Phân tích đặc điểm của xuất khảu bản, liên hệ nước ta hiện nay.
Tích tụ tập trung sản xuất sự hình thành độc quyền:
Cạnh tranh thúc đẩy tích tụ tập trung tự bản dẫn đến tập trung sản xuất, sản xuất
tập trung được biểu hiện là:
Số lượng công nhân trong các nghiệp quy lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
lực lượng lao động hội, số lượng sản phẩm sản xuất ra trong các nghiệp qui
lớn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩn hội.
Sản xuất tập trung vào một số nghiệp quy lớn thì chúng khuynh hướng
Vậy: Tổ chức độc quyền liên minh các nghiệp qui lớn nắm trong tay hầu
hết việc sản xuất tiêu thụ một hoặc một số loại sản phẩm, chúng thể quyết
định được giá cả độc quyền nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Quá trình hình thành của độc quyền diễn ra từ thấp đến cao, từ lưu thông đến sản
xuất tái sản xuất, cụ thể:
Cácten hình thức độc quyền trong lưu thông trình độ thấp quyết định về
mặt hàng giá cả.
Xanhdica hình thức độc quyền trong lưu thông trình độ cao hơn Cácten,
quyết định về mặt hàng , giá cả thị phần
rơt hình thức độc quyền sản xuất, quyết định ngành hàng, qui đầu tư.
Congsoocion hình thức độc quyền liên ngành tái sản xuất từ cung ứng vật -
sản xuất - tiêu thụ.
bản tài chính bọn đầu sỏ tài chính:
Sự hình thành độc quyền trong ngân hàng vai trò mới của Ngân hàng: Cùng với
sự hình thành độc quyền trong công nghiệp thì trong ngân hàng cũng diễn ra cạnh
tranh quyết liệt, hàng loạt ngân hàng nhỏ bị các ngân hàng lớn thôn tính, một số
ngân hàng nhỏ tự nguyện sáp nhập lại thành ngân hàng lớn, một số ngân hàng lớn
thì xu hướng liên minh, thỏa thuận với nhau hình thành độc quyền trong ngân
hàng.
Khi độc quyền trong ngân hàng ra đời thì ngân hàng một vai trò mới, thể hiện:
Giữa bản ngân hàng bản công nghiệp thâm nhập vào nhau thông qua chế
độ tham dự bằng việc mua cổ phiếu để các công ty cử người vào HĐQT của ngân
hàng, giám sát hoạt động của ngân hàng ngược lại thì ngân hàng cử người vào
HĐQT của các công ty.
Sự dung nhập giữa bản ngân hàng vàtư bản công nghiệp bằng cách trên làm xuất
hiện một loại bản mới gọi bản tài chính.
- bản tài chính đại diện cho bọn đầu sỏ tài chính, chúng lũng đoạn cả
về kinh tế chính trị:
+ Về kinh tế: Bằng cổ phiếu khống chế để nắm công ty mẹ, chi phối các công ty
con, các chi nhánh.
+ Về hội: Bằng sức ép tập đoàn để nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy
nhà nước.
Xuất khẩu bản:
Xuất khẩu bản đưa bản ra nước ngoài để kinh doanh nhằm thu lợi nhuận
cao:
Trong giai đoạn cạnh tranh tự do, xuất khẩu bản chủ yếu bản hàng hóa, tức
đưa hàng ra nước ngoài để thực hiện giá trị.
Trong giai đoạn độc quyền, xuất khẩu bản chủ yếu bản hoạt động từ những
nước phát triển đến những nước đang phát triển hoặc kém phát triển những quốc
gia nhân công, nguyên liệu rẻ, hậu quả xuất khẩu bản dẫn đến nền kinh tế phụ
thuộc, cạn kiệt tài nguyên.
Sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế phân chia ảnh hưởng kinh tế:
Xu hướng tòan cầu hóa diễn ra cạnh tranh quyết liệt, cạnh tranh giữa các quốc gia,
các tập đoàn, dẫn đến hình thành các liên minh kinh tế quốc tế rất đa dạng (liên
minh về thương mại, thuế quan, sản xuất,…)
Các liên minh này phân chia nhau khu vực ảnh hưởng kinh tế.
