần ngang qua cánh rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng khóc
của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết: Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc gió mùa thu tái tê.
Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi nhà
thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết trong cuộc sống con người( hay tiếng
trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển đổi giữa nghe và nghĩ mà là một sự chuyển
động giữa động và tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ. Hai chi
tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu tạo cho người đọc cảm
nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái ảo là khoảng âm thanh
không rõ ràng trong nhất thời, cái thực là chính là tiếng lòng của con người với thời
cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ
giản dị trong sáng nhưng ý nghĩa tư tưởng lại vượt ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan.
Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết. Từ bốn phương trời xa cánh hoa đào lả tả gợn sóng hồ Bi-oa.
Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương phản đối lập giữa không gian
vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái gì nhỏ bé hạn hữu trong đời sống
thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện ở bút
pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian và thời gian, thiên nhiên và con người...
Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế có pha chút
thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết lí tương giao giữa sự vật hiện tượng
với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc.
Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự. Trên cành khô cánh quạ đậu đêm thu.
Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối lập tạo nên một khung cảnh
thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá vào đêm thu đã cuốn hút con người
vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là sự tương
phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và màn đêm bao la hiu quạnh, con người cảm thấy
nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la...
Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ có nhiều
khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được đề
cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà chỉ bình thường như : thiên nhiên con
người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn có cả bùn đất cỏ cây...Khi nghe tiếng chim
đỗ quyên nhà thơ giật mình Chim đỗ quyên hót ở kinh đô mà nhớ kinh đô.
Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng thế,
Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như một kí ức
day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều khó nói, thế mà nhà thơ đã thốt thành lời. Ở
đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm hồn nhưng khoảng
lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của nhà thơ? Chủ thể trữ tình
bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được bắt cầu bằng tiếng chim đỗ
quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó là dòng sông lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu
phù sa bồi đắp cho quê hương.
Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ có tính chất nhân văn
hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong tư tưởng tình cảm của con người.
Mưa đông giăng đầy trời chú khỉ con thầm ước có một chiếc áo tơi.
Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ giúp.
Đó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi ướt nhem bên vệ rừng khi nhà
thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của người nông dân, những trẻ em Nhật
trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh
đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp và đó
cũng chính là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ. Nhà thơ Chiyô viết A! Hoa Asagaô
dây gàu vương hoa bên giếng đành xin nước nhà bên.
Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ vô cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm tiết là
sự ý thức nhạy cảm, là tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của những
cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến cái đẹp (Đành
xin nước nhà bên) âu cũng là điều dễ hiểu, bởi thiên nhiên đẹp, con người nâng niu và
trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn là một điều không lạ trong thơ ca truyền thống Á
Đông. Bài thơ còn là một thông điệp gửi đến mọi người, mong mọi người hãy nâng niu
cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.
Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể như
hoa đào - mùa xuân, tiếng ve - mùa hè... còn có nhiều bài không có. Những bài này chỉ
có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim đỗ quyên
trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa đông... Nhận
xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ Tagor (Ấn Độ) cho rằng, trong thơ hai-cư "nhà thơ
chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên". Như vậy những từ này có khi được
coi là đề tài, là điểm sáng, "là con mắt" để khám phá nội dung và nghệ thuật của bài
thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, người đọc có thể nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng. Vắng lặng u trầm thấm sâu vào đá tiếng ve ngâm.
Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta dễ
dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im ắng cất lên trước cảnh đá vật nơi cửa
thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u tịch mênh
mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều gì trong cuộc sống cho riêng mình.
Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính liên tưởng, là phương pháp suy luận. Nghệ
thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi lòng, là tâm tư tình cảm con người gửi gắm với
công chúng yêu thơ hôm nay và mai sau...
Giải mã và tìm hiểu thơ hai-cư, một thể thơ nổi tiếng trong thơ ca Nhật Bản và thế giới
là một điều vốn rất khó. Trên đây chỉ là những nét chấm phá có tính chất chủ quan của
người viết đối với những bài thơ hai-cư trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10. Đây
cũng chỉ mới là bước tìm hiểu ban đầu, có lẽ còn nhiều điều chưa thỏa đáng, mong
rằng quý thầy cô, quý đồng nghiệp sẽ có tiếng nói sâu hơn, góp phần đưa thể thơ này
đến với người đọc một cách thật gần gũi.
Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng tôi tin chắc rằng thơ hai-cư Nhật Bản mãi mãi sẽ là một
viên ngọc quý ở xứ sở "mặt trời mọc" với công chúng yêu thơ.