Phân tích, đánh giá Bảo kính cảnh giới (bài số 43) - Nguyễn Trãi Ngữ Văn 10 sách Kết Nối Tri Thức
Dưới đây là bài viết Phân tích, đánh giá tác phẩm: Bảo kính cảnh giói - bài số 43 (Nguyễn Trãi). Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn 10 - bộ sách Kết nôi tri thức - tập 2
Chủ đề: Tài liệu chung Ngữ Văn 10
Môn: Ngữ Văn 10
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ BẢO KÍNH CẢNH GIỚI (BÀI SỐ 43) - NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi là một tác giả lớn, những tác phẩm của ông chất chứa giá trị nhân
nghĩa, tình yêu thiên nhiên cùng những cảm hứng về thế sự. Nói về tình yêu thiên nhiên,
“Bảo kính cảnh giới” (bài số 43) được coi là một bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của
ông về cảnh vật nhưng hàm chứa bên trong là những cảm hứng thế sự sâu sắc.
“Bảo kính cảnh giới” là chùm thơ được rút ra từ tập Quốc âm thi tập bao gồm có
61 bài thơ trong tổng số 254 bài. Bố cục bài thơ số 43 gồm có 2 phần, phần 1 gồm 6 câu
đầu nói về vẻ đẹp bức tranh ngày hè, phần 2 gồm 2 câu cuối thể hiện niềm tha thiết lớn
của nhà thơ với đời. Bảo kính cảnh giới được viết theo thể loại thơ Nôm Đường luật.
Tức là viết bằng chữ Nôm và thể Đường luật. Đây được xem là một lối thơ riêng do tác
giả trung đại Việt Nam sáng tác dựa trên thể loại thơ Đường luật.
Những dòng thơ đầu thể hiện phong thái ung dung tự tại của chủ thể trữ tình:
“Rồi hóng mát thưở ngày trường”
“Rồi” tức là rảnh rỗi, thư thái, “ngày trường” là ngày dài. Nhịp thơ bất thường 1/2/3
tạo giọng điệu chậm rãi thong thả kết hợp với từ “rồi” nhấn mạnh thời gian tác giả thảnh
thơi, nhàn nhã, đang dạo bước thưởng ngoạn phong cảnh. Đó là những khoảnh khắc
hiếm thấy trong cuộc đời Nguyễn Trãi.
Bức tranh ngày hè được tác gia miêu tả đầy sinh động, tràn trề nhựa sống:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen, màu vàng của nắng... tạo
nên bức tranh ngày hè tươi tắn, đầy màu sắc. Trạng thái sự vật được miêu tả bằng các từ
láy giàu sức gợi hình: đùn đùn, giương, phun, tiễn... Cây hòe “đùn đùn tán rợp giương” -
sức sống như từ bên trong hối hả trào ra bên ngoài, khiến tán cây vươn ra mạnh mẽ, che
rợp cả không gian. Hoa lựu “phun thức đỏ” - động từ “phun” khiến màu đỏ như tạo
thành dòng tuôn chảy, tô đậm thêm sắc đỏ của hoa. Những đóa sen đã tàn, hết mùi
hương. Ngắt nhịp ¾ gây ấn tượng cùng sự chú ý cho người đọc làm nổi bật cảnh vật buổi chiều hè.
Bức tranh ngày hè không chỉ được miêu tả bằng những hình ảnh màu sắc mà còn
có cả âm thanh vô cùng sôi động và quen thuộc - tiếng chợ cá “lao xao” vọng lại cùng
với tiếng ve inh ỏi lúc mặt trời sắp lặn như tiếng đàn:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Những âm thanh sôi động, dân dã ấy gắn liền với cuộc sống đời thường của nhân
dân. Nghệ thuật đảo ngữ đảo các tính từ, từ láy lên đầu nhằm nhấn mạnh không khí rộn
rã, tươi vui trong đời sống người lao động. Dù thời gian “lầu tịch dương” là khi cuối
ngày, mặt trời sắp lặn nhưng sự sống dường như không dừng lại.
Bức tranh ngày hè được miêu tả từ gần tới xa, có sự kết hợp hài hòa giữa đường
nét, màu sắc, âm thanh; giữa con người và cảnh vật trở nên vô cùng rực rỡ, sinh động,
tràn trề sức sống. Tất cả đều gần gũi, bình dị, tĩnh ở bên ngoài mà tràn đầy, căng tràn
nhựa sống từ bên trong. Tác giả đã huy động mọi giác quan để cảm nhận về sự thay đổi
của thiên nhiên từ thị giác, thính giác đến khứu giác. Qua đó, những dòng thơ đã thể hiện
sự giao cảm mạnh mẽ và tinh tế của nhà thơ với cảnh vật cũng như tình yêu thiên nhiên
và yêu cuộc sống tha thiết của tác gia.
Hai câu thơ cuối là niềm mong ước, khát vọng của nhà thơ: có cây đàn của vua
Thuấn. Tác gia sử dụng điển cố “Ngu cầm” (cây đàn của Vua Ngu Thuấn) để gảy 1 khúc
Nam Phong. Mỗi khi cây đàn ấy gảy khúc Nam Phong thì mưa thuận gió hòa, nhân dân
làm ăn sung túc, no đủ. Lấy vua Nghêu, Thuấn làm “gương báu răn mình”, Nguyễn Trãi
đã thể hiện khát khao, chí hướng cao cả là mang đến cuộc sống ấm no hạnh phúc cho
nhân dân khắp mọi nơi. Đó là khát vọng cao đẹp thể hiện tấm lòng suốt đời vì dân vì
nước. “Dân giàu đủ khắp đòi phương” - Cách ngắt nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc
của cả bài đó thể hiện niềm khát vọng mong mỏi da diết cuộc sống thanh bình hạnh
phúc.Hai câu lục ngôn xuất hiện ở phần đề và kết bài góp phần nhấn mạnh nội dung cần
biêu đạt đồng thời góp phần tạo nhịp điệu cho bài thơ.
Bài thơ là bức tranh thiên nhiên cảnh vật ngày hè đầy màu sắc và âm thanh sống
động. Ở phần đầu bài thơ, người đọc tưởng như tác giả đang đắm say với thiên nhiên,
cảnh vật nhưng đến cuối bài lại bộc lộ niềm thương yêu và nỗi lo đau đáu cho nhân dân.
Đây chính là biểu hiện của một trái tim lớn, một nhân cách cao cả, thân nhàn mà tâm không nhàn.
“Bảo kính cảnh giới” - bài số 43 đã được nhà thơ sử dụng một cách sáng tạo thể
thơ Đường luật với sự đan xen của câu sáu chữ và câu bảy chữ. Ngôn ngữ thơ giản dị,
trong sáng, gần gũi với khẩu ngữ (lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân) nhưng lại rất
giàu cảm xúc và giàu sức gợi. Đồng thời, nhà thơ vận dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc
trưng của văn học trung đại: Miêu tả thiên nhiên, đất trời và cảnh đời sống sinh hoạt của
con người để qua đó bộc lộ một cách kín đáo tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình về con người, về cuộc đời.
Tư tưởng lớn xuyên suốt sự nghiệp của Nguyễn Trãi: tư tưởng nhân nghĩa, yêu
thương, thương dân đã được thể hiện qua những rung động trữ tình dạt dào trước cảnh
thiên nhiên ngày hè. Thông qua bài thơ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng vì nước,
vì dân của người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô", danh nhân văn hóa Đại Việt.