Các cường quốc phân chia lãnh thổ thế giới:
Do sự hoạt động của quy luật phát triển không đều trong giai đoạn độc quyền thì
một nước đang phát triển thể đuổi kịp, vượt một nước đã phát triển.
- Sự phát triển không đều về kinh tế dẫn đến không đều về quân sự, chính trị làm
thay đổi tương quan lực lượng đòi phân chia lại lãnh thổ thế giới dẫn đến xung
đột quân sự để chia lại lãnh thổ thế giới, đó nguyên nhân dẫn đến 2 cuộc chiến
tranh thế giới
Đối với các tập đoàn độc quyền, việc đưa bản ra nước ngoài để tìm kiếm nơi đầu
lợi nhất trở thành phổ biến, gắn liền với c tổ chức độc quyền.
Xuất khẩu bản thể được thực hiện dưới hình thức đầu trực tiếp hoặc gián
tiếp.
Đầu trực tiếp hình thức xuất khẩu bản để xây dựng những nghiệp mới
hoặc mua lại những nghiệp đang hoạt động nước nhận đầu để trực tiếp kinh
doanh thu lại lợi nhuận cao, biến trở thành một chi nhánh của công mẹ”
chính quốc. Các nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song
phương hoặc đa phương, nhưng cũng những nghiệp toàn bộ vốn ucar công
ty nước ngoài.
Đầu gián tiếp hình thức đầu thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ
phiếu, mua lợi tức, mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ khác, quỹ đầu
chứng khoán thông qua các định chế tài chính trung gian khác nhà đầu
không trực tiếp tham gia quản hoạt động đầu tư.
Những biểu hiện mới của xuất khẩu bản trong giai đoạn phát triển hiện nay của
chủ nghĩa bản
Ngày nay , trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu bản đã sự biến đổi lớn.
Thứ nhất hướng xuất khẩu bản đã sự thay đổi bản. Trước kia, luồng
bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước bản phát triển sang các nước kém phát triển (
chiếm tỷ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu
lại chảy qua lại giữa các nước bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu bản
giữa ba trung tâm bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu chảy mạnh
theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ
làm cho luồng xuất khẩu bản vào các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí
chỉ còn 16,8% (1996) hiện nay khoảng 30%. Trước tình hình đó, nhiều nhà
luận sản cho rằng, xuất khẩu bản không còn thủ đoạn phương tiện
các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu bản đã trút
bỏ bản chất của trở thành hình thức hợp tác cùng lợi trong mối quan hệ
quốc tế.Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước bản phát triển với nhau.
Đó quan niệm hoàn toàn sai lầm. Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời phát
triển thành các ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật
liệu mới, ngành bán dẫn vi điện tử, ngành trụ đại dương... Những ngành
này thiết bị quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên vật liệu.
Trong nền kinh tế giữa các nước bản phát triển đã diễn ra sbiến đổi cấu các
ngành sản xuất mũi nhọn hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những
ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu hấp dẫn trong thời gian đầu tạo ra
lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra các nước tư
bản phát triển các nước đang phát triển hạ tầng kinh tế hội lạc hậu , không
phù hợp, tình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của bản đầu
không còn cao như trước (còn với nước đang phát triển nhưng đã trở thành Nics
thì tỷ trọng của luồng bản xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng bản xuất khẩu
của các nước đang phát triển). Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền
kinh tế các trung tâm bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ qủa của hoạt động
này bao giờ cũng hình thành các khối kinh tế với những đaọ luật bảo hộ rất khắt
khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các
doanh nghiệp chi nhánh của mình thành 6 một bộ phận cấu thành của khối kinh tế
mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật Tây Âu đã
tích cực đầu vào thị trường Mỹ bằng cách đó. Sự biến động về địa bàn tỷ
trọng đầu của các nước bản phát triển không làm cho bản chất của xuất khẩu
bản thay đổi , chỉ làm cho hình thức xu hướng của xuất khẩu bản thêm
phong phú phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới hàm lượng khoa học -
công nghệ cao các nước bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu
của bản tăng cao điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận xu hướng giảm
xuống. Hiện tượng thừa bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó không thể
tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình công
nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình
sản xuất trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình hình). Đối với nền kinh tế thế giới
đang phát triển, những liệu sản xuất này rất ích vẫn kỹ thuật mới mẻ.
Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn bản độc quyền đưa
các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công
nghệ. ràng, khi chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu bản từ các nước
bản phát triển sang các nước đang phát triển điều không tránh khỏi. Xét trong
một giai đoạn phát triển nhất định, thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng bản đầu
vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn của quy
thế giới cho thấy: xuất khẩu bản vẫn khí chủ yếu bản độc quyền sử
dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát
triển châu Á, Phi, Mỹ Latinh thực tế chứng minh cho kết luận trên. Thứ hai
chủ thể xuất khẩu bản sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các công ty xuyên
quốc gia trong xuất khẩu bản ngày càng to lớn, đặc biệt trong FDI . Mặt khác,
đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu bản từ các nước đang phát triển nổi bật
các Nics châu Á. Thứ ba hình thức xuất khẩu bản rất đa dạng, sự đan quyện
giữa xuất khẩu bản xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu trực
tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT, BT... skết hợp giữa xuất khẩu
bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu bản đã được gỡ bỏ dần
nguyên tắc cùng lợi được đề cao. 7 Ngày nay, xuất khẩu bản luôn thể hiện
kết quả hai mặt. Một mặt, làm cho các quan hệ bản chủ nghĩa được phát triển
mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân
công lao động quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; một trong những
nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công
nghiệp hoá tái công nghiệp hoá, hiện đại hoá các nước nhập khẩu bản phát
triển nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu bản vẫn để lại cho các quốc gia
nhập khẩu bản, nhất với các nước đang phát triển những hậu quả nặng nề như:
nền kinh tế phát triển mất cân đối lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột quá
nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản của nhà
nước các nước nhập khẩu bản. Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu bản ,
nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu để đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hoá nứơc mình. Vấn đề đặt ra phải biết vận dụng mềm dẻo,linh hoạt , nguyên
tắc cùng lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác nguồn lực quốc tế
hiệu quả.
Liên hệ Việt Nam hiện nay
Hoạt động thu hút đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam trong
thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu, chiến lược phát
triển kinh tế hội của đất nước, góp phần tạo điều kiện động lực cho việc
điều chỉnh chính sách kinh tế. Đây cũng một trong những chủ trương cùng
đúng đắn của Đảng : FDI nguồn vốn quan trọng, bổ sung đầu phát triển,
một trong những điều khiện tiên quyết để thực hiện chiến lược CNH HĐH
đất nước”.
ĐTNN đã cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiêù kinh nghiệm,
tạo nên nguồn động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu vào
sản xuất. Sản xuất trong các doanh nghiệp đã mang tính chuyên môn hoá, tập
trung hoá. Các doanh nghiệp làm quen với thị trường thế giới kinh nghiệm
của các doanh nghiệp các nền kinh tế trên thế giới.
Chính phủ không ngừng hoàn thiện môi trường đầu để tạo môi trường
đầu để môi trường thuận lợi thu hút đầu nước ngoài, Luật đầu đã không
ngừng được cải thiện với tốc độ nhanh để phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều
kiện cho quá trình hội nhập.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, chúng ta đã tranh thủ FDI để phát triển
đất nước đã đạt được những thành công nhất định. Bên cạnh đó, còn rất nhiều
bất cập, hạn chế đòi hỏi chúng ta phải xem xét toàn diện, cụ thể để tìm ra những
bài giải cũng hết sức cụ thể.

Preview text:

Phân tích đặc điểm của xuất khảu tư bản, liên hệ ở nước ta hiện nay.
Tích tụ tập trung sản xuất và sự hình thành độc quyền:
Cạnh tranh thúc đẩy tích tụ tập trung tự bản dẫn đến tập trung sản xuất, sản xuất
tập trung được biểu hiện là:
Số lượng công nhân trong các xí nghiệp quy mô lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
lực lượng lao động xã hội, số lượng sản phẩm sản xuất ra trong các xí nghiệp qui
mô lớn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩn xã hội.
Sản xuất tập trung vào một số xí nghiệp quy mô lớn thì chúng có khuynh hướng
liên minh thỏa thuận với nhau, dẫn đến hình thành tổ chức độc quyền.
Vậy: Tổ chức độc quyền là liên minh các xí nghiệp qui mô lớn nắm trong tay hầu
hết việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một số loại sản phẩm, chúng có thể quyết
định được giá cả độc quyền nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Quá trình hình thành của độc quyền diễn ra từ thấp đến cao, từ lưu thông đến sản
xuất và tái sản xuất, cụ thể:
Cácten là hình thức độc quyền trong lưu thông ở trình độ thấp nó quyết định về mặt hàng và giá cả.
Xanhdica là hình thức độc quyền trong lưu thông ở trình độ cao hơn Cácten, nó
quyết định về mặt hàng , giá cả và thị phần
Tơ rơt là hình thức độc quyền sản xuất, nó quyết định ngành hàng, qui mô đầu tư.
Congsoocion là hình thức độc quyền liên ngành tái sản xuất từ cung ứng vật tư - sản xuất - tiêu thụ.
Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:
Sự hình thành độc quyền trong ngân hàng và vai trò mới của Ngân hàng: Cùng với
sự hình thành độc quyền trong công nghiệp thì trong ngân hàng cũng diễn ra cạnh
tranh quyết liệt, hàng loạt ngân hàng nhỏ bị các ngân hàng lớn thôn tính, một số
ngân hàng nhỏ tự nguyện sáp nhập lại thành ngân hàng lớn, một số ngân hàng lớn
thì có xu hướng liên minh, thỏa thuận với nhau hình thành độc quyền trong ngân hàng.
Khi độc quyền trong ngân hàng ra đời thì ngân hàng có một vai trò mới, thể hiện:
Giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp thâm nhập vào nhau thông qua chế
độ tham dự bằng việc mua cổ phiếu để các công ty cử người vào HĐQT của ngân
hàng, giám sát hoạt động của ngân hàng và ngược lại thì ngân hàng cử người vào HĐQT của các công ty.
Sự dung nhập giữa tư bản ngân hàng vàtư bản công nghiệp bằng cách trên làm xuất
hiện một loại tư bản mới gọi là tư bản tài chính.
- Tư bản tài chính và đại diện cho nó là bọn đầu sỏ tài chính, chúng lũng đoạn cả
về kinh tế và chính trị:
+ Về kinh tế: Bằng cổ phiếu khống chế để nắm công ty mẹ, chi phối các công ty con, các chi nhánh.
+ Về xã hội: Bằng sức ép tập đoàn để nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Xuất khẩu tư bản:
Xuất khẩu tư bản là đưa tư bản ra nước ngoài để kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cao:
Trong giai đoạn cạnh tranh tự do, xuất khẩu tư bản chủ yếu là tư bản hàng hóa, tức
là đưa hàng ra nước ngoài để thực hiện giá trị.
Trong giai đoạn độc quyền, xuất khẩu tư bản chủ yếu là tư bản hoạt động từ những
nước phát triển đến những nước đang phát triển hoặc kém phát triển ở những quốc
gia nhân công, nguyên liệu rẻ, hậu quả xuất khẩu tư bản là dẫn đến nền kinh tế phụ
thuộc, cạn kiệt tài nguyên.
Sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế và phân chia ảnh hưởng kinh tế:
Xu hướng tòan cầu hóa diễn ra cạnh tranh quyết liệt, cạnh tranh giữa các quốc gia,
các tập đoàn, dẫn đến hình thành các liên minh kinh tế quốc tế rất đa dạng (liên
minh về thương mại, thuế quan, sản xuất,…)
Các liên minh này phân chia nhau khu vực ảnh hưởng kinh tế.
Các cường quốc phân chia lãnh thổ thế giới:
Do sự hoạt động của quy luật phát triển không đều trong giai đoạn độc quyền thì
một nước đang phát triển có thể đuổi kịp, vượt một nước đã phát triển.
- Sự phát triển không đều về kinh tế dẫn đến không đều về quân sự, chính trị làm
thay đổi tương quan lực lượng và đòi phân chia lại lãnh thổ thế giới dẫn đến xung
đột quân sự để chia lại lãnh thổ thế giới, đó là nguyên nhân dẫn đến 2 cuộc chiến tranh thế giới
Đối với các tập đoàn độc quyền, việc đưa tư bản ra nước ngoài để tìm kiếm nơi đầu
tư có lợi nhất trở thành phổ biến, gắn liền với các tổ chức độc quyền.
Xuất khẩu tư bản có thể được thực hiện dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới
hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh
doanh thu lại lợi nhuận cao, biến nó trở thành một chi nhánh của “ công tý mẹ” ở
chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song
phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là ucar công ty nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ
phiếu, mua lợi tức, mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ khác, quỹ đầu tư
chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư
không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản
Ngày nay , trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi lớn.
Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luồng tư
bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (
chiếm tỷ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư
lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản
giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh
theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ
làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí
chỉ còn 16,8% (1996) và hiện nay khoảng 30%. Trước tình hình đó, nhiều nhà lý
luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện mà
các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút
bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ
quốc tế.Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với nhau.
Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát
triển thành các ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật
liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương... Những ngành
này có thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên vật liệu.
Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các
ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những
ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra
lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư
bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu , không
phù hợp, tình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu
tư không còn cao như trước (còn với nước đang phát triển nhưng đã trở thành Nics
thì tỷ trọng của luồng tư bản xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu
của các nước đang phát triển). Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền
kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ qủa của hoạt động
này bao giờ cũng hình thành các khối kinh tế với những đaọ luật bảo hộ rất khắt
khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các
doanh nghiệp chi nhánh của mình thành 6 một bộ phận cấu thành của khối kinh tế
mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã
tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó. Sự biến động về địa bàn và tỷ
trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm cho bản chất của xuất khẩu
tư bản thay đổi , mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm
phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học -
công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ
của tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là không thể
tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình công
nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình
sản xuất trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền kinh tế thế giới
đang phát triển, những tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ.
Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa
các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công
nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước
tư bản phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong
một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư
vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn của quy mô
thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử
dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát
triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên. Thứ hai là
chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các công ty xuyên
quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI . Mặt khác,
đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển mà nổi bật
là các Nics châu Á. Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện
giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực
tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT, BT... sự kết hợp giữa xuất khẩu tư
bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần
và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao. 7 Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện
kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển
và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân
công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong những
nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công
nghiệp hoá và tái công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu tư bản phát
triển nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia
nhập khẩu tư bản, nhất là với các nước đang phát triển những hậu quả nặng nề như:
nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột quá
nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của nhà
nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản ,
nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hoá ở nứơc mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng mềm dẻo,linh hoạt , nguyên
tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.
Liên hệ ở Việt Nam hiện nay
Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam trong
thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu, chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần tạo điều kiện và động lực cho việc
điều chỉnh chính sách kinh tế. Đây cũng là một trong những chủ trương vô cùng
đúng đắn của Đảng : “ FDI là nguồn vốn quan trọng, bổ sung đầu tư phát triển,
là một trong những điều khiện tiên quyết để thực hiện chiến lược CNH – HĐH đất nước”.
ĐTNN đã cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiêù kinh nghiệm,
tạo nên nguồn động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư vào
sản xuất. Sản xuất trong các doanh nghiệp đã mang tính chuyên môn hoá, tập
trung hoá. Các doanh nghiệp làm quen với thị trường thế giới và kinh nghiệm
của các doanh nghiệp và các nền kinh tế trên thế giới.
Chính phủ không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư để tạo môi trường
đầu tư để môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư đã không
ngừng được cải thiện với tốc độ nhanh để phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều
kiện cho quá trình hội nhập.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, chúng ta đã tranh thủ FDI để phát triển
đất nước và đã đạt được những thành công nhất định. Bên cạnh đó, còn rất nhiều
bất cập, hạn chế đòi hỏi chúng ta phải xem xét toàn diện, cụ thể để tìm ra những
bài giải cũng hết sức cụ thể